Đề tài Chính sách bảo hộ nông sản của EU - Khả năng xâm nhập của Việt Nam

Mục lục I )Chính sách bảo hộ hàng nông sản của EU_Ảnh hưởng của nó với Việt Nam 1)vì sao Eu phải bảo hộ hàng nông sản 2) Chính sách bảo hộ nông sản của EU: 2.1) Đặc điểm chung 2.2)Nội dung các chính sách 2.2.1 Thuế quan 2.2.2 Phi thuế quan a)Trợ cấp Nông nghiệp b)Cấm nhập khẩu c)Hạn ngạch thuế quan d). Cấp giấy phép nhập khẩu e). Chứng chỉ kiểm dịch thực vật (Phytosanitary Certificates): 3).Ảnh hưởng của chính sách bảo hộ hàng nông sản của EU đối với xuất khẩu nông sản của Việt Nam 3.1 Ảnh hưởng chung 3.2 Ảnh hưởng đến một số mặt hàng cụ thể II) Khả năng xâm nhập của nông sản Việt Nam 1)Đánh giá khả năng xâm nhập của nông sản Việt Nam vào thị trường EU 1.1.Mối quan hệ Việt Nam – EU 1.2)Trên phương diện doanh nghiệp/ngành trong hoạt động xuất khẩu Việt Nam 1.3)Phương diện sản phẩm 2) Giải pháp xâm nhập 2.1)Nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam 2.2)Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam a) Những đặc điểm của thị trường EU b) Những giải pháp thâm nhập thị trường EU từ phía doanh nghiệp Tiểu luận dài 43 trang

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách bảo hộ nông sản của EU - Khả năng xâm nhập của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bao bì còn quá sơ sài, đơn điệu, khó mà đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường. Bên cạnh đó khả năng nắm bắt thông tin và hiểu biết luật quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, do vậy xuất khẩu nông sản Việt Nam sẽ gặp khó khăn lớn. 3.2 Ảnh hưởng đến một số mặt hàng cụ thể 3.2.1 Gạo Gạo là nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đứng thứ hai thế giới, có mặt và tạo uy tín tại nhiều thị trường trên thế giới như: Philippines, Singapore, Malaysia, Indonesia và những thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản. Sau 17 năm tham gia thị trường thế giới, phẩm cấp và giá xuất khẩu gạo của nước ta có tiến bộ rõ rệt. Một phần là do yêu cầu của thị trường nên chất lượng gạo phải ngày một nâng cao thì mới thoả mãn nhu cầu của nước nhập khẩu. Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng của đã là một định hướng quan trọng cho chất lượng gạo Việt Nam. Và trong quá trình cạnh tranh với gạo của các quốc gia khác vào thị trường Eu đã nâng cao hơn rất nhiều khả năng cạnh tranh của mặt hàng gạo, vốn là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của chúng ta. Tuy nhiên những chính của Eu đá làm cho xuất khẩu gạo gặp không it khó khăn và thiệt hại. Đầu tiên phải tính đến mức thuế nhập khẩu mà Eu áp cho gạo Việt Nam, mức thuế 100% đã làm giảm rất lớn khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam, nhất là mặt giá cả, vốn là một trong những lới thế của hàng Việt Nam.Việc áp dụng hạn ngạch thuế quan theo thị trường đối với mặt hàng gạo những năm trước đây của Eu cũng là một cản trở cho gạo của chúng ta. Eu áp dụng hạn ngách ưu đãi với một số nước như Hoa kì, Oxtraylia, Thái lan và Guane, còn chỉ dành 100 ngàn tấn cho mọi xuất sứ. Việt Nam chỉ có thể xuất khẩu và 100 ngàn tấn nói trên mà thôi. Tuy nhiên nếu gạo của chúng ta mà đáp ứng được yêu cầu của thị trường Eu cũng như thị hiếu ngưòi tiêu dùng ở đó thì cũng vẫn có thể dễ dàng vào thị trường Eu. Nhưng do rất nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân là do đặc điểm kinh tế của nước ta(vẫn còn nghèo nên chưa đủ cơ sở vật chất phục vụ chế biến xuất khẩu) có những nguyên nhân khách quan( như điều kiện tự nhiên khí hậu) nên chất lượng gạo của chúng ta vẫn không sánh được với gạo của Thái Lan. Đồng thờii mẫu mã bao bì nhãn mác còn đơn điệu, Đặc biệt là gạo của chúng ta chưa có những thương hiệu nổi tiếng làm cho người tiêu dùng có thể tin tưởng tuyệt đối. Trong khi yêu cầu của Eu lại quá cao về những vấn đề này. Mặc dù trên thực tế có thể không phải loại hàng gạo nào chất lượng của chúng ta cũng kém Thái lan, có thể vì chúng ta chưa có hệ thống tiêu chuẩn chất lượng hợp lí để kiểm định đánh giá. Vấn đề bao bì nhãn hiệu hây kể cả thương hiệu cũng không ảnh hưởng lớn lắm đến chất lượng gạo(nếu không muốn nói là không ảnh hưởng, mà chỉ là công cụ cho quảng cáo marketing…) Nhưng nó đã ảnh hưởng không nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu gạo của nước ta, cũng như làm cho giá gạo của chúng ta luôn bị thấp hơn giá gạo của các nước xuất khẩu khác. Trong 5 năm từ 2001-2005 Việt Nam xuất khẩu tổng cộng trên 20 triệu tấn,tổng thu về gần 4,5 tỉ USD. Nhưng trong khi giá cả bình quân của các nước so với bình quân thế giới thấp nhất cũng trên 91,6% ,cao nhất là 120%,thì giá bình quân của chúng ta lại chưa lúc nào vượt quá 80%,giá bình quân của thế giới (220USD/tấn) một cái giá thấp nhất trong số các nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới 3.2.2 Chè Cùng trong nhóm hàng có sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cùng tăng trong tháng đầu tiên của năm 2007 là mặt hàng chè. Trong tháng này, sản lượng chè xuất khẩu của cả nước đạt 7.000 tấn, kim ngạch gần 7 triệu USD. So với cùng kỳ năm trước sản lượng chè xuất khẩu tăng 35%, giá trị xuất khẩu tăng 30%. Trong các thị trường thì Eu là thị trường có nhu cầu về chè cao nhất, cũng là thị trường có yêu cầu cao về tiêu chuẩn chè.Tuy Việt Nam đã xâm nhập được vào những thọ trường khó tính như Eu nhưng xuất khẩu chè của Việt Nam chỉ chiếm có 2% thị phần của Eu ( theo Thứ tư, 22/9/2004, 11:44 GMT+7vnexpress) và giá chè của Việt Nam thấp hơn những nước khác. Giá chè xuất khẩu của ta thường thấp hơn giá chè quốc tế từ 0,5-0,7 $/1kg.chỉ bằng 65-70% giá chè xuất khẩu của nhiều nước. Riêng ở châu âu giá chè của chúng ta còn thấp hơn nhiêu. Phải chăng đó cũng là một trong những ảnh hưởng của những quy định ngặt ngoèo của Eu.Trong khi giá chè đen của ta xuất khẩu ở các thị trường khác giá dao động từ 1300-1450 $/1 tấn thì giá cũng loại này ở thị trường Anh chỉ là 570-770$/tấn. (theo tạp chí thương mại).Nêu nhân với lượng xuất khẩu vào thị trường này có thể thấy chúng ta bị thiệt hại quá nhiều.Mặc dù Eu là thị trường có thê tiêu thụ được khối lượng lớn chè của chúng ta nhưng vì hiện nay chè vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu của thị trường nên chè chúng ta đang được cảnh báo là sẽ mất thị trường Eu, vì có nhiều khách hangfowr Anh và các nước châu Âu đã thông báo về việc dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong các sản phẩm chè đã vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Nhưng tại sao ở các thị trường khác cũng khó tính không kém như Nhật bản chẳng hạn lại không thấy ca phản ứng gi? 3.2.3 Cà phê chiếm ngôi đầu bảng Cùng với gạo, cà phê là mặt hàng được xếp vào câu lạc bộ xuất khẩu một tỉ$, và luôn là mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong chiến lược xuất khẩu.Có thể nói trong tất cả các mặt hàng nông sản thì cà phê có lẽ được thị trường Eu chấp nhận và nhập khẩu nhiều nhất. Tại Bỉ chiếm 10,1% thị trường nhập khẩu, Pháp chiếm 48,5%, Đức chiếm 57%, Italy chiếm 49,6%, Tây Ban Nha chiếm 53,9%, Anh chiếm 64,2%... Tuy nhiên nếu so với nhu cầu hàng năm của người tiêu dùng EU,con số này mới đáp ứng 4% - 5%. Tuy nhiên với cà phê thì giá không còn là ảnh hưởng lớn nữa. Ảnh hưởng lớn nhất là do những biện pháp và quy định khắt khe của Eu mà cà phê của ta đã bị thải loại một khối lượng vô cùng lớn trên thị trường này, gây tổn thất về kinh tế cho chúng ta đồng thời làm ảnh hưởng đến hình ảnh cà phê của chúng ta trên thế giới. Gián tiếp ảnh hưởng đến giá cả cà phê chúng ta ở các thị trường khác. Niênvụ 2005-2006,hơn 600 nghìn bao cà phê Việt Nam bị thải loại ở cảngAntwerrp(Bỉ).Cũng trong năm này tiêu chuẩn cà phê quốc tế (ICO) đã phân loại cà phê nhập khẩu tại 10 cảng khác nhau ở châu Âu thì trong số 1,5 triệu bao cà phê bị thải loại của 17 nước và vùng lãnh thổ có hơn 1 triệu bao(72% )là của Việt Nam(Việt nam chịu nhiều thua thiệt trong xuất khẩu-Phạm Thành Tí(4-)5 Tạp Chí Thương Mại 23/2007) Hàng năm, lượng cà phê kém chất lượng (dưới loại 3, 4) của nước ta bị loại bỏ ở thị trường LIFFE chiếm tỷ trọng cao trên trên thế giới. Cụ thể, năm 2005, cà phê Robusta Việt Nam bị loại bỏ 89% (tương đương 1,65 triệu bao). Trong 6 tháng, từ tháng 10/2005 đến tháng 3/2006, tỷ lệ bị loại bỏ là 88% (tăng 19% so với cùng kỳ năm trước). 3.2.4 Chuối Theo các chuyên gia của Tổ chức Nông lương quốc tế (FAO), sự kiện EU 15 mở rộng thành EU 25 đem lại những cơ hội mới cho các nước xuất khẩu chuối. Tháng 5, EU đã quyết định mức hạn ngạch thuế quan đối với nhập khẩu chuối trong giai đoạn 2004 – 2006. Từ 2006 trở đi, nhập khẩu chuối sẽ chỉ phải điều tiết bằng hệ thống thuế quan. Theo FAO, những quyết định của EU sẽ có ảnh hưởng lớn đến thị trường chuối toàn cầu, do khu vực này chiếm tới 1/3 tổng lượng giao dịch chuối toàn cầu. Do đó cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam vì chuối cũng là một thế mạnh của nông sản nước ta. Đặc biệt là cho đến năm 2005 mới chỉ có các nước ACP (châu Phi, Caribê và Thái Bình Dương) được xuất khẩu miễn thuế sang thị trường chung châu Âu, cũng như không có bất cứ một hạn chế nào khác. Trong khi đó, các nước xuất khẩu chuối khác gặp rất nhiều khó khăn do tình trạng cung vượt quá cầu và các rào cản từ các nước nhập khẩu. Tuy nhiên Hội đồng châu Âu khẳng định rằng, họ sẽ chuyển thực hiện thuế quan hoá các rào cản phi thuế quan đối với nhập khẩu chuối. Từ năm 2006, hạn ngạch nhập khẩu chuối sẽ được thay thế bằng hệ thống thuế (EC vẫn tiếp tục áp dụng thuế 0% đối với các nước ACP). Hiện EU đưa ra 3 phương án thuế suất nhập khẩu chuối: Mức thuế nhập khẩu chuối của EU là 75 Euro/tấn: Nếu EC đánh thuế 75 euro/tấn đối với chuối nhập khẩu từ các nước ngoài khu vực ACP từ năm 2006, mức nhập khẩu chuối vào thị trường EU dự báo sẽ tăng khoảng 400.000 tấn (13%), lên 3,7 triệu tấn vào năm 2006 Trong giai đoạn 2007- 2010, giá cả sẽ ổn định dần sau khi giảm mạnh trong năm 2006 và nhập khẩu sẽ ổn định ở mức 3,9 triệu tấn/ năm Mức thuế nhập khẩu chuối của EU là 200 Euro/tấn: Nếu áp dụng mức thuế 200 Euro/tấn, nhập khẩu chuối của EU sẽ tăng khoảng 3%, lên 3,5 – 3,6 triệu tấn trong năm 2006. Từ năm 2007, nhập khẩu chuối của EU sẽ tăng nhẹ và đạt khoảng 3,7 triệu tấn vào năm 2010 Mức thuế nhập khẩu của EU là 300 Euro/tấn. Trong trường hợp này, nhập khẩu chuối ít thay đổi và chủ yếu phụ thuộc vào tốc độ tăng dân số và thu nhập. Nhập khẩu chuối sẽ đạt khoảng 3,6 triệu tấn vào năm 2010. Khi mà chuối Việt Nam đang có thể trở thành mặt hàng xuất khẩu đem lại nguồn thu lón thì lại vấp ngay phải hệ thông thuế quan khá cao này. Mặc dù Eu đã mở cửa thị trường này nhưng để có thể thu được lợi nhuận tù xuất khẩu chuối có lẽ chúng ta cũng cọn khá vất vả và sẽ phải chụ nhiều thua thiệt. Tuy nhiên, các dự báo này chưa tính đến các yếu tố có thể dẫn đến những ảnh hưởng lớn trên thị trường chuối thế giới như những thay đổi trong chính sách phát triển ngành sản xuất và xuất khẩu chuối tại các nước ACP; sự tham gia của các nước kém phát triển vào thị trường chuối thế giới với những chính sách ưu đãi mà EC cam kết dành cho các nước này; xu hướng gia tăng nhập khẩu của các nước nhập khẩu lớn khác như Nhật Bản và Hàn Quốc, cũng như những chính sách giảm các rào cản nhập khẩu của các nước này theo cam kết với WTO… Chuối là mặt hàng đứng thứ năm trong thương mại toàn cầu về an toàn thực phẩm. Hàng năm, toàn thế giới sản xuất trên 88 triệu tấn chuối, trong đó phần lớn được tiêu thụ nội địa, đặc biệt là tại các nước nhiệt đới, nơi chuối là một trong những thực phẩm chủ yếu. Khoảng 13 triệu tấn chuối được dành cho xuất khẩu. Tình trạng cung vượt cầu tiếp tục có xu hướng tăng lên trong những năm qua và triển vọng thị trường trong những năm tới phụ thuộc nhiều vào các chính sách trong hệ thống thương mại hàng nông sản toàn cầu. Các nước sản xuất chuối hy vọng rằng, nhu cầu chuối sẽ tăng lên tại khu vực Cộng đồng các quốc gia độc lập và 10 thành viên mới của EU. Trung Quốc cũng được coi là thị trường triển vọng cho các nước xuất khẩu chuối. II) Khả năng xâm nhập của nông sản Việt Nam 1)Đánh giá khả năng xâm nhập của nông sản Việt Nam vào thị trường EU 1.1.Mối quan hệ Việt Nam – EU Mối quan hệ ngày càngtôt đẹp giữa Việt nam và Eu trongthời gian qua là một lợi thế cho xuất khẩu của chúng ta ssang Eu nói chung và của xuất khẩu nông sản nói riêng Quan hệ Việt Nam –EU mà cụ thể muốn đề cập đến ở đây là quan hệ thương mại đã đang có những bước tiến lớn dựa trên nền tảng của các quan hệ tốt đẹp giữ hai bên về chính trị,hợp tác phát triển cũng như đầu tư EU là 1 trong những đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Kể từ năm 1995 đến nay, quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước thành viên của EU đã tăng nhanh. Hiện nay EU là thị trường xuất khẩu thứ hai của các mặt hàng Việt Nam (sau Mỹ). Và là thị trường có tiềm năng lớn không chỉ với nông sản mà còn với rất nhều mặt hàng khác. Đối với sản xuất nông nghiệp, gia nhập WTO, nông nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng toàn bộ qui chế đãi ngộ của nước thành viên nói chung và của Eu nói riêng bao gồm tỷ suất thuế nhập khẩu ưu đãi và không phân biệt đối xử, tăng hạn ngạch thuế, giảm dần thuế lũy tiến và xóa bỏ dầncác hàng rào phi thuế quan. Điều này tạo thuận lợi để nông nghiệp nước ta tăng nhanh khả năng thương mại đối với các loại sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản. Tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ thành viên của WTO sẽ được giảm thuế nhập khẩu đối với nông, lâm sản hàng hóa của Việt Nam, làm cho nước ta có điều kiện mở rộng thị trường nông sản. Tuy nhiên, bênh cạnh đó có những rào cản chung khi Việt Nam tham gia vào thị trường EU, như:Chính sách thương mại: Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông nghiệp, bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng,quy định của hải quan, khung pháp lý quốc tế về rào cản kỹ thuật: Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối với Thương mại (TBT) trong WTO là khung pháp lý quốc tế đối với định chế và các yêu cầu kỹ thuật.,quản lý phế thải bao bì,thương mại công bằng,quản lý chất lượng Tuy vậy thị trường EU vẫn được cho là vô cùng quan trọng đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam bởi quy mô khổng lồ của thị trường – thị trường lớn nhất trong nhóm các nước phát triển với nửa tỷ dân có sức tiêu dùng mạnh mẽ cũng như yêu cầu cao về tính tinh xảo của hàng hóa. Thực tế, các nhà xuất khẩu Việt Nam ý thức được rằng xuất khẩu được hàng sang EU đồng nghĩa với việc đạt được sự công nhận của thế giới về chất lượng và độ an tòan của hàng hóa. 1.2 Trên phương diện doanh nghiệp/ngành trong hoạt động xuất khẩu Việt Nam Việc mở cửa thị trường, sự hội nhập kinh tế đã thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển, tạo khả năng cạnh tranh. Qua việc triển khai các dự án FDI, ngành nông nghiệp có thêm một đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật, có năng lực quản lý điều hành, xây dựng dự án. Trong quá trình hội nhập, các doanh nghiệp cũng đã nâng cao được năng lực cạnh tranh, xây dựng thương hiệu, tiếp cận thị trường thế giới. Ðội ngũ các doanh nghiệp hùng hậu hơn, đội ngũ cán bộ cũng qua hội nhập kinh tế mà trưởng thành hơn, vững vàng hơn. Hiện nay Việt Nam có một số thương hiệu nông sản khá có tiếng trên thế giới như: cà phê Trung Nguyên, Vinataba và một số thương hiệu gạo. Nhưng vẫn phải thừa nhận rằng trên thực tế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, hiện nay, chỉ có một số doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh tốt, còn lại đa số các doanh nghiệp vẫn chưa có khả năng thâm nhập các thị trường khu vực và quốc tế. +Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, gần 3/4 dân số và lao động sống bằng nông nghiệp, công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn chưa được chú trọng đúng mức. Kết cấu hạ tầng và các cơ sở vật chất phục vụ sản xuất,chế biến, marketing cho xuất khẩu hàng nông sản đều kém hoặc thiếu thốn. Những yếu tố này làm giảm nghiêm trọng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới. +Doanh nghiệp nước ta nói chung, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hiện đang chiếm đại đa số các doanh nghiệp, còn ít hiểu biết về lộ trình và các yêu cầu của hội nhập, chưa tự trang bị cho mình những kiến thức và thông tin cần thiết về thị trường và luật pháp, thông lệ quốc tế trong làm ăn buôn bán. Nhận thức về thị trường EU của doanh nghiệp chưa đầy đủ, việc sản xuất chế biến và tiêu thụ hàng nông sản chưa đa dạng, chưa chuyên sâu, nắm bắt thị hiếu tiêu dùng còn yếu. Những quốc gia thuộc EU chưa có nhiều thông tin về hàng hóa Việt Nam, ngược lại các doanh nghiệp xuất khẩu của chúng ta cũng thiếu thông tin, chưa nói là không cập nhật được thông tin ngay ở thị trường mà doanh nghiệp đã xuất khẩu. Đây chính là những nhân tố hàng đầu ảnh hưởng và gây cản trở cho việc chủ động, tích cực triển khai chiến lược xâm nhập vào Eu + Do các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đầu tư cho chiến lược chất lượng sản phẩm gắn liền với xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm. Mẫu mã, bao bì hàng nông sản của Việt Nam vẫn còn quá sơ sài, đơn điệu. Mặt khác, ý thức về tầm quan trọng của công tác xúc tiến thương mại chưa cao, giới thiệu quảng bá hàng hóa của các doanh nghiệp nước ta nói chung, doanh nghiệp ngành nông nghiệp nói riêng vẫn chưa được quan tâm đúng mức.Đầu tư xây dựng thương hiệu cho nông sản hầu như chưa có, chỉ có ở một số Tổng Công ty có quy mô lớn. Tuy chúng ta có cộng đồng người Việt ở các nước EU khá đông, nhưng chưa tận dụng được lợi thế này để xây dựng mạng lưới thương mại cho hàng nông sản. Khả năng thu thập thông tin, phân tích thị trường của các cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Các nghiên cứu sâu về thị trường EU đối với hàng nông sản mới chỉ được triển khai có tính chất đơn lẻ, chưa được tập hợp thành các tài liệu tham khảo. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất và kinh doanh chưa được thiết lập một cách vững chắc. Các hiệp hội ngành trong nông nghiệp có ai trò rất quan trọng song lạ không được quan tâ m đúng mức ở nước ta, nên không thể hiện được vai trò của mình trong việc thúc đảy xuất khâu rnông sản phát triển. 1.3 Phương diện sản phẩm Nếu phân loại nông sản của Việt Nam thành 3 nhóm:nhóm có khả năng cạnh tranh, nhóm có khả naeng cạnh tranh có điều kiện và nhóm có khả năng cạnh tranh thấp thì hiện nay hầu hết các nông sản xuất khẩu của Việt nam chủ yếu thuôc nhóm có khả năng cạnh tranh, đó là các mặt hàng như cà phê, gạo, điều, tiêu, một số trái cây đặc sản( xoài, dứa,bưởi) và cheg, rau.Ở đây chỉ xin được nghiên cứu nhứn lợi thế và bất lợi thế của những mặt hàng này, từ đó thấy đuợc khả năng xâm nhập của chúng vào thị trường Eu. -Về tiềm năng: nông sản hàng hóa của Việt Nam tuy phong phú về chủng loại, sản lượng khá cao Đối với nền nông nghiệp Việt Nam, nhiều lĩnh vực sản xuất vốn có lợi thế như lúa gạo là hàng hóa xuất khẩu chủ lực có mặt và có uy tín trên nhiều thị trường thế giới như Philipin, Xingapo, Malaixia, Inđônêxia và những thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản. Ngoài ra còn một số thị trường tiềm năng như Ô-xtrây-li-a, Châu Phi, Trung Đông và Mỹ la tinh. Chúng ta có một vựa lúa khổng lồ đó là đồng bằng sông Cửu Long, cũng là nguồn cung cấp gạ lớn nhất cho xuất khẩu. Gạo Việt Nam có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu như các giống lúa: OM, OMCS, IR, VNĐ, MTL…Một số giống lúa đặc sản địa phương như giống lúa Nàng Thơm chợ Đào, Nàng Nhen, Phú Tân…, được thị trường thế giới ưa chuộng. Sau 17 năm tham gia thị trường thế giới, phẩm cấp và giá cả xuất khẩu gạo của nước ta tăng lên rõ rệt. Từ chỗ gạo cùng phẩm cấp, nhưng giá gạo nước ta thấp hơn của Thái Lan 20 USD, thậm chí 40 USD/tấn, đến nay chỉ còn chênh lệch bình quân 4 USD/tấn.. Ngoài lúa gạo, hồ tiêu và hạt điều của Việt Nam cũng có tiềm năng lớn, xuất khẩu đứng nhất, nhì thế giới, nhưng do năng suất và chất lượng thấp nên 2 loại sản phẩm này thời gian vừa qua xuất khẩu nhiều về số lượng nhưng kim ngạch thu về chưa tương xứng. Theo báo cáo của Hiệp hội Điều Việt Nam, nước ta có khoảng 350.000 ha trồng điều xuất khẩu mỗi năm khoảng hơn 100.000 tấn hạt khô, thu được khoảng 0,5 tỷ USD.. Các loại hoa quả trái cây của Việt Nam cũng có nhiều lợi thế xuất khẩu, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long với hơn 300.000 ha là vựa trái cây lớn nhất nước ta, ước tính sản lượng đạt 3,3 triệu tấn/năm, trong đó có nhiều loại trái cây đặc sản như Xoài Cát Hòa Lộc, Vú Sữa Lò Rèn, Bưởi Năm Roi,… Dự kiến kim ngạch xuất khẩu các loại trái cây của nước ta đạt khoảng 350 triệu USD/năm Ngành chăn nuôi nước ta cũng có những lợi thế nhất định. Từ năm 1990, lợn sữa Việt Nam đã thâm nhập vào thị trường Hồng Kông và đỉnh cao là năm 2002 đã xuất khẩu 30.000 tấn, nhưng mới chỉ đáp ứng được 2% nhu cầu nhập khẩu của thị trường này. -Giá thành: hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam có mức giá thấp hơn so với sản phẩm cùng loại trên thi trường khu vực và thế giới Gạo: Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện nay : gạo 5% tấm giá 305-307 USD/tấn, FOB, gạo 25% tấm giá 290 USD/tấn hiện thấp hơn 20-40 USD/tấn so với sản phẩm cùng loại của Thái Lan.(tháng 9-07:số liệu của vietnamnet) Cà phê: theo Hiệp hội Cà phê - ca cao Việt Nam, ngày 28/12/06, giá cà phê xuất khẩu là 1.475-1.480 USD/tấn (FOB, TP. HCM),trong khi đó, giá cà phê trên thị trường thế giới hợp đồng giao tháng 3/2007 cũng đã lên mức 1.571 USD/tấn Cao su  : Giá cao su tại thị trường châu Á tháng 8/2007 Giá cao su RSS3 của Thái Lan hiện ở mức 2,08 USD/kg (23/8), giá cao su SMR20 của Malaysia hiện ở mức 2,06 USD/kg (23/8).Trong khi đó giá giá xuất khẩu bình quân cao su SVR3L của nước ta trong nửa đầu tháng 8/2007 đạt 1,963 USD/kg Hạt tiêu:8/2007 Giá hạt tiêu xuất khẩu FOB của Việt Nam hiện ở mức 3.800 USD/tấn, của Braxin 3.750 - 3.850 USD/tấn, của Ấn Độ là 3.850 USD/tấn. (số liệu bộ công thương) - Sản lượng xuất khẩu: các mặt hàng nông sản xuất khẩu của ta luôn được xếp ở vị trí cao trên thế giới với các mặt hành chủ đạo như gạo,cà phê,cao su. Đặc biệt, thị trường xuất khẩu hàng hoá lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản với tỷ trọng tương ứng là 19,7%; 19,5% và 11,5%. Xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ và EU tăng tương ứng là 25% và 23% so với cùng kỳ năm 2006; Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU những năm gần đây thường xuyên chiếm 18 - 19% kim ngạch xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp nước ta. Những nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu vào thị trương EU ổn định và liên tục tăng từ năm 2000 đến nay như: sản phẩm gỗ 77%/năm, điều nhân 32%/năm, chè 35,8%/năm, cao su sơ chế 44,7%/năm, rau quả 35,5%/năm. +Xuất khẩu cà phê của Việt Nam hiện đã vượt qua con số 1 tỷ USD và chiếm vị trí thứ 2 thế giới, đứng sau Brazil. Riêng cà phê Robusta xuất khẩu, Việt Nam còn đứng trên cả Brazil và trở thành lớn nhất thế giới.Và cà phê là một trong những mặt hàng nông sản đang khai thác tốt và có thị phần tương đối lớn ở khu vực EU: Tại Bỉ chiếm 10,1% thị trường nhập khẩu, Pháp chiếm 48,5%, Đức chiếm 57%, Italy chiếm 49,6%, Tây Ban Nha chiếm 53,9%, Anh chiếm 64,2%... Đã 10 năm liên tục Việt Nam đứng thứ 2 ( sau Thái Lan) về xuất khẩu gạo. Hai năm gần đây sản phẩm gạo Việt Nam xuất khẩu đạt xấp xỉ 10 triệu tấn với tổng giá trị hơn 2,7 tỷ  USD. Riêng năm 2006 xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn đứng vị trí thứ 2 thế giới tạo nguồn thu ngoại tệ hơn 1,3 tỷ USD. Trong sáu tháng đầu năm 2007, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt hơn 2,3 triệu tấn, kim ngạch 731 triệu USD. Sản lượng gạo xuất khẩu, Bảng 6 Xuất khẩu gạo qua các năm Năm Sản lượng (Triệu tấn) Trị giá (Triệu USD) 2000 3,37 610 2001 3,53 545 2002 3,24 608 2003 3,90 693 2004 4,06 859 2005 4,99 1.330 2006 4,70 1.310 Nguồn: [15 ] -Chất lượng: nhìn chung thì chất lượng hàng nông sản Viêt Nam vẫn chưa cao là một bất lợi thế cho sự xâm nhập vào thị trường Eu Một số ví dụ cụ thể   Theo Hiệp hội chè Việt Nam (Vitas) thì: mạng lưới cơ sở chế biến chè phát triển quá nhanh và đầy tính tự phát, không tương xứng với vùng nguyên liệu; nhiều cơ sở, DN sản xuất không đủ điều kiện vẫn tham gia chế biến, lưu thông và XK - gây nên tình trạng hỗn loạn. Công nghệ chế biến còn tụt hậu xa so với thế giới… -Bao bì và mẫu mã: Bên cạnh vấn đề chất lượng hay giá cả so với các sản phẩm khác, mẫu mã, bao bì cũng là một nhân tố quan trọng của sản phẩm. Nhìn chung,mẫu mã, bao bì, đóng gói ở VN đã có những tiến bộ đáng ghi nhận, song còn thấp so với trình độ thế giới, còn quá đơn điệu và sơ sài. Để hàng nông sản Việt Nam có thể xâm nhập vào một thị trường khó tính như thị trường EU không phải là điều dễ dàng nhất là với những bất lợi ngay trong chính nền nông nghiệp Việt Nam song những cơ hội vẫn đang còn ở trước mắt,với ưu thế chúng ta đang có,với một khung phải lý về thương mại,dịch vụ giữa Việt Nam-EU đã được mở hòan tòan kể từ ngày 11/01/2007.Vấn đề quan trọng và có tính quyết định ở đây chính là hành động của chính các doanh nghiệp dưới các chính sách đúng đắn của nhà nước,dưới thể chế ,quy định của WTO nói chung và EU nói riêng trong tiến trình Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới Giải pháp xâm nhập EU là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, có tốc độ tăng trưởng cao tương đối ổn định, có đồng tiền riêng vững chắc. Bởi vậy đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU là vấn đề cấp bách và quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Mặc dù EU là thị trường tiêu dùng khắt khe nhất thế giới và có nhiều biện pháp bảo hộ, nhất là với hàng nông sản. Xong cơ hội xuất khẩu cho hàng hoá Việt Nam và thị trường EU là rất lớn. Tuy nhiên để có thể xâm nhập thị trường này một cách tốt nhất, tìm kiếm được nhiều cơ hội xuất khẩu mà không muốn ăn phải các quả đắng như các vụ kiện bán phá giá hoặc hàng hoá không đủ tiêu chuẩn bị thải loại. Cùng với nỗ lực của nhà nước trong việc hoạch định chính sách và tạo môi trường thương mại thông thoáng thì vai trò của đội ngũ doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Xuất khẩu có đối tượng xuất khẩu và chủ thể xuất khẩu. Căn cứ vào đó thì để có thể xâm nhập được vào thị trường của nước nào đó, chủ thể xuất khẩu phải đáp ứng nhu cầu thị trường nhập khẩu về đối tượng xuất khẩu. Những phân tích dưới đây về chiến lược xâm nhập thị trường EU của nông sản Việt Nam sẽ đi theo kết cấu như trên 3.1 Nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam Để thấy được tầm quan trọng việc nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, chúng ta hãy xem ví dụ sau : -Xuất khẩu gạo với giá thấp Từ lâu chúng ta đã quen với danh hiệu là nước xuất khẩu gạo thuộc hàng đầu thế giới .Bức tranh đẹp ấy từ lâu đã được phụ hoạ bởi một số chuyên gia nông nghiệp cho rằng nếu chỉ tiêu thâm canh 1,3 triệu hecta lúa chất lượng cao sớm trở thành hiện thực thì Việt Nam không những giữ ở vị trí thứ 2 thế giới như hàng năm mà còn có thể vượt Thái Lan để đứng đầu danh sách.Thế nhưng số liệu thống kê của bộ nông nghiệp Mĩ cho thấy chỉ có 3 năm 2001,2004,2005,Việt Nam mới đứng ở vị trí thứ 2,còn 2 năm 2002,2003 thì Ân Độ đã vươn lên chiếm giữ vị trí này.Không những vậy xét theo khối lượng gạo xuất khẩu bình quân trong cả giai đoạn 5 năm vừa qua thì Ấn Độ với hơn 1 triệu tấn /năm còn chúng ta chỉ về thứ 3 với khoảng 4 triệu tấn trên năm .Còn 2003,với 2,3 triệu tấn/năm chúng ta bị đẩy xuống thứ 4 .nhưng thực ra thứ hạng lên xuống ấy không đáng quan tâm bằng giá cả bởi vì chỉ cần nâng đựơc giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đạt mức bình quân thế giới thì mỗi năm chúng ta sẽ thu thêm được 226 triệu USD. Trong 5 năm từ 2001-2005 Việt Nam xuất khẩu tổng cộng trên 20 triệu tấn, tổng thu về gần 4,5 tỉ USD trong khi giá cả bình quân của các nước so với bình quân thế giới thấp nhất cũng trên 91,6% ,cao nhất là 120%,thì giá bình quân của chúng ta lại chưa lúc nào vượt quá 80%,giá bình quân của thế giới (220USD/tấn) một cái giá thấp nhất trong số các nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. [2;4] Vậy đâu là nguyên nhân của việc giá gạo Việt Nam thấp hơn quá nhiều so với gạo cá nước khác và gạo Việt Nam đang mất dần thị trường ?Phải chăng nguyên nhân lớn nhất là do chất lượng gạo của chúng ta không đáp ứng yêu cầu ? -Cà phê: Niên vụ 2005-2006,hơn 600 nghìn bao cà phê Việt Nam bị thải loại ở cảngAntwerrp(Bỉ). Cũng trong năm này tiêu chuẩn cà phê quốc tế (ICO) đã phân loại cà phê nhập khẩu tại 10 cảng khác nhau ở châu Âu. Kết quả thật đáng buồn, trong số 1,5 triệu bao cà phê bị thải loại của 17 nước và vùng lãnh thổ có hơn 1 triệu bao(tức 72% là của Việt Nam) [2;5]. Mặc dù theo đánh giá ở trên cà phê là mặt hàng mũi nhọn trong chiến lược xuất khẩu của chúng ta nhưng hiện tại xuất khẩu cà phê chạy theo số lượng ,quên đi chất lượng ,lượng cà phê kém chất lượng vẫn tăng vì không những có những ràng buộc rõ ràng trong xuất khẩu .Cho đến nay cà phê vẫn là loại hàng hoá chưa bị bắt buộc kiểm tra chất lượng trước khi thông quan. Điều này đã làm xấu đi tệ hại hình ảnh cà phê Việt Nam. Trên đây chỉ là con số thống kê hai mặt hàng chúng ta có nhiều tiềm năng nhất, nhưng trên thực tế hầu như nông sản của chúng ta đều phải chịu thua thiệt khi xuất khẩu ra thị trường thế giới mà nguyên nhân vẫn chỉ là những vấn đề đã được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, chất lượng thấp( nông sản xuất khẩu thường xuyên bị lẫn lộn nhiều giống, tạp hạt có màu chất lượng thường không ổn định, độ đồng đều của hạt không có, chất lượng thì có sự khác nhau giữa các vụ), bao bì mãu mã kém hấp dẫn, nông sản không có thương hiệu…Vậy thì yêu cầu và giải pháp đặt ra là phải nhanh chóng nâng cao chất lượng hàng nông sản. Biện pháp đặt ra là : Đột phá từ khâu giống Giốnglà một yếu tố quan trọng quyết định trực tiếp chất lượng của nông sản. Đối với mặt hàng gạo và rau quả xuất khẩu, ta phải quan tâm ngay từ khâu lựa chọn và sử dụng giống.Một trong nhữnh nguyên nhân khiến chất lượng gạo thái lan đồng đều hơn là do nông dân Thái Lan hầu hết đều sử dụng giống xác nhận, không giống như Việt Nam thường sử dụng lúa thu hoạch để làm giống cho vụ sau, nên thường lẫn nhiều loại giống. Để có phẩm chất ngon, tăng cường khả năng cạnh tranh cho gạo Việt Nam, phải thực hiện đồng bộ 2 giải pháp: sử dụng giống lúa đặc sản có mùi thơm, giống lúa có hàm lượng cao về protein. Các mặt hàng nông sản khác cũng phải lựa chọn kĩ càng giống ngay từ đầu. Chọn loại giống không những có năng xuất cao mà chất lượng phải tốt, là loại được thị trường ưa chuộng. Giống không được lẫn tạp. Cần đầu tư xây dựng những cơ quan chuyên trách về tạo giống tốt, lựa chọn giống cho phù hợp với điều kiện tự nhiên khí hậu của nơi sản xuất… Phát triển công nghệ thu hoạch và sau thu hoạch. Công nghệ thu hoạch và sau thu hoạch của chúng ta còn quá thủ công và yếu kém. Hầu như chúng ta thu hoạch bằng sức người là chính, có sử dụng máy móc nhưng chỉ là loại bình thường, mức độ tự động hoá không cao. Ngay chính nông dân, những người trực tiếp sản xuất cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc thu hoạch sao cho không bị tổn thất, lẫn tạp và về bảo quản nông sản sau thu hoạch, khiến cho mức độ và giá trị tổn thất lớn hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaixia, Trung Quốc... Đơn giản là vì các khâu trước và sau thu hoạch của họ được chuẩn bị và triển khai rất đồng bộ nên chất lượng nông sản sau thu hoạch rất cao và tổn thất sau thu hoạch cũng không đáng kể. ở Việt Nam, công nghệ sau thu hoạch do mới được quan tâm nên rất kém phát triển. Phải mất 15 đến 20 năm nữa, Công nghệ sau thu hoạch ở nước ta mới theo kịp Thái Lan ngày nay. Theo thống kê tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản ở Việt Nam khoảng hơn 25% đối với các loại quả và hơn 30% đối với các loại rau, 15-20% với các loại lương thực khác. Một sự láng phí quá lớn, tính ra mỗi năm chúng ta bị mất khoảng 3.000 tỷ đồng - số tiền lớn hơn tổng thu ngân sách trên địa bàn nhiều tỉnh. [13 ] Công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch còn quá yếu kém. Việt Nam có lợi thế về các loại nông sản như cà phê có sản lượng lớn nhất thế giới, hạt điều vào loại ngon nhất thế giới, mặt hàng chè cũng có nhiều lợi thế.Các loại như hồ tiêu,rau củ, hoa quả đều thuộc loại có sản lượng lớn. Nhưng do không được phân loại, không được chế biến hoặc chế biến bảo quản không đúng cách nên chất lượng thường bị giảm sút rất nhiều sau thu hoạch.Hơn nữa chỉ vài năm gần đây, công nghệ sau thu hoạch mới được quan tâm, nhất là khi sản lượng nông nghiệp nước ta đã đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước và có dư hướng tới xuất khẩu. Ngay việc hoạch định chiến lược về phát triển công nghệ sau thu hoạch cũng chưa được quan tâm đúng mức. Tiến tới hội nhập, rõ ràng chúng ta phải quan tâm hàng đầu đến chất lượng sản phẩm, chế biến, bảo quản bao bì bởi chất lượng của sản phẩm không chỉ đơn thuần là các yêu cầu về mặt phẩm chất bên trong (nội dung) mà còn đảm bảo cả yêu cầu thẩm mỹ, tiện dụng và an toàn cho người sử dụng (hình thức). Nhà nước cần có chiến lược về phát triển công nghệ sau thu hoạch hợp lí,các doanh nghiệp chế biến cần quan tâm đầu tư hơn nữa cho khâu này. Có kế hoạch cho chế biến bảo quản ngay từ khi sản phẩm còn chưa thu hoạch. Đồng thời tổ chức những lớp phổ biến kiến thức về kĩ thuật sơ chế cho những người sản xuất. Nâng cao ý thức của đội ngũ công nhân làm việc trong những khâu này hơn nữa. Cần căn cứ vào yêu cầu của thị trường để sản xuất và chế biến cho phù hợp. EU là thị trường tiêu dùng khắt khe và có nhiều rào cản, kỹ thuật. Trên 80% tiêu chuẩn hàng hóa của EU là theo tiêu chuẩn quốc tế như: Quy định về sức khỏe, an toàn đối với các sản phẩm thực phẩm, nông nghiệp hữu cơ.Vì vậy muốn hướng vào thị trường EU thì phải đáp ứng các hệ thống tiêu chuẩn ISO9000, HACCP, ISO14000, SA8000... Xây dựng các vùng chuyên canh phục vụ xuất khẩu. Đây là giải pháp để khắc phục sự khác biệt quá lớn về chất lượng và hạn chế sự lẫn tạp. Đồng thời sự chuyên môn hoá này sẽ giảm được rất nhiều chi phí, lại rất tiện lợi cho việc xây dựng cơ sở vật chất đầu tư trang thiết bị máy móc phục vụ cho việc phân loại bảo quản và chế biến. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu. Hiện nay chúng ta chưa có hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đầy đủ cho tất cả cá mặt hàng nông sản. Nhiều nông sản còn không bị bắt buộc phải đáp ứng yêu cầu kĩ thuật nào đó trước khi xuất khẩu, như cà phê chẳng hạn, thì việc bị thải loại ở thị trường nước ngoài là điều đương nhiên, trong khi yêu cầu về chất lượng của EU cao như vậy. Vì vậy phải xây dựng hệ thống tiêu chuẩn sao cho phù hợp nhất với yêu cầu của thị trường. Đó cũng là căn cứ để các doanh nghiệp có hướng để sản xuất và lựa chọn mặt hàng cho phù hợp. Bên cạnh đó là việc hiện nay, hệ thống kiểm tra chất lượng nông sản của nước ta chưa thống nhất, vì vậy cần nhanh chóng xây dựng các phòng kiểm tra chất lượng nông sản hiện đại, đủ năng lực phân tích các chỉ tiêu về thành phần dinh dưỡng, chất phụ gia, chất kích thích, độc tố, thực phảm chiếu xạ và nông sản chuyển gen, đồng thời cấp chứng nhận cho những mặt hàng đạt tiêu chuẩn để năng cao sức cạnh tranh của chúng trên thị trường quốc tế. Đây cũng là biện pháp đối phó với những rào cản mang tính chất thường xuyên đang được EU sử dụng phổ biến bao gồm các điều kiện về kĩ thuật ,(yêu cầu về chất lượng , nhãn mác bao bì …),các đòi hỏi về vệ sinh dịch tễ (áp dụng chủ yếu với các hàng hoá xuất nhập khẩu là hàng nông sản ,các sản vật động thực vật khác) thì đây là các quy định bắt buộc và tương đối ổn định mà hàng hoá nhập khẩu từ tất cả các nguồn đều phải tuân thủ .Biện pháp đối phó với các sản phẩm rào cản này là Việt Nam cần duy trì các đơn vị thường trực theo từng chuyên ngành, để kiểm soát điều kiện kĩ thuật hoặc vệ sinh dịch tễ đối với từng nhóm ngành cụ thể .Vậy ai sẽ thực hiện việc kiểm soát này và hiệu lực kiểm soát như thế nào ….Có lẽ thuận lợi và linh hoạt hơn rất nhiều nếu nhà nước trao chức năng này cho các tổt chức đơn vị phi chính phủ (như hiệp hội các ngành hàng ) Các tổ chức này sẽ thực hiện việc kiểm soát như một loại hình dịch vụ ….. 3.2)Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản nói riêng ngoài việc phải nắm chắc chính sách thương mại, các định chế, quy định và các yêu cầu hàng hoá của thị trường Eu còn phải hiểu được các đặc điểm của thị trường EU, Từ đó xây dựng được cho mình một chiến lược xâm nhập cho phù hợp. a. Những đặc điểm của thị trường EU EU là một thị trường rộng lớn, cũng là nhà nhập khẩu lớn thứ hai trên thế giới .Với 27 quốc gia, nhu cầu hàng hoá rất đa dạng và phong phú, nhu cầu nhập khẩu hàng năm của EU về những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta là rất lớn. Chúng ta luôn xác định EU là một trong các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. - Thị hiếu của người tiêu dùng EU gồm 27 thị trường quốc gia, mỗi thị trường lại có những đặc điểm tiêu dùng riêng. Do vậy có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hoá. Tuy nhiên có những loại hàng hoá rất được ưa chuộng ở thị trường Pháp, Italy, Bỉ nhưng lại không được người tiêu dùng Anh, Ailen, Đan Mạch và Đức đón chào. Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán và thị trường tiêu dùng giữa các thị trường quốc gia trong khối EU, nhưng 27 nước thành viên đều là những quốc gia chủ yếu nằm ở khu vực Tây và Bắc Âu nên có những điểm tương đồng về kinh tế và văn hoá. Trình độ phát triển kinh tế xã hội của các nước thành viên khá đồng đều, cho nên người dân thuộc khối EU có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng. Người tiêu dùng EU thích sử dụng và quen tiêu dùng những loại hàng hoá, sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng những nhãn hiệu này gắn liền với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên dùng những sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an tâm về chất lượng và an toàn cho người sử dụng. Nhiều trường hợp những sản phẩm này giá đắt, nhưng họ vẫn mua và không thích đổi sang các sản phẩm không nổi tiếng khác cho dù giá rẻ hơn nhiều. Điều đó có nghĩa là giá cả- một lợi thế của Việt Nam không phải là giải pháp cạnh tranh tối ưu. - Đối tượng khách hàng Thị trường châu Âu về cơ bản cũng như một thị trường quốc gia, có ba nhóm người tiêu dùng khác nhau: (1) Nhóm có khả năng thanh toán ở mức cao, chiếm gần 20% dân số ở EU, dùng những hàng có chất lượng tốt nhất và giá cả đắt nhất hoặc những mặt hàng hiếm và độc đáo; (2) Nhóm có khả năng thanh toán ở mức trung bình, chiếm 68% dân số, sử dụng loại hàng có chất lượng kém hơn so với nhóm 1 và giá cả cũng rẻ hơn; (3) Nhóm có khả năng thanh toán ở mức thấp, chiếm hơn 10% dân số, tiêu dùng những loại hàng hoá có chất lượng và giá cả thấp hơn so với hàng của nhóm 2. Hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường này gồm cả hàng hoá cao cấp lẫn hàng bình dân phục vụ cho mọi đối tượng. Đối tượng tiêu dùng hàng Việt Nam là nhóm 2 và 3. Các đối thủ cạnh tranh chính của hàng Việt Nam là hàng Trung Quốc và hàng của các nước ASEAN khác. Cần xác định đối tượng khách hàng để có kế hoạch xâm nhập cho phù hợp. - Xu hướng tiêu dùng Xu hướng tiêu dùng trên thị trường EU đang có những thay đổi, như: không thích sử dụng đồ nhựa và thích dùng đồ gỗ, thích ăn hàng thuỷ hải sản hơn ăn thịt, yêu cầu về mẫu mốt và kiểu dáng hàng hoá thay đổi nhanh.Với mặt hàng nông sản thì chất lượng và độ an toan khi sử dụng mới là yếu tố quan trọng nhất. Sở thích và thói quen tiêu dùng trên thị trường này đang thay đổi rất nhanh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Ngày nay người châu Âu cần nhiều chủng loại hàng hoá với số lượng lớn và những hàng hoá có vòng đời ngắn, giá rẻ hơn và phương thức dịch vụ tốt hơn. - Kênh phân phối Hệ thống kênh phân phối của EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của một quốc gia, gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ. Tham gia vào hệ thống phân phối này là các công ty xuyên quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập. Hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường EU là theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Kênh phân phối theo tập đoàn có nghĩa là các nhà sản xuất và các nhà nhập khẩu của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng hoá cho hệ thống cửa hàng và siêu thị của tập đoàn này mà không cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác. Còn kênh phân phối không theo tập đoàn thì ngược lại Rất ít trường hợp các siêu thị lớn hoặc các công ty bán lẻ độc lập mua hàng trực tiếp từ các nhà xuất khẩu nước ngoài. Mối quan hệ bạn hàng giữa các nhà bán buôn và bán lẻ trên thị trường EU không phải là ngẫu nhiên mà phần lớn là do có quan hệ tín dụng và mua cổ phần của nhau. Các nhà bán buôn và bán lẻ trong hệ thống phân phối của EU thường có quan hệ làm ăn lâu đời và rất ít khi mua hàng của các nhà cung cấp không quen biết. Họ liên kết với nhau chặt chẽ thành một chuỗi mắt xích trong kinh doanh bằng các hợp đồng kinh tế. Các cam kết trong hợp đồng được giám sát nghiêm ngặt bởi các chế tài của luật kinh tế. Việc đổ bể hợp đồng nhập khẩu sẽ kéo theo sự đổ bể của các hợp đồng cung ứng nội địa. Vì vậy các nhà nhập khẩu của EU yêu cầu rất cao về việc tuân thủ chặt chẽ các điều kiện của hợp đồng, đặc biệt là chất lượng và thời gian mua hàng. Hệ thống phân phối của EU đã hình thành nên một tổ hợp chặt chẽ và có nguồn gốc lâu đời. Tiếp cận được hệ thống phân phối này không phải dễ dàng đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam. - Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng rất được bảo vệ khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua những quy định về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, bán hàng tận nhà, nhãn hiệu... b) Những giải pháp thâm nhập thị trường EU từ phía doanh nghiệp Quan trọng hàng đầu là xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam. Nhất thiết phải xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam. Lại lấy ví dụ về gạo để minh hoạ cho tầm quan trọng của việc này. Từ những năm 1990, gạo Việt Nam có xuất xứ từ Cần Thơ đã được các doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu đi nhiều nước dưới thương hiệu ARI, với giá lên đến 300 USD/tấn. Trong khi cũng cùng chủng loại, các doanh nghiệp Việt Nam bán với giá chưa tới 200 USD/tấn, thậm chí còn không bán được!”. Thông tin trên được GS. Võ Tòng Xuân đưa ra tại hội thảo “Gạo Việt Nam - vấn đề chất lượng, thị trường và thương hiệu” tổ chức vào ngày 30/5 tại Cần Thơ. GS. Võ Tòng Xuân kết luận: “Đây chính là giá trị của thương hiệu. Bởi doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu gạo Việt Nam với thương hiệu nổi tiếng ARI, còn doanh nghiệp Việt Nam thì ngược lại”. Có thẻ giá bán của nông sản có thương hiệu chỉ cao hơn hàng cung loại không có thương hiệu từ 2-5-$/tấn, nhưng bù lại sẽ rất ít bị than phiền về chất lượng-điểm yếu mà các doanh nghiệp khác thường gặp phải. Tuy nhiên chất lượng kém, làm sao xây dựng thương hiệu! Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam không phải là vấn đề mới, bởi từ lâu đã có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản đi nước ngoài với thương hiệu Việt. Điển hình nhất là thương hiệu cà phê Trung Nguyên. Muốn nông sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh tại thị trường EU, các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư cho việc xây dựng thương hiệu hàng nông sản, coi trọng đăng ký thương hiệu, thiết kế nhãn mác và mẫu mã, bao bì cho sản phẩm, liên kết với người sản xuất nguyên liệu đăng ký xuất xứ hàng hóa, đảm bảo các chứng chỉ cần thiết khi xuất khẩu vào thị trường EU. Thương hiệu không chỉ là của doanh nghiệp mà còn là của cả nhà nông. Cần liên kết với nông dân, trong đó nông dân có trách nhiệm đảm bảo chất lượng và được chung chia lợi nhuận từ doanh nghiệp. Đối với rau quả, đây là giải pháp có tính quyết định đến việc tiêu thụ và xuất khẩu trái cây tươi. Đối với cà phê nhân, việc liên kết giữa cơ sở chế biến với nông dân sẽ tăng thêm thu nhập cho cả hai, nhờ tăng sản lượng và chất lượng cà phê, đồng thời còn đảm bảo sự phát triển hợp với tự nhiên và bền vững hơn của cây cà phê. Sự liên kết các doanh nghiệp để điều tiết giá mua, giá bán hợp lý, chia sẻ thông tin thị trường sẽ đảm bảo hiệu quả ổn định cho cả nông dân và doanh nghiệp. Trong đó các nhà máy, các công ty lớn có thể sử dụng thương hiệu của mình để tiêu thụ sản phẩm cho các đơn vị nhỏ trên cơ sở kiểm soát công nghệ, chất lượng sản phẩm, đào tạo và hướng dẫn họ sản xuất để tạo ra nguồn hàng hóa đồng nhất, ổn định. Do vậy các doanh nghiệp phải nhận thức đúng và đẩy mạnh các hoạt động xúc, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý và quảng bá cho sản phẩm của mình. Lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào các kênh phân phối của thị trường EU. Do đặc điểm kênh phân phối của Eu, để thâm  nhập thị trường EU một cách có hiệu quả các doanh nghiệp Việt Nam phải áp dụng nhiều phương thức kinh doanh để thâm nhập vào thị trường EU: như xuất khẩu qua trung gian, xuất khẩu trực tiếp, liên doanh, đầu tư trực tiếp tìm các nhà nhập khẩu EU để xuất khẩu trực tiếp. tìm các nhà nhập khẩu này qua các thương vụ Việt Nam tại EU, phái đoàn EC tại Hà Nội, các đại sứ quán ở các nước EU tại Việt Nam. Liên doanh dưới hình thức: sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hoá. Theo hình thức này các nhà xuất khẩu Việt Nam nên mua nhãn hiệu hàng hoá của các nhà sản xuất nổi tiếng châu Âu để gắn vào sản phẩm của mình rồi tung vào thị trường EU. Sau một thời gian khi người tiêu dùng đã quen thì chúng ta tiến hành gắn nhãn hiệu của nhà sản xuất Việt Nam bên cạnh nhà sản xuất châu Âu. Khi nhu cầu của người tiêu dùng châu Âu đối với loại sản phẩm có gắn hai nhãn hiệu bắt đầu tăng nhanh thì các nhà sản xuất Việt Nam có thể bóc nhãn hiệu của nhà Về phía các doanh nghiệp: Cần tận dụng và khai thác tối đa những công ty của người Việt Nam ở EU, bởi họ hiểu rất rõ thị trường tiêu dùng đến phương thức tiếp cận và thâm nhập vào các kênh phân phối của EU.Ngoài ra có thể thấy rằng con đương ngắn nhất để xâm nhập thị trường EU là kinh doanh qua mạng, vì hiện nay thanh toán điện tử và bán hàng qua interrnet rất phổ biến ở châu Âu. Dù lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường nào thì đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu kỹ các yếu tố sau. Dung lượng thị trường, thị hiếu tiêu dùng, kênh phân phối, đối thủ cạnh tranh, giá cả... và cần phải nắm vững 4 nguyên tắc khi thâm nhập thị trường EU; Nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng; Hạ giá thành sản phẩm: Đảm bảo thời gian giao hàng; Duy trì chất lượng sản phẩm. Tăng cường đầu tư và hoàn hệ thống thông tin về thị trường. Trên thực tế các doanh nghiệp nhập khẩu EU cũng như người tiêu dùng chưa có nhiều thông tin lắm về sản phẩm của Việt Nam. Cac doanh nghiệp chúng ta cung không nắm bắt một cách kịp thời và chính xác thông tin về nhu cầu của thị trường.Thế nên mới có chuyện năm 2000 ,dù giá gạo thế giới đang hạ chúng ta đang giảm đột ngột khối lượng xuất khẩu ,gom hàng lại để đến năm sau tung ra bán với giá 167 USD/tấn ,một mức giá bình thấp kỷ lục của thế giới .Tiếp theo năm 2002 mặc dù giá gạo xuất khẩu đã phục hồi (224USD/tấn) chúng ta cũng bội thu nhưng một lần nữa chúng ta giảm số lượng xuất khẩu và gom hàng lại , để rồi khi giá xuống chỉ còn gần 189USD/tấn trong năm 2003 ta lại bán ra [4;4 ].Việc giữ lại cả triệu tấn gạo ở thời điểm đang hạ giá trong một thời gian dài khiến chất lượng hàng bị giảm rồi tung ra thị trường vào lúc gạo đại hạ giá đã đem lại một bài học đắt giá về tìm hiểu và nắm chắc thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng mọi cơ hội nghiên cứu thị trường và khách hàng. Tận dụng tốt nguồn thông tin từ đội ngũ Việt Kiều ở châu Âu. Đây cũng là một biện pháp để đối phó với các vụ kiện thương mại (kiện chống bán phá giá ,chống trợ cấp hoặc tự vệ ).Bên cạnh biện pháp phòng tránh tốt nhất là nâng cao giá trị hàng hoá, việc có đầy đủ thông tin bằng cách như tuyên truyền ,xây dựng và cập nhập cơ sở dữ liệu về tình hình thương mại liên quan đến sản phẩm ,thu nhập thường xuyên về ngành sản xuất nội địa nước xuất khẩu để cảnh báo kịp thời các nguy cơ ,chuẩn bị sẵn các chứng cứ cần được thực hiện thường xuyên liên tục bởi nhiều chủ thể, nhà nước ,bản thân doanh nghiệp và hiệp hội. Vì các biện pháp này mang tích lâu dài nên việc thiết kế các cơ sở tương ứng cần tính đến yếu tố này . Xây dựng hiệp hội ngành hàng. Trong những năm vừa qua , ở Việt Nam, hầu hết các ngành xuất khẩu chủ lực đều đã có Hiệp hội như hiệp hội lương thực(VIETFOOD) hiệp hội chè (VISTA) hiệp hội cà fê ca cao (VCOFA) hiệp hội hồ tiêu (VPA)…tuy nhiên đén nay vẫn chưa có một văn bản pháp lí nào quy định về địa vị pháp lí của hiệp hội ngàng hàng. Không thể phủ nhận vai trò của hiệp hội ngành hàng được, nó là cầu nối giữa doanh nghiệp với nhà nước, là người đại diện bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp trên trường quốc tế, cũng là người hoạt động xúc tiến thương mại, thu thập cung cấp thông tin. Vì thế với nông sản Việt Nam, xây dựng các hiệp hội và làn thế nào để các hiệp hội hoạt động có hiệu quả hơn nữa sẽ nâng cao hơn rất nhiều khả năng cạnh tranh cũng như xâm nhập thị trường của nông sản Việt Nam. Cuối cùng tự bản thân các doanh nghiệp phải hoàn thiện và nâng cao năng lực quản lý kinh doanh xuất khẩu: như nghiệp vụ và kiến thức kinh doanh, kiến thức về cơ chế thị trường, về mở cửa hội nhập, về ngoại ngữ, về nghiệp vụ marketing quốc tế, kỹ năng đàm phán, phương pháp thu thập và xử lý thông tin thị trường, đẩy mạnh hoạt động công tác khuếch trương xuất khẩu …Để có thể hoàn thành tốt vai trò của những nhà xuất khẩu hoặc cung cấp hàng hoá cho xuất khẩu. Kết luận : việc tăng cường xuất khẩu nông sản nước ta vào EU đòi hỏi phải thực hiện kết hợp nhiều biện pháp có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan, các ngành, các doanh nghiệp dưới sự chỉ đạo sâu sát của Chính phủ vì lợi ích quốc gia và lợi ích của người sản xuất, kinh doanh nông sản xuất khẩu. KẾT LUẬN Dù còn nhiều thiếu sót xong chúng em đã nỗ lực cố gắng hết sức. Bài tiểu luận đã giải quyết được nhứng vấn đề theo đúng mục đích đặt ra. Đã chỉ rõ tại sao Eu lại bảo hộ đối với nông sản, nghiên cứu một cách khá chi tiết các biện pháp bảo hộ, so sánh được với một số nước. Đã chỉ ra được những ảnh hưởng của nó đối với nông sản Việt nam, được chứng minh bằng một vài ví dụ cụ thể thông qua kết quả xuất khẩu nông sản vào Eu cuả chúng ta trong thời gian qua. Đồng thời đánh giá được những lợi thế của nông sản nước nhà, chỉ ra những mặt lợi thế và bất lợi thế. Từ đó phân tích đưa ra và chứng minh các cách giải quyết cho nông sản trong thời gian tới. Nội dung các phần theo chúng em đã có sự liên kết chặt chẽ và thống nhất. Chúng em hi vọng bài tiểu luận đáp ứng được những yêu cầu mà môn học và các thầy cô đặt ra. Chúng em xin nhận mọi sự góp ý của thầy ciô và các bạn, xin hứa sẽ tìm hiểu lại để sửa chữa, bổ sung cho bài tiểu luận thật hoàn chỉnh. Chúng em xin trân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế Ngoại Thương; GSTS Bùi Xuân Lưu - PGSTS Nguyễn Hữu Khải; Nhà xuất bản Lao động xã hội - 2006 2. Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thuong mại quốc tế - TS. Nguyến Hữu Khải – Nhà xuất bản lao động-xã hội 2005) 3. Quản lý hoạt động nhập khẩu, cơ chế, chính sách và biện pháp; PGS. TS Nguyễn Hữu Khải- ThS: Vũ Thị Hiền - Ths: Đào Ngọc Tiến; Nhà xuất bản thống kê 2007 4. Tạp chí thương mại /23/2007 Việt nam chịu nhiều thua thiệt trong xuất khẩu-Phạm Thành Tí,4-5 Tạp Chí Thương Mại 23/2007) 5. Tăng cường đầu tư và hoàn thiện quản lý để tạo nguồn hàng thích hợp với thị trường EU; PGSTS Nguyễn Chí Lộc; Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 8 - 2004 6. Tạp chí nghiên cứu Châu Âu; số năm 2007; Quan hệ song phương Việt Nam EU; PGSTS Nguyễn Quang Thuấn 7. Tạp chí nghiên cứu Châu Âu; số 3 năm 2000; Lịch sử hình thành và phát triển chính sách Thương Mại chung của EU; Bùi Việt Hưng. 8. Tạp chí Công Nghiệp; số 8 năm 2005; Anh Tuấn 9. http/www.europa.eu.int/comm/taxation– customs/dds/en/tarhome.htm 10. 11. 12. (Tự do hoá thương mại và trợ giá nông sản (13:31 08/05/2007)) 13. 14. 15. 16. Tổng cục hải quan Việt Nam www.customs.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai tieu lu7841n nhm3 trung2 k44f71007.doc
Tài liệu liên quan