Mở đầu
Trong thời đại ngày nay cùng với tốc độ phát triển như vũ bão của hệ thống thông tin, nền kinh tế cũng phát triển rất sôi động từng giờ. Vì vậy để có được thị trường, khách hàng, lợi nhuận các doanh nghiệp tranh giành nhau từng đoạn thị trường. Để bắt nhịp với tốc độ đó, các doanh nghiệp một mặt vừa đổi mới phương thức quản lý kinh doanh, vừa phải mở rộng thị trường. Hầu hết các doanh nghiệp được đánh giá là thành công hiện nay một mặt nhờ nâng cấp hệ thống dây truyền kỹ thuật cao, mặt khác là nhờ thương hiệu của họ mạnh, có sức ảnh hưởng lớn tới khách hàng và đối thủ cạnh tranh. Vì thế, một công ty muốn phát triển vững chắc cần tạo ra một thương hiệu mạnh bảo vệ nó khỏi đối thủ cạnh tranh. Công ty TNHH Thiên Xuân cũng là một trong những doanh nghiệp như vậy. Để phát triển được bên cạnh nhờ kiện toàn hệ thống từ sản xuất đến tiêu dùng Công ty còn phải nghiên cứu để hoàn thiện chiến lược thương hiệu của mình. Cũng vì lý do đó nên em chọn đề tài Chiến lược phát triển thương hiệu tại công ty TNHH Thiên Xuân trong quá trình hội nhập kinh tế để nghiên cứu.
Trong quá trình thực tập ở công ty em đã cố gắng tổng kết ra các phương thức xây dựng thương hiệu của công ty nhưng chắc chắn vẫn còn hạn chế, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của cô TS. Hồ Thị Bích Vân, của toàn bộ Công ty nói chung và phòng kinh doanh nói riêng tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành kỳ thực tập này. Em chân thành cảm ơn!
56 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1531 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược phát triển thương hiệu tại công ty TNHH Thiên Xuân trong quá trình hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó hãng bán giá " cho không" khách hàng.
- Độ bền và chất lượng sản phẩm là những yếu tố luôn được coi trọng, không ai lại muốn mua sản phẩm kém chất lượng, tuổi thọ của sản phẩm ngắn. Thậm chí, cả khi chi phí sản phẩm là thấp nhất, người mua cũng đòi hỏi sản phẩm đáp ứng được những nhu cầu này của họ.
- Một yếu tố không kém phần quan trọng góp phần ảnh hưởng tới việc xây dựng các chiến lược thương hiệu là phong cách độc đáo của sản phẩm. Nếu một sản phẩm chất lượng tốt, giá bán hợp lý nhưng chưa đáp ứng được phong cách hấp dẫn có lẽ chưa chắc đã bán chạy, đôi khi còn dẫn tới tình trạng dư thừa hàng hoá.
Yếu tố tiếp theo tác động tới việc xây dựng thương hiệu của là giá cả của sản phẩm:
Chính sách giá đối với thương hiệu có thể tạo ra những liên hệ trong tâm trí khách hàng về các mức giá khác nhau trong cùng một chủng loại sản phẩm ,khách hàng thường đánh giá thương hiệu theo các tầng giá trong cùng chủng loại sản phẩm. Tuy vậy không phải cứ giá cao thì thương hiệu đó tốt và uy tín. Khách hàng sẵn sàng trả giá cao cho sản phẩm mà nó đại diện cho họ tức là nó không chỉ đáp ứng nhu cầu hữu hình mà còn cả những giá trị vô hình mà sản phẩm đó mang lại chẳng hạn như thể hiện bản thân họ. Do đó khách hàng sẽ tập trung vào những đặc điểm, thuộc tính khác biệt, tính năng nổi trội của sản phẩm và chấp nhận mức giá công ty đưa ra. Nên việc lựa chọn một chiến lược giá thích hợp nhằm tạo dựng giá trị thương hiệu cần phải xác định trên cơ sở mức giá hiện tại sẽ được định ra như thế nào? Và phải lập sẵn một chính sách hoặc quy chế đủ sâu và đủ dài cho các hoạt động khuyến mại và giảm giá theo thời gian. Chẳng hạn để đưa vào thị trường một sản phẩm mới, công ty có thể sử dụng hai chiến lược định giá, đó là "thâm nhập" hoặc " hớt váng". Với chiến lược giá "thâm nhập", giá bán thấp, lợi nhuận thời kỳ đầu là tối thiểu, thậm chí có thể lỗ để chiếm giữ và bảo vệ thị phần. Ngược lại chiến lược giá "hớt váng" giá bán cao, lợi nhuận thời kỳ đầu đạt tối đa với phương châm kiếm được càng nhiều lợi nhuận càng tốt, chiến lược này thường áp dụng với những mảng thị trường mà khách hàng coi giá bán là dấu hiệu của chất lượng và có ít đối thủ cạnh tranh.
Thương hiệu của công ty cũng được phản ánh qua tính cách và đặc điểm của nhân viên trong công ty. Lý do là những biểu hiện của nhân viên sẽ trực tiếp hay gián tiếp báo cho người tiêu dùng về sản phẩm họ sản xuất hay dịch vụ họ cung cấp. Đặc biệt, với ngành kinh doanh dịch vụ như: ngành hàng không, các ngành cho thuê xe, khách sạn… không chỉ giới hạn trong phạm vi ngành đó mà còn lan toả sang các ngành sản xuất.
Giá trị thương hiệu của công ty cũng được nâng lên nhờ các nhân viên trong tổ chức, nhờ sự nỗ lực của đội ngũ nhân viên bán hàng, sự phát triển các mối quan hệ của họ với khách hàng, với công chúng. Nên khi liên tưởng tới hình ảnh công ty tập trung vào khách hàng làm cho họ biết đến công ty như nơi đáp ứng các yêu cầu và chăm sóc khách hàng và người tiêu dùng tin rằng " nhu cầu của họ được thấu hiểu", công ty không phải là kẻ bóc lột. Trong kinh doanh nếu công ty nào lấy khách hàng làm trung tâm và luôn biết "lắng nghe" khách hàng và luôn hướng tới lợi ích tốt nhất cho khách hàng công ty đó chắc chắn sẽ thành công.
Danh tiếng công ty được liên tưởng qua các giá trị và các chương trình mà công ty tiến hành chứ không nhất thiết liên quan tới sản phẩm họ bán ra. Nhờ các hoạt động hỗ trợ, tài trợ cộng đồng nhiều công ty đã chiếm lĩnh thị trường ngày càng dễ dàng hơn như các chương trình tài trợ cho các quỹ của trẻ em lang thang, hỗ trợ sinh viên nghèo vượt khó học tập… đều nhằm mục đích quảng cáo thương hiệu của mình.
Ngoài ra còn một hệ thống các yếu tố như: trách nhiệm xã hội của công ty đối với xã hội, hệ thống kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ (địa điểm bán hàng, dịch vụ, năng lực của các nhà phân phối), các dịch vụ hỗ trợ sau bán hàng ( Lắp đặt, tiến độ sửa chữa bảo hành, sự sẵn có phụ tùng thay thế), các dịch vụ hỗ trợ khách hàng ( các chương trình đào tạo, hướng dẫn khách hàng, tư vấn khách hàng, thao tác mẫu), ngay cả hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty ( danh tiếng, sự đổi mới, tình hình tài chính, năng lực quản lý…)
Chương II: Thực trạng hoàn thiện chiến lược phát triển thương hiệu tại công ty TNHH Thiên Xuân.
2.1. Giới thiệu khái quát về công ty TNHH Thiên Xuân
Công ty TNHH Thiên Xuân được tiền thần từ cửa hàng đồ gia dụng và mỹ nghệ như các sản phẩm đồ gỗ trang trí nội thất: tủ, bàn ghế, trải thảm nhà, tranh treo tường, mành rèm…do đó các sản phẩm cũng như tên tuổi cửa hàng chưa thực sự được nhiều khách hàng biết đến. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế thị trường sôi động, để vững bước trên đường phát triển, tạo ra uy tín và thương hiệu, chủ cửa hàng quyết định gắn cho mình một tên tuổi mạnh bằng việc nâng cấp cửa hàng thành công ty TNHH Thiên Xuân ngày nay. Với giấy phép thành lập số 1325/GP-UB cấp ngày 23/7/1998 và giấy đăng ký kinh doanh số 0102013051 cấp ngày 15/9/1998, công ty TNHH Thiên Xuân được chính thức đi vào hoạt động. Sự thay đổi mang tính chất đột phá này giúp Công ty có sức mạnh cạnh tranh, mở rộng ngành nghề kinh doanh, hình thức kinh doanh, nhờ vậy khả năng tiếp cận với các bạn hàng lớn trong nước và quốc tế ngày càng được nâng lên. Ngày nay, công ty đã gặt hái được nhiều thành công trên đà phát triển: doanh thu của công ty không ngừng tăng mạnh, thị phần ngày một tăng nhanh hơn, thị trường được mở rộng ra các tỉnh, thành phố và các nước khác trong khu vực và thế giới. Điều này càng chứng tỏ sự sáng suốt của Giám đốc Công ty, nhờ đó với số vốn điều lệ ban đầu là 620 triệu đến nay đã tăng thêm 5,6 tỷ đồng, số vốn này là của ba thành viên sáng lập nên công ty TNHH Thiên Xuân ngày nay.
Trong quá trình phát triển Công ty có hướng chuyển đổi trụ sở chính của mình song để thuận tiện giao dịch Công ty vẫn đặt trụ sở của mình tại 95 Phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Ban Giám đốc Công ty đang triển khai kế hoạch mở thêm chi nhánh về Vĩnh Phúc và Hưng Yên, và đặt thêm văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh.
*Chức năng và nhiệm vụ của công ty TNHH Thiên Xuân
Công ty TNHH Thiên Xuân hiện nay là một công ty lớn tại Hà Nội kinh doanh các mặt hàng đồ nội thất gia đình, các mặt hàng thảm trải công nghiệp, rèm cửa,…và các mặt hàng trang trí nội thất có nguồn gốc ngoại nhập. Do đó chức năng chính yếu của Công ty như sau:
+Sản xuất, gia công, thi công các mặt hàng nội thất gia đình, văn phòng cơ quan, xí nghiệp.
+Sản xuất, gia công, thi công các mặt hàng gia dụng đa năng.
+ Các hoạt động kinh doanh thương mại như bán buôn, bán đại lý, bán sỉ và bán lẻ.
+Nhập khẩu các mặt hàng nội thất, gia dụng cao cấp của các nước Châu Âu, Châu Á…
+Nhận gia công các sản phẩm mỹ nghệ sơ chế của các doanh nghiệp khác…
+Xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đồ dùng cao cấp …
+Nhận giao hàng cho các doanh nghiệp khác và vận chuyển hàng hoá có giá trị cao.
+Xây dựng và thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, gia công hàng thủ công mỹ nghệ, đồ dùng gia đình và trang trí nội thất theo đăng ký kinh doanh và thành lập theo mục đích của công ty.
+Xây dựng các phương án kinh doanh, phát triển kế hoạch và mục tiêu chiến lược của công ty.
+Đồng thời tổ chức nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với thị hiếu và nhu cầu đặt hàng của khách hàng.
+ Thực hiện chăm lo phát triển trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao chất lượng đời sống của cán bộ công nhân viên trong toàn công ty.
+ Bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn cũng như mở rộng quy mô nguồn vốn.
+ Thực hiện các nghĩa vụ đối với cán bộ công nhân viên, với Nhà nước, và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Mặc dù đã gần 10 năm hoạt động trên thương trường nhưng vẫn còn là một doanh nghiệp trẻ, do vậy để hoàn thành được các nhiệm vụ trên, Thiên Xuân đã nỗ lực hết mình. Công ty có các quyền hạn và trách nhiệm sau:
+Nhập khẩu các sản phẩm đầu vào và hoàn thiện chúng
+Tổ chức các hoạt động kinh doanh sản phẩm các sản phẩm nội thất,các loại rèm cửa, mành chắn, đồ dùng gia đình…
+Thu thập các mẫu sản phẩm mới để trưng bày, giới thiệu với khách hàng trong và ngoài nước;
+Cung ứng các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài cho các đơn vị khác, là đại lý bán buôn sản phẩm tới các trung gian trong cùng sản phẩm.
*Tài sản của công ty
Đứng trước nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng và đòi hỏi khắt khe của khách hàng, để có thể đứng vững trên thị trường, yêu cầu đặt ra là phải nhạy bén với những thay đổi từng phút của thị trường, điều này đồng nghĩa với mở rộng quy mô nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nguồn vốn Công ty gồm:
-Nguồn vốn tự có
-Nguồn vốn vay
Vốn của Công ty được thể hiện bằng tài sản vật chất, bằng tiền mặt, và hàng hoá. Công ty có quyền sử dụng nguồn vốn, tài sản của mình cho các hoạt động sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm về lãi, lỗ nhưng phải đảm bảo đúng pháp luật. Vì vậy, Công ty xác định rõ ràng nhu cầu của khách hàng cũng như tiềm lực, thế mạnh của mình, để đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng về từng loại sản phẩm khác nhau, giá cả cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, Công ty còn mở rộng mạng lưới bán hàng, mở nhiều đại lý cung cấp sản phẩm, tạo điều kiện thu hút vốn kinh doanh, tối đa hoá lợi nhuận.
Tài sản Công ty gồm:
Tài sản cố định : Nhà cửa, kho tàng, nguyên vật liệu, hàng hoá tồn kho,
nhập kho, các sản phẩm khác.
Tài sản lưu động : Bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các nguồn vốn vay tín dụng, và các khoản nợ ngắn hạn khác, các khoản phải thu khác…
2.1.1. Cơ cấu tổ chức
Công ty TNHH Thiên Xuân là doanh nghiệp thành lập và đi vào hoạt động được gần 10 năm, công ty hoạt động một cách độc lập, hạch toán lỗ, lãi, có đầy đủ tư cách pháp nhân trong quan hệ quốc gia cũng như quan hệ với Ngân sách nhà nước, Ngân hàng và các bạn hàng trong và ngoài nước. Công ty có quyền ký kết các hợp đồng kinh tế, thực hiện nghĩa vụ trước pháp luật, có quyền ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu nói riêng với các đối tác trong và ngoài nước. Để làm được điều đó một phần quan trọng hơn là sự thiết kế mô hình công ty hợp lý, như sau:
Sơ đồ cơ cấu bộ máy tổ chức của công ty TNHH Thiên Xuân
Giám đốc
PGĐ phụ trách kinh doanh
PGĐ phụ trách kỹ thuật
P.KT
SP
đầu vào
P.KT-CL
Đầu ra
P.XNK
P.K
Toán
P.TC-HC
P.TKế,
thi công
P.Kỹ
thuật thi công
Bộ phận tiếp thị
Đơn vị thi công
Bộ phận bán hàng
Như vậy qua sơ đồ cơ cấu bộ máy tổ chức của Công ty ta thấy : Đứng đầu là Giám đốc, sau đó là 2 phó giám đốc, 7 phòng ban chức năng, 3 bộ phận.
*Giám đốc là người điều hành chung và chịu trách nhiệm cho toàn bộ công việc của công ty đồng thời là người thay mặt công ty chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của công ty. Giám đốc điều hành tất cả các công việc thông qua hai phó giám đốc.
*Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật: Là người chịu trách nhiệm về các vấn đề kỹ thuật chung của toàn công ty. Phó giám đốc kỹ thuật có trách nhiệm giúp Giám đốc điều hành công ty theo sự uỷ quyền của Giám đốc về mặt kỹ thuật.
*Phó giám đốc phụ trách kinh doanh: Là người chịu trách nhiệm về các vấn đề trong hoạt động kinh doanh của Công ty, có trách nhiệm giúp Giám đốc điều hành Công ty về mảng kinh doanh. Phó giám đốc kinh doanh được ví là cánh tay phải của giám đốc, thay mặt giám đốc công ty khi giám đốc đi vắng, và giữ vị trí quan trọng trong việc góp phần tạo ra lợi nhuận cho công ty.
Cả Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật và Phó giám đốc phụ trách kinh doanh đều là những người hỗ trợ giám đốc trong hoạt động sản xuất kinh doanh và góp phần tìm đến lợi nhuận cao nhất cho công ty, tạo cho công ty có một thế đứng vững chắc trong thương trường.
Trực thuộc Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật có các phòng, ban sau: Phòng kỹ thuật thi công, phòng thiết kế thi công, phòng kỹ thuật thi công, phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm. Mỗi phòng ban có những nhiệm vụ và chức năng sau:
* Phòng kỹ thuật thi công và phòng thiết kế đảm bảo kỹ thuật thiết kế và đảm bảo giám sát kỹ thuật thi công, còn chất lượng sản phẩm đầu vào và đầu ra thuộc phạm vi trách nhiệm của phòng kỹ thuật sản phẩm đầu vào và phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm.
+Bộ phận kỹ thuật trực thuộc phòng phụ trách về các yếu tố kỹ thuật của công ty có đặc điểm:
Về chức năng: Bộ phận kỹ thuật có chức năng tham mưu giúp việc cho Phó giám đốc trong các lĩnh vực kỹ thuật như: kỹ thuật gia công các sản phẩm gia dụng, hoàn thiện các sản phẩm nội thất, dựng dập tạo mẫu mới các sản phẩm, chuẩn bị các tài liệu kỹ thuật… phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh
Về nhiệm vụ: Xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật, xây dựng các phương án sử dụng nguyên vật liệu đầu vào hợp lý phù hợp với các mẫu đặt hàng của khách hàng.
+ Bộ phận kiểm tra chất lượng đầu vào có nhiệm vụ đánh giá tình hình sản phẩm đầu vào về mặt kỹ thuật, xem xét phương án sử dụng sản phẩm đầu vào để tái chế tạo ra các sản phẩm đầu ra hoàn hảo, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
+ Bộ phận kiểm tra chất lượng đầu ra có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi đưa ra thị trường và nghiên cứu, đưa ra các giải pháp quản lý chất lượng tiên tiến.
Tuy nhiệm vụ, chức năng mỗi phòng ban khác nhau nhưng nhìn chung các phòng ban của Công ty đều liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau trong việc tìm kiếm nguồn khách hàng, mở rộng thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Điều này càng khẳng định tính sáng suốt của phương pháp lãnh đạo thống nhất từ cấp trên cao nhất xuống từng đơn vị tổ đội trong Công ty, nó chứng minh từ những thành quả Công ty đã đạt được trong thời gian qua. Qua đó, vạch ra chiến lược phát triển vững mạnh của công ty, xây dựng thương hiệu mạnh gắn với niềm tin, chất lượng, dịch vụ ưu đãi đối với khách hàng, đây là nhân tố tích cực giúp công ty đạt được những thành tựu to lớn trên thương trường. Vì vậy, công ty luôn đề cao tôn chỉ kinh doanh " luôn gia tăng giá trị cho khách hàng", hướng mới trong kinh doanh là tạo ra hệ thống những khách hàng thân thiết cho công ty.
2.1.2 Tình hình sản xuất kinh doanh
Công ty TNHH Thiên Xuân là một trong những doanh nghiệp đi đầu về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm và các dịch vụ ưu đãi khách hàng, các sản phẩm như đồ gỗ mỹ nghệ, hàng nội thất, đồ dùng gia đình…và chiếm lĩnh mảng thị trường tương đối rộng ở Hà Nội nói riêng và miền Bắc nói chung. Nhắc đến các sản phẩm trang trí nội thất, các đồ gia dụng, khách hàng liên tưởng đến ngay công ty Thiên Xuân, điều này chứng tỏ thương hiệu Thiên Xuân đã đi vào lòng ngưòi với một hình ảnh đẹp. Thiên Xuân càng nỗ lực hơn trong chiến lược mở rộng thị trường, gia tăng lợi ích cho người tiêu dùng, vì cán bộ công nhân viên trong Công ty biết rằng: Sự tồn tại, phát triển phồn thịnh của một doanh nghiệp thể hiện ở chính những khách hàng mà doanh nghiệp có được, theo đó mà Công ty luôn đặt lên trên tiêu chí đáp ứng tối đa mong muốn của khách hàng, như vậy Công ty mới tạo ra được nguồn khách hàng thường xuyên, đi sâu tìm hiểu khách hàng tiềm năng đưa người tiêu dùng biết đến và sử dụng sản phẩm của Công ty.
Trong thời gian qua Công ty liên tiếp tăng trưởng nhanh, ổn định, điều này được thể hiện qua các chỉ tiêu kinh tế sau:
+Từ năm 1998 ngoài các sản phẩm đang bán ra thị trường Công ty còn đa dạng hoá các sản phẩm khác, như nhập sản phẩm của các công ty khác về hoàn thiện hoặc tái chế nên tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp và góp phần tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên trong Công ty, giúp họ yên tâm hơn và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
+Thành công đó phải kể đến vai trò lãnh đạo sáng suốt của Giám đốc, sự đoàn kết, thống nhất một lòng của cán bộ công nhân viên và tinh thần lao động hăng say, sự thông minh khéo léo của cán bộ công nhân viên trong Công ty.
+Một điều khác góp phần làm nên thành công trên là Công ty có chế độ khen thưởng, kỷ luật đúng. Ban lãnh đạo Công ty biết quan tâm đến đời sống của anh em, thường xuyên tổ chức các phong trào vui chơi giải trí, tổ chức đi thăm quan… tạo không khí hăng say lao động, và trong công tác của cán bộ Đảng viên trong toàn công ty, nhờ đó nâng cao năng suất lao động, hiệu quả công tác.
Với những thuận lợi đó và phương châm thương hiệu uy tín, chất lượng Công ty đã tạo được niềm tin trong khách hàng, thương hiệu Công ty đã "thổi hồn" vào sản phẩm của mình và trở thành sản phẩm thân thiết với ngưòi tiêu dùng, đây là điều bất cứ doanh nghiệp nào đều mong muốn đạt được, Công ty đã làm được điều đó.
Bước sang thế kỷ XXI, khi nền kinh tế đất nước hoà cùng dòng chảy của nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những thời cơ mới và thách thức mới, vàng khó khăn hơn với các doanh nghiệp trẻ như công ty Thiên Xuân. Một điều đặt ra là hội nhập kinh tế, sự phá bỏ hàng rào thuế quan làm cho hàng hoá ngoại tràn vào không kiểm soát được, nhà nước không bảo hộ, để tồn tại doanh nghịêp phải tự "đánh bóng" tên tuổi trên thị trường qua chất lượng và giá cả sản phẩm, đây là khó khăn lớn Công ty gặp phải.
-Khó khăn tiếp theo Công ty mới bước vào thị trường chưa lâu nên kinh nghiệm cạnh tranh chưa cao, vốn thiếu, lao động có bằng cấp chưa nhiều. Như vậy, Công ty còn gặp nhiều khó khăn về tài chính, nhân lực, vật lực, khoa học kỹ thuật…
-Sự tinh vi của khoa học kỹ thuật làm cho các công ty trẻ gặp khó khăn nữa, là sự ăn cắp kiểu dáng mẫu mã sản phẩm, thậm chí đánh mất ý tưởng kinh doanh…
-Sự biến động của giá cả hàng hoá, của vàng, ngoại tệ đẩy giá sản phẩm của Công ty lên cao,bởi vậy Công ty lại gặp khó khăn trong vấn đề cạnh tranh về giá. Công ty đã cố gắng giảm giá thành và nâng cao hiệu quả sản xuất để có thể bán sản phẩm với giá hợp lý nhất mà vẫn đáp ứng được yêu cầu chất lượng và phong cách phục vụ khách hàng.
- Hàng ngoại nhập tràn vào Việt Nam, các doanh nghiệp đua nhau giảm giá nên cạnh tranh vô cùng gay gắt và khốc liệt, đòi hỏi doanh nghiệp phải có thế và lực mạnh.
Như vậy bên cạnh thuận lợi còn có khó khăn nhưng Công ty vẫn nỗ lực hết mình để đạt được những thành tích trong phát triển kinh doanh.
Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty TNHH Thiên Xuân trong một số năm 2003-2005
Bảng chỉ tiêu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH Thiên Xuân trong 2003-2005:
TTT
Chỉ tiêu
Đv.tính
2003
2004
2005
Tỷ lệ tăng BQ
11
Giá trị sản lượng
1000đ
2.084.350
2.738.400
2.900.000
7%
22
Tổng doanh thu
1000đ
2211027,9
2.935.500
3.437.500
0.5%
33
Tổng lao động
người
63
65
56
2%
44
Bình quân thu nhập
Đồng
1.400.000
1.700.000
1.800.000
2%
5
Lợi nhuận
1000 đ
6.500
23.450
37.500
3%
2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển thương hiệu tại Công ty.
2.2.1.Yếu tố bên trong.
Mục tiêu chiến lược của công ty: Trong giai đoạn tới Công ty tiếp tục đi trước đón đầu khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, giảm giá bán. Bên cạnh đó vẫn nâng cao chất lượng hàng hoá, đồng thời thực hiện công tác thống kê chặt chẽ, nâng cao cường độ làm việc của cán bộ công nhân viên trong Công ty.
-Nâng cao chất lượng sản phẩm, xác định mặt hàng mục tiêu và thực hiện nhóm " khách hàng thân thiết" của Công ty.
-Mở rộng phạm vi kinh doanh, xác định các mảng thị trường chính, thực hiện phân đoạn thị trường để đáp ứng được mong muốn của khách hàng.
- Thực hiện các chương trình giảm giá, bán hàng khuyến mại, tham gia các hội chợ quảng bá sản phẩm tới ngưòi tiêu dùng.
- Tổ chức tuyển dụng đội ngũ cán bộ, công nhân viên một cách bài bản, để lựa chọn được những cá nhân tiêu biểu, có năng lực, nhiệt tình cho Công ty.
-Tiếp tục tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân viên giỏi kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ. Xây dựng và phát triển đội ngũ nhân viên Marketing hoàn hảo, để tiếp cận với những thị trường mới và khai thác tối đa thị trường hiện tại.
-Nâng cao năng lực tài chính cho Công ty bằng cách thu hút các nguồn vốn tạm rỗi của cán bộ, công nhân viên và tiến tới thực hiện liên kết với các doanh nghiệp cùng ngành phát triển và tạo ưu thế cạnh tranh.
-Cuối cùng chấn chỉnh hệ thống hạch toán kế toán và đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong công ty.
2.2.2.Yếu tố khách quan bên ngoài doanh nghiệp
Mục tiêu phát triển của đất nước là mở rộng quan hệ đối ngoại kinh tế, đây cũng là cách để Nhà nước phát triển các thương hiệu trong nước, với chính sách kinh tế đối ngoại hợp lý vừa tạo cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường ra nước ngoài vừa nhằm tăng quy mô xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, qua đó có thể bảo vệ thị trường trong nước trước sự xâm nhập mạnh mẽ của hàng hoá, dịch vụ nước ngoài.
Tháng 11 năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO) nên phải đối mặt với hàng loạt khó khăn: Nhà nước xoá bỏ chế độ bảo hộ mậu dịch, hàng hoá ngoại tràn vào cạnh tranh về chất lượng và giá cả...
Các chính sách trợ cấp xuất khẩu, tín dụng của Nhà nước nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Nhà nước tiến hành lập các quỹ bảo hiểm, quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước, cho phép Công ty lập các quỹ này để ứng phó với những biến động của giá cả thị trường và gặp rủi ro khi tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu.
Còn với các chính sách thuế: Nhà nước cắt giảm một số loại thuế nhằm giảm gánh nặng cho nhà sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá nội địa khi tham gia vào thị trường thế giới.
Bên cạnh đó là sự nhận thức và sự quan tâm của người tiêu dùng về thương hiệu: Bên cạnh những ích lợi sản phẩm mang lại, người tiêu dùng đã nhận thức được giá trị của thương hiệu, vì thế gần như các công ty thành công hiện nay đều nhằm mục đích kinh doanh thương hiệu. Ngày nay, người tiêu dùng không chỉ quan tâm tới chất lượng và giá cả sản phẩm mà họ còn rất nhạy bén với những giá trị vô hình mà sản phẩm họ sử dụng đem lại. Nên người tiêu dùng cũng rất coi trọng thương hiệu của sản phẩm, nhiều khi khách hàng quan trọng hoá những giá trị vô hình đó hơn cả chất lượng sản phẩm, họ sẵn sàng trả giá rất cao cho các sản phẩm tạo ra phong cách riêng hay khẳng định đẳng cấp của mình. Điều này là một yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình phát triển thương hiệu của các công ty trong đó có công ty TNHH Thiên Xuân.
Một yếu tố khác nữa ảnh hưởng tới chiến lược phát triển thương hiệu của Công ty đó là các đối thủ cạnh tranh: Thị trường ngày một sôi động, hàng năm có hàng trăm ngàn doanh nghiệp được thành lập vì vậy tính cạnh tranh càng ngày càng khốc liệt, do đó để tạo chỗ đứng vững chắc cho mình, các doanh nghiệp cần phải tạo cho mình một thương hiệu mạnh. Các đối thủ cạnh tranh của Công ty ngày càng dày đặc hơn, sản phẩm của họ có thể tốt hơn, phong cách phục vụ khách hàng luôn tận tình nên Công ty cùng một lúc phải đối phó với nhiều khó khăn để khẳng định vị trí của mình trên thương trường. Với quan niệm " thương trường là chiến trường", luôn chứa đựng nhiều cam go, thách thức doanh nghiệp nào mạnh, biết mình biết người mới có thể chiến thắng.
Như vậy trong nền kinh tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn phải đối mặt với những thách thức mới, khó khăn nhiều nhưng cũng chứa đựng nhiều cơ hội mới, Công ty Thiên Xuân cũng vậy. Những yếu tố này ảnh hưởng rất lớn tới chiến lược phát triển thương hiệu của Công ty trong giai đoạn hiện nay, và sắp tới.
2.3. Thực trạng phát triển thương hiệu tại Công ty.
Nhận thức về vấn đề thương hiệu
Công ty coi việc nhận biết thương hiệu là giai đoạn đầu tiên trong quá trình mua sắm, là một tiêu chí quan trọng đo lường sức mạnh của thương hiệu. Nên khi thương hiệu được biết đến lần đầu là thương hiệu được khách hàng nghĩ tới lần đầu tiên khi được hỏi về một loại sản phẩm nào đó. Với những sản phẩm của Công ty thì khách hàng luôn lên danh sách mua sắm, thì cần để người tiêu dùng biết đến mình qua nhận biết về những đặc tính sản phẩm của Công ty. Theo thống kê của Phòng kinh doanh trong Công ty về độ nhận biết thương hiệu của họ là khoảng 70% là khá tốt và công ty cần phải nâng cao độ nhận biết này lên hơn nữa.
Thực trạng nghiên cứu, thiết kế và quảng bá thương hiệu tại Công ty.
Như tất cả các công ty, để quá trình chiến lược thương hiệu của mình hiệu quả, một mặt Công ty phải nhận biết được thương hiệu, mặt khác lập kế hoạch nghiên cứu, thiết kế và quảng bá thương hiệu của mình. Đây là khâu quan trọng và chiếm nhiều thời gian, hoàn thiện khâu này mới có khả năng thực hiện tốt các giai đoạn tiếp theo. Chí phí hàng năm cho việc nghiên cứu, thiết kế, quảng bá thương hiệu thường dao động từ 10% - 15% doanh thu hàng năm của Công ty. Đây là một chi phí không nhỏ, đầu tiên là chi phí để nghiên cứu thương hiệu hợp với mình, tiếp theo chi phí thiết kế của bộ phận kỹ thuật để tạo Logo riêng của mình, công việc cuối cùng của giai đoạn này là các chi phí liên quan tới việc tiếp thị hình ảnh của Công ty tới công chúng, như đăng báo, quảng cáo trên Internet, trên truyền hình…
Thực trạng đăng ký và quản lý thương hiệu.
Với Công ty xây dựng thương hiệu không phải là một lưới quảng cáo hay một cách để chèo kéo doanh thu, mà là một qúa trình định hình và rèn luyện văn hoá và bản sắc doanh nghiệp. Ban lãnh đạo Công ty luôn nhận thức thương hiệu phải mang ý nghĩa đối với khách hàng, tổ chức và nhân viên, nó phải được coi là sợi dây liên kết khách hàng với Công ty. Nên Công ty quan tâm rất đúng tới việc bảo vệ thương hiệu được tạo ra, không đơn giản là đăng ký xác lập quyền sở hữu với Nhà nước. Do đó, Công ty đã tìm mọi cách để ngăn chặn tất cả các xâm phạm hàng nhái, hàng giả hay sự nhầm lẫn vô tình hay hữu ý, sự giảm sút từ bên trong thương hiệu ( giảm uy tín do chất lượng hàng hoá bị giảm sút hay không duy trì được mối quan hệ tốt với khách hàng, các đại lý, nhà phân phối) do đó làm giảm lòng tin của toàn bộ bên liên quan tới lợi ích của doanh nghiệp.
Nhận thức được vấn đề thương hiệu, Công ty một mặt coi bảo vệ thương hiệu là việc của Nhà nước chỉ chiếm một vai trò nhất định trong quá trình giải quyết những tranh chấp hay những vụ kiện tụng về pháp lý. Mặt khác Công ty không hoàn toàn dựa vào Nhà nước mà luôn tự mình lập ra các chiến lược và hành động cụ thể để bảo vệ chính mình. Bởi lẽ muôn đời : không ai có thể bảo vệ mình hơn chính bản thân mình. Nên công việc này quan trọng không phải dự đoán những đe doạ tiềm ẩn và hành động nghiêm túc để ngăn chặn chúng ngay từ khi chúng mới bắt đầu phôi thai. Không được để tình trạng " nước tới chân mới nhảy", bởi vì nó có thể ảnh hưởng rất xấu tới thương hiệu của Công ty, dễ dàng làm suy giảm uy tín thương hiệu hoặc có thể rất lâu hoặc không bao giờ Công ty có thể khôi phục được thương hiệu và lòng tin của khách hàng. Công ty tốt nhất cần tránh tình trạng kiện tụng, vì vừa mất nhiều tiền và công sức của mình, nói chung là hao mòn nguồn lực nhất là với tình trạng tài chính và tiềm lực Công ty chưa thực sự đủ mạnh. Để làm được điều này, Công ty phải xác lập quyền sở hữu thương hiệu của mình và cần nghiên cứu thị trường để phát hiện hàng giả, hàng nhái…Ngoài ra, cần phải tăng quan hệ tích cực với khách hàng, cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hoá và doanh nghiệp, mặt khác mở rộng hệ thống kênh phân phối, các đại lý bán lẻ hàng hoá, thiết lập hệ thống thông tin phản hồi từ khách hàng một cách hoàn thiện nhất. Với các đại lý, nhà phân phối, Công ty phải có chương trình hỗ trợ như thường xuyên tiếp xúc, giúp đỡ họ trong qúa trình cung cấp hàng hoá tới người tiêu dùng. Thực hiện chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, và phải biết coi trọng nguyên tắc " cộng sinh cùng có lợi". Còn với người tiêu dùng, Công ty sử dụng các chương trình khuyến mại giới thiệu sản phẩm mới, mời họ mua hàng và sẵn sàng trả lời những thắc mắc của họ về sản phẩm, về Công ty, phải coi khách hàng là trung tâm của Công ty, hướng tới lợi ích của họ. Công ty cần tiến hành mở rộng hệ thống phân phối, bán lẻ với mục tiêu phủ kín thị trường phù hợp với nguồn lực của mình nhưng không thể bị kẻ xấu lợi dụng.
2.4. Thực trạng phát triển thương hiệu của đối thủ cạnh tranh của Công ty.
Tình hình phát triển thương hiệu của đối thủ cạnh tranh của Công ty.
Trong những năm gần đây, với cường độ cạnh tranh trong ngành dệt may và nội thất như hiện nay, các đối thủ cạnh tranh của Công ty đã và đang xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các phương tiện truyền thông hiện đại để tiếp cận với khách hàng. Đồng thời sự ra đời của ngành công nghiệp nội thất, hơn nữa các làng nghề truyền thống đang được Nhà nước khuyến khích khôi phục và phát triển nên sản phẩm cạnh tranh của Công ty ngày càng trở nên tinh vi hơn về mẫu mã, giá cả, thậm chí cả cách tiếp cận khách hàng. Chẳng hạn, với sản phẩm chăn ga, gối đệm, rèm cửa… là sự cạnh tranh của ngành công nghiệp may mặc, có tên tuổi như: May Việt Tiến, May 10, may sông Hồng…Các sản phẩm của những công ty vừa đa dạng về chủng loại và kiểu dáng, hơn nữa do lợi thế cạnh tranh về giá cả nên là những đối thủ khá tầm cỡ của Công ty. Chỉ riêng với bề dày kinh nghiệm trong ngành sản xuất, kinh doanh hàng may mặc của May 10, Việt Tiến, cũng đủ là một trở ngại cho Công ty, mặt khác cũng do quy mô rộng, thời gian xây dựng và phát triển dài các công ty này đã tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường, đặc biệt những thương hiệu này đã quá quen thuộc với khách hàng. Các doanh nghiệp này không chỉ gây khó khăn cho Công ty về uy tín thương hiệu mà còn tác động đến phương thức sản xuất kinh doanh của Công ty sao cho có thể đáp ứng được giá cả hợp lý để cạnh tranh với họ. Đồng thời, trong thị trường sôi động, luôn chứa đựng những đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, một doanh nghiệp có thể trụ vững trên thị trường chỉ khi họ đáp ứng được những mong muốn của khách hàng một cách tốt nhất.
Còn với nhóm sản phẩm nội thất gia đình thì sự có mặt của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đồ nội thất có danh tiếng như đồ gỗ Mỹ Hà, Mỹ Dung, Điện Quang… và hàng ngàn cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ khác…cũng luôn đe doạ tới Công ty. Phải nói sản phẩm của những hãng này không những bền, đẹp, kiểu dáng sang trọng và đa dạng có thể hướng tới tất cả các nhóm khách hàng trong xã hội mà lợi của họ còn được thể hiện qua bề dày kinh nghiệm kinh doanh, đặc biệt người tiêu dùng đã quen với dòng sản phẩm đó, phong cách của họ là phục vụ khách hàng tận tình, luôn hướng tới những giá trị ích lợi cho người tiêu dùng. Các sản phẩm trang trí nội thất như giường, tủ, bàn ghế… hay tới các vật tưởng như nhỏ như : đèn bàn, đèn học…vừa đáp ứng cho nhóm thị trường nhỏ là các hộ gia đình, vừa phục vụ cho các doanh nghiệp khác như các khách sạn, nhà hàng, các công sở, trường học…Thị trường luôn thay đổi, doanh nghiệp càng gặp khó khăn hơn trong quá trình tìm chỗ đứng cho mình, vì hàng ngày có nhiều doanh nghiệp thành lập và phá sản. Vấn đề đặt ra là khó khăn lắm, nhưng thời cơ cũng nhiều nên nếu "chớp" được cơ hội có thể đó là một bước đột phá của mình.
2.5.Xác định vị trí thương hiệu của Công ty trên thị trường
Theo điều tra của Tạp chí Sài Gòn tiếp thị, hầu hết các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường được thời gian nhất định để tiếp tục phát triển đều phải tìm cách tiếp cận khách hàng qua các chiến lược thương hiệu. Công ty Thiên Xuân cũng vậy, nhờ có sự đầu tư bài bản vào xây dựng và phát triển thương hiệu nên cũng gặt hái được những thành công nhất định, đồng thời phải khẳng đinh rằng thương hiệu Công ty ngày một được công chúng biết đến nhiều hơn. Sau gần 10 năm kinh doanh trên thị trường Công ty đã có chỗ đứng khá vững, nguyên nhân là do hệ thống các kênh phân phối rộng rãi, chính sách bán hàng và các hoạt động Marketing hiệu quả, mặt khác còn nhờ sự lựa chọn đúng đắn của Công ty trong quá trình xây dựng thương hiệu. Điều này được thể hiện rất rõ qua cuộc điều tra nhỏ về tiêu dùng cuối cùng với quy mô mẫu là 100 người. Tuy vậy, kết quả điều tra cũng chưa thể phản ánh hết được thực tế của Công ty,song nó cũng có tính chất tham khảo. Kết quả nghiêm cứu cho thấy có 52% số người được hỏi trả lời là có nghe nói họăc biết đến sản phẩm của Công ty, và 48% số người trả lời có sử dụng sản phẩm của Công ty, còn ở Mỹ Hà tỷ lệ này lần lượt là 70%, 75%, hay với nhóm sản phẩm màn rèm, chăn, ga, gối đệm…của Việt Tiến tỷ lệ này là 80%, 83%, của May 10 là 86%, 84%.
Với xu hướng hiện tại người tiêu dùng đánh giá yếu tố thương hiệu là rất quan trọng trong hướng lựa chọn sản phẩm: 46% trả lời rất quan trọng , 36% trả lời quan trọng, 12% trả lời bình thường và chỉ có 6% trả lời không quan trọng. Tình hình hiện tại dự đoán Thiên Xuân sẽ chiếm lĩnh được thị phần lớn hơn trong giai đoạn tới.
2.5.1. Những thành công
Tính đến thời điểm này Công ty đã xây dựng được một thương hiệu có tiếng trên thị trường, vì vậy duy trì được nhóm khách hàng thân thiết, đồng thời tăng được lượng khách hàng mới. Điều này được phản ánh qua doanh thu tăng qua các năm ở bảng số liệu sau:
STT
Chỉ tiêu
Đ.v.tính
Năm 2005
Năm 2006
1.
-
-
-
Giá trị sản lượng bán
1000đ
2.900.000
3.056.302
Đồ nội thất
1000đ
952.560
1.018.768
Hàng gia dụng
1000đ
1.052.554
1.350.235
Hàng dệt may
1000đ
894.886
687299
2.
Nộp Ngân sách
1000đ
92.800
97.801,7
3.
Doanh thu
1000đ
2.890.720
2.958.500,3
Bảng 2: Bảng kết quả sản lượng bán và doanh thu của giai đoạn 2005- 2006.
Từ kết quả trên ta thấy giá trị sản lượng hàng hoá bán ra của Công ty tăng qua các năm 2005 - 2006. Điều này được thể hiện ở bảng sau:
STT
Chỉ tiêu
Đv.t ính
Tuyệt đối
Đv.tính
Tương đối
11
-
-
Giá trị sản lượng bán
1000đ
156.302
%
18,55
Đồ nội thất
1000đ
66.208
%
6,95
Hàng gia dụng
1000 đ
297.681
%
28,28
Hàng dệt may
1000đ
- 207.587
%
- 23,19
22
Nộp Ngân sách
1000đ
5.001,7
%
5,39
33
Doanh thu
1000đ
67.780,3
%
2,34
Bảng 3: Bảng chênh lệnh sản lượng và doanh thu năm 2006 / 2005.
Như vậy doanh thu các sản phẩm của Công ty đều tăng từ các năm 2005 sang năm 2006, tổng sản lượng bán cũng tăng 156.302 ngàn đồng tức là 18,55%, trong đó giá trị sản lượng hàng nội thất bán ra tăng 66.208 ngàn đồng (6,95%), giá trị sản lượng bán ra của hàng gia dụng tăng 297.681 ngàn đồng ( 28,28%), nhưng giá trị bán ra của hàng dệt may lại giảm 207.587 ngàn đồng (giảm 23,19 %) so với năm 2005. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu và lợi nhuận của Công ty, so với năm 2005 doanh thu của Công ty đã tăng 67.780,3 ngàn đồng hay tốc độ tăng là 2,34 %. Sở dĩ, tốc độ tăng của doanh thu chưa cao như thế này là do tốc độ giảm của sản lượng hàng hoá bán ra khá lớn, vì thế trong giai đoạn tới Công ty cần tích cực gia tăng đều đặn sản lượng bán của tất cả các sản phẩm.
Ngoài ra, việc đăng ký thương hiệu nên về mặt pháp lý Công ty đã được bảo hộ đối với những tính chất độc đáo của sản phẩm và các yếu tố liên quan tới thương hiệu Công ty. Cũng được pháp luật bảo vệ mạnh mẽ vị trí của thương hiệu trước những sản phẩm mới và trước đối thủ cạnh tranh của Công ty.
Hơn nữa uy tín và lợi ích công ty đã được tạo điều kiện , đảm bảo thu hút đầu tư và gia tăng các quan hệ bạn hàng. Các bạn hàng như các nhà phân phối, các đại lý cấp I… luôn sẵn sàng hợp tác kinh doanh với Công ty, các bạn hàng của Công ty tăng lên rõ rệt, hiện nay các nhà phân phối của Công ty đã tự tìm đến và mong muốn ký kết với Công ty mà không cần phải thuyết phục nào cả.
2.5.2. Những tồn tại và khó khăn
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, song vẫn còn có những khó khăn bao quanh trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu của mình. Đó là, mức độ biết đến sản phẩm của người tiêu dùng đã tăng nhưng chưa cao, điều này được biểu hiện qua thị phần và doanh thu của Công ty đạt như mong muốn. Thứ hai, tuy đã đầu tư vào các chương trình quảng cáo nhưng hiệu quả vẫn chưa cao, điều này không những gây lãng phí cho Công ty mà còn thể hiện cách tiếp cận thị trường của Công ty chưa phù hợp, vì các mẫu quảng cáo thường được đăng tải trên các báo, chưa đưa lên truyền hình nên mức độ biết đến của người tiêu dùng tới Công ty còn hạn chế. Công ty có rất nhiều các chương trình quảng cáo được thực hiện nhưng còn lỏng lẻo, chưa quy củ trong việc tổ chức và quản lý, đầu tư chưa trọng điểm. Các chương trình quảng cáo phải thuê nhân viên ngoài nên mức độ nhiệt tình với công việc là không có, do đó chất lượng các chương trình là thấp. Ngoài ra, chi phí cho quảng bá thương hiệu mới ở mức độ bình thường nên độ nhận biết của khách hàng về sản phẩm và Công ty chưa cao.
2.5.3. Nguyên nhân của thực trạng
Nguyên nhân bên trong Công ty.
Bên cạnh những thuận lợi, như bất cứ Công ty nào, Công ty Thiên Xuân cũng gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất về tài chính, từ khi thành lập với số vốn ban đầu là 620 triệu đồng đến nay, sau 10 năm đi vào hoạt động vốn này đã tăng lên 1 tỷ 368 triệu đồng. Như vậy, với một Công ty sản xuất và thương mại thì số vốn này còn là quá hạn hẹp, nên doanh nghiệp phải đối diện với rất nhiều khó khăn từ việc sản xuất, gia công, tới việc xúc tiến hỗn hợp và tiêu thụ sản phẩm nên cũng ngân sách đầu tư cho thương hiệu của Công ty còn quá ít. Mặt khác, tuy đã đi vào hoạt động được gần 10 năm song vẫn được đánh giá là doanh nghiệp non trẻ do vậy kinh nghiệm quản lý còn yếu kém điều này dẫn tới chi phí không hiệu quả: chi phí điện thoại, thuê văn phòng làm việc, chi phí khác còn quá cao. Do đó Công ty chưa tiết kiệm được các chi phí nên chi phí cho hoạt động Marketing và xây dựng phát triển thương hiệu chưa hợp lý, có khi các khoản chi cần thiết nhất thì lại chưa đáp ứng được, trong khi đó các khoản chưa thực sự cần thiết lại quá cao dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lực của Công ty. Chi phí cho các hoạt động phát triển thương hiệu qua các năm có tăng nhưng còn hạn chế : Năm 2004 là 5,3% doanh thu, năm 2005 là 5,51% doanh thu, năm 2006 là 6,24% doanh thu. Mặc dù tỷ lệ này có tăng qua các năm nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế là giá cả tiêu dùng và chi phí nhân công hiện tại đang tăng rất mạnh.
Tiếp theo là về mức độ tiếp cận thông tin của Công ty còn hạn chế, vì trong những năm gần đây tốc độ phát triển của hệ thống thông tin như vũ bão thì công ty vẫn còn "ì ạch" đúng hơn là mức độ đầu tư cho máy móc công nghệ còn quá chậm. Hệ thống máy vi tính còn ít, chưa phổ cập ở các phòng, ban của Công ty. Nếu như các công ty khác đã có hệ thống liên lạc nội bộ, với khách hàng qua email nhờ hệ thống máy vi tính nội mạng thì ở Công ty mới có ở phòng giám đốc, và phòng thị trường. Điều này cũng gây khó khăn cho việc tiếp cận khách hàng của Công ty, vì hệ thống thương mại điện tử ở Việt Nam cũng khá phát triển, các công ty có vị thế ổn định đã dần chuyển sang giao dịch qua thư điện tử, giao dịch trực tuyến, nhận cung cấp hàng hoá tới tận tay người tiêu dùng qua các hợp đồng giao dịch trên mạng điện tử. Nói chung Internet đối với Công ty mới chỉ có vai trò nhỏ nên cả ban lãnh đạo và nhân viên trong Công ty cập nhật thông tin còn hạn chế.
Về nguồn nhân lực: quy mô nguồn nhân lực của Công ty có tăng qua các năm, nhưng cán bộ quản lý có kỹ năng chuyên môn còn có hạn, nhân viên phòng kinh doanh tăng nhưng đa phần không đúng chuyên môn. Mặc khác, nhân viên phòng kỹ thuật thì còn hạn chế về tinh thần làm việc, hơn nữa đây có thể là do các chính sách của Công ty chưa hợp lý. Chịu trách nhiệm chính cho việc lập chiến lược của Công ty vẫn là của Giám đốc Trương Công Đoàn, các Phó giám đốc khác chưa thực sự quan tâm tới lợi ích của Công ty.
Công ty còn gặp khó khăn nữa trong việc điều tra, nghiên cứu, thăm dò thị trường, chưa đi sâu, đi sát đến từng nhóm khách hàng để nắm bắt nhu cầu, các cuộc điều tra còn chung chung nên chưa xác định được các nhóm sản phẩm nào là mục tiêu cho từng mảng thị trường. Do đó, có thể đánh giá khi xây dựng và phát triển hương hiệu của Công ty chưa được dựa trên cơ sở khoa học mà chủ yếu dựa vào cảm quan nên không thể tránh khỏi những sai lầm trong chiến lược xây dựng và phát triển của mình.
Khó khăn từ bên ngoài:
-Tình hình cạnh tranh của các doanh nghiệp cùng ngành: Do sản phẩm của Công ty gồm đồ gỗ, nội thất, hàng gia dụng, các sản phẩm dệt may như: mành, màn, rèm, chăn ga, đệm…nên các đối thủ cạnh tranh của Công ty cũng khá đa dạng. Do đó, với mỗi đối thủ khác nhau có một cách đối phó khác nhau, vì vậy Công ty cần xây dựng chiến lược thương hiệu bài bản và tầm nhìn dài hạn, không chỉ trước mắt. Đây là cạnh tranh trên mảng thị trường sôi động nhưng đầy khốc liệt, Công ty vừa yếu về nguồn lực, vừa thiếu kinh nghiệm trên thị trường nên càng phải đối mặt nhiều khó khăn hơn. Đặc biệt, nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng cao, nhưng yêu cầu càng tinh vi hơn, đòi hỏi nhà cung cấp phải đáp ứng tốt nhất những mong muốn của họ nên Thiên Xuân càng phải đối mặt nhiều khó khăn hơn so với đối thủ cạnh tranh. Mặt khác, các doanh nghiệp đó đã có bề dày kinh doanh lâu năm nên kinh nghiệm cũng nhiều. Thử hỏi một công ty vừa nhỏ bé về vốn, vừa yếu về trình độ quản lý có đương đầu với khó khăn này được không? Để trả lời được câu hỏi này Công ty cần phải lựa chọn hướng đi đúng ngay từ đầu và phải có tầm nhìn chiến lược dài hạn, thực hiện đúng theo kế hoạch đã định sẵn.
- Ngoài ra chính sách của Nhà nước còn nhiều bất cập, đó là sự quy định của Nhà nước về chi phí cho các hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu bị giới hạn ở mức từ 5 - 7% tổng chi phí chứ không phải tổng giá trị sản lượng. Chi phí thấp, Công ty gặp khó khăn không có điều kiện đầu tư tới nơi tới chốn cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu của mình. Lo ngại nữa là nhà nước chưa có biện pháp quản lý các hoạt động tiêu cực trong cạnh tranh, chưa có biện pháp phát hiện và xử lý kịp thời những xâm phạm về thương hiệu như: hàng nhái, hàng giả…hoặc xử lý chưa nghiêm khắc và mức hình phạt còn quá nhẹ nên các đối tượng tiêu cực vẫn tiếp tục các hành vi sai phạm của mình.
Chương III: Các giải pháp hoàn thiện chiến lược phát triển thương hiệu tại Công ty.
3.1. Hệ thống giải pháp
Nâng cao nhận thức về thương hiệu
Một lý do đơn giản là khi Công ty không nhận thức được giá trị thương hiệu của mình thử hỏi họ có thể làm cho khách hàng nhận thức được thương hiệu của họ hay không? Và cách tốt nhất, Công ty nên tuyên truyền về thương hiệu, giá trị của thương hiệu, mối liên hệ giữa giá trị và ích lợi của thương hiệu đối với Công ty và với mỗi cá nhân. Để làm được điều này không phải là một sớm một chiều, mà là cả quá trình. Công ty có thể nâng cao nhận biết thương hiệu tới từng cán bộ công nhân viên trong Công ty, sau đó mới tính đến khách hàng bằng chính sự cảm nhận về sản phẩm.
Mặt khác, trong quá trình phát triển, nhất thiết Công ty phải có một chiến lược phát triển lâu dài ,ổn định nhằm tạo tính nhất quán cho thương hiệu của mình. Dĩ nhiên, chiến lược đó phải phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty và với thị hiếu của người tiêu dùng, nhưng phải đảm bảo mục tiêu của doanh nghiệp. Mục tiêu phải xác định rõ ràng, có như vậy mới có phương thức thực hiện chiến lược hợp lý để đạt được mục tiêu.
Tích cực tham gia các hội chợ nhằm nâng cao độ nhận biết của người tiêu dùng đối với thương hiệu của Công ty.
Như các doanh nghiệp khác, để tham gia vào thị trường Công ty luôn tìm cách tham dự các chương trình để quảng bá thương hiệu của mình. Hội chợ - cũng là cách để góp phần quảng bá thương hiệu, qua hội chợ Công ty có thể trực tiếp tuyển dụng cho mình những cán bộ, nhân viên quản lý có chuyên môn nghiệp vụ. Đặc biệt qua hội chợ Công ty có thể tiếp thị hình ảnh của mình tới khách hàng một cách dễ dàng nhất. Theo điều tra thì các doanh nghiệp có danh tiếng sử dụng phương thức này đạt hiệu quả tới 40%, các doanh nghiệp nhỏ chưa sử dụng cách này để tiếp cận khách hàng, sở dĩ tiềm lực còn yếu hoặc chưa có đủ tự tin để khẳng định mình. Cũng thông qua hội chợ trưng bày sản phẩm, là những thông điệp mà các công ty muốn gửi tới khách hàng, người lao động.
Tạo văn hoá riêng cho Công ty.
Bên cạnh những nội quy, những nguyên tắc xã hội các doanh nghiệp cần phải xây dựng cho mình một nền văn hoá riêng có của mình. Văn hoá doanh nghiệp là một tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nên trong quá trình phát triển Công ty đã và sẽ phát triển theo những nét văn hoá độc đáo của mình. Như đánh giá văn hoá còn là chía khoá giúp các doanh nghiệp thành công và theo tổ chức văn hoá thế giới UNESCO thừa nhận thương hiệu của doanh nghiệp được thể hiện qua truyền thống văn hoá của mình. Vì thế, trong chiến lược phát triển thương hiệu của mình Công ty cần phải xây dựng truyền thống này từ cán bộ đến nhân viên và công nhân của Công ty, mặt khác tiếp cận nền văn hoá của thế giới, ứng dụng vào xây dựng và phát triển thương hiệu cho riêng mình.
Bên cạnh đó, Công ty cần thiết kế cho mình một hình ảnh độc đáo, logo của Công ty phải đẹp, ý nghĩa, dễ dàng đi sâu vào tâm trí khách hàng. Đó cũng là việc xây dựng hình ảnh riêng, tạo ấn tượng đối với khách hàng.
Lời hứa thương hiệu
Công ty cam đoan với khách hàng là những gì khách hàng nhìn thấy trong các chương trình quảng cáo, trên các biểu tượng hay những gì công ty nói là có thật. Họ cam kết mang đến những giá trị đích thực cho khách hàng… Công ty cam kết sẽ tạo cho khách hàng những bất ngờ, thậm chí ngoài mong đợi của khách hàng.
Xây dựng hình ảnh thương hiệu của Công ty trên Internet.
Hiện nay, Internet là một dịch vụ khá phổ biến ở Việt Nam và số lượng người sử dụng dịch vụ này ngày càng lớn, do đó, trong chiến lược thương hiệu của Công ty đã đưa sản phẩm lên các Website quảng cáo. Nhờ các kỹ sư của phòng kỹ thuật đã thiết kế cho Công ty website riêng, để giới thiệu sản phẩm. Mặt khác số lượng người truy cập web ngày càng lớn nên website vừa là một lá thư điện tử giới thiệu thông thường, vừa là nơi cung cấp những thông tin được cập nhật nhất, hữu ích, một mặt cũng có tác dụng hai chiều là cầu nối thông tin phản hồi của khách hàng. Vì thế Công ty càng dễ tham khảo ý kiến của khách hàng và mở rộng quy mô khách hàng. Điều này làm cho Công ty phải đối mặt với chi phí thiết kế và duy trì web, mặt khác cần phải tạo ra những mới lạ để hấp dẫn khách hàng. Thông qua web khách hàng có thể tranh thủ kiểm tra những tin tức hay tỷ giá hối đoái … để đưa ra phương án tiêu dùng cho mình. Đồng thời qua các website Công ty có thể thực hiện giao dịch trực tiếp với khách hàng qua email, qua các blog, hay các website khác…Đây cũng là biện pháp mà nhiều doanh nghiệp có danh tiếng ở Việt Nam và trên thế giới đang thực hiện.
Như vậy, để xây dựng Công ty ngày càng lớn mạnh, thương hiệu được khách hàng biết đến và sử dụng sản phẩm của mình, Công ty đã có những giải pháp đồng bộ cho giai đoạn trước mắt và trong tương lai.
3.2.Các kiến nghị đối với Nhà nước:
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước về quảng cáo như Bộ văn hoá thông tin, sở văn hóa thông tin các Tỉnh, Thành phố, Bộ thương mại, Sở thương mại ở các địa phương, phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam. Các cơ quan này, cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng để ban hành hệ thống pháp luật mà quy định chặt chẽ các vấn đề quảng cáo nhằm quản lý chặt chẽ, thống nhất và hợp với điều kiện nước ta. Cần tránh tình trạng các văn bản này có hiệu lực song lại thiếu tính thực tế dẫn đến tình trạng gây khó khăn cho Công ty.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hệ thống quản lý từ trung ương đến địa phương, đảm bảo tính nhất quán vai trò quản lý của Nhà nước, phát huy tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh doanh.
Nhà nước và các cơ quan liên quan cần nghiên cứu có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp này trong việc hoàn thiện chiến lược thương hiệu. Các cơ quan này cần tổ chức những buổi họp chuyên đề để thấy rõ vai trò và hiệu quả của hoạt động cạnh tranh bằng thương hiệu. Cần tiếp cận thương hiệu tới người tiêu dùng nhằm kích thích họ tiêu dùng hàng hoá của mình. Các cơ quan này có trách nhiệm nghiên cứu cụ thể mức khống chế Ngân quỹ cho phát triển thương hiệu hợp lý hơn.
Đối với Bộ tài chính và Tổng cục thuế phải nghiên cứu và áp dụng một mức thuế hợp lý hơn, giảm thuế xuất cho các doanh nghiệp để có thể khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tài chính vào Việt Nam. Đề nghị Bộ tài chính cho các doanh nghiệp được phép tự do trích ngân sách cho hoạt động phát triển thương hiệu của họ.
Mặt khác đề nghị các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý đăng ký thương hiệu và phối hợp cùng Bộ thương mại hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp chủ động đăng ký thương hiệu cho mình. Đề nghị những cơ quan này cần đơn giản hoá các thủ tục pháp lý , rút ngắn hơn thời gian đăng ký hồ sơ, giảm chi phí tra cứu thông tin liên quan tới đối tượng xin đăng ký bảo hộ. Nếu các công ty gặp trục trặc về các vấn đề: vi phạm luật thương mại về nhãn hiệu hàng hoá hoặc bản quyền do thiếu sót thông tin cần được sự giúp đỡ của các cơ quan này trong việc tra cứu thông tin.
Như vậy để hoàn thiện chiến lược thương hiệu của mình, yếu tố quan trọng là Công ty phải tự tìm hướng đi đúng đắn, và sử dụng các phương thức phù hợp cho mình song cũng cần sự hỗ trợ rất lớn từ phía Nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền. Cả doanh nghiệp và Nhà nước cũng bắt tay vào làm việc chắc chắn nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển nhanh chóng và bền vững trong giai đoạn tới.
Kết luận
Ngày nay xu thế toàn cầu và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, nên để một tổ chức kinh tế có chỗ đứng vững chắc cần phải có chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu bền vững. Do đó, em đã chọn đề tài này để nghiên cứu chiến lược hoàn thiện thương hiệu của Công ty TNHH Thiên Xuân để viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp.Trong khi nghiên cứu thương hiệu tại công ty TNHH Thiên Xuân, em đã cố gắng hết sức thu thập thông tin, nhưng do thông tin còn hạn chế, trình độ có hạn cộng với thời gian thực tập ngắn nên bài viết của em chưa thực sự tốt. Cho em gửi lời cám ơn tới toàn bộ Công ty TNHH Thiên Xuân đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập ở đây, đặc biệt em xin cảm ơn Giám đốc Trương Công Đoàn đã tận tình giúp đỡ em trong suốt kỳ thực tập. Em rất mong cô Hồ Thị Bích Vân giúp đỡ em để em hoàn thành kỳ thực tập này tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Quản trị tài sản thương hiệu (Brand Equity Management) Cuộc chiến tranh giành vị trí trong tâm trí khách hàng. Tác giả Dương Hữu Hạnh, Nxb Lao động xã hội.
2. Quản trị tài sản nhãn hiệu. Tác giả Đào Công Bình - Nxb trẻ Hà Nội.
3. Tạo dựng và quản trị thương hiệu danh tiếng - lợi nhuận. Tác giả Lê Anh Cương. Nxb Lao động xã hội.
4. Xây dựng và phát triển thương hiệu. Tác giả Lê Xuân Tùng biên soạn - Nxb Lao động xã hội.
5. Thương hiệu với nhà quản lý. Tác giả T.S Nguyễn Quốc Thịnh chủ biên.
Nxb Lao động xã hội.
6. Các website : www.tintucvietnam.com
www.vietnamnet.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 15273.DOC