Đề tài Chính sách cạnh tranh từ góc độ quốc gia đang phát triển

Cạnh tranh mang tính nguyên tử (Atomistic competition) Nếu như các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith hay David Ricardo nhìn nhận cạnh tranh là một quá trình thì theo trường phái kinh tế học tân cổ điển với các đại diện như Cournot, Edgeworth, Clark, và Knight cạnh tranh được xem như một trạng thái. Thị trường được phân tích ở trạng thái cân bằng từ giả định cạnh tranh hoàn hảo và phụ thuộc vào các lực cầu và cấu trúc giá thành. Cạnh tranh hoàn hảo dẫn tới hiệu quả Pareto và cân bằng tổng thể trong toàn bộ hệ thống nền kinh tế. Các giả định cơ bản của trường phái này là: (a) Hiệu quả kinh tế theo quy mô bị loại trừ khi sản lượng nhỏ hơn một mức nhất định (ví dụ các doanh nghiệp hoạt động có quy mô tối thiểu hóa chi phí nhỏ đến mức không thể tác động đến giá) (b) Không có các tác động ngoại biên đến sản xuất hoặc tiêu dùng. Tuy nhiên, trên thực tế hiếm khi các giả định trên được đảm bảo và do đó, kết luận của trường phái này cần phải được xem xét đánh giá lại. Chẳng hạn, theo kinh tế học trường phái Keynes, quá trình phi cân bằng (disequilibrium process) có thể sẽ không đưa nền kinh tế tới trạng thái cân bằng tổng thể. Từ lập luận này đã hình thành nên lý thuyết về cái tốt thứ nhì (second best theory) theo đó nếu như trong một khu vực của nền kinh tế không có cạnh tranh hoàn hảo thì nếu đưa một khu vực khác tới trạng thái cạnh tranh hoàn hảo cũng chưa hẳn sẽ làm cho nền kinh tế xét ở góc độ tổng thể trở nên tốt đẹp hơn (Lipsey và Lancaster 1956). Mục lục Cạnh tranh và chính sách cạnh tranh .4 Các cách tiếp cận về cạnh tranh .4 Chính sách cạnh tranh 6 Mối tương quan giữa chính sách cạnh tranh, chính sách công nghiệp và chính sách thương mại .10 Chính sách cạnh tranh ở các nước đang phát triển 12 Cạnh tranh và phát triển kinh tế .12 Thực trạng chính sách cạnh tranh ở các nước đang phát triển .14 Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về cạnh tranh ở các nước đang phát triển .16 Các tác động của các hành vi phản cạnh tranh tới các nước đang phát triển .19 Chính sách cạnh tranh, chính sách thương mại và chính sách đầu tư ở các nước đang phát triển 19 Quy mô thị trường và chính sách cạnh tranh .24 Lý luận về “các đầu tầu của nền kinh tế” và ngành công nghiệp non trẻ đối với các quốc gia đang phát triển 24 Chính sách cạnh tranh ở Việt Nam 26 Cạnh tranh, cấu trúc thị trường và chính sách cạnh tranh 26 Mối quan hệ giữa chính sách công nghiệp, chính sách thương mại và chính sách cạnh tranh .33 Một số hành vi phản cạnh tranh đã xuất hiện 38 Khuyến nghị và kết luận 40 Khuyến nghị chính sách .40 Kết luận 42 Phụ lục .44 Tài liệu tham khảo .49

pdf55 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1746 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách cạnh tranh từ góc độ quốc gia đang phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dệt may. Năm 2004, nhóm 3 doanh nghiệp có thị phần lớn nhất là Tainan Knit Fabrics Ltd (Vietnam), Dệt May Phong Phú và Dệt Hà Nội (có thị phần lần lượt là 6%, 5% và 4%). Nhưng đến năm 2006, vị trí các doanh nghiệp lớn thứ hai và thứ ba đã bị thay thế bởi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Tại thời điểm đó, 3 doanh nghiệp dẫn đầu là Hualon Corporation Ltd., Hưng Nghiệp Formosa và Tainan Knit Fabrics (Vietnam) chiếm tới 40% thị phần. Thị phần 60% còn lại được chia cho hơn 1.000 doanh nghiệp còn lại trong ngành. (iii) Ngành đó là ngành độc quyền nhà nước. Chính phủ đã kết hợp một số doanh nghiệp nhà nước độc lập cùng hoạt động trong một ngành để lập ra một doanh nghiệp nhà nước lớn (chẳng hạn trong ngành chế biến thuốc lá) do đó đã làm tăng đáng kể mức độ tập trung. Danh sách 19 ngành độc quyền nhà nước này bao gồm từ các ngành sản xuất trang thiết bị quốc phòng tới ngành xuất bản, thuốc lá, dịch vụ bưu chính,... (Xem Phụ lục 4) Quyền sở hữu của doanh nghiệp thống lĩnh Xét về quyền sở hữu của nhóm 3 doanh nghiệp hàng đầu trong mỗi ngành, không có gì ngạc nhiên là phần lớn nhất (trên 50%) do nhà nước kiểm soát, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm vị trí thứ hai với 30-35%. Các doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm 20% tổng số loại doanh nghiệp này (Hình 5). Những kết quả này là quan trọng vì cung cấp những bằng chứng mới thể hiện sự thống lĩnh của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù thực tế là các thị trường đang dần được mở cửa và các hàng rào gia được được hạ xuống đáng kể, phần lớn trong tổng số 120,000 doanh nghiệp tư nhân vẫn thuộc diện doanh nghiệp vừa và nhỏ - trong đó 91% có vốn điều lệ dưới 10 tỷ VNĐ và 98.77% sử dụng dưới 300 người lao động. Trong khi đó, chỉ 76 tập đoàn và tổng công ty nhà nước đã chiếm tới 40% GDP và 28,8% tổng thu ngân sách nội địa (không bao gồm dầu thô và thuế xuất nhập khẩu)8. 8 Theo Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ ngày 30 tháng 5 năm 2008 tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa 12 30 Hình 5. Quyền sở hữu của nhóm 3 doanh nghiệp dẫn đầu trong tất cả các doanh nghiệp Nguồn: TCKT và Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam (Cục QLCT) Một kết quả đáng chú ý là, trong giai đoạn 2004 – 2005, tỷ trọng khối phi nhà nước trong nhóm 3 doanh nghiệp tại 20 ngành có mức độ tập trung cao nhất gần như tương đương với cả nền kinh tế. Tuy nhiên, tới hết năm 2006, toàn bộ các doanh nghiệp thuộc nhóm 3 doanh nghiệp dẫn đầu trong 20 ngành đều là doanh nghiệp nhà nước (Hình 6). Kết quả này quan trọng vì ngoài các chỉ số khác thể hiện sự thống lĩnh của khu vực doanh nghiệp nhà nước, nó cho thấy tác động tức thì trong sự thay đổi cấu trúc trong các ngành được chỉ định thuộc quyền kiểm soát của các tập đoàn kinh tế theo mô hình Hàn Quốc được thành lập trong những năm gần đây bởi các quyết định hành chính của chính phủ9. 9 Hiện tại, có 12 tập đoàn kinh tế nhà nước thí điểm trong các ngành chủ chốt (điện lực, bưu chính viễn thông, cao su, dệt may, công nghiệp tàu thủy, bảo hiểm, than và khoáng sản, dầu khí, công nghiệp xây dựng, viễn thông quân đội, hóa chất, phát triển nhà và đô thị. Các tập đoàn này nhận được nguồn đầu tư rất lớn cũng như các sự trợ giúp khác của nhà nước. Theo một báo cáo của Bộ Tài chính, tính tới tháng 12/2007, tổng nợ của 70 tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước là 28 tỷ USD (tương đương với 40% GDP) 31 Hình 6. Quyền sở hữu của nhóm 3 doanh nghiệp dẫn dầu trong 20 ngành có mức độ tập trung cao nhất Nguồn: TCKT và Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam (Cục QLCT) Khả năng sinh lời và mức độ tập trung Một nghiên cứu năm 2004 của tác giả Vũ Quốc Huy đã cho thấy một kết quả đáng lưu ý: Có một mối tương quan thuận chiều mạnh giữa khả năng sinh lời và mức độ tập trung kinh tế - hệ số tương quan giữa các biến là 0.41. Kết quả này không quá ngạc nhiên nhưng nó đã xác nhận rằng các hạn chế và hàng rào gia nhập thị trường là có lợi cho các doanh nghiệp hiện đang hoạt động trên thị trường. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp đều diễn ra như vậy. Một số ngành, cho dù đã được bảo hộ, nhưng vẫn có kết quả hoạt động kinh doanh rất kém xét theo tiêu chí lợi nhuận. Các chỉ số kết quả tài chính đối với một số doanh nghiệp nhà nước được tóm lược trong Bảng 10. Nghiên cứu không thể rút ra một kết luận có tính chắc chắn cao về tính hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước trong so sánh với các doanh nghiệp ngoài quốc gia trong cùng ngành kinh doanh. Tuy nhiên, mức độ bảo hộ và cạnh tranh tương đối gắn với các ngành khác nhau nhìn chung có thể được sang tỏ phần nào từ các số liệu này. Chẳng hạn, ngành xi măng, trong đó Tổng Công ty Xi măng Việt Nam kiểm soát khoảng một nửa tổng sản lượng – có mức lợi nhuận biên cao hơn mức trung bình rất nhiều, thể hiện mức độ cạnh tranh bị giới hạn, sự khó khăn trong việc gia nhập và rút lui khỏi thị trường, cũng như sự kiểm soát giá chặt chẽ trong ngành. Không chỉ có một hệ thống các nhà phân phối và thành viên riêng tại các thành phố lớn, mối quan hệ đặc biệt với Bộ Xây dựng cũng tạo nhiều thuận lợi để Tổng Công ty Xi măng có nhiều lợi thế mà không một đối thủ cạnh tranh nào có thể có được. Trong khi đó, 32 ngành mía đường đang gặp nhiều khó khăn đã chứng kiến các chỉ số thu nhập trên tài sản (ROA) và trên vốn chủ sở hữu (ROE) âm mặc dù cũng được hoạt động trong cùng cơ chế kiểm soát giá cả và quản lý tương tự. Các ngành thủy sản và dệt may đều có mức độ mở cửa thị trường rất cao (tỷ lệ giữa xuất khẩu trên tổng sản lượng) và phải đối mặt với mức độ cạnh tranh gay gắt trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Mặc dù hầu như không nhận được ưu đãi, hỗ trợ hoặc can thiệp của nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh, những ngành này vẫn chứng tỏ rằng họ có thể đạt được tính cạnh tranh cao, ngay cả khi cạnh tranh với đối thủ nước ngoài trên thị trường thế giới. Bảng 10. Kết quả tài chính của một số tổng công ty nhà nước (%) Ngành Lợi nhuận biên thuần ROA ROE Giấy 13.2 1.8 3.5 Thép 7.1 3.1 6.0 Xi măng 27.4 13.9 22.5 Thức ăn chăn nuôi 11.3 4.0 14.3 Cao su 29 8.3 9.9 Đường 1.5 -2.6 -17.5 Hải sản 3.4 1.4 7.4 Dệt may 10.3 4.0 5.7 Dịch vụ cảng biển 23.2 4.3 5.8 Nguồn: Packard (2004) Các rào cản cạnh tranh Các rào cản cạnh tranh tại Việt Nam có thể được phân chia thành 2 loại như sau: (i) Các rào cản thể chế đối cạnh tranh: Bao gồm các rào cản gia nhập và rút lui khỏi thị trường, các thị trường yếu tố (lao động, tài chính, đất đai,...), thương mại quốc tế, điều chỉnh giá, hoạt động nghiên cứu và phát triển được coi là các rào cản đáng chú ý nhất ở Việt Nam (CUTS 2004). (ii) Các rào cản cá biệt đối với cạnh tranh: Một doanh nghiệp hoạt động trên một thị trường nhất định sẽ phải đối với các hành vi phản cạnh tranh, bao gồm hiện tượng độc quyền, lạm dụng vị trí thống lĩnh, các thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường và từ chối giao dịch. Các rào cản về cạnh tranh này được thảo luận chi tiết hơn trong phần sau. Phần này chỉ phân tích một số rào cản thể thể quan trọng nhất đối với cạnh tranh thường xuất hiện ở Việt Nam. 33 Mặc dù cơ chế kinh tế chỉ huy tập trung đã được bãi bỏ cách đây 2 thập niên, các quy định kiểm soát của chính phủ và quyết định hành chính vẫn phổ biến và được coi là có những tác động không tốt đối với cạnh tranh trên thị trường. Chi phí của hoạt động kinh doanh tại Việt nam cao hơn so với nhiều nước láng giềng từ lâu đã được nhìn nhận là một trong những trở ngại cho tăng trưởng và phát triển. Các nhân tố như hệ thống thuế và lệ phí không phù hợp, chi phí vận tải bất hợp lý và tình trạng không nhất quán của các cơ quan thuế và hải quan cũng là những nhân tố cần tính tới của doanh nghiệp trước khi quyết định gia nhập vào thị trường mới. Một rào cảo có tầm quan trọng đáng kể là hệ thống luật pháp thiếu đồng bộ và chồng chéo điều tiết các hoạt động kinh tế. Sự yếu kém của hạ tầng pháp luật kết hợp với một hệ thống hành chính phức tạp nhiều thủ tục. Nhiều ý kiến đánh giá rằng, các văn bản dưới luật do các bộ ngành và địa phương ban hành có ý nghĩa trong thi hành hơn cả các văn bản luật. Thông thường thì các văn bản này đưa ra các hạn chế và/hoặc các yêu cầu nhiều hơn đối với hoạt động kinh doanh. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng đối với các doanh nghiệp hoạt động và cạnh tranh bình đẳng đó là sự đối xử phân biệt giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chẳng hạn, theo Luật Tài nguyên khoáng sản thì giấy phép tiếp cận các mỏ khoáng sản chỉ được cấp cho các doanh nghiệp nhà nước. Nếu không có các hợp đồng với các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thể kinh doanh trong các ngành bị hạn chế như vậy. Hệ quả là, mặc dù hoạt động kém hiệu quả, các doanh nghiệp nhà nước vẫn thu được sức mạnh thị trường gần như độc quyền trong một số đáng kể các ngành quan trọng. Chẳng hạn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam chiếm tới 94% tổng sản lượng điện, Tập đoàn Than Khoáng sản kiểm soát 97% sản lượng than, Tổng công ty Thuốc lá cung cấp 63% nguồn cung thuốc lá, Tổng công ty Giấy chiếm 50% sản lượng giấy và Tập đoàn Dầu khí thống lĩnh hoạt động khai thác dầu thô. Trong những năm gần đây, thậm chí vị trí thống lĩnh của các tập đoàn kinh tế còn được củng cố hơn, đặc biệt là kể từ khi có các diễn biến bất lợi trên thị trường toàn cầu sau khủng hoảng 2008 – 2009. Mối quan hệ giữa chính sách công nghiệp, chính sách thương mại và chính sách cạnh tranh Khi bàn đến vấn đề thiết lập ưu tiên chính sách ở Việt Nam, có ít nhất hai dòng quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất được chia sẻ tại nhiều cơ quan chính phủ và được cộng đồng doanh nghiệp trong nước ủng hộ mạnh mẽ, cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam đang phải 34 đối mặt với cạnh tranh không công bằng trên chính sân nhà với các tập đoàn đa quốc gia lớn. Do đó, việc thiết kế một khuôn khổ khả thi để có thể giúp giải quyết vấn đề này là yếu tố then chốt. Một chính sách công nghiệp theo kiểu Hàn Quốc, có mục tiêu tạo ra các “đầu tầu kinh tế” có khả năng cạnh tranh quốc tế được nhiều cơ quan chính phủ cũng như lãnh đạo khối doanh nghiệp nhà nước ủng hộ. Luồng ý kiến thứ hai cho rằng nguyên nhân chính của môi trường cạnh tranh hạn chế ở Việt Nam là bắt nguồn từ vị trí thống lĩnh của khu vực nhà nước. Khu vực tư nhân mới được hình thành đã cho thấy ngay cả nếu không có sự hỗ trợ của nhà nước, dù trực tiếp hay gián tiếp, hoạt động của họ có hiệu quả hơn các doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, tổng thể nền kinh tế sẽ có lợi nếu độc quyền nhà nước được bãi bỏ và một sân chơi bình đẳng được thúc đẩy thông qua chính sách cạnh tranh. Các quan sát của chúng tôi từ kinh nghiệm lịch sử các nền kinh tế phát triển dường như có phần ủng hộ lập luận rằng trên thực tế độ ưu tiên cao hơn cần đặt về phía chính sách công nghiệp trong giai đoạn đầu của tiến trình phát triển, như các văn bản chính thức đã nêu rõ. Điều quan trọng là cần xem xét bản chất của các nhóm chính sách kinh tế khác nhau, đặc biệt là chính sách công nghiệp và chính sách cạnh tranh (và một chính sách khác có liên quan chặt chẽ là chính sách thương mại), là rằng có một sự xung đột tiềm ẩn giữa một bên là chính sách cạnh tranh hướng tới ngăn chặn hoặc điều tiết sức mạnh thị trường và bên kia là chính sách công nghiệp hướng tới tạo lập sức mạnh thị trường cho các doanh nghiệp nhà nước trong một số ngành nhất định. Theo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội được Đại hội Đảng thông qua, một trong những mục tiêu quan trọng nhất của Chính phủ là đưa đất nước “về cơ bản trở thành một nước công nghiệp và hiện đại vào năm 2020”. Hướng tới mục tiêu đó, một số biện pháp đặc thù đã được áp dụng, bao gồm sự trợ giúp đối với khu vực nhà nước để xây dựng các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu. Chiến lược tập trung vào “phát triển nhanh các ngành tận dụng tốt nhất lợi thế cạnh tranh của đất nước, kiểm soát thị trường trong nước và thúc đẩy xuất khẩu”, cùng với việc “xây dựng một cách chọn lọc một số đơn vị sản xuất công nghiệp nặng”. Bằng việc thành lập các tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, Chính phủ kỳ vọng rằng các tập đoàn này có thể lặp lại thành công của các nước Đông Á, đặc biệt là Hàn Quốc, để trở thành các đầu tầu kinh tế của đất nước và có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Về lý thuyết, các công cụ chính được các nước đang phát triển áp dụng để đạt được các mục tiêu chính sách công nghiệp là sự can thiệp của nhà nước và các thị trường bên ngoài, thị trường sản xuất và thị trường các yếu tố sản xuất (Pangestu 2002). Tất cả các biện pháp đó đều được thực hiện mạnh ở Việt Nam. 35 Can thiệp vào thị trường bên ngoài Một biện pháp thường xuyên được áp dụng để can thiệp vào thị trường các hàng hóa nhập khẩu không sản xuất ở Việt Nam là thông qua kiểm soát giá cả và số lượng. Tới năm 2003 chỉ còn 2 ngành là xăng dầu và đường thuộc diện quản lý về số lượng. Đây là con số thay đổi đáng kể từ một danh sách của hơn một chục hàng hóa bị áp dụng cách đó 5 năm. Và tới thời điểm hiện tại thì danh sách này đã được bãi bỏ (Xem Phụ lục 3). Như thảo luận ở phần trên, tác động của bảo hộ đối với cạnh tranh là rõ ràng: sự tạo lập các rào cản gia nhập là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới mức độ tập trung kinh tế cao trong ngành đó. Nhìn chung, ở các ngành được bảo hộ, mức giá cả trong nước cao hơn tương đối nhiều so với giá thế giới. Mặc dù thu được lợi nhuận lớn hơn mức trung bình, tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trong các ngành được bảo hộ không được chứng minh một cách thuyết phục. Các ngành được bảo hộ mạnh nhất, như ngành ô tô và xi măng, được coi là những ngành kém sức cạnh tranh nhất và đã không đạt được hầu như mọi mục tiêu được đặt ra trong giai đoạn đầu của bảo hộ (như tỷ lệ nội địa hóa, xuất khẩu...). Hầu hết các ngành được xếp vào nhóm bảo hộ đều là các ngành đòi hỏi nhiều vốn: ô tô, trang thiết bị công nghiệp, thép,v.v... Một tỷ lệ lớn nguồn lực đầu tư của quốc gia, bao gồm cả đầu tư nước ngoài đã được rót vào các ngành công nghiệp này. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan là những biện pháp đáng chú ý, nhưng không phải là duy nhất, được thiết kế nhằm bao bọc các doanh nghiệp nhà nước và các liên doanh giữa doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khỏi các lực lượng thị trường cạnh tranh. Các tác động của thuế quan ở Việt Nam là đáng kể xét theo nghĩa rằng mặc dù có điều hòa mức thuế suất trung bình nhưng sự phân tán giữa các ngành và khu vực vẫn còn ở mức cao. Từ năm 1997 đến năm 2003, hầu như không có sự thay đổi nào trong mức thuế suất trung bình theo tỷ trọng nhập khẩu (từ 21% xuống 20.3%). Tuy nhiên, hệ số biến thiên đã tăng tới mức 130.7% trong năm 2003 thể hiện mức độ phân tán cao. Khu vực sản xuất là khu vực được bảo hộ nhiều nhất, mặc dù tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu (effective protection rate) đã giảm một cách đáng kể từ mức 121% vào năm 1997 xuống còn 46% vào năm 2003 (Athukorala 2004). 36 Bảng 11. Tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa và hữu hiệu ở Việt Nam, 1997 và 2003 (%) 1997 2003 Danh nghĩa Thực tế Danh nghĩa Thực tế Bình quân gia quyền Nông nghiệp 8.1 7.7 12.7 14.7 Khai thác khoáng sản 9.4 6.1 3.6 0 Công nghiệp chế tạo 30.6 121.5 30.3 46.3 Toàn bộ hàng hóa ngoại thương 21 72.2 19.6 27.1 Trung bình giản đơn 23.3 59.5 20.3 26.4 Hệ số biến thiên 133.8 156 102.5 130.7 Nguồn: Athukorala (2004) Nhằm thúc đẩy xuất khẩu, chính phủ đã ban hành các biện pháp hỗ trợ bằng các hình thức miễn giảm thuế và lệ phí, hoàn thuế, tín dụng ưu đãi và cơ chế thưởng xuất khẩu. Các biện pháp này đã giúp Việt Nam có được thành tựu xuất khẩu nổi bật (tỷ lệ ngoại thương/GDP trên 100%, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm đạt 20% trong thập niên vừa qua) trong khi đó vẫn duy trì một thị trường được bảo hộ ở mức cao. Can thiệp vào thị trường nhân tố sản xuất Trong khi chính sách đầu tư nước ngoài ngày càng trở nên cởi mở và tự do thì các hạn chế đối với hoạt động đầu tư vẫn còn hiện hữu và ngăn cản đáng kể cạnh tranh. Các hạn chế này có thể được tóm lược như sau: (i) Các khu vực và hình thức hoạt động bị hạn chế Trong một số ngành nhất định, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được phép hoạt động hoặc bị hạn chế chặt chẽ. Họ không thể hoạt động nếu không thành lập các liên doanh với các đối tác trong nước trong các ngành chiến lược, bao gồm dầu khí, vận tải hàng không, trồng rừng và kinh doanh du lịch, v.v... (ii) Yêu cầu dựa trên kết quả hoạt động Các yêu cầu này thuộc các hình thức như tỷ lệ nội địa hóa, tỷ lệ xuất khẩu và yêu cầu về vốn pháp định. Trường hợp đáng chú ý nhất là ngành công nghiệp ô tô, trong đó tỷ lệ nội địa hóa được kỳ vọng sẽ không thấp hơn 5-10% sau năm thứ hai khi doanh nghiệp đi vào hoạt động, và 50% trong 5-6 năm. Đổi lại, ngành này được hưởng các rào cản bảo hộ rất cao. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm, ngành này trở nên vô cùng kém cạnh tranh và người tiêu dùng trong nước phải trả một cái giá thuộc loại cao nhất thế giới để đổi lấy những chiếc xe chất lượng không thể nói là cao. 37 (iii) Các quy định điều tiết các thị trường tài chính và đất đai Các doanh nghiệp nước ngoài có một số lợi thế trên các thị trường tài chính quốc tế và ngay cả trong nước; tuy nhiên, họ không có quyền sở hữu đất đai và phải đối mặt với các quy định hạn chế việc tiếp cận đối với đất đai. Sự thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước Các doanh nghiệp nhà nước mạnh nhất là các tổng công ty đã tồn tại từ nhiều năm và các tập đoàn kinh tế mới thành lập. Nhóm DNNN này chỉ chiếm 27% tổng số DNNN nhưng lại nắm tới 77% tổng tài sản của các DNNN. Họ có thể tái phân bổ hoặc điều chỉnh các nguồn lực để đảm bảo rằng cả tập đoàn được vận hành một cách ổn thỏa. Trên thực tế, các tổng công ty được coi là có thể quyết định việc phân chia thị trường giữa các thành viên tổng công ty và có ảnh hưởng trong việc áp đặt chung các mức giá trần đối với hàng nhập khẩu và giá sàn đối với hàng xuất khẩu cho tất cả các thành viên. Việc thỏa thuận phân chia thị trường trong nội bộ này thực tế làm hạn chế cạnh tranh từ các doanh nghiệp không phải là thành viên của tổng công ty. Từ khi thành lập cách đây 10 năm, kết quả hoạt động kinh doanh của các tổng công ty là khác nhau, cũng như sự khác biệt trong các hàm ý về cạnh tranh. Một số tổng công ty như Vietnam Airlines và VNPT chiếm vị trí thống lĩnh trong các ngành mà họ tham gia. Xét theo các tiêu chí dựa trên lợi nhuận (như tỷ lệ lợi nhuận trên vốn, lợi nhuận trên doanh thu, hoặc lợi nhuận bình quân của mỗi người lao động) các tổng công ty này hoạt động tương đối tốt. Chẳng hạn, ngành viễn thông đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao một cách đặc biệt và đã trong quá trình hiện đại hóa nhanh trong những năm gần đây. Trong giai đoạn 1995 – 2002, ngành này đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất ở châu Á (Lê Đăng Doanh 2004). Tỷ lệ lợi nhuận ròng của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông trong giai đoạn 2002 – 2003 cao tới 40% (Vinh 2004). Bảo hộ và vị thế mang tính độc quyền mà các doanh nghiệp này được hưởng trên thị trường nội địa là các nguyên nhân chính để đạt được kết quả vượt trội. Tuy nhiên, một số tổng công ty lại đạt được kết quả tốt mà không có sự hỗ trợ trực tiếp và bảo hộ từ chính phủ. Tập đoàn Dệt may (Vinatex) là một ví dụ. Mặc dù lợi nhuận biên của ngành là tương đối thấp, Vinatex đã có được kết quả tuyển dụng lao động và xuất khẩu khá ấn tượng. Nhìn chung, khó có thể tổng quát hóa rằng liệu chính sách công nghiệp có dẫn tới cạnh tranh nhiều hơn hay ít hơn do sự biến thiên trong các phép đo cũng như đặc điểm của từng ngành/khu vực kinh tế cụ thể. Cả quyền sở hữu và độ mở của thị trường cũng đóng vai trò nhất định trong việc xác định thực trạng cạnh tranh của một khu vực nào đó, nhưng kết quả 38 cuối cùng dường như lại cũng phụ thuộc vào cả các yếu tố khác nữa. Đáng kể là, do việc thực thi không tốt và thiếu vắng các thể chế phù hợp để trợ giúp việc thực thi có hiệu quả và suôn sẻ, nhiều hiệu ứng được mong muốn của các biện pháp chính sách công nghiệp đã không bao giờ trở thành hiện thực. Một số hành vi phản cạnh tranh đã xuất hiện Các hành vi phản cạnh tranh tương đối phổ biến ở Việt Nam. Ngay kể cả sau khi Luật cạnh tranh có hiệu lực vào năm 2004, nhiều doanh nghiệp vẫn còn thực hiện các hành vi này và chúng vẫn có tác hại đối với xã hội và nền kinh tế. Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định một số lượng lớn các hành vi phản cạnh tranh, từ các hành vi hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, tập trung kinh tế cho tới các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Theo Chỉ số Luật Chống độc quyền của Nicholson như đã bàn ở chương 2, đây là chỉ số đánh giá phạm vi của các thể chế cạnh tranh trên thế giới, Luật Cạnh tranh Việt Nam xếp thứ 6/82 và là thứ hạng cao hơn nhiều nước phát triển có các hệ thống luật pháp tiên tiến như Vương quốc Anh, Pháp, Italia, Canada,... Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều hành vi phản cạnh tranh mà có thể bị phạt rất nặng trong các hệ thống luật pháp khác, nhưng vẫn chưa được chính thức điều tra và phán quyết. Dưới đây là một số trường hợp điển hình: Từ chối giao dịch Vụ việc VINAPCO: Đây là vụ hạn chế cạnh tranh đầu tiên được điều tra và xử lý. Vinapco, một công ty con của Vietnam Airlines – công ty có vị trí thống lĩnh trên thị trường vận tải hành khách bằng đường hàng không trong nước (kiểm soát trên 85% thị phần các tuyến bay nội địa) – là nhà độc quyền cung cấp xăng dầu hàng không, đã từ chối cung cấp nhiên liệu cho JetStar Pacific (hãng hàng không nội địa lớn thứ hai sau Vietnam Airlines) vào tháng 4/2008. Hệ quả là một số chuyến bay của hang này đã bị ngưng trệ. Sau một cuộc điều tra do Cục Quản lý cạnh tranh tiến hành, Vinapco đã bị phạt 3 tỷ VNĐ và được yêu cầu độc lập khỏi sự kiểm soát của Vietnam Airlines. Thỏa thuận hạn chế sản lượng Năm 2003, Công ty Kính nổi Việt Nam (VFG) (kiểm soát 60% thị phần) đã quyết định tiêu hủy hơn 1 triệu m2 kính thành phẩm trong khi cả nước đang thiếu hụt sản phẩm kính xây dựng. Hành vi này có thể bị coi là hành vi hạn chế sản lượng. Cùng trong năm đó, 8 nhà sản xuất đường thành phẩm đã tạm dừng cung cấp đường ra thị 39 trường kể từ ngày 1/6/2003. Hệ quả tức thì là, giá đường đã tăng đáng kể chỉ sau đó một vài ngày. Thông đồng trong đấu thầu Có thể nhận xét rằng hành vi thông đồng trong đấu thầu không phải là ít gặp trong các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đối với các hợp đồng sử dụng ngân sách nhà nước hoặc dùng vốn ODA. Thỏa thuận ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia thị trường Laser Beer, nhãn hiệu bia tươi đóng chai đầu tiên của Việt Nam, không thể tiếp cận mạng lưới phân phối bị ảnh hưởng bởi các nhà sản xuất bia nước ngoài đang chiếm lĩnh thị trường. Các liên doanh sản xuất các loại bia với thương hiệu Heineken, Tiger,... bị khiếu nại hành vi gây sức ép tới các cửa hàng bán lẻ và quán bia để ký các hợp đồng độc quyền với các điều khoản ngăn cản các đối thủ cạnh tranh được bán và tiếp thị sản phẩm ở những địa điểm tiêu dùng bia chính. Ấn định giá bán lại Mặc dù việc áp đặt giá sàn và giá trần được áp dụng khá phổ biến ở Việt Nam, dạng hành vi phản cạnh tranh này không bị điều chỉnh rõ ràng bởi bất kỳ luật nào, kể cả trong Luật Cạnh tranh 200410. Bán dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh Năm 1998, các nhà máy liên doanh Coca-Cola Việt Nam và Công ty Nước giải khát quốc tế (IBC), với thị phần kết hợp trên thị trường nước giải khát chiếm trên 75%, đã cùng cắt giảm mạnh giá bán sản phẩm của mình(khoảng 40%) để loại bỏ các nhà sản xuất nước giải khát trong nước. Sau khi các đối thủ cạnh tranh rút lui khỏi thị trường, không ngạc nhiên khi các công ty lớn này đã tăng giá bán các sản phẩm nổi tiếng của mình lên mức cao hơn đáng kể trước thời điểm diễn ra cuộc chiến giá cả (Thuy 2004). Các trường hợp được thảo luận ở trên đây hàm ý rằng hầu như tất cả các dạng hành vi phản cạnh tranh điều được thực hiện ở Việt Nam và có thể nói rằng các hành vi đó không đóng góp gì cho việc thực thi chính sách công nghiệp hướng tới mục tiêu xây dựng các doanh nghiệp vững mạnh và có sức cạnh tranh cao. Ngược lại, các hành vi đó chỉ đem lại lợi ích của các doanh nghiệp thực hiện và xã hội nói chung, cụ thể hơn là người tiêu dùng phải chịu thiệt 10 Trong sáu nhóm hành vi lạm dụng thị trường bị cấm quy định tại Điều 13 LCT 2004, hành vi ấn định giá bán lại tối đa không được đề cập đến. Điều 13 có quy định hai nhóm hành vi trực tiếp liên quan đến giá, gồm (i) bán giá thấp nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh (khoản 1), và (ii) áp đặt giá bất hợp lý hay ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng (khoản 2). 40 hại khi phải trả các mức giá cao hơn do sự thiếu vắng cạnh tranh công bằng. Khuyến nghị và kết luận Khuyến nghị chính sách Cần thiết phải rà soát lại những điểm chưa thống nhất giữa chính sách cạnh tranh và các chính sách có liên quan chặt chẽ như chính sách công nghiệp, chính sách thương mại. Từ kinh nghiệm quốc tế, cần có thời gian để phát triển một môi trường cạnh tranh trong giai đoạn đầu phát triển của một quốc gia. Trong một số giai đoạn, cả lý luận và thực tế đã chứng minh rằng nhà nước có thể đặt ưu tiên cho chính sách công nghiệp lên trước chính sách cạnh tranh. Tuy nhiên, cần phải lưu ý đến các điểm mấu chốt sau: (i) các ngành và lĩnh vực nào xứng đáng nhận được trợ giúp từ nguồn lực hạn hẹp của nhà nước để có thể đóng góp tốt nhất cho sự tăng trưởng và phát triển tổng thể của đất nước? (ii) chính sách bảo hộ không nên kéo dài quá lâu; nếu không, các ngành được bảo hộ có thể sẽ trở nên kém sức cạnh tranh và năng suất thấp. Nhà nước nên có một kế hoạch rõ ràng và có thể dự đoán được để từng bước mở cửa để các ngành được bảo hộ đó đối mặt với cạnh tranh. Là một thành viên của WTO và các hiệp định thương mại khu vực, Việt Nam nên đánh giá sự cân bằng giữa các chi phí và lợi ích tiềm tàng khi áp dụng các rào cản hạn chế cạnh tranh để bảo vệ các ngành trong nước. Trong bối cảnh chưa có nhiều nghiên cứu kỹ lưỡng về vấn đề này thì các nhân tố sau đáng để xem xét trong các nghiên cứu sâu rộng hơn: Các lợi ích tiềm năng: - Sự tích tụ tập trung trong sản xuất có thể dẫn tới tính hiệu quả kinh tế theo quy mô, đặc biệt là trong các ngành cần vốn đầu tư lớn; - Phân bổ thích hợp và tối ưu hóa các nguồn lực; - Cải thiện chung việc đào tạo nguồn nhân lực, hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D); - Thành lập một cách có hiệu quả các đầu tầu kinh tế trong các ngành công nghiệp chiến lược để cạnh tranh trên thị trường quốc tế; - Giảm chi phí giao dịch giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp là thành viên của tập đoàn kinh tế; Các chi phí tiềm tàng: - Giảm động lực gia nhập thị trường của khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước 41 ngoài do các đặc lợi dành cho các doanh nghiệp nhà nước trong các ngành chiến lược và do đó làm giảm sút cạnh tranh giữa các đối thủ. Điều này có thể dẫn đến vấn đề ràng buộc ngân sách mềm mà Việt Nam cũng như các quốc gia có khu vực kinh tế nhà nước lớn từng nhiều lần trải qua; - Vấn đề rủi ro đạo đức hay vô trách nhiệm (moral hazard) cho cách suy nghĩ quá lớn không thể sụp đổ (too-big-to-fail), đặc biệt là trong các giai đoạn điều kiện kinh tế thế giới và trong nước gặp khó khăn hay khủng hoảng; - Khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trên thế giới. Nhà nước cần cân nhắc một cách thấu đáo lập luận rằng nhà nước không nên và không đủ nguồn lực và thông tin trong việc quyết định rằng ngành nào là có tính cạnh tranh và có tiềm năng để đóng vai trò quan trọng trên thế giới và do vậy, tốt nhất là nên để thị trường tự quyết định; - Khả năng các tập đoàn kinh tế mới được thành lập, không chỉ làm giảm sút cạnh tranh và còn có thể gây ảnh hưởng tới các quyết định kinh tế của chính phủ do có mối quan hệ mật thiết với các bộ ngành chủ quản; - Khả năng các đối tác nước ngoài có thể sử dụng các biện pháp trả đũa nếu Việt Nam không đối xử bình đẳng đối với tất cả các thành viên trên thị trường theo cam kết với WTO; Chính sách cạnh tranh nên tính tới môi trường thể chế của đất nước đang tiến triển nhanh chóng. Chính sách này cần phục vụ cho các mục tiêu phát triển dài hạn của đất nước, đảm bảo cạnh tranh bình đẳng và bảo vệ quyền lợi đất nước. Hệ thống pháp luật cần nắm bắt được tất cả tính năng động của các hoạt động kinh doanh đang từng bước xuất hiện, đặc biệt là đối với các ngành tài chính và dịch vụ. Vì vậy, kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng, ban hành và thực thi luật cạnh tranh là nguồn tham khảo rất hữu ích đối với Việt Nam. Khi thực thi các cam kết WTO, BTA và các cam kết quốc tế, khu vực khác, Việt Nam có thể sẽ đối mặt với các vấn đề tương tự như các nước hiện đã phát triển từng xử lý một cách thành công cũng như không thành công. Không có một gói chính sách nào được coi là viên thuốc vạn năng áp dụng được cho tất các các quốc gia. Điều này khác với quan điểm của những người ủng hộ Đồng thuận Washington thường đề xuất các quốc gia đang phát triển nên đi theo để đạt được một nền kinh tế có hiệu quả, phát triển nhanh và tận dụng tốt nhất các nguồn lực. Thay vì thế, chúng tôi khuyến nghị các nhà làm chính sách Việt Nam cần phân tích một cách thấu đáo các kinh nghiệm của các nước phát triển trong các giai đoạn trước của phát triển khi họ phải “đấu 42 tranh” để đuổi kịp các nước phát triển hơn. Một chính sách cạnh tranh tốt dường như không chỉ được đánh giá bằng phạm vi và số lượng các hành vi phản cạnh tranh được quy định trong hệ thống pháp luật, cũng như không phải bằng sự thúc đẩy một nền kinh tế thị trường tự do tuyệt đối (laissez-faire) nơi các doanh nghiệp phải cạnh tranh hoàn toàn tự do. Đúng hơn thì chính sách cạnh tranh cần được đánh giá bằng các tiêu chí của một cơ chế cạnh tranh khả thi (workable competition paradigm), trong đó số lượng các doanh nghiệp hoạt động trên một thị trường nhất định không phải là tối đa, mà là tối ưu, tùy thuộc vào quy mô thị trường và khả năng tăng trưởng. Trong một số giai đoạn đặc biệt nhất định, chẳng hạn suy thoái kinh tế trong nước và thế giới, việc áp dụng một số biện pháp phi truyền thống, mà trong những thời điểm nền kinh tế vận hành bình thường có thể bị coi là các hành vi phản cạnh tranh, có thể được áp dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý là các biện pháp này, chẳng hạn như cho phép các định chế tài chính lớn được sáp nhập hoặc mua lại để tránh sự sụp đổ hệ thống của ngành ngân hàng và ổn định thị trường tài chính, cần được xem là tạm thời và sách lược. Khi nền kinh tế phục hồi trạng thái bình thường, các biện pháp này cần được thay thế bằng một chính sách cạnh tranh mang tính truyền thống hơn. Sự thành công của bất kỳ một chính sách cạnh tranh nào cũng đều phụ thuộc căn bản vào tính hiệu lực và độ tin cậy của quá trình thực thi. Một cơ quan thi hành có năng lực cao và đủ quyền hạn là điều kiện tiên quyết. Vấn đề điều tra các hành vi phản cạnh tranh, đặc biệt là đối với các vụ việc có sự tham gia của các tập đoàn đa quốc gia, được thực tế chứng minh là rất phức tạp và đòi hỏi chuyên môn cao. Hai cơ quan thực thi và ra quyết định tại Việt Nam (Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh) cần có một bộ máy nhân lực đủ khả năng và làm việc tận tâm cũng như cần được bảo vệ khỏi sự can thiệp và gây ảnh hưởng của các nhóm lợi ích ngành. Do trước đây chưa từng có một cơ chế cạnh tranh hoặc truyền thống khuyến khích cạnh tranh, Việt Nam cần thực hiện các hoạt động tuyên truyền trên phạm vi rộng, đặc biệt là trong giai đoạn đầu khi thực thi luật cạnh tranh. Một trong những biện pháp làm cho cộng đồng doanh nghiệp và xã hội chú ý đến pháp luật cạnh tranh và các cơ quan thực thi một cách hiệu quả nhất là tiến hành điều tra và xử lý các vụ việc cụ thể. Kết luận Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm cạnh tranh cũng như chính sách cạnh tranh theo từng cách tiếp cận đó. Các lý thuyết dựa trên các giả định đáng tin cậy có xét đến mức 43 độ phát triển và các nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng một quốc gia đang phát triển nên hướng nền kinh tế theo quan điểm cạnh tranh hiệu quả (hoặc tối ưu) hơn là theo đuổi cạnh tranh tối đa. Một chính sách cạnh tranh tốt luôn cần được thiết kế và thực thi một cách hài hóa và thống nhất với các chính sách công nghiệp và thương mại, và mối quan hệ tương hỗ này nhằm mục tiêu đạt được tăng trưởng cao một cách bền vững và nền kinh tế trở nên cạnh tranh. Các hàm ý chính sách này được kỳ vọng áp dụng trong 2 trường hợp: (i) Một quốc gia đang phát triển phải “đấu tranh” trên trường quốc tế để trở thành một nước phát triển, để người dân có được mức thu nhập và điều kiện sống tương đối cao. (ii) Ngay kể cả đối với một nước đã phát triển cũng cần xem xét kỹ lưỡng cách tiếp cận này trong những giai đoạn đặc biệt khi các biện pháp phi chính thống (unorthodox measures) trong mọi chính sách kinh tế, dù là tài khóa, tiền tệ, công nghiệp, thương mại hay cạnh tranh, đều không còn được coi là các lựa chọn chính sách không được chấp nhận. 44 Phụ lục Phụ lục 1 Danh sách các tiêu chí của Chỉ số Luật Chống Độc quyền Nhóm chung về chính sách chống độc quyền đối với các tiêu chí đưa ra Các tiêu chí được đưa vào luật quốc gia Điểm số nếu có tiêu chí Phạm vi Xuyên lãnh thổ 1 Phạt tiền 1 Phạt tù 1 Biện pháp khắc phục Buộc chia tách 1 Tiến hành do bên thứ ba 1 Biện pháp khắc phục đối với bên thứ ba 1 Thực thi có bên thứ ba Quyền của bên thứ ba trong giai đoạn tố tụng 1 Tự nguyện 1 Bắt buộc 1 Tiền sáp nhập 2 Thông báo tập trung kinh tế Hậu sáp nhập 1 Vị trí thống lĩnh 1 Hạn chế cạnh tranh 1 Lợi ích công 1 Khác 1 Đánh giá vụ việc sáp nhập Tính hiệu quả 1 Hạn chế tiếp cận 1 Các hành vi lạm dụng vị trí 1 Áp đặt giá 1 Định giá phân biệt 1 Duy trì giá bán lại 1 Các trở ngại gia nhập thị trường 1 Vị trí thống lĩnh Bảo vệ tính hiệu quả 1 Ấn định giá 1 Bán kèm 1 Phân chia thị trường 1 Hạn chế sản lượng 1 Phân chia thị phần 1 Loại bỏ đối thủ cạnh tranh 1 Thông đầu trong đấu thầu 1 Các hành vi hạn chế thương mại Từ chối cung cấp 1 Tổng 32 Nguồn: Nicholson (2004) 45 Phụ lục 2 Chỉ số Luật Chống độc quyền và Chỉ số cải cách ủng hộ cạnh tranh Thứ hạng Quốc gia/Lãnh thổ Chỉ số Luật Chống độc quyền Chỉ số cải cách ủng hộ cạnh tranh Thứ hạng Quốc gia/Lãnh thổ Chỉ số Luật Chống độc quyền Chỉ số cải cách ủng hộ cạnh tranh 1 United States 21 0.242 42 Thailand 13 0.531 2 Ukraine 20 0.651 43 Belarus 13 0.766 3 India 20 0.664 44 Zimbabwe 13 0.901 4 Switzerland 20 0.348 45 Denmark 12 0.245 5 Turkey 19 0.486 46 Cote d'Ivoire 12 0.608 6 Belgium 18 0.243 47 Brazil 11 0.669 7 Latvia 18 0.330 48 Costa Rica 11 0.529 8 Poland 18 0.455 49 Finland 11 0.265 9 Romania 18 0.531 50 Norway 11 0.302 10 Austria 18 0.303 51 Colombia 11 0.599 11 Cameroon 18 0.691 52 Germany 10 0.232 12 Hungary 18 0.445 53 Jamaica 10 0.369 13 Vietnam 18 0.741 54 New Zealand 10 0.165 14 Argentina 17 0.566 55 Panama 10 0.473 15 Lithuania 17 0.286 56 Sri Lanka 10 0.492 16 South Africa 17 0.421 57 Tunisia 10 0.656 17 Algeria 17 0.729 58 Japan 9 0.338 18 Pakistan 17 0.71 59 United Kingdom 9 0.234 19 France 16 0.384 60 Bolivia 9 0.565 20 Ireland 16 0.204 61 Ethiopia 9 0.776 21 Kenya 16 0.65 62 Senegal 9 0.556 22 Slovakia 16 0.392 63 Serbia 8 0.751 23 Sweden 16 0.212 64 Georgia 8 0.71 24 Croatia 15 0.639 65 Netherlands 7 0.268 25 Estonia 15 0.191 66 China 6 0.667 26 Italy 15 0.405 67 Uruguay 5 0.402 27 Tanzania 15 0.819 68 Chile 4 0.338 28 Taiwan 14 0.375 69 Philippines 3 0.573 29 Czech Rep. 14 0.404 70 Bangladesh 0 0.743 30 Israel 14 0.284 71 Egypt 0 0.663 31 Korea, Rep. 14 0.381 72 Ghana 0 0.66 32 Slovenia 14 0.404 73 Hong Kong 0 0.186 33 Venezuela 14 0.829 74 Jordan 0 0.584 34 Zambia 14 0.633 75 Madagascar 0 0.58 35 Australia 13 0.297 76 Malaysia 0 0.492 46 36 Canada 13 0.282 77 Mauritius 0 0.567 37 Indonesia 13 0.605 78 Morocco 0 0.602 38 Macedonia 13 0.591 79 Nigeria 0 0.811 39 Mexico 13 0.468 80 Paraguay 0 0.599 40 Peru 13 0.498 81 Singapore 0 0.150 41 Spain 13 0.305 82 Uganda 0 0.687 Nguồn: Nicholson (2004) và Miroudot et al. (2007) Các nước đang phát triển11 được in nghiêng. Tỷ trọng của các chỉ số cấu thành như sau (ma trân hệ số tương quan điểm thành phần) Can thiệp của chính phủ 0.062 Kiểm soát giá 0.154 Luật cạnh tranh 0.032 Giấy phép 0.120 Cạnh tranh Cản trở mang tính hành chính 0.172 Chính sách đầu tư 0.184 Đầu tư Bảo hộ đầu tư 0.118 Chính sách thương mại 0.179 Thời gian xuất khẩu 0.193 Thương mại Thời gian nhập khẩu 0.198 11 Phân loại theo World Bank tính tới tháng 4/2009 47 Phụ lục 3 Các mặt hàng thuộc diện kiểm soát số lượng tại Việt Nam giai đoạn 1999–2003 1999 2000 2001 2002 2003 Xăng dầu Xăng dầu Xăng dầu Xăng dầu Xăng dầu Đường Đường Đường Đường Đường Phân bón Thép Thép Xi măng Thép Xi măng/Clinker Xi măng/Clinker Xe máy Xi măng/Clinker Thủy tinh Xe máy Thủy tinh Xe máy Ô tô Xe máy Ô tô Dầu thực vật Ô tô Giấy Giấy Dầu thực vật Quạt điện Gạch ceramic Gốm xây dựng Kiềm Xe đạp Dầu thực vật Nhựa Bao bì nhựa Nguồn: Athukorola (2004) 48 Phụ lục 4 Các ngành độc quyền nhà nước tại Việt Nam, 2007 1 Sản xuất, cung ứng vật liệu nổ 2 Sản xuất, cung ứng hóa chất độc 3 Sản xuất, cung ứng chất phóng xạ 4 Sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh; trang thiết bị, tài liệu kỹ thuật và cung ứng dịch vụ bảo mật thông tin bằng kỹ thuật nghiệp vụ mật mã; 5 Truyền tải hệ thống điện quốc gia; sản xuất điện quy mô lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh 6 Quản lý, khai thác đường sắt quốc gia, đô thị; các cảng hàng không; cảng biển có quy mô lớn 7 Sản xuất thuốc lá điếu 8 Điều hành bay; điều hành vận tải đường sắt quốc gia, đô thị 9 Bảo đảm an toàn hàng hải 10 In, đúc tiền 11 Xổ số kiến thiết 12 Phát thanh, truyền hình 13 Bưu chính công ích 14 Xuất bản, báo chí 15 Quản lý, khai thác hệ thống công trình thủy lợi, thủy nông liên tỉnh, liên huyện, kè đá lấn biển 16 Quản lý, duy tu công trình đê điều, phân lũ và phòng chống thiên tai 17 Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng 18 Các doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đặc biệt và các doanh nghiệp đóng tại các địa bàn chiến lược quan trọng, vùng sâu, vùng xa kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ 19 Tín dụng chính sách, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Nguồn: Quyết định 38/2007/QĐ-TTg 49 Tài liệu tham khảo Tiếng Anh Aaronovitch, S. (1977), “The Firm and Concentration”, in F. Green and P. Nore (eds.), Economics: An Anti-Text, Macmillan. Adam, M. and Alder, S. (2008), “Abuse of Dominance and its Effects on Economic Development”, in: Qaqaya, H. and G. Lipimile (eds), The effects of anti-competitive business practices on developing countries and their development prospects, UNCTAD New York. Aghion, P. and Schankerman, M. (2004), “On the welfare effects and political economy of competition-enhancing policies”, The Economic Journal, 114 (October), 800-824. Alvarez, A. M., Evenett, S. and Wilse-Samson, L. (2007), “Anti-Competitive Practices and the Attainment of the Millennium Development Goals: Implications for Competition Law Enforcement and Inter-Agency Cooperation”, in: Alvarez A.M. and Wilse-Samson L.H. (eds.), Implementing Competition Related Provisions in Regional Trade Agreements: is it possible to obtain development gains? United Nations: New York and Geneva Amsden, A. H. (1989), Asia's next giant: South Korea and late industrialization, New York and Oxford: Oxford University Press. Arestis, P. and Sawyer, M. (1999), “The macroeconomics of industrial strategy”, in: K. Cowling (ed.), Industrial policy in Europe: Theoretical perspectives and practical proposals, London: Routledge. Asian Development Bank (2005), Asian Development Outlook 2005, ADB: Hong Kong, China. Athukorala, P. (2004), Trade policy Reforms and the Structure of Protection in Vietnam, paper prepared for the Asian Development Bank and the Vietnamese Government. Bardhan, P. (1971), “On the optimum subsidy to a learning industry: An aspect of the theory of infant-industry protection”, International Economic Review, 12, 54-70. Caves, R.E. (1987), “Industrial policy and trade policy: the connections”, in: H. Kierzkowski (ed.), Protection and competition in international trade. Essays in honor of W.M. Corden, Oxford: Basil Blackwell. Chamberlin, E. H. (1933), Theory of Monopolistic Competition, Cambridge, MA: Harvard University Press. Chang, H.J. (2002), Kicking Away the Ladder – Development Strategy in Historical Perspective, Anthem Press. Clark, J. (1915), “A contribution to the theory of competitive price”, Quarterly Journal of Economics, 28, 747-71. Clark, J. B. (1940) “Towards a Concept of Workable Competition”, American Economic Review, volume 30, 380-423. Cook, P. (2002), “Competition and its regulation: Key Issues”, Annals of Public and Cooperative Economics, 73:4, 541-558. 50 Cournot, A. (1838), Recherches sur les principes mathématiques de la théorie des richesses (Researches into the Mathematical Principles of the Theory of Wealth), English translation by Nathaniel J. Bacon, New York: Macmillan, 1897. Crew, M.A. and Rowley, C.K. (1970), “Anti-trust policy: Economics versus Management Science”, Moorgate and Wall Street, Autumn. Consumer Union Trust Society – CUTS (2003), Pulling Up. Our Socks: A Study of Competition Regimes of Seven Developing Countries of Africa and Asia: The 7-UP project, Rajasthan, India. Consumer Union Trust Society – CUTS (2006), Competition Law and Policy: Vietnam Country Report, Rajasthan, India. Day, A. (2004), Legal Reform and Economic Development in Vietnam and China: A Comparative Analysis, MA in Law and Diplomacy thesis, Medford MA: Fletcher School, Tufts University. de Soto, H. (1989), The Other Path: The Invisible Revolution in the Third World, Harper and Row, New York. Delrahim, M. (2005), “The Long and Winding Road: Convergence in the Application of Antitrust to Intellectual Property”, 13 George Mason Law Review 259. Doanh, L.D. (2004), “Enterprise Law”, paper presented at the Conference on Transitional Economies, Ha Noi, June. Dutz, M. A. and Hayri, A. (2000), “Does More Intense Competition Lead to Higher Growth?”, Policy Research Working Paper Series 2320, April, Washington, D.C.: The World Bank. Edgeworth, F. Y. (1881), Mathematical psychics: An essay on the application of mathematics to the moral sciences, London, U.K.: Kegan Paul; reprinted, New York: M. Kelly, 1967. Evenett, S.J. (2003), Links between Development and Competition Law in Developing Countries, Department for International Development, United Kingdom Evenett, S.J. (2003), “Can Developing Economies Benefit from WTO Negotiations on Binding Disciplines for Hard Core Cartels?”, UNCTAD Series on Issues in Competition Law and Policy, United Nations, Geneva. Forslid, R., Hackner, J., and Muren, A. (2005), “When do Countries Introduce Competition Policy?” C.E.P.R. Discussion Papers, CEPR Discussion Papers: 5162. Gal, M. (2003), Competition Policy for Small Market Economies, Cambridge: Harvard University Press. Geroski, P. (2005), “Competition Policy and National Champions,” speech presented at WIFO Vienna March, 2005. Glen, J., Lee, K. and Singh, A. (2003), "Corporate Profitability and the Dynamics of Competition in Emerging Markets: A Time Series Analysis," The Economic Journal, 113: 465-484. Glen, J., K. Lee, and A. Singh. 2001. "Persistence of profitability and competition in emerging markets", Economics Letters, 72:247-253. Grabowski, R. (1994), Import Substitution, Export Promotion, and the State in Economic Development, The Journal of Developing Areas, 28 (4), 4/94, 535-554. 51 Gual, J. (1995), “The three common policies: an economic analysis”, in: P. Buigues, A. Jacquemin and A. Sapir (eds.), European policies on competition, trade and industry. Conflict and complementarities, Surrey: Edward Elgar. Haller, S.A. (2009) ‘The impact of multinational entry on domestic market structure and investment’, International Review of Economics and Finance, 18: 52-62. Hamilton A. (1791), Reports of the Secretary of the Treasury on the Subject of Manufactures, Philadelphia, William Brown (1827). Huan, D.V. (2001), “Relationships between Competition Law and Other Specific Laws in Legal Regulations in Viet Nam,” Journal of Democracy and Law, 8: 13–17. Huy, V. Q. (2004), Competition Policy in Vietnam, in: Brooks, D.H. and Evenett, S.J. (eds.), Competition Policy and Development in Asia, London: Palgrave Macmillan. Hylton, K.N. and Deng, F. (2007), “Antitrust Around the World: An Empirical Analysis of the Scope of Competition Law and their Effects,” Antitrust Law Journal, 74:271. International Institute for Management Development (2000), World Competitiveness Yearbook, IMD, Switzerland. Jenny, F. (2004), Anti-Competitive Agreements: Meaning and Examples, Caribbean Dialogue, July–September. Jenny, F. (2006), "Cartels and Collusion in Developing Countries: Lessons from Empirical Evidence", World Competition Law and Economics Review, Vol. 29, Issue 1. Knight, F. (1946), “Immutable law in economics: its reality and limitations”, American Economic Review, XXXVI, 93-111. Kornai, J. (1980), Economics of shortage, Vol. A-B, Amsterdam, New York, Oxford: North- Holland. Kronthaler, F. (2007), Effectiveness of Competition Law: A Panel Data Analysis, Institut für Wirstchaftsforschung Halle, Halle (Saale). Lee, C. (2007), “Legal Traditions and Competition Policy”, in Cook, Fabella, and Lee (eds.), Competitive Advantage And Competition Policy in developing countries, Edward Elgar, Cheltenham. Lipsey, R.G. and Lancaster, R.K. (1956), “The General Theory of the Second Best”, Review of Economic Studies, vol. 25. List, F. (1885), “The National System of Political Economy,” London: Longmans, Green, and Company. Machovec, F. (1995), “Perfect competition and the transformation of economics,” London: Routledge. Mehta P. and Nanda M. (2003), “Competition Policy, Growth and Poverty Reduction in Developing Countries,” United Kingdom Competition Commission. Miroudot, S., Pinali, E. and Sauter, N. (2007), “The Impact of Pro-Competitive Reforms on Trade in Developing Countries”, OECD, Paris. Nicholson, M. W. (2004), Quantifying Antitrust Regimes, FTC Bureau of Economics Working Papers No. 267, Federal Trade Commission. Nickell, S. 1996. "Competition and Corporate Performance", Journal of Political Economy, 104:724-746. 52 Pangetsu, M. (2002), “Industrial policy and developing countries”, in B. Hoekman, A. Matoo, and P. English (eds), Development, Trade and the WTO: A Handbook, Washington DC: World Bank. Qiao, H. (2008), Vietnam: The Next Asian Tiger in The Making, Goldman Sachs Global Economics Paper No. 165, April Reekie, W.D. (1979), Industry, Prices and Markets, Philip Allan, Deddington. Robinson, J.V. (1933), The Economics of Imperfect Competition, London: Macmillan. 2nd ed., 1969. Rodrik, D. (1994). "King Kong Meets Godzilla: The World Bank and The East Asian Miracle," CEPR Discussion Papers 944, London, CEPR. Sawyer, M. (1985), The Economics of Firms and Industries: Theories, Evidence and Policy, Second Edition, Rutledge, London. Scherer, F. M. (1994), Competition Policies for an Integrated World Economy, Washington, DC: Brookings Institution. Schumpeter, J. (1954), History of Economic Analysis (ed. by Elizabeth Boody. Schumpeter), New York, Oxford University Press. Shepherd, W. (1997), The Economics of Industrial Organisation, 4th Ed., Prentice Hall, Upper Saddle River, New Jersey. Singh, A. (1995), How Did East Asia Grow So Fast? Slow Progress Towards an Analytical Consensus, Discussion Papers 97, Geneva, UNCTAD. Singh, A. (2002), Competition and Competition Policy in Emerging Markets: International and Developmental Dimensions, G-24 Discussion Papers 18, United Nations Conference on Trade and Development. Singh, A. and Dhumale, R. (2001), "Competition Policy, Development and Developing Countries", in: Arestis, P.; M. Baddeley and J. McCombie (eds.), What Global Economic Crisis? pp. 122-145. Palgrave. Singleton, R. C. (1997), Competition Policy for Developing Countries: A Long-Run, Entry- Based Approach, Contemporary Economic Policy, Vol. 15 (2), 1-11. Sowell, T. (1974), Classical Economics Reconsidered, Princeton NJ: Princeton University Press. Stewart T. (2004), “Is Flexibility Needed When Designing Competition Law for Small Open Economies? A View from the Caribbean,” Journal of World Trade, 725. Stewart, Clarke and Joekes (2007), Competition Law in Action: Experiences from developing countries, Canada’s International Development Research Centre. Thuy, T. (2004), Scientific Background for Determining the Degree of Competitive Restrictive Agreements and Exemption Criteria in the Competition Law, Conference Report, MOT, Research Project 2003-78-009. Tichy, G. (2001), "What do we know about success and failure of mergers?", Journal of Industry, Competition and Trade, Volume 1, Number 4, 347-394(48). Tybout, J. 2000. "Manufacturing Firms in Developing Countries: How Well Do They Do, and Why?", Journal of Economic Literature, vol.XXXVIII, March, pp.11-44. UNCTAD (2009), FDI Statistic Data, 15 July, 53 [15 July 2009]. Tiếng Việt Số liệu của Tổng Cục Thống Kê Các báo cáo của Chính phủ Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam: Hiện trạng và dự báo, Cục QLCT (2009) 54

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfNC18.pdf
Tài liệu liên quan