- Việc tăng cường năng lực cho ba cấp đối tưọng: Chính phủ, các cơ quan hỗ trợ thương mại của Nhà nước và tư nhân các doanh nghiệp xuất khẩu; thiết lập quy trình và cơ chế để Chính phủ, các cơ quan hỗ trợ thương mại và khu vực doanh nghiệp có thể phối hợp xác định vai trò của các bên.
- Đồng thời tăng cường sự phối hợp các hoạt động thưong mại khác do các nhà tài trợ khác hỗ trợ, thông qua việc thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin một cách thường xuyên.
Từ đó, góp phần xây dựng và quản lý một cách có hiệu quả và hiệu lực các hoạt động XTTM ở Việt Nam, mang lại khả năng đáp ứng nhanh và hiệu quả đối với các cơ hội và thách thức của hệ thống thương mại toàn cầu.
61 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhất và chủ yếu của Trung quốc là Nhật Bản và Mỹ đặc biệt giá trị xuất khẩu sang thị trường Mỹ có sự tăng lên mạnh mẽ. Như Trung Quốc, đó cũng là các thị trường quan trọng và chủ yếu của Việt Nam. Vì vậy, việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ dẫn đến sự cạnh tranh mạnh mẽ của Việt Nam đối với cá hàng hóa của Trung Quốc ở các thị trường dó.
8. Đầu tư giảm.
Dưới khuynh hướng hội nhập thế giới, ngày nay các công ty đa quốc gia phải thể hiện được vai trò quan trọng và đóng góp vào sự phát triển của thương mại quốc tế. Nhưng, hơn 90% các công ty đó lại thuộc về các nước phát triển, chiếm khoảng 40% tổng giá trị sản xuất toàn thế giới và hơn 60% thương mại thế giới. Đối với Việt Nam, mặc dù khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần đáng kể cho tổng giá trị xuất khẩu của nước ta (bảng 5), sự góp phần của các công ty đa quốc gia vẫn bị hạn chế. Mặt khác, nếu các công ty đó đầu tư vào Việt Nam thì các sản phẩm của Việt Nam sẽ được xuất khẩu sang các thị trường với nhãn mác của mình. Vì vậy, hàng hóa của Việt Nam vẫn chưa co được danh tiếng trên thị trường thế giới. Cũng cần được biết rằng việc suy giảm FDI vào Việt Nam, đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản, sẽ có tác động xấu đến hoạt động xuất khẩu của nước ta.
BẢNG 7: SỰ ĐÓNG GÓP CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
Đơn vị: %
Các doanh nghiệp
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1997
1999
1997
1999
Doanh nghiệp Nhà nước
70
57
68
53
DN ngoài khu vực Nhà nước
10
15
4
14
DN có vốn đầu tư nước ngoài
20
28
28
33
Nguồn: Bộ Thương mại và Tổng cục hải quan.
PHẦN 3:
MỘT VÀI HƯỚNG MỞ CHO THƯƠNG MẠI VIỆT NAM KHI PHÁT TRIỂN CHIẾN LƯỢC
“ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU”.
I. CHIẾN LƯỢC “ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU ” Ở MỘT SỐ NƯỚC ASEAN VÀ CHÂU Á.
1. Quá trình thực hiện.
Lịch sử công nghiệp hóa của các nước NICs châu á là quá trình lâu dài chủ yếu diễn ra dưới mô hình thay thế nhập khẩu và hướng vào xuất khẩu. Sự kém hiệu quả của chiến lược trước là mở đầu cho chiến lược sau. Tiếp thu những lý thuyết chính thống về phát triển của những thập kỷ 50 và 60, chiến lược công nghiệp hóa hướng vè xuất khẩu đã coi trọng cả phát triển và tăng trưởng là phương tiện để đẩy nhanh công nghiệp hóa, từng bước tiến đến độ trưởng thành về kỹ thuật và phát triển toàn diện, chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” chính là phương tiện để đạt đến mục tiêu.
Chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ” ở các nước NICs châu á được chia làm hai giai đoạn rõ rệt và được đặc trưng bởi sự thay đổi khá căn bản cơ cấu công nghiệp chế tạo và dung lượng hàng xuất khẩu tăng lên, hàng hóa xuất khẩu thay đổi theo chiều sâu với sự nâng cấp rất lớn về chất lượng và chủng loại nhờ vận dụng những bí quyết về công nghệ và quản lý.
- Giai đoạn 1 là thời kỳ đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhờ xuất khẩu hàng tiêu dùng có dung lượng lao động lớn, vốn nhỏ và kỹ thuật ở mức trung bình.
- Giai đoạn 2: để quyết định bước chuyển tiếp sang giai đoạn cao hơn có ba yếu tố cơ bản: 1/ Tích lũy cơ bản; 2/ Việc thay đổi lợi thế so sánh; 3/ Chính sách của chính phủ trong việc định hướng chiến lược ( Hàn Quốc, Đài loan, Singapore là 3 nước có được 3 yếu tố này sớm nhất). Nội dung: được mở đầu ở mỗi nước vào thời điểm khác nhau nhưng đều có đặc điểm chung: tốc độ tăng trưởng cao tiếp tục được giữ vững nhờ xuất khẩu các mặt hàng có dung lượng vốn lớn và hàm lượng kỹ thuật cao.
2. Những chính sách và biện pháp của các nước NICs châu á.
2.1. Thu hút mạnh mẽ tư bản của các công ty nước ngoài vào các ngành xuất khẩu thông qua một số chính sách:
- Áp dụng hệ thống thuế và quan thuế ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài:
+ Miễn hoặc giảm thuế thu nhập, thuế công ty, thuế tài sản cho những nhà đầu tư nước ngoài nếu họ tham gia các dự án có khă năng cải thiện cán cân thanh toán, những dự án đòi hỏi kỹ thuật chính xác cao hoặc đòi hỏi khối lượng vốn lớn, những dự án được xem là cơ bản đối với nền kinh tế quốc dân hoặc tư sản địa phương khó thực hiện được, những dự án đầu tư vào các khu vực mậu dịch tự do, khu chế biến xuất khẩu, những dự án đầu tư ra nước ngoài của tư bản địa phương.
+ Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được quyền lựa chọn hợc là miễn 100% thuế trong 5 năm hoặc định giá thấp đặc biệt đối với tư liệu sản xuất và tài sản cố định của các doanh nghiệp mới.
+ Cho phép các nhà đầu tư nước ngoàidc miễn thuế nhập khẩu các nguyên liệu hoặc tư liệu sản xuất trong những ngành nằm trong diện ưu tiên của nhà nước.
+ Thuế kinh doanh (quy định phải nộp tối đa 22% thu nhập) có thể được giảm nếu các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thu hút vốn và kỹ thuật cao.
+ Miễn thuế 100% đối với các khoản dự trữ mà nhà đầu tư nước ngoài đăng ký giữ lại để đổi mới thiết bị, sửa chữa máy móc và nâng cấp hệ thống giao thông vận tải.
- Khuyến khích áp dụng khoa học - kỹ thuật trong các công ty nước ngoài hoặc liên doanh với địa phương.
+ Miễn hoàn toàn thuế công ty cho những cơ sở sản xuất, khuyến khích hoạt động nghiên cứu và triển khai, nâng cao chất lượng, kiểm soát chặt chẽ vấn đề ô nhiễm. Những khoản chi cho nghiên cứu và triển khai được tính như là số vốn giữ lại để chi phí vận hành sản xuất.
+ Đơn giản tới mức tối đa thủ tục cấp phép nhập công nghệ nếu thời gian sử dụng công nghệ đó dưới 10 năm và quy định mức thuê, nhượng công nghệ dưới 10% giá trị bán ra thuần túy.
+ Các giấy phép nhận công nghệ nước ngoài có thể được giải quyết một cách đơn giản là báo cáo với bộ chủ quản và bảo đảm không làm sai chất lượng mà nước xuất khẩu công nghệ quy định.
- Nới lỏng những quy định về tỷ lệ đầu tư, hồi hương vốn, lợi nhuận và tái đầu tư.
+ Thay cho việc giới hạn tỷ lệ đầu tư nước ngoài tối đa là 50% vốn cố định, các nước này cho phép vốn của nước ngoài có thể chiếm từ 50 đến 100% tùy theo thứ tự ưu tiên trong các ngành. Đối với dự án mà vốn của nước ngoài chiếm dưới 50% thì đơn xin phép được tự động phê chuẩn ngay lập tức sau khi nộp, còn nếu trên 50% thì chỉ cần bộ chủ quản hữu quan xem xét.
+ Công bằng trong đối xử giữa các hãng nước ngoài và trong nước.
+ Cho phép hồi hương vốn và lợi nhuận về nước bất kỳ lúc nào, xóa bỏ thời hạn 2 năm cho việc hồi hương sau khi đầu tư.
+ Xoá bỏ những quy định hạn chế phạm vi tái đầu tư của tư bản nước ngoài, cho phép tái đầu tư không chỉ thực hiện trong khuôn khổ công ty đã có vốn gốc mà có thể đầu tư vào dự án hoàn toàn mới.
+ Rút ngắn danh mục các ngành công nghiệp thuộc loại cấm hoặc hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài (như ngành dịch vụ công cộng hoặc những ngành gây tổn hại tới môi trường sinh thái ...)
- Thành lập đặc khu kinh tế dưới nhiều tên gọi khác nhau khu chế xuất, khu mậu dịch tự do. Những khu này được khoanh lại trên một diện tích nhất định, trong đó tư bản nước ngoài được phép mở doanh nghiệp, đầu tư vốn một cách tự do, họ được hưởng nhiều ưu đãi về thuế và quan thuế, các thủ tục hành chính được đơn giản hóa đến mức tối đa, hạ tầng cơ sở được đảm bảo đầy đủ ... nhằm tạo ra một bầu không khí đầu tư dễ chịu đối với các công ty tư bản nước ngoài.
2.2. Tự do hóa nhập khẩu đi kèm với cải cách tỷ giá: để đạt được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, các nước không những thu hút vốn vào ngành xuất khẩu mà còn tự do hóa nhập khẩu đi kèm với chính sách mới về lãi suất và chống lạm phát. Trong bối cảnh từng nước, trong từng thời kỳ các nước đã có sự khéo léo và linh hoạt bảo đảm tính thời gian của việc điều chỉnh tỷ giá, quan thuế đi kèm với những trợ cấp xuất khẩu là những biện pháp quan trọng để chính phủ ngăn ngừa giá nhập khẩu vượt lên cao hơn giá xuất khẩu và bảo hộ cho sản xuất xuất khẩu. Kinh nghiệm của Hàn Quốc và Đài Loan cho thấy rõ điều này.
2.3. Thu hút công nghiệp nước ngoài và phát triển khoa học - kỹ thuật phục vụ cho xuất khẩu: thời kỳ đầu ở mức độ kỹ thuật thấp và trung bình các nước NICs châu á chỉ thuần túy dây chuyền công nghệ của nước ngoài để lắp ráp hoặc gia công sản phẩm cho các công ty nước ngoài. Dần dần đổi mới cơ cấu ngành từ dung lượng kỹ thuật thấp và lao động cao sang sản phẩm có hàm lượng vốn lớn, kỹ thuật và trình độ tay nghề cao hơn thì tất cả những nhà hoạch định chính sách trong chính phủ đều hiểu rõ tầm quan trọng sống còn của cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ đối với các nước nghèo tài nguyên thiên nhiên như họ. Do vậy, các chương trình nghiên cứu và triển khai công nghệ đã trở thành mối quan tâm nhiều hơn của không chỉ nhà nước mà của cả các công ty tư nhân. Được thể hiện các biện pháp:
- Tập trung tài chính để xây dựng các công trình cơ sở cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai từ các viện nghiên cứu kỹ thuật trong các lĩnh vực hẹp như phần mềm máy tính, động cơ điêzen, bán dẫn ... đến các lĩnh vực rộng như dự án quốc gia về nghiên cứu và triển khai, sử dụng có hiệu quả tài nguyên biển ...
- Hỗ trợ về thuế đóng vai trò thúc đẩy tiến bộ. Các nước ban hành nhiều hệ thống thuế ưu đãi khác nhau cho việc nghiên cứu và triển khai: miễn thuế thu nhập cho các khoản chi cho đầu tư vào phát triển nhân lực và kỹ thuật; phần lợi nhuận được giữ lại cho nghiên cứu và triển khai cũng được miễn hoàn toàn thuế công ty. Những công ty thành lập phòng thí nghiệm riêng được miễn 8% thuế công ty và thuế thu nhập đối với các khoản phí tổn cho các thiết bị của phòng thí nghiệm (nếu sản phẩm này là sản phẩm nội địa thì được miễn 10%), ...
- Bên cạnh những hỗ trợ về thuế, tài chính để thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, vấn đề đào tạo tay nghề cho đội ngũ lao động được chính phủ cũng như các công ty tư nhân rất quan tâm.
Có thể thấy rõ rằng những chính sách thích hợp đã được áp dụng để khuyến khích phát triển xuất khẩu của các nước NICs châu á đã có những vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển mạnh mẽ của các nước này.
II. Một vài hướng mở cho thương mại Việt Nam khi phát triển chiến lược “ Hướng về xuất khẩu ”
Với những hạn chế và thách thức của Việt Nam và bài học của các nước NICs trong việc thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu được đề cập ở các phần trên và để giành thế chủ động trên thương trường, phát triển thị trường ngoài nước với đầy đủ ý nghĩa chiều rộng và chiều sâu, Nhà nước ta và các doanh nghiệp phải giải quyết các vấn đề:
1. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất, trước hết là sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy, hải sản, từ đó chuyển dịch cơ cấu đầu tư trúng và hiệu quả cao. Bước chuyển dịch đó phải xuất phát từ việc phân tích, dự báo, dự đoán đặc điểm và xu hướng phát triển, diễn biến tiêu dùng thế giới và khu vực để không còn nghịch cảnh sản xuất tự do, manh mún, bị động chạy theo biến động giá cả thị trường rồi chặt phá cà-phê trồng tiêu, chặt tiêu trồng vải, trồng khóm; biến ruộng hoặc rừng phòng hộ thành đầm nuôi tôm, cá, không may tôm cá chết hàng loạt... lại trắng tay... Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu phải gắn liền với thâm canh, đa dạng hóa sản phẩm trên một đơn vị diện tích, đề phòng rủi ro, rớt giá loại cây này, con này thì có cây khác, con khác được giá bù lại. Thời gian thu hoạch là theo thời vụ nhưng phải ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất phấn đấu nâng giá trị kinh tế trên mỗi héc-ta gieo trồng. Có như thế chúng ta mới hạn chế việc bị động về giá cả và sức tiêu thụ ở các thị trường ngoài nước. Theo Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn, cả nước không nên mở rộng đất trồng lúa nữa, mà chỉ giới hạn ở mức dưới 4 triệu ha để có tổng sản lượng lương thực 31-32 triệu tấn, trong đó xuất khẩu ổn định được 4 triệu tấn gạo là hợp lý rồi. Diện tích khai hoang, vỡ hóa nên trồng cây khác, con khác, thậm chí khoanh vùng cải tạo lại ở một số diện tích để nuôi trồng thủy sản (tôm, cá, ba ba, cá sấu...) nếu thấy lợi hơn trồng lúa. Đất đồi trung du thì trồng cây công nghiệp ngắn ngày hoặc dài ngày, không nên đeo đuổi trồng lúa mà ra công đắp đập, xây dựng mương máng, cống tưới tiêu tốn kém, bởi lẽ tất cả đều phải tính vào giá thành sản phẩm. An toàn lương thực phải xét trong phạm vi cả nước. Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm cây trồng, vật nuôi, thực hiện chiến lược bọc lót cho nhau... là một vấn đề lớn và cấp bách trong nền kinh tế mở cửa, hội nhập.
Hai là, nâng cao tỷ lệ sản phẩm chế biến tinh trong xuất khẩu. Đó là những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giá thành hạ, đủ sức cạnh tranh, sánh vai với hàng hóa cùng loại trên một thương trường. Đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy, hải sản. Năm 1990, sản phẩm đã qua chế biến tinh mới đạt 8%, hiện nay lên gần 40%, được coi là một bước tiến nhanh nhưng vẫn rất chậm so với tốc độ mở cửa, hội nhập của kinh tế thị trường thời đổi mới. Xuất khẩu sản phẩm thô, dưới dạng nguyên liệu có nghĩa là mất đi 3/4 lợi nhuận do đầu tư đổi mới công nghệ chế biến đem lại. Nguyên liệu vô cùng quan trọng bởi không có nguyên liệu thì công nghiệp chế biến triệt tiêu. Mặt khác sản xuất ra nguyên liệu không được phép để phần lớn lợi nhuận tuật khỏi tay. Vì vậy, phải huy động nội lực, trước hết là từng doanh nghiệp phải tự đầu tư vốn, thiếu thì vay ngân hàng để cùng Nhà nước hình thành các cụm công nghiệp công nghệ cao, khép kín, khai thác, tận dụng nguyên liệu, phế liệu của nhau để làm ra nhiều sản phẩm xuất khẩu hoặc tiêu dùng trong nước có sức cạnh tranh lớn. Tất nhiên, đây là một vấn đề lớn không thể một sớm một chiều và càng không thể "công nghệ hóa công nghiệp chế biến" một cách ồ ạt, không nghĩ tới đi tắt đón đầu, bất chấp thị trường cần nhiều hay ít. Nói cách khác, nhanh chóng đổi mới công nghệ để sớm có nhiều sản phẩm tinh, giá thành hạ mà thế giới đang cần là yếu tố quyết định tồn tại của từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế hướng ngoại, và càng quyết định hơn khi hàng rào thuế quan, phi thuế quan giữa Việt Nam với các nước được dỡ bỏ hoàn toàn.
Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu sản xuất chính là để hạn chế rủi ro, hỗ trợ cho nhau khi xảy ra sự cố "được mùa, rớt giá" hay "được giá, mất mùa". Nhưng điều đó chưa thể đáp ứng trọn vẹn yêu cầu của người sản xuất và lợi ích toàn cục khi chưa có nền công nghiệp chế biến được nhiều sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao xuất khẩu. Đó là biện chứng của sự phát triển để chủ động hội nhập quốc tế.
2. Tăng cường đầu tư cho xuất khẩu.
Nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, cơ cấu sản xuất thay đổi chậm, lạc hậu, tỷ trọng của khu vực chế biến, chế tạo trong tổng giá trị xuất khẩu còn thấp, các sản phẩm thô vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu nên chất lượng sản phẩm thấp.Vì vậy khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới thấp và giá thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của các nước khác do đó làm giảm doanh thu xuất khẩu. Để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, nước ta không chỉ trông chờ vào khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng không chỉ dựa vào việc thu mua sản phẩm thừa nhưng rất bấp bênh của nền sản xuất nhỏ, phân tán hoặc bằng lòng với năng lực sản xuất của các cơ sỏ công nghiệp hiện có mà phải xây dựng thêm nhiều cơ sở sản xuất mới để tạo ra các sản phẩm đa dạng về chủng loại, có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Muốn vậy đầu tư là biện pháp cần được ưu tiên để gia tăng xuất khẩu và Nhà nước phải tăng cường đầu tư cho xuất khẩu thông qua một số chính sách và biện pháp sau:
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đặc biệt là các cơ sở, nhà máy chế biến hiện đại để có thể ứng dụng khoa học, công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vân chuyển, dịch vụ. Chú trọng đầu tư xấy dựng giữa khâu sản xuất, chế biến, cung cấp nguyên liệu, hạn chế tới mức tối đa tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm thô và sơ chế, nâng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến, nhất là sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao trong kim ngạch xuất khẩu, tăng mặt hàng và tỷ trọng sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao.
Đầu tư xây dựng các khu chế xuất:
(EPZ – exports production zone )
Ta biết rằng EPZ là khu vực sản xuất được phân tách về mặt địa lý nhằm mục đích thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào những ngành công nghiệp hướng về XK.Có thể thấy rõ ràng những lợi ích to lớn mà các EPZ mang lại:
+ Thu hút vốn và công nghệ
+ Tăng cường khả năng XK tại chỗ
+Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động
+Góp phần làm cho nền kinh tế hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới
Việt Nam cho đến nay có 5 khu chế xuất lớn đều do Chính phủ thành lập và quản lý theo chế độ 1 cửa,nhưng hoạt động vẫn chưa phát huy được tính hiệu quả,đặc biệt là ở miền Bắc.Tính kém hiệu quả này chủ yếu xuất phát từ cơ sở hạ tầng còn yếu kém chưa đáp ứng được nhu cầu đâù tư ; công tác quản lý còn kém hiệu quả và không đồng đều ; hoạt động xúc tiến quảng cáo chưa được coi trọng và chưa có những chính sách thích hợp .
Để các EPZ thật sự mang lại hiệu quả chúng ta không thể ngồi chờ vốn đầu tư .Sau đây là 1 số giải pháp:
+ Khắc phục từng bước những yếu kém về hạ tầng kỹ thuật : Chính phủ thông qua các tỉnh,thành phố cần có chính sách hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách cho các hạng mục về đền bù,giải toả san lấp mặt bằng cũng như các công trình kỹ thuật .Đồng thời các tỉnh thành phố có sự tác động và kiến nghị với Chính phủ xúc tiến đầu tư,triển khai các dự án hạ tầng quan trọng trong khu vực lãnh thổ
+ Cải cách hành chính và thể chế: Hiện nay công tác này cũng đang được quan tâm giải quyết .Cách làm này rất nên được áp dụng cho các vùng khác .Đó là: đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư nước ngoài,thực hiện các dịch vụ công miễn phí nhanh chóng cấp phép đầu tư. Sở Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối phối hợp với Văn phòng kiến trúc sư trưởng và Sở tài chính vật giá lập tổ công tác đặc trách cung câps thông tin cho nhà đầu tư nước ngoài về giá thuê đất và địa điểm đầu tư trong thời gian không quá 2 ngày kể từ khi có yêu cầu.Sở sẽ thường xuyên xem xét danh sách các dự án đang tư vấn cấp phép để Sở có biện pháp hỗ trợ và hướng đẫn ngay trong quá trình thực hiện dự án.
Ngoài ra để tạo điều kiện hơn nữa cho nhà đầu tư ,các Sở KH-ĐT nên định kỳ làm việc với Bộ KH-ĐT và các Bộ,ngành liên quan để xem xét các dự án đã nộp hồ sơ nhưng chưa được cấp phép,nghiên cứu đề xuất hướng giải quyết.
+ Khắc phục vấn đề giá thuê đất và điện nước cao
Đây là điểm mấu chốt nhằm giảm đi những phàn nàn ,vướng mắc của nhà đầu tư.Chính phủ cần có chính sách từng bước giảm giá thuê hạ tầng trong các EPZ.Tại hội thảo đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tại Singapore ,Ông Trần Xuân Giá ,Bộ trưởng Bộ KH-ĐT của Việt Nam đã khẳng định Chính phủ Việt Nam sẽ điều chỉnh một bước giảm giá và phí dịch vụ trong năm 2001 .Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có văn bản hướng đẫn nào được ban hành.
Theo ông N.Bình – trưởng ban quản lý các KCN-KCX Hà Nội cho biết,sắp tới UBND TP Hà Nội sẽ làm việc với Bộ tài chính để trình Chính phủ cho phép áp dụng cơ chế khuyến khích đối với các dự án đầu tư vào Hà Nội :được miễn thuế đất 2 năm đầu và giảm 25% trong 2 năm tiếp theo;đối với các dự án thuộc danh mục các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư sẽ được miễn 7 năm đầu và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo
+ Tạo môi trường đầu tư rộng và sâu
Hoạt động này nhằm góp phần hấp đẫn nhà đầu tư đồng thời chuyển dịch cơ cấu đầu tư .Thu hút đầu tư vào rộng khắp các lĩnh vực như chế biến thực phẩm cơ khí ,điện tử, hoá chất,nhựa cao su ,dệt may,giày da ,du lịch,vận tải,bưu chính viễn thông ,công nghệ phần mềm,hạ tầng kỹ thuật.Đồng thời tạo một chuỗi những ngành đồng bộ cho mỗi lĩnh vực sản xuất .
+ Chú trọng đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý cho các EPZ nhằm phục vụ tình trạng đội ngũ cán bộ quản lý các EPZ không đồng đều như hiện nay .Chính phủ cũng như các tỉnh, thành phố ,Ban quản lý EPZs nên tổ chức các khoá đào tạo chính quy,ngắn hạn nhằm tạo một đội ngũ có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cao cho EPZs
3. Đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính tiền tệ:
Thông qua việc tạo lập môi trường tài chính lành mạnh ,thông thoáng góp phần duy trì cân đối lớn trong nền kinh tế vận dụng linh hoạt,có hiệu quả các công cụ gián tiếp trong chính sách tiền tệ:
- Xác lập cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng theo xu hướng thả nổi có điều tiết lãi suất theo cung - cầu trên thị trường, từng bước bãi bỏ việc khống chế lãi suất trần. Phát triển thị trường về tiền tệ với các hình thức đa dạng, thích hợp nhằm thu hút các nguồn vốn dài hạn và trung hạn. Tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường chứng khoán hoạt động và phát triển, đây là điều kiện cần thiết để thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tiếp tục xây dựng và kiện toàn hệ thống chính sách thuế phù hợp với điều kiện trong nước và với thông lệ quốc tế, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt sắc thuế áp dụng giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo tính ổn định, lâu dài của chính sách thuế trong đó: đối với thuế xuất khẩu, cần có mức thuế ưu tiên đặc biệt cho các mặt hàng xuất khẩu và không nên áp dụng một mức thuế cho toàn bộ nhóm sản phẩm giúp cho các doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong cạnh tranh trên thị trường thế giới. Có thể chuyển nguồn phụ thu chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá vốn trong nước ( trong trường hợp giá thị trường cao đột biến hoặc giảm thấp xuống dưới giá thành) từ quỹ khuyến khích xuất khẩu sang bộ chủ quản hoặc Hiệp hội ngành hàng quản lý, sẽ sớm khắc phục tình trạng trợ cấp không kịp thời cho xuất khẩu. Đối với các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu và doanh nghiệp sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu, cần được hưởng chế độ hoàn thuế nhập khẩu đã nộp khi xuất khẩu và nếu tỷ lệ xuất khẩu cao thì được hưởng mức thuế thu nhập ưu đãi. áp dụng thuế suất hập khẩu thấp đối với các loại hàng hóa nguyên liệu đầu vào cho phục vụ các hàng hóa xuất khẩu: phân bón, thuốc trừ sâu, vải phụ liệu ...
- Để khuyến khích mạnh việc xuất khẩu cần xây dựng mức bảo hộ khác nhau cho các nhóm sản phẩm khác nhau. Mức bảo hộ cho nhóm có khả năng cạnh tranh phải thấp hơn mức bảo hộ cho các nhóm sản phẩm khác. Chẳng hạn mức bảo hộ cho các nhóm sản phẩm có khẳ năng cạnh tranh có thể ở mức thuế suất tối đa là 50 - 60%; nhóm có khả năng cạnh tranh cao hơn ở mức thuế suất 20%. Tuy nhiên với việc gia nhập AFTA và từng bước thực hiện kế hoạch cắt giảm thuế quan trong chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) và đặc biệt là khi sẽ gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì bên cạnh việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh xuất khẩu, chúng ta phải từng bước giảm dần hàng rào bảo hộ. Đối với những mặt hàng chiến lược, những mặt hàng đã và sẽ được đầu tư cần được bảo hộ trong một thời hạn nhất định, nhưng nếu không có các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh thì việc kéo dài thời gian bảo hộ cũng có nghĩa là kéo dài tình trạng trì trệ và ỷ lại vào Nhà nước cuả doanh nghiệp. Nên chăng, áp dụng mức thuế nhập khẩu thấp đối với nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất các mặt hàng xuất khẩu và có khả năng cạnh tranh, tăng khă năng chiếm lĩnh thị trường quốc tế của các doanh nghiệp do đưa ra các mức giá cạnh tranh.
Tập trung đổi mới chính sách và cơ chế quản lý, điều hành xuất khẩu thích hợp theo yêu cầu quốc tế, hạn chế biện pháp hành chính đơn thuần, đơn giản hóa thủ tục, xây dựng một hệ thống chính sách và biện pháp khuyến khích xuất khẩu, cần cụ thể trong mỗi giai đoạn, giúp cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp ngày càng thông thoáng đồng thời đảm bảo hiệu lực quản lý của Nhà nước. Đối với Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và Quỹ bảo lãnh xuất khẩu cần điều chỉnh mức lãi suất ưu đãi thích hợp và cơ chế điều chỉnh mức lãi suất cho vay linh hoạt hơn trong điều kiện kinh doanh thay đổi nhanh.
4. Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Bên cạnh chính sách đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu thì các nước cũng có chính sách xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực để tạo ra các mũi nhọn trong xuất khẩu. Hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất tương đối ổn định.
Việt Nam là một nước có thế mạnh về các sản phẩm nông nghiệp về số lượng, đa dạng hóa về chủng loại. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực trong nước khá dồi dào tuy nhiên trình độ kỹ năng còn thấp và hạn chế, do vậy có điều kiện để phát triển nhiều ngành nghề và sản phẩm xuất khẩu đòi hỏi nhiều lao động. .
Nhận thức được những đặc điểm trong nước nên chính phủ Việt Nam từ khi mở cửa cho đến nay đã ban hành rất nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi để sản xuất một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước như: dầu thô, hàng dệt may, giày dép, thủy sản và gạo. Sở dĩ nhà nước ta xác định 5 mặt hàng trên là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực vì các mặt hàng này có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định tại các châu lục trên thế giới. Và các mặt hàng này được sản xuất trên cơ sở sử dụng những lợi thế của Việt Nam do vậy có khả năng cạnh tranh so với hàng hóa cùng loại của các nước khác.
Mặt khác, các mặt hàng này có nguồn lực sản xuất trên cơ sở sử dụng nhân công dồi dào trong nước nên chi phí cho sản xuất tương đối thấp, giải quyết vấn đề việc làm. Hơn nữa, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đóng vai trò là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho nước ta với kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 1 tỷ USD. Vì vậy việc xây dựng cácmặt hàng xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy trong thời gian tới để nền kinh tế tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững thì nhà nước ta cần phải xây dựng thêm một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực:
Ví dụ như: ngành rau quả - lý do để chọn rau quả sẽ là mặt hàng xuất khẩu chủ lực bởi vì Việt Nam có tiền năng lớn về xuất khẩu rau quả: nước ta có khí hậu nắng, ẩm, mưa nhiều, độ ẩm cao cho phép Việt Nam phát triển một nền nông nghiệp phong phú, đa dạng với nhiều loại hoa quả khác nhau. Để phát triển ngành rau quả chúng ta phải thực hiện đồng bộ các biện pháp: có các chính sách ưu đãi thông thoáng hơn để có thể thu hút được nhiều vốn đầu tư tham gia vào quá trình sản xuất để phục vụ xuất khẩu đồng thời tăng cường việc nâng cao hơn nữa chất lượng của các mặt hàng xuất khẩu để có thể cạnh tranh, chiếm lĩnh các thị trường trên thế giới về các mặt hàng mình có thế mạnh.
5. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện các cam kết hoặc đàm phán với các nước và tổ chức quốc tế. Triển khai có hiệu quả Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở xây dựng chiến lược thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm thu hútnhiều hơn nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tranh thu công nghệ nguồn, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho các mục tiêu kinh tế - xã hội. Từng bước xóa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật đối với đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho doanh nghiệp và tư nhân muốn đầu tư phát triển sản xuất. Tập trung tạo ra sự chuyển biến có tính chất đột phá trong quá trình đổi mới và phát triển của các doanh nghiệp. Cải cách mạnh mẽ khu vực kinh tế nhà nước, cần tạo điều kiện phát triển khu vự kinh tế tư nhân - khu vực kinh tế năng động và về lâu dài sẽ đóng vai trò không nhỏ trong quá trình tăng trưởng và hội nhập quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý tạo dl cho các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thật sự bình đẳng khi tiếp cân các nguồn lực và tham gia xuất khẩu.
6. Tỷ giá hối đoái: với một nền kinh tế hướng ngoại thì vấn đè về chính sách tỷ giá hối đoái trở nên rất quan trọng. Tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng quyết định đến khă năng cạnh tranh, tới tổng chi phí cũng như tổng mức lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp .
Một nước có thể có nhiều bạn hàng buôn bán. Cho nên khi đưa chỉ số giá cả nước ngoài vào tính toán tỷ giá hối đoái cần cân nhắc kỹ. Để có sự đánh giá chính xác về vị trí cạnh tranh của đất nước, có thể cần phải tính toán các TGHĐ song phương đối với từng bạn hàng thương mại quan trọng nhất. Điều mà nhiều nước đã làm trong trường hợp tỷ giá hối doái thực tế thay đổi là kiểm soát nhập khẩu và kiểm soát hối đoái để hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên biện pháp này không đem lại được lợi ích gì cho nhập khẩu. Do vậy, có xu hướng là nền kinh tế phải nhập khẩu ít đi khi nguồn thu nhập khẩu giảm, thậm chí còn đẩy giá lên cao do mức cung sản phẩm cho nền kinh tế giảm sút. Sự thiếu hụt ngoại hối không chỉ giảm nhập khẩu mà thậm chí còn làm giảm mức sản xuất ( vì thiếu đầu vào sản xuất ).
Trong các nền kinh tế nhỏ như Việt Nam, việc kiểm soát nhập khẩu đó sẽ thiếu hụt ngoại hối, có thể đẫn đến việc bảo hộ một nền sản xuất kém hiệu quả bởi trong nước không có nhiều nhà sản xuất đủ để tạo ra sức cạnh tranh nội bộ dẫn tới hiện tượng độc quyền. Thậm chí việc kiểm soát nhập khẩu còn thường đẫn đế nạn tham nhũng, hối lộ và hình thành các chợ đen .Bởi đối tượng cần ngoại hối sẽ tăng cường mua chuộc các quan chức phụ trách kiểm soát để có được ngoại hối. Không thể ngăn ngừa vấn đề này nều những tác nhân kích thích đủ lớn, ngay cả khi các chính phủ biết quản lý tốt.
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trong việc phát triển nhanh xuất khẩu là ý chí và sự khéo của chính phủ trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái, thuế quan và trợ cấp để duy trì tỷ giá thực tế kích thích xuất khẩu về lâu dài và ngăn ngừa tỷ giá nhập khẩu trượt lên cao so với tỷ giá xuất khẩu .
Đối với điều kiện kinh tế hiện nay của Việt Nam, để thúc đẩy hơn nữa chiến lược công nghiệp hướng về xuất khẩu nên chăng thực hiện giải pháp sau:
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại tệ và điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng thị trường, hạ giá trị đồng nội tệ, thực hiện chính sách tỷ giá hợp lý. Nhất là khi chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ ASEAN ( thuế nhập khẩu 0-5%) có hiệu lực và những áp lực cạnh tranh từ bên ngoài khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), công cụ bảo hộ bằng thuế quan không còn hiệu lực nữa, thì khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam có thể bị ảnh hưởng rất lớn nó không chỉ khó chiếm lĩnh thị trường trong nước mà còn hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế .
Cho nên việc thả nổi tỷ giá hối đoái theo sát với giá thị trường có lợi cho xuất khẩu sẽ trở thành công cụ để bảo hộ sản xuất trong nước đồng thời khuyến khích xuất khẩu
7. Chính sách thị trường xuất khẩu.
-Tổ chức việc nghiên cứu chiến lược thị trường xuất khẩu; chủ động, tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị phần trên những thị trường truyền thống, tranh thủ mọi cơ hội mở rộng thị trường mới; đa dạng hóa thị trường, đảm bảo thị trường lâu dài, có quy mô thích hợp. Tập trung khai thác các thị trường có khả năng tiêu thụ lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản. - Huy động mọi thành phần kinh tế vào việc mở rộng thị trường du lịch, xuất khẩu lao động và các dịch vụ thu ngoại tệ khác. -Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động xuất khẩu ( môi giới, tổ chức, khai thác thị trường ...). -Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại đối với từng mặt hàng. Từng bước hiện đại hóa phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế mới của thương mại thế giới, đặc biệt là thương mại điện tử. Xây dựng hệ thống thông tin dự báo thị trường; hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng ... cho các doanh nghiệp.
Để góp sức thúc đẩy xuất khẩu chúng ta cần tìm hiểu thông tin từ thị trường ngoài nước. Muốn vậy Nhà nước và các doanh nghiệp cần phải thực hiện một số việc sao cho phù hợp với từng thị trường:
* Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là thị trường có giá trị nhập khẩu lớn nhất của Việt Nan trong nhiều năm qua, khoảng 17-18% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Hàng hóa xuất khẩu sang thị trương Nhật Bản bao gồm hải sản, vải sợi và quần áo (chủ yếu là hàng dệt kim), giầy dép và các sản phẩm bằng da, than, cao su, cà phê, rau, đồ hộp, chè, đồ gốm sứ và đồ gỗ.Trong đó,các mặt hàng chúng ta có lợi thế chủ yếu là nguyên liệu thô ,hay hàng hoá hợp đồng phụ.Các hàng hoá được ưa chuộng là sản phẩm nông nghiệp,đồ ăn, đò thủ công ...Tuy nhiên, các sản phẩm đòi hỏi nhiều công nghệ như các linh kiện điện tử và máy tính hầu hết được xuất khẩu bởi các công ty 100% của Nhật Bản. Mặt khác, có thể nói rõ rằng Nhật Bản là một nước có thuận lợi về công nghệ với các công nghệ gốc, là nhà xuất khẩu chủ yếu các máy móc và trang thiết bị công nghệ cao sang Việt Nam. Vì vậy, dể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của nước ta sang thị trường này bao gồm cả việc tăng giá trị xuất khẩu và mở rộng số lượng hàng hóa, thời gian tới cần phải được sự quan tâm đến các vấn đề:
- Soạn thảo các chính sách khuyến khích để thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản, sao cho việc xuất khẩu sang thị trương này sẽ được tốt hơn bởi các công ty liên doanh hay 100% vốn nước ngoài; các chính sách về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cho phép chuyển giao công nghệ trong việc chế biến và gia công, đặc biệt trong ngành điện, điện tử, máy tính và ôtô. Quan trọng hơn nữa, các quy định để điều hành hoàn toàn sự thực hiện các chính sách bảo vệ các ngành này nên được thiết lập.
- Hiện nay, các hàng hóa xuất khẩu của chúng ta vẫn chư được hưởn một cách đầy đủ quy chế MFN, dẫn đến sự cạnh tranh yếu hơn các hàng hóa tương tự của các nước được hưởng MFN (ví dụ như các đồ thủ công). Vì vậy, trong các cuộc đàm phán của Chính phủ nên được quan tâm để có thể ký được hiệp định được hưởng toàn bộ quy chế MFN của Nhật Bản đối với hàng hóa của Việt Nam.
- Cải tiến các hạot động xúc tiến thương mại ở thị trương Nhật Bản trong khuôn khổ của sự hợp tác kinh tế song phương và đa phương, như chương trình xúc tiến thương mại và khuyến khích đầu tư mà Nhật Bản đã mở ra cho ASEAN.
* Thị trường EU: đay là một thị trường lớn và giá trị xuất khẩu của nước ta sang EU đã tăng đáng kể trong giai đoạn 1991-1999. Xuất khẩu sang EU chủ yếu là giầy dép, quần áo và vải sợi, cà phê, hải sản, cao su, than, hạt điều, hoa quả; mặt hàng có giá trị xuất khẩu chủ yếu là quần áo và vải sợi, giầy dép và hải sản. Gần đây, qua các thông tin thống kê cho thấy rằng xuất khẩu sang EU chiếm 70-75% tổng giá trị xuất khẩu cảu nước ta. Đặc điểm quan trọng nhất của thị trường EU đó không chỉ là nhà nhập khẩu các sản phẩm trên mà còn là nhà cung cấp các máy móc và trang thiết bị cho việc sản xuất các sản phẩm, đặc biệt là vải sợi, quần áo và các sản phẩm da. Với kết quả đó để duy trì và mở rộng xuất khẩu sang EU - một thị trường với các quy định phức tạp và đòi hỏi cao, thì sau đây là một số vấn đề cần giải quyết:
- Đối với các yêu cầu về chất lượng và giảm giá cả đối với sự kiểm tra vệ sing thực phẩm về hải sản và các thực phẩm chế biến sạch, nó là rất cần thiết để ban hành các chính sách để lập ra kỹ thuật nâng cao chất lượng cho các hệ thống của các cục kiểm tra chất lượng và vệ sinh và được chứng nhận theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Có nhiều cuộc tranh luận rằng với vị trí hiện nay của ngành dệt Việt Nam, việc duy trì việc quản lý về hạn ngạch của EU là có lợi hơn là có hại đối với quần áo và vải sợi của Việt Nam bởi vì nếu thực hiện tự do hóa được cho phép, nó có thể phù hợp với quần áo và vải sợi của Việt Nam không có đủ khả năng để thâm nhập vào thị trường này. Do dó, chúng ta nên cố gắng đàm phán với EU để tăng hạn ngạch xuất khẩu và đồng thời làm tăng thêm quá trình đàm phán để tăng sự trao đổi hạn ngạch về vải dệt và quần áo trên thị trường ASEAN và EU.
- Việc thu thập các thông tin về các quy định phức tạp của EU nên được củng cố, tăng cường để phổ biến chúng cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng nên sử dụng các công ty lậut của nước ngoài hoạt động ở Việt Nam để cho các công ty đó có thể cung cấp chúng với các dịch vụ tư vấn hợp pháp cho hoạt động xuất khẩu tới các thị trường với hệ thống luật pháp chặt chẽ như EU.
* Thị trường Mỹ: đây là nhà nhập khẩu hàng đầu trên thế giới (giá trị xuất khẩu hàng năm trên 1000 tỷ USD) với nhu cầu nhiều loại khác nhau, khoa học kỹ thuật và công nghệ và nhiều mặt hàng chất lượng vừa phải của Châu á và Nam Mỹ được nhập khẩu với số lượng lớn hàng năm. Các mặt hàng nông sản, hải sản, nguyên vật liệu thường không bị đánh thuế hoặc thuế thấp. Vì thế hàng Việt Nam vào rất nhanh với số lượng tăng hàng năm. Các mặt hàng công nghệ phẩm, may mặc, giầy dép, mỹ nghệ, cơ khí nhiều khả năng lớn nhưng vì chưa được hưởng Quy chế tối huệ quốc (MFN) nên các mức thuế nhập khẩu khá cao. Cà phê, giày dép và hải sản các loại mặt hàng Việt Nam rất có triển vọng tại thị trường Mỹ. Sau khi có MFN Việt Nam có thể xuất khẩu sang Mỹ mỗi năm tăng thêm 1 tỷ USD. Với sự phân tích trên Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng xuất khẩu sang thị trường Mỹ, đặc biệt khi tham gia đầy đủ quy chế MFN. Điều này có thể được chứng minh bằng thực tế, trong năm 1999 giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ là 500-600 triệu USD với chủ yếu là cà phê (100 triệu USD), tôm đông lạnh (150 triệu USD), giầy dép (150 triệu USD), quần áo và vải sợi (70 triệu USD). Do quy định mức thuế 0% giá trị xuất khẩu hải sản đã tăng một cách nhanh chóng. Hiên nay có 30 doanh nghiệp trong cả nước đã được cấp giấy phép để xuất khẩu hải sản sang Mỹ. Mặc dù đang phải chịu mức thuế cao nhất, quần áo, giầy dép, hàng dệt kim của Việt Nam vẫn có mặt ở thị trường này và giá trị xuất khẩu của chúng gần đây đã tăng dần. Đây là một dấu hiệu tốt cho khả năng thâm nhập và mở rộng của Việt Nam sang thị trường này khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được chấp nhận.
Để có được những cơ hội trên, ngay bây giờ chúng ta phải :
- Tập trung các Bộ và các cơ quan đặc biệt là Bộ Thương mại cần có sự nghiên cứu toàn diện về hệ thống luật của Mỹ và thị trường để phổ biến chúng cho các doanh nghiệp để họ có thể có đầy đủ các thông tin của thị trường để chuẩn bị từng bước thích hợp tham gia vào thị trường. Hơn nữa, điều đó nên được các chính sách khuyến khích và các biện pháp giúp cho các DN dễ dàng hơn trong việc thâm nhập vào thị trường Mỹ, về hệ thống phân phối là một nhân tố quan trọng cho hoạt động xuất khẩu. Như đã phân tích, khó khăn cho xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai là thiếu một hệ thống phân phối ở nước ngoài.
- Cần thiết lập hệ thống trung tâm thương mại: để thúc đẩy xuất khẩu, ngoài các chính sách và biện pháp chung, đối với thị trường Mỹ cần phải lập hệ thống các trung tâm thương mại tại một số các thành phố lớn như New York, Los Angeles, San Francisco, Chicago ... tạo cầu nối và giảm chi phí giao dịch cho các công ty Việt Nam. Các trung tâm này có thể do Nhà nước ta bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt Kiều hoặc kết hợp giữa một số doanh nghiệp mạnh trong nước sang mở các phòng trưng bày, giao dịch giới thiệu và ký hợp đồng.
Qua hệ thống này, hàng hóa của Việt Nam có thể được truyền bá và quảng cáo. Điều này có thể là một bước thực nghiệm cho hàng hóa của Việt Nam để thâm nhập và thị trường Mỹ.
* Thị trường các nước ASEAN: ASEAN là một thị trường tiềm năng với dân số 500 triệu, vị trí thuận lợi đối với việc buôn bán với Việt Nam. Thị trường ASEAN chiếm khoảng 25% tổng giá trị xuất khẩu của nước ta. Nhân tố quan trọng nhất là sự thuận lợi trong ưu đãi thương mại (bao gồm cả thuế và phi thuế) thông qua hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong AFTA. Mặc dù các ưu đãi chung đó giữa các nước ASEAN sẽ làm tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm bên trong thị trường, chúng cũng làm cho các sản phẩm có sức cạnh tranh hơn so với các sản phẩm được nhập khẩu từ các nưóc ngoài khu vực ASEAN nhờ có việc giảm thuế. Với kết quả đó, chúng ta phải bắt đầu tận dụng các cơ hội kinh doanh được mang lại bởi CEPT/AFTA để duy trì và mở rộng phần thị thị trường của chúng ta ở các nước ASEAN qua việc:
- Sớm thông báo kế hoạch cát giảm thuế đến năm 2006 đến các doanh nghiệp, bắt đầu tạo ra các phương thức sản xuất và các kế hoạch và chiến lược của các doanh nghiệp là một cách để chúng ta tận dụng các cơ hội cho các hàng hóa xuất khẩu được hưởng ưu đãi trong các nước ASEAN một cách tối ưu.
- Hợp tác một cách chặt chẽ với các thành viên của ASEAN trong các lĩnh vực kinh tế khác như tìm kiếm các đối tác để thực hiện chương trình hợp tác cho việc thúc đẩy xuất khẩu như AICO.
* Thị trường Trung Quốc: là một thi trường lớn, có vị trí địa lý tiếp giáp Việt Nam. Trung quốc là thị trường dễ tính đối với một số loại hàng của Việt Nam như hải sản, cao su, dầu thực vật (lạc, vừng) và đặc biệt là rau hoa quả. Ví dụ: quả Thanh long của ta nếu bán sang Trung quốc ở Bắc Kinh có giá 100 NDT/ quả tức là vào khoảng 160.000đ/ quả. Hơn nữa, đây là một nước có sức cạnh tranh cao và vì vậy Trung Quốc vừa là bạn hàng tiềm năng và quan trọng, vừa là đối thủ cạnh tranh của chúng ta. Hơn nữa, Trung Quốc gia nhập WTO có tác động trực tiếp đến xuất khẩu của nước ta bởi vì hàng hóa của Trung Quốc có được chỗ đứng trên các thị trường lớn như: Mỹ và các nơi khác. Một nghiên cứu của Jose Tongzon ở trường đại học quốc gia Singapore chỉ ra rằng việc Trung Quốc gia nhập WTO có tác động đến sự phát triển của ngành thuốc lá và đồ uống của Việt Nam, nhưng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các ngành này là rất yếu kém. Vì vậy rất khó khăn để nắm bắt được các cơ hội này. Dựa trên vấn đề này và sự phân tích tác động của việc gia nhập WTO của Trung Quốc, các chính sách nên được tính toán:
- Xúc tiến quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư để nắm bắt được các cơ hội kinh doanh và thu hút đầu tư.
- Sự hợp tác mạnh mẽ bên trong ASEAN: thực hiện nghiêm túc CEPT/AFTA và các cam kết AIA để thu hút đầu tư nước ngoài. Tạo ra sức mạnh bên trong ASEAN để cạnh tranh và thực hiện thành công chiến lược phát triển theo một phương hướng chung. Hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau để phát triển kỹ thuật, đặc biệt trong khu vực về công nghệ thông tin có thể được qua hình thức dự án kinh doanh chung. Nhanh chóng hình thành hệ thống phân chia quyền lợi.
- Giữ gìn mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc, một thị trường lớn và tiềm năng với thế mạnh là sự dồi dào về lao động với mức chi phí rẻ hơn nhiều so với nước ta. Chúng ta không thể cạnh tranh với Trung Quốc trong lĩnh vực này và vì vậy sự hợp tác dưới hình thức các dự án kinh doanh chung nên được thúc đẩy để xuất khẩu.
- Cải thiện sức cạnh tranh về các hàng hóa có sự cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc. Một trong các nhân tố cho sự cải thiện sức cạnh tranh là phải được đưa vào tính toán là cải thiện quan điểm về tiếng tăm, danh tiếng các loại hàng hóa của Việt Nam trên thị trường thế giới. Vì vậy, ngay bây giờ sự thiết lập và đăng ký danh tiếng của loại hàng hóa như quảng cáo về tiếng tăm của doanh nghiệp cũng như các loại hàng hóa và truyền thống của doanh nghiệp trên cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
- Nhanh chóng xuất khẩu một số hàng hóa có khả năng thâm nhập vào thị trường Trung Quốc như: hải sản, rau, quả ...
- Điều chỉnh cơ cấu sản xuất của xuất khẩu theo hướng đầu tư tập trung trước tiên các công nghệ cho các ngành có tiềm năng để cải thiện năng suất lao động và chỉ đạo nghiên cứu và phát triển một số sản phẩm xuất khẩu mới như: tàu biển ...
- Cần tìm hiểu kỹ đối tác khi ký hợp đồng.
Thị trường Trung quốc là “ cái gì cũng có giá, giá nào cũng có ”. Nếu làm ăn với các tập đoàn lớn của Trung Quốc thì yên tâm về chất lượng. Tuy nhiên để tránh rủi ro, các DN nên tìm hiểu kỹ các đối tác, tốt nhất là tìm các bạn hàng lâu dài, ổn định. Thứ hai là mua bán, trao đổi hàng phải ký hợp đồng và trong hợp đồng đó phải có dấu đỏ. Đó là những cơ sở pháp lý để nếu xảy ra tranh chấp hoặc đối tác “xù nợ ” thì có thể kiện ra tòa án Trung Quốc. Tòa án phía Trung Quốc có sức cưỡng chế rất mạnh. Nhiều doanh nghiệp của ta cũng muốn tìm các doanh nghiệp lớn để mở thư tín dụng (L/C) nhưng rất khó vì chính sách quản lý ngoại hối của Trung Quốc rất chặt.
* Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp về pháp lý: thị trường Nga có một số các đặc điểm:
- Thuế nhập khẩu rất cao so với thế giới (hàng tiêu dùng 20-30%).
- Hàng dệt may vào các thị trường đó có tiền thuế cao .
- Tình trạng gian lận thuế, giá C/O (giấy chứng nhận xuát xứ hàng hóa xuất khẩu) để được hưởng ưu đãi đang phổ biến nên hàng chính ngạch không thể cạnh tranh được. Mặc dù thị trường các nước Đông Âu mà đặc biệt là Nga vẫn được coi là dễ tímh, tuy nhiên hàng nhập khẩu vẫn phải cấp chứng nhận chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn của các thị trưòng này. Hàng thực phẩm, dược phẩm còn thêm quy định về vệ sịnh do Cục vệ sinh chứng nhận. Những quy định chặt chẽ quá lại sinh ra gian lận, chứng nhận giả (xảy ra các hoạt động “hành lang” nhằm đạt được các giấy tờ cần thiết). Hàng của ta xuất sang thị trường Đông Âu thuận lợi ít, khó khăn nhiều do việc tổ chức thị trường kém hơn các nước khác. Xúc tiến thương mại rất yếu, kể cả tham gia các hội chợ, triển lãm. Có tình trạng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam ở Nga không về nước đặt hàng mà lại sang Trung Quốc đặt vì chi phí vân tải, giá thành rẻ và trả tiền trước 20%. Chúng ta đang có lợi thế là có hàng trăm ngàn người Việt tại các nước này tuy nhiên phần lớn họ không có tư cách pháp lý. Bộ lao động một số nước trong đó có Nga đang có dự thảo luật quyền lao động tạm thời, trong đó có những phần quy định hợp lý hóa những trường hợp lao động ở Nga. Nhà nước ta cũng phải tạo điều kiện cho doanh nghiệp hai bên sang làm ăn. Các doanh nghiệp Việt Nam tự bỏ vốn đầu tư làm các kho ngoại quan, cửa hàng, trung tâm thương ở các nước này cũng rất cần Nhà nước hỗ trợ về mặt pháp lý.
* Thị trường úc: Một phương châm “đừng thấy nhỏ mà không làm”. Các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vào úc có 3 vấn đề:
- Một là thị trường này rất nhỏ (18,5 triệu dân), khâu trung chuyển, tạm nhập tái xuất không đáng kể, chủ yếu là tiêu thụ trong nước. Do đó có trường hợp phía bạn đặt hàng cho doanh nghiệp Việt Nam khoảng 3000 chiếc khăn mặt, thì doanh nghiệp lại kêu khó, không làm.
- Hai là hàng Việt Nam phải bảo đảm chất lượng, vệ sinh dịch tễ rất cao. Nước này bị các nước khác trên thế giới đánh giá về chính sách kiểm dịch, kiểm dịch hà khắc nhất. Đặc biệt là các nước ASEAN luôn kêu ca về chế độ khắc nghiệt này đối với các sản phẩm nhập vào.
- Ba là về giá cả, phải hiểu được tập quán của người tiêu dùng ở đây rất bảo thủ. Bất kể một loại hàng nào mới vào thì phải thấp hơn hàng cùng chủng loại ít nhất là 5% mới được chấp nhận. Đã có những lô hàng của Việt Nam phải giảm đến 15% so với giá thị trường.
Hiện nay, ngoài mặt hàng dầu thô là chủ lực, ta có thể xuất khẩu sang thị trường này thủy sản, cà phê, hàng may mặc, giày dép, đồ nhựa gia dụng, đồ gỗ ... Chúng ta cũng có những thuận lợi là kim ngạch xuất khẩu vào úc 6 năm liền tăng trưởng, đang dần trở thành một nước xuất khẩu lớn vào thị trường này.
Với những phân tích trên, dưới điều kiện sự cạnh tranh tăng lên mạnh mẽ ở các thị trường lớn và để nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu của các thị trường, việc thăm dò, tìm kiếm các thông tin ... về các thị trường thích hợp cần phải được tính toán hơn nữa là để cải thiện khả năng sản xuất bởi việc mở rộng quy mô sản xuất để giảm chi phí sản xuất đặc biệt trong các ngành chế biến. Để tìm kiếm các thị trường đó cần thiết phải tạo ra các sản phẩm mới hay có giá trị cao cho các sản phẩm hiện nay. Tính khả thi cho việc đáp ứng các yêu cầu này là việc vân dụng các biên pháp quảng cáo và thúc tiến thương mại tốt và đặc biệt có sự nghiên cứu đặc điểm của từng thị trường để có thể đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của các thị trường đó đặc biệt là các thị trường lớn và tiềm năng của Việt Nam.
8. Thực hiện hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu.
6.1. Thành lập các cơ quan xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài:
- Việc thực hiện này nhằm mục đích đánh giá một cách chính xác thực trạng công tác xúc tiến thương mại (XTTM) ở Việt Nam, trên cơ sở đó tiến hành xây dựng và phát triển một mạng lưới XTTM hữu hiệu trên toàn quốc. Với việc thực hiện này sẽ giúp Việt Nam xây dựng một chiến lược XTTM có hiệu quả và tăng cường năng lực để thực hiện chiến lược hội nhập trong kế hoạch phát triển 2001-2010, tham gia hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa. Đặc biệt đúng vào lúc Việt Nam đang bắt đầu ký kết hay đàm phán về những điều kiện tham gia trong các hiệp định thương mại toàn cầu, khu vực. Tăng cường năng lực XTTM và phát triển xuất khẩu là một yêu cầu cấp bách để cho phép Việt Nam tranh thủ một cách đầy đủ, nhanh chóng và công bằng cơ hội do các hiệp định thương mại mang lại.
- Và để thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt Nam, hoà nhập với thị trường quốc tế thì cần phải có các cơ quan xúc tiến thương mại Việt Nam ở các nưóc khác. Mặc dù hiện nay chúng ta đã có một vài trung tâm thương mại ở nước ngoài nhưng chỉ làm một chức năng trưng bày, giói thiệu hàng hóa Việt Nam mà chưa triển khai đầu đủ nhiệm vụ xúc tiến thương mại. Do vậy việc hỗ trợ để mở rộng thị trường xuất khẩu, môi giới buôn bán... còn rất nhiều hạn chế, nhất là trong lúc này mặt hàng nông sản đang rất cần đầu ra. Do vậy việc sớm hình thành các tổ chức của Nhà nước ta ở nước ngoài có những chức năng xúc tiến thương mại là rất cần thiết. Các tổ chức này có thể là văn phòng hoặc là trung tâm hay có thể gọi là cơ quan xúc tiến thương mại song có nhiệm vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh bằng cách tìm kiếm, cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả, nguồn hàng, đối tác cho các doanh nghiệp, trưng bày hàng hóa Việt Nam và hàng hoá các nước có thể trao đổi với Việt Nam, chắp nối cho các doanh nghiệp tìm đến làm ăn với nhau ...
6.2. Hoạt động xúc tiến thương mại trong nước:
- Việc tăng cường năng lực cho ba cấp đối tưọng: Chính phủ, các cơ quan hỗ trợ thương mại của Nhà nước và tư nhân các doanh nghiệp xuất khẩu; thiết lập quy trình và cơ chế để Chính phủ, các cơ quan hỗ trợ thương mại và khu vực doanh nghiệp có thể phối hợp xác định vai trò của các bên.
- Đồng thời tăng cường sự phối hợp các hoạt động thưong mại khác do các nhà tài trợ khác hỗ trợ, thông qua việc thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin một cách thường xuyên.
Từ đó, góp phần xây dựng và quản lý một cách có hiệu quả và hiệu lực các hoạt động XTTM ở Việt Nam, mang lại khả năng đáp ứng nhanh và hiệu quả đối với các cơ hội và thách thức của hệ thống thương mại toàn cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
*
Công nghiệp hóa hướng ngoại - “ Sự thần kỳ” của các nước NICs Châu Á - Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Tạp chí Phát triển kinh tế
Tạp chí Tài chính số 1+2/1998
Tạp chí Thương mại số 2+3/2001, 10/2001, 24/2001
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 271/2000
Tạp chí Viet Nam Economic Review số 9/1999
Tạp chí Kinh tế và dự báo số 10, 11/2000
Báo Thời báo Kinh tế năm 2001
Tài liệu của cuộc hội thảo “Sự nghiên cứu chung giữa Việt Nam và Nhật Bản” (3 - 9/12/2000 tai Hà Nội).
10. Giáo trình Thương mại quốc tế - Đại học Kinh tế quốc dân.
11. Kinh tế ngoại thương - Nguyến Thành Thu.
12. Nghị định 7/1998 về quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước
(sửa đổi)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0535.doc