MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
1. Thời kỳ từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV 3
2. Từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI 14
3. Từ thế kỷ XVI - XVIII ở Đàng Ngoài 19
4. Thế kỷ XVI - XVIII ở Đàng Trong 21
5. Nửa đầu thế kỷ XIX (1802 – 1858) 23
LỜI NÓI ĐẦU
Vấn đề ruộng đất từ trước đến nay luôn là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều công trình khoa học lớn nhỏ khác nhau – nhất là vấn đề ruộng đất thời trung đại. Tìm hiểu về vấn đề ruộng đất cũng đồng nghĩa với việc tìm hiểu cơ sở của văn minh dân tộc ta trong lịch sử, bởi lẽ nền kinh tế nước ta cơ bản là sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở phân tích và tổng hợp các nguồn tư liệu còn lại cho đến ngày nay, chúng ta đã có những thành tựu đáng kể, nhờ đó phác hoạ được một bức tranh khá đầy đủ các mặt về tình hình ruộng đất Việt Nam thời kỳ trung đại.
Trong bức tranh chung toàn cảnh ruộng đất, cái chi phối nhất, chi phối chủ yếu đến tình trạng ruộng đất phải kể đến các chính sách về ruộng đất mà Nhà nước phong kiến trung ương ban hành. Với truyền thống Nhà nước tập quyền, các biện pháp cai trị áp dụng, ban hành có ảnh hưởng rất lớn đến bức tranh ruộng đất.
Bài giảng về Chế độ ruộng đất Việt Nam thời trung đại của thầy tôi, đã gợi cho tôi ý tưởng tìm hiểu sâu hơn về Chính sách của Nhà nước phong kiến Việt Nam đối với vấn đề ruộng đất. Cùng lật lại sử sách, chúng ta sẽ có cái nhìn khách quan toàn diện hơn
NỘI DUNG
Nền tảng kinh tế của nước ta từ thuở cha ông xưa vốn là kinh tế nông nghiệp mà chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước, gắn liền với nó là vấn đề thuỷ lợi, vấn đề ruộng đất và các hình thái ruộng đất theo cấp bậc vua chúa, quan lại và thường dân. Có thể nói, ruộng đất là vấn đề sống còn với nền kinh tế, với toàn xã hội.
Điểm qua từ thời dựng nước, sở hữu công làng xã đã chiếm ưư thế tuyệt đối. Biểu hiện của nó rõ nhất là ruộng đất thuộc về làng xã, người dân tự cai quản, lao động và sở hữu ruộng đất. Đại diện cho làng xã là Bồ chính (già làng). Bồ chính phân chia ruộng đất cho các gia đình với điều kiện họ thuộc vào làng xã,là thành viên của làng xã và thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ được quy định đối với làng xã. Mức độ phân phối giữa các đơn vị trong làng xã có thể không đồng đều, bởi lúc này đã xuất hiện sự phân hoá trong công xã, xuất hiện sự tư hữu tư liệu sản xuất làm của riêng xuất phát từ thực tế công cụ lao động bằng đồng, sắt ra đời làm tăng năng suất lao động, dẫn đến sự phân hoá giữa các làng xã dù chỉ ở mức sơ khai. Qua các di tích khảo cổ và sử sách cũ ta thấy hình thức sở hữu tư nhân hầu như chưa phát triển nhưng đã có những mầm mống đầu tiên vào cuối thời Đông Sơn. Những tiền đề đó đã tạo điều kiện cho chính sách ruộng đất của nhà nước phong kiến trong việc đi sâu vào quản lý, sử dụng ruộng đất thơì kỳ sau này.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3524 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách của Nhà nước phong kiến Việt Nam đối với vấn đề ruộng đất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Vấn đề ruộng đất từ trước đến nay luôn là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều công trình khoa học lớn nhỏ khác nhau – nhất là vấn đề ruộng đất thời trung đại. Tìm hiểu về vấn đề ruộng đất cũng đồng nghĩa với việc tìm hiểu cơ sở của văn minh dân tộc ta trong lịch sử, bởi lẽ nền kinh tế nước ta cơ bản là sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở phân tích và tổng hợp các nguồn tư liệu còn lại cho đến ngày nay, chúng ta đã có những thành tựu đáng kể, nhờ đó phác hoạ được một bức tranh khá đầy đủ các mặt về tình hình ruộng đất Việt Nam thời kỳ trung đại.
Trong bức tranh chung toàn cảnh ruộng đất, cái chi phối nhất, chi phối chủ yếu đến tình trạng ruộng đất phải kể đến các chính sách về ruộng đất mà Nhà nước phong kiến trung ương ban hành. Với truyền thống Nhà nước tập quyền, các biện pháp cai trị áp dụng, ban hành có ảnh hưởng rất lớn đến bức tranh ruộng đất.
Bài giảng về Chế độ ruộng đất Việt Nam thời trung đại của thầy tôi, đã gợi cho tôi ý tưởng tìm hiểu sâu hơn về Chính sách của Nhà nước phong kiến Việt Nam đối với vấn đề ruộng đất. Cùng lật lại sử sách, chúng ta sẽ có cái nhìn khách quan toàn diện hơn.
NỘI DUNG
Nền tảng kinh tế của nước ta từ thuở cha ông xưa vốn là kinh tế nông nghiệp mà chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước, gắn liền với nó là vấn đề thuỷ lợi, vấn đề ruộng đất và các hình thái ruộng đất theo cấp bậc vua chúa, quan lại và thường dân. Có thể nói, ruộng đất là vấn đề sống còn với nền kinh tế, với toàn xã hội.
Điểm qua từ thời dựng nước, sở hữu công làng xã đã chiếm ưư thế tuyệt đối. Biểu hiện của nó rõ nhất là ruộng đất thuộc về làng xã, người dân tự cai quản, lao động và sở hữu ruộng đất. Đại diện cho làng xã là Bồ chính (già làng). Bồ chính phân chia ruộng đất cho các gia đình với điều kiện họ thuộc vào làng xã,là thành viên của làng xã và thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ được quy định đối với làng xã. Mức độ phân phối giữa các đơn vị trong làng xã có thể không đồng đều, bởi lúc này đã xuất hiện sự phân hoá trong công xã, xuất hiện sự tư hữu tư liệu sản xuất làm của riêng…xuất phát từ thực tế công cụ lao động bằng đồng, sắt ra đời làm tăng năng suất lao động, dẫn đến sự phân hoá giữa các làng xã dù chỉ ở mức sơ khai. Qua các di tích khảo cổ và sử sách cũ ta thấy hình thức sở hữu tư nhân hầu như chưa phát triển nhưng đã có những mầm mống đầu tiên vào cuối thời Đông Sơn. Những tiền đề đó đã tạo điều kiện cho chính sách ruộng đất của nhà nước phong kiến trong việc đi sâu vào quản lý, sử dụng ruộng đất thơì kỳ sau này.
Trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, quan hệ sản xuất phong kiến phương Bắc đã xâm nhập trong đời sống nhân dân các công xã. Trước sự xâm lược của ngoại bang, nhân dân tập trung, co cụm lại như một phản ứng tất yếu, hình thành thế ứng xử của làng xã trước Nhà nước. Điều này đã làm chững lại quá trình phân hoá của làng xã. Ruộng đất công thời kỳ này vẫn được giữ nguyên, bảo lưu, chưa bị biến thành ruộng đất tư. Đó là cơ sở kinh tế giúp duy trì sự cố kết cộng đồng. Người nông dân trong làng xã cùng nhau cày cấy, lao động, tham gia công việc trị thuỷ và cùng hưởng thành quả mà chưa bị Nhà nước can thiệp. Cùng với những biến chuyển về kinh tế, trong xã hội hình thành lớp hào trưởng địa phương, có thế lực kinh tế ngày càng mở rộng dù bị chính quyền đô hộ chèn ép, khống chế. Do sự bất lực của chính quyền đô hộ trong việc kiểm soát làng xã người Việt, họ vẫn giữ vai trò quan trọng ở địa phương. Ruộng đất công xã bắt đầu chịu sự chi phối của tầng lớp này, tư hữu hoá diễn ra.
Sự chuyển biến xã hội và kết cấu giai cấp cuả Âu Lạc cũ còn chịu tác động bởi chính sách của các triều đại phương Bắc, chi phối ngày càng sâu vào tổ chức của xã hội cổ truyền người Việt. Điển hình là việc nhà Đường cho kê khai số hộ, định thuế các loại tô, dung, điệu và sau đó đổi lại là phép lưỡng thuế, cho phép các chính quyền đô hộ cướp đoạt ruộng đất của dân ta làm ruộng công cho chính quyền đô hộ quản lý, ban cấp ruộng đất, chức phận cho bọn quan lại cao cấp. Xã hội Việt Nam đã hình thành một tầng lớp địa chủ ít nhiều có thế lực ở địa phương thuộc nhiều nguồn gốc, xu hướng chính trị khác nhau. Trong thời kỳ này cùng tồn tại hai xu hướng: duy trì, bảo tồn và chi phối, can thiệp trong đó xu hướng thứ nhất dành ưu thế. Sở hữu công làng xã vẫn chiếm ưu thế.
Có thể nói từ trước thế kỷ X, sở hữu tư nhân đã tồn tại do ảnh hưởng của phân hoá xã hội, ảnh hưởng của phong kiến phương Bắc nhưng chưa đóng vai trò đáng kể.
1. Thời kỳ từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV
Trải hơn một ngàn năm dưới ách đô hộ của các triều đại phương Bắc, đất nước Âu Lạc của người Việt cổ đã có nhiều đổi thay. Mặc dầu luôn bị kìm hãm, áp bức nặng nề, nhân dân ta vẫn cố gắng vươn lên. Ruộng đất ngày càng được mở rộng, nông nghiệp lúa nước từng bước đạt được cải tiến, xã hội cũng bắt đầu có sự phân hoá sâu sắc. Ở các vùng gần trung tâm chính trị, xuất hiện một số trại chủ, địa chủ hoặc người Hán, người Hán Việt hoá hoặc tù trưởng địa phương, đồng thời cũng xuất hiện một tầng lớp nông dân phụ thuộc ở nhiều mức độ khác nhau, mặc dầu phần lớn các làng vẫn giữ được trạng thái cổ truyền của mình với tuyệt đại đa số nông dân là người tự do.
Bên trên, chế độ đô hộ của các triều đại phương Bắc với những thiết chế, quan chế, quan chức của nó ngày càng đầy đủ và trở nên khá quen thuộc. Đến thế kỷ X, khi nước ta giành được độc lập hoàn toàn, phong kiến hoá đã trở thành một xu thế tất yếu.
Đất nước ta qua các triều Ngô - Đinh – Tiền Lê, nhà nước phong kiến chưa có chính sách ruộng đất cụ thể. Các triều đại đều cố gắng thực thi quyền sở hữu ruộng đất Nhà nước, vừa để khẳng định quyền lực, vừa để nắm lấy thần dân thu tô thuế. Các quan hệ ruộng đất tồn tại thời Bắc thuộc và đầu thế kỷ X vẫn tiếp tục duy trì theo quan niệm “ đất vua chùa làng ”.
Dưới thời họ Khúc, chính quyền dân tộc đầu tiên đã có thể ban hành chính sách “quân bình thuế” và “tha bỏ lực dịch” để khẳng định quyền chi phối của mình đối với toàn bộ ruộng đất trong nước. Ý thức về quyền lực tập trung của Nhà nước quân chủ dần dẫn đến sự hình thành quan niệm về quyền sở hữu tối cao của Nhà nước đối với toàn bộ ruộng đất trong nước. Đinh Bộ Lĩnh sau khi lên ngôi hoàng đế đã phong ấp hay phong hộ nông dân cho các tướng lĩnh có công như Trần Lãm, Nguyễn Tấn, Phạm Phổ…Đến nhà Tiền Lê cũng thực hiện việc phong ấp cho các hoàng tử và giao cho họ cai quản các địa phương của mình. Một số quan chức cao cấp như Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn cũng được phong ấp ở Đằng Châu. Vua Lê Hoàn còn sử dụng một số vùng đã tịch thu được của các sứ quân đểlàm ruộng tịch điền, phục vụ nghi lễ, khuyến khích sản xuất nông nghiệp và lấy thóc lúa đưa vào kho Nhà nước. Các khu như Bố Hải Khẩu (vùng đất lập nghiệp cũ của sứ quân trần Lãm), Đỗ Động (của sứ quân Đỗ Cảnh Thạc), Bàn Hải, Đọi Sơn…đều là tịch điền của Nhà nước. Nhà nước sử dụng những người bị tù tội hay nông dân làm nghĩa vụ lao dịch cày cấy, toàn bộ thu hoạch thuộc về Nhà nước. Bài minh trên tấm bia “Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh” còn ghi, vua Đinh Tiên Hoàng đã phong Lê Lương – người Đông Sơn, Thanh Hoá - làm Đô quốc dịch sứ của quận Cửu Chân, thuộc Ái Châu, cai quản cả một vùng đất rộng lớn “Đông đến Phân Địch, nam đến Vũ Long, tây đến đỉnh núi Ma La, bắc đến lèn Kim Cốc” và cho con cháu ông được đời đời làm quan coi đất ấy. Thực ra vùng đất rộng lớn đó vốn thuộc quyền cai quản của dòng họ Lê Lương từ trước và vốn là một lãnh chúa lớn của địa phương này. Rõ ràng, việc phong cấp mang ý nghĩa khẳng định quyền sở hữu tối cao về ruộng đất của Nhà nước mới.
Ruộng đất trong nước nhìn chung thuộc sở hữu làng xã. Nhân dân trong làng theo tập tục chia đều ruộng cho nhau để cày cấy và hàng năm nộp thuế cho Nhà nước.Những làng mới được thành lập bằng phương thức khai hoang cũng sử dụng phương thức phân chia này. Tất nhiên không tránh khỏi sự tồn tại của các trang trại của con cháu các viên quan đô hộ cũ thời Đường hoặc các thổ hào địa phương. Ruộng đất tư hữu hình thành tuy chưa nhiều, chưa phổ biến.
Phải đến thời Lý, nhà nước mới bắt đầu có chính sách cụ thẻ trong vấn đề ruộng đất.
- Đối với ruộng đất công làng xã
Làng xã hình thành sớm ở nước ta, nhưng khái niệm làng, chạ nảy sinh từ xa xưa được duy trì cho đến các thời kỳ sau này. Theo sử cũ chúng ta biết rằng thế kỷ X bên cạnh giáp vẫn còn hương, thôn, động, sách, trang trại. Công cuộc khẩn hoang mở rộng diện tích canh tác càng khẩn trương thì số làng xã lập ra càng nhiều. Trên đà phát triển của chế độ chính trị, triều Lý và Trần ngày càng nắm chắc hơn các làng xã - đơn vị kinh tế, hành chính của quốc gia. Việc củng cố quyền thống trị của Nhà nước Trung ương đối với các làng xã và việc nắm số đinh trong nước không chỉ liên quan đến yêu cầu chính trị, quân sự. Thông thường các làng cổ truyền đều có bộ phận ruộng công và dân đinh là những người được hưởng, họ phải chịu mọi nghĩa vụ, sưu dịch đối với Nhà nước. Sự phát triển của xã hội đòi hỏi Nhà nước phải nắm được tổng diện tích ruộng đất trong nước. Sử cũ cho ta thông tin về vấn đề này: Năm 1092 nhà Lý “định số ruộng thu tô mỗi mẫu 3 thăng để cấp lương cho quân”. Không một nguồn tư liệu đương thời nào nói đến khái niệm “điền bạ”. Mãi đến năm 1398 chủ trương này mới được đặt ra. Vấn đề ở đây là nếu không có điền bạ thì nhà Trần làm cách nào để nắm được số ruộng đất cụ thể để đánh thuế theo đúng chế độ, phong thưởng hay ban cấp cho những người có công, cung nữ, phi tần, hoặc cấp thái ấp cho các vương hầu? Mà thời Trần, làng xã đã phân hoá rất nhiều, rất nhiều làng không có ruộng công, nhiều làng lại có cả ruộng công, ruộng tư. Vì vậy cần phải có hình thức nào đó để quản lý số ruộng đất cần thiết. Trong mộc bài Đa Bối có ghi giới hạn Đông Tây Nam Bắc đã ghi rõ trong địa tô, trong giấy tờ. Có lẽ đây là một hình thức quản lý ruộng đất đương thời và với nhiều hình thức thô sơ khác, nhà Trần mới mạnh dạn chủ trương bán ruộng công cho dân mua làm ruộng tư hoặc làm các việc khác.
Ruộng công làng xã tuy thuộc sở hữu Nhà nước nhưng vẫn do làng xã quản lý. Nhà nước Trung ương giao cho các làng xã quản lý và lo việc phân chia cày cấy, thu thuế tô theo đúng lệ. Làng xã có quyền hưởng thụ toàn bộ ruộng đất công của mình, có quyền phân chia cho các thành viên đến tuổi (18 tuổi) theo cách thức và tục lệ của mình.
Chúng ta đề cập đến vấn đề ban cấp ruộng đất hộ nông dân. Nhà nước tiến hành ban cấp bổng lộc cho các quan lại, phong thưởng cho những người có công bằng làng ấp hay hộ nông dân. Thời Lý, phần lớn các đại thần có công đều được ban thực ấp. Theo Thần tích địa phương, thái uý Tô Hiến Thành được ban thực ấp ở An Lão (Bình Lục – Hà Nam Ninh). Có thể thấy ban thực ấp tức là cho hưởng tô thuế của ấp đó. Hình thức ban thực ấp không thấy sử đời Trần ghi lại, song được thi hành khá đều đặn trong các triều đại Lê. Chỉ trong các nguồn sử liệu tư nhân như Thần tích, gia phả, chúng ta mới bắt gặp khái niệm thực ấp thi hành trong đời Trần.
Bên cạnh chính sách ban thưởng thực ấp, nhà Lý còn thực hiện hình thức ban thưởng khác là ban thực ấp kèm thật phong. Trong bia Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh dựng cuối năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 (1125) ở Phủ Lý (Đông Sơn - Thanh Hoá) và Hoàng Việt thái phó lưu quân mộ chí dựng năm Thiên Thuận thứ 3 (1130) thì Thái uý Lưu Khánh Đàm được ban “thực ấp 6700 hộ (mộ chí ghi 6000 gia) ăn thật phong 300 hộ”. Hay tri châu Hà Hưng Tông có thực ấp 1900 hộ và thật phong 900 hộ, hoặc Lý Bất Nhiễm tước hầu, có thực ấp 7500 hộ, thật phong 1500 hộ… Hình thức này là đặc trưng của thời Lý, sang thời Trần không còn nữa. Vậy thực chất của nó là gì? Trước hết đó là hình thức đánh giá công lao và đóng góp của người được ban cấp đối với nhà Lý. Chức, hàm, tước càng cao thì số lượng ban cấp càng nhiều. Lý Thường Kiệt và sau ông là Đỗ Anh Vũ có chức hàm gần giống nhau và đều được ban tước là Việt Quốc Công thì số lượng thực ấp và thật phong tính theo hộ như nhau: thực ấp 1 vạn hộ, thật phong 4 nghìn hộ.
Theo nhiều nhà sử học, phần thực ấp (số lượng hộ được ăn) là chỉ có danh mà không có thật. Tức là người được ban cấp trên danh nghĩa được nhận một số lượng thực ấp phù hợp và xứng đáng với quan chức và đóng ghóp của người đó. Nhưng do thực ấp của triều đình không đủ để thực hiện việc ban cấp theo đúng số lượng được ghi. Cho nên nhà Lý đã một mặt đánh giá công lao của người được ban thực ấp, mặt khác lại quy định cụ thể số hộ mà họ được thật sự phong thưởng.
Số lượng thật phong có thể là một thực tế. Thật phong cũng tính theo hộ. Mỗi đơn vị hộ trong thật phong vẫn phải đóng một số tô thuế nhất định cho triều đình theo thực trạng tài sản thì nay chuyển cho người được cấp phong. Như vậy hình thức phong thưởng này không đặt ra một sự tương ứng với số ruộng đất hay một số làng xã nào đó. Nghĩa là ở đây Nhà nước Trung ương vẫn giữ cho mình quyền sở hữu ruộng đất. Khi người được phong chết hay vì lý do nào đó bị cách chức, Nhà nước không cần thiết phải thực hiện một hành vi sung công điền sản hay lấy lại ruộng đất. Chế độ thực ấp kèm thật phong không tạo điều kiện cho sự củng cố sở hữu ruộng đất phong kiến tư nhân sinh ra điền trang, thái ấp.
Sang thời Trần, bên cạnh chủ trương phong thưởng bằng ruộng đất, Nhà nước thi hành chính sách ban cấp thang mộc ấp. Đây là hình thức du nhập từ Trung Quốc phong kiến, thang mộc ấp là đất của nhà vua ban cho chư hầu để lấy thu nhập chi phí vào việc “trai giới” khi về chầu. Nó cũng có nghĩa là đất gốc của một thời đại
Các hình thức ban thưởng kiểu thực ấp, thang mộc ấp bằng đơn vị làng, ấp chỉ phù hợp với thời Lý Trần, khi Nhà nước Trung ương chưa nắm chắc được số lượng ruộng đất của từng địa phương trong nước và chưa đặt ra cách ban thưởng bằng ruộng đất. Có khả năng ruộng đất công làng xã thuộc sở hữu Nhà nước chiếm ưu thế. Việc ban thưởng theo đơn vị làng, ấp, do đó ít ảnh hưởng đến bộ phận ruộng đất tư hữu của nhân dân.
Một hình thức ban thưởng nữa là thác đao điền. Tài liệu ghi về thác đao điền sớm nhất là Việt điện u linh (đầu thế kỷ XIV) được Đại Việt sử ký toàn thư chép lại: “Trong khoảng niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ (1014 – 1046) theo Thánh Tông đi đánh ở miền Nam… Khi thắng trận trở về định công, Phụng Hiểu nói: “Thần không muốn thưởng tước, xin cho đứng trên núi Băng Sơn ném đao lửa đi xa, đao rơi xuống chỗ nào trong đất công (nguyên văn là quan địa) thì xin ban cho làm sản nghiệp. Vua nghe theo. Phụng Hiểu lên núi, ném đao xa đến hơn 10 dặm, đao rơi xuống hương Đa Mi. Vua bèn lấy ruộng ấy ban cho, tha thóc thuế cho ruộng ném đao ấy. Vì vậy người Châu Ái gọi (ruộng) thưởng công là (ruộng) ném đao””.
Như vậy thời nhà Lý, Nhà nước đã lấy ruộng công làng xã phong thưởng cho những người có công một cách quy mô. Số ruộng này theo Lý Tế Xuyên và Phan Huy Chú, được biến thành ruộng tư, nhưng theo các nguồn sử liệu khác thì chỉ là ruộng thế lộc (nghĩa là Nhà nước vẫn giữ quyền sở hữu). Đến nhà Trần hình thức thác đao không còn được đề cập đến nữa.
Đến đời Trần, hình thức phong cấp đáng lưu ý là thái ấp. Thái ấp và điền trang đều là những ruộng đất của tầng lớp quý tộc quan liêu đời Trần, nhưng tính chất và đặc điểm lại khác nhau. Thái ấp là ruộng đất do vua ban cấp cho các quý tộc triều Trần có công, quy mô tương đối nhỏ, chỉ 1 – 2 xã. Trên danh nghĩa, ruộng đất thái ấp thuộc quyền sở hữu của nhà nước, triều đình có quyền lấy của người này ban cho người khác. Quý tộc có quyền sử dụng và hưởng hoa lợi về đất đai. Quyền chiếm dụng ruộng đất có điều kiện và hạn chế, mang tính thụ động cuả các quý tộc đối với các thái ấp đảm bảo cho thái ấp không có khả năng phát triển các yếu tố cát cứ hay chống lại chính quyền trung ương (bởi quy mô nhỏ bé của nó) như các thái ấp lãnh địa ở Tây Âu thời Trung đại.
Điền trang là các trang trại lớn của các quý tộc, họ trực tiếp quản lý và sử dụng sức lao động của gia nô, nô tì và có quyền thừa kế. Điền trang thuộc sở hữu tư nhân. Trong khoảng một thế kỷ, kinh tế điền trang quý tộc đã phát triển mạnh, chủ yếu ở bãi bồi ven sông. Chế độ điền trang hàm chứa những yếu tố và xu thế cát cứ.
Việc ban cấp thái ấp cho các vương hầu ở thời Trần đánh dấu bước phát triển trên con đường phong kiến hoá của chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất công làng xã. Đồng thời việc chiếm hữu có điều kiện các thái ấp tạo điều kiện cho các vương hầu trở thành những quý tộc có quyền lực.
Tóm lại, thế kỷ X đến thế kỷ XV, nhất là thời Lý Trần, bằng nhiều hình thức khác nhau từ phong hộ đến phong đất, Nhà nước quân chủ Trung ương tập quyền đã dần dần tăng cường quyền lực của mình đối với ruộng công làng xã. Việc ban thưởng bằng ruộng đất mở đầu cho việc sử dụng ruộng đất làm bổng lộc cho các quan lại. Chế độ sở hữu về ruộng đất lấn thêm một bước vào quyền chiếm hữu của làng xã.
- Đối với ruộng đất tư
Nhà nước phong kiến Việt Nam trung đại khuyến khích và tôn trọng hình thức này.
Vào thời Lý, chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân đã phổ biến và phát triển. Hiện tượng mua bán, kiện tụng và cúng tặng ruộng đất đã xuất hiện ở nhiều nơi và Nhà nước đã ban hành nhiều điều luật công nhận quyền tư hữu này. Vua Anh Tông đã quy định phép chuộc ruộng và nhận ruộng, ruộng cầm đợ trong 20 năm được chuộc, tranh nhau ruộng đất trong vòng 5 năm hay 10 năm thì được quyền kiện. Có ruộng vườn hoang mà người khác cày cấy thì tranh nhận lại không quá 1 năm, ai làm trái bị phạt 80 trượng. Ruộng đã bán đoạn có khế ước thì không được chuộc, ai trái cũng bị 80 trượng. Tranh nhận ruộng ao mà dùng binh khí đánh tử thương cũng bị 80 trượng, xử tội đồ và đem ruộng ao trả cho người bị tử thương. Như vậy nhà Lý đã chấp nhận nguyên tắc ruộng chiếm giữ lâu năm thì thành tư hữu, thậm chí tạo điều kiện cho bọn cường hào, địa chủ địa phương cướp chiếm ruộng vườn bỏ hoang của nhân dân lao động.
Văn bia Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh có ghi sự kiện tranh chấp ruộng đất “Năm Tân Mùi (1091) có hai chàng phò ký lang họ Thiều và họ Tô xin lại khoảnh ruộng đất của tổ tiên là quan bộc xạ Lê Lương. Vua xét lời tâu bèn trả lại giáp Bối Lý cho thuộc về họ hàng Lê Công. Do đó mùa thu năm ấy, thái uý Lý Công đến tận nơi, cho chuộc ruộng đất, lập bia đá và chia ruộng công cho hai giáp, rồi ông lại tới đầm A Lôi, chia một nửa đầmcho giáp Bối Lý, một nửa đầm cho giáp Viên Đàm ”. Hiện tượng con cháu đòi lại ruộng đất xa xưa của quan bộc xạ Lê Lương thời Đinh Tiên Hoàng cách đó hơn 100 năm là khẳng định quyền thừa kế ruộng đất. Đầu năm 1128, Lý Thần Tông “xuống chiếu rằng: phàm dân có ruộng đất bị sung công cùng là bị tội phải làm điền nhi thì đều được tha cả”. Sau đó để hạn chế sự kiện tụng và tranh chấp ruộng đất, năm 1135, Lý Thần Tông lại quy định: “Những người đã bán ruộng ao không được tăng tiền lên mà chuộc lại, làm trái phải tội ”.
Như vậy mua bán ruộng đất đã là hiện tượng tương đối phổ biến và quy định của pháp luật khá cụ thể. Nhà nước công khai khẳng định quyền mua bán ruộng đất của các tầng lớp xã hội. Hình thức kinh doanh và đơn vị canh tác ruộng đất tư hữu này cũng khó xác định cụ thể. Có thể thấy rằng hình thức bóc lột chủ yếu là tá điền nộp tô kết hợp kiểu bóc lột lao dịch.
Ở thời Trần, chế độ sở hữu tư nhân phát triển lên một bước cao hơn. Ngay từ năm 1227, do sự phát triển của việc mua bán và tranh chấp ruộng đất, nhà Trần đã phải quy định rõ về việc điểm chỉ lên các giấy tờ, văn khế mua bán ruộng đất, của cải của tư nhân. Sự phát triển mạnh mẽ cuả chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất buộc nhà Trần phải công nhận và bảo vệ nó. Năm 1254, nhà Trần thực hiện một chủ trương chưa từng có từ trước tới nay là bán ruộng quan (quan điền) cho dân mua làm ruộng tư, mỗi một diện là 5 quan. Có lẽ đây là đòi hỏi của tư hữu ruộng đất, nhưng việc làm của triều đình đã mở rộng cửa cho ruộng đất tư hữu và sự thay đổi của các chủ sở hữu. Tiền tệ thâm nhập mạnh mẽ vào ruộng đất, ruộng đất trở thành hàng hoá qua bán, trao đổi tạo ra cho xã hội một tầng lớp đặc biệt là địa chủ thường hay địa chủ thứ dân và tầng lớp tiểu nông tư hữu nhỏ phổ biến trong xã hội.
Năm 1248, nhà Trần tiến hành đắp đê trong cả nước. Để bảo vệ quyền lợi tư hữu ruộng đất của dân, chính quyền đã hạ lệnh cho các quan địa phương nếu đắp vào ruộng dân thì đo đạc mà đền bù bằng tiền. Việc mua bán ruộng đất công khai, hợp pháp lại đựơc nhà nước ủng hộ bằng pháp lệnh năm 1254 làm cho sở hữu địa chủ phát triển mạnh thêm. Nhưng chính sự mua bán ruộng đất cũng làm cho tính chất sở hữu trong thành phần kinh tế này luôn dao động, không tập trung, không ổn định như thái ấp, điền trang. Lệnh bán ruộng công làm ruộng tư năm 1254 cũng tạo điều kiện cho gia đình tiểu nông mua thêm ruộng đất. Những năm mất mùa đói kém là lúc mà ruộng đất chuyển từ dân nghèo vào địa chủ. Cuối mùa xuân 1292, tình trạng mua bán ruộng đất lại dồn dập hơn. Triều đình phải ra lệnh quy định thể thức làm văn tự bán đoạn hay độ ruộng đất, lại xuống chiếu rằng những người mua dân lương thiện thì cho chuộc lại, ruộng đất và nhà ở thì không theo luật này.
Sản xuất tiểu nông cộng sinh với các loại hình quan hệ sản xuất khác nhau. Các thành phần kinh tế điển trang, thái ấp, địa chủ…đều dựa trên sản xuất tiểu nông dưới những hình thức và mức độ bóc lột khác nhau. Và trên một hàm nghĩa rộng lớn hơn: nông dân “tự do”, nông dân tá điền, nông nô (không loại trừ một bộ phận gọi là nô) đã hoà vào nhau lập thành một thành phần kinh tế xã hội rộng lớn. Nó góp phần rất lớn cùng với sở hữu ruộng đất Nhà nước, hạn chế sự phát triển của điền trang, thái ấp, hạn chế con đường phong kiến theo kiểu lãnh địa bóc lột nông nô trong thế kỷ XIII và các thế kỷ sau.
Đến cuối thế kỷ XVI, xã hội Đại Việt thời nhàTrần lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng. Điều trông thấy rõ nhất là sự suy yếu đến bất lực của chính quyền Trung ương. Nhà nước hầu như không điều hành nổi bộ máy quan lại và các địa phương. Hàng loạt các biến đổi đã diễn ra trong suốt từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV trong hệ thống bộ máy nhà nước.
Nhà nứơc Trung ương không ngừng tìm mọi biện pháp để củng cố quyền lực mà một trong những vấn đề then chốt là tìm cách nắm chắc quyền quản lý ruộng đất, nhằm hình thành quyền sở hữu tối cao về ruộng đất trên thực tế (tức là bao gồm cả quyền tịch thu hay sung công ruộng đất tư nhân trong những trường hợp cần thiết). Quá trình này bắt đầu từ thời Lý khi xu hướng thống nhất quốc gia giành được ưu thế hoàn toàn. Năm 1092 vua Lý Nhân Tông ra lệnh cho cả nước lập sổ điền bạ để thu tô. Đây là mốc mở đầu quá trình can thiệp vào quản lý toàn bộ đất đai trong cả nước.
Quá trình phát triển tự nhiên của của sở hữu tư nhân, sự phát triển của ruộng tư là hiện tượng có tính quy luật. Đến nhà Trần, nhà nước có những chính sách khuyến khích thì sự phát triển đó đặc biệt được đẩy mạnh: 1256 Nhà nước bán quan điền; 1266 vua xuống chiếu cho phép vương hầu, côngchúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán để khai khẩn ruộng hoang, lập ra điền trang. Sở hữu tư nhân phát triển mạnh mẽ. Ruộng đất tư hữu phát triển không chỉ trên vùng đất mới khai hoang mà còn qua cả con đường chuyển hoá từ ruộng công sang ruộng tư, tức là bao gồm cả quá trình tư hữu hoá ruộng đất công. Rõ ràng ở đây tồn tại một hiện tượng nghịch lý: Nhà nước ra sức củng cố quyền lực của chính quyền trung ương, đồng thời có những tác động thuận chiều cho sở hữu tư nhân dưới mọi hình thức phát triển mạnh. Sở hữu làng xã ngày càng bị thu hẹp và chịu sự chi phối của thế lực địa phương. Sở hữu phong kiến lớn ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ ruộng đất.
Sở hữu tư nhân phát triển không những đụng chạm đến diện tích đất công mà còn kéo theo những chuyển biến về cấu trúc xã hội. Xã hội tồn tại những mâu thuẫn cần giải quyết, đòi hỏi phải có một sự cải cách.
Tháng 7 năm 1397, Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn chế ruộng đứng tên (ruộng tư). Sử ghi lại: “Các đại vương, trưởng công chúa không bị hạn định số ruộng, cho đến thứ dân, ruộng không quá 10 mẫu. Người nào nhiều ruộng đựơc phép lấy ruộng chuộc tội, số ruộng thừa ra thì sung công ”. Để tạo điều kiện thực hiện chính sách hạn danh điền, năm 1398, Hồ Quý Ly ra lệnh những người có ruộng đất tư phải cung khai diện tích thuộc sở hữu của mình và cắm thẻ ghi rõ họ tên trên bờ ruộng. Nhà nước cũng giao cho các quan phủ, châu, huyện phải cùng nhau đi đo, khám và lập sổ sách. Thời hạn hoàn thành công việc này là 5 năm, thửa nào không có thẻ cắm là ruộng không chủ , bị sung công.
Chính cách hạn điền của Hồ Quý Ly là sự khẳng định sự xác lập trên thực tế quyền sở hữu tối cao của Nhà nước. Với quyền lực đó, Nhà nước đứng ra tiến hành một cuộc tổng điều chỉnh trên quy mô cả nước. Đây là lần đầu tiên Nhà nước công khai dùng biện pháp cứng rắn can thiệp trực tiếp vào quyền sở hữu cá nhân, kể cả ruộng tư của tầng lớp quý tộc. Nó còn trực tiếp chống lại khuynh hướng phát triển của sở hữu phong kiến lớn và thông qua đó khôi phục lại quyền sở hữu trên một bộ phận ruộng đất quan trọng. Nhà nước sử dụng quyền lực để bảo vệ cơ sở kinh tế.
Thực chất chính sách nàylà nhằm củng cố địa vị của chính quyền trung ương, của thiết chế tập quyền. Trong hoàn cảnh lúc đó, chính sách nàylà biểu hiện của thái độ đoạn tuyệt với mô hình kinh tế xã hội cũ, với phương thức cai trị theo kiểu “thân dân” chuyển sang hình thức chuyên chế.
Theo phép hạn danh điền thì quyền lợi của đại vương và trưởng công chúa không bị đụng chạm đến. Loại đối tượng thứ hai được miễn trừ là các sở hữu tư nhân có 10 mẫu ruộng trở xuống, nghiã là tuỵêt đại địa chủ và toàn bộ nông dân có sở hữu ruộng tư - tầng lớp đại diện cho hình thức kinh thế tiến bộ lúc đó - không bị chính sách hạn điền động chạm đến. Đối tượng bị chĩa mũi nhọn là các chủ sở hữu có hơn 10 mẫu ruộng mà địa vị xã hội không phải đại vương hay công chúa, chủ yếu là các chủ điền trang. Mục đích là nhằm xoá bỏ loại hình kinh tế điền trang.
Có thể nghĩ rằng chính sách hạn danh điền của Hồ Quý Ly không được thực hiện một cách rộng khắp và triệt để. Năm 1399, nhân vụ mưu sát Hồ Quý Ly bị bại lộ, một số tướng soái của nhà Trần cùng hơn 370 “tòng phạm” bị giết, gia tài điền sản của họ bị tịch thu. Tổng diện tích ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước tănglên đáng kể và còn sung công một lượng lớn nô tỳ.
Năm 1401, Hồ Quý Ly ban hành phép hạn nô: “chiếu theo phẩm cấp mà được nuôi nhiều hay ít khác nhau. Số thừa ra nộp lên nhà vua”. Đây là biện pháp không thể tách rời chính sánh hạn điền nhằm hạn chế gia nô của mỗi quý tộc, đồng thời ngăn chặn quá trình nông nô hoá đang phát triển lan tràn. Nó không phải là chính sách nhằm giải phóng nô tỳ mà chủ yếu và trước hết nhằm bảo vệ quỳên kiểm soát dân đinh của chính quyền trung ương.
Như vậy vào cuối thế kỷ XIV, chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất bị thu hẹp lại, chế độ sở hữu ruộng đất lớn, sở hữu tư nhân phát triển mạnh. Chế độ sở hữu điền trang của quý tộc đặc biệt nổi bật, nhưng vẵn nằm trong khuôn khổ liên kết chặt chẽ với bên ngoài chứ không phải tách biệt hoàn toàn – song cũng đe doạ làm sụp đổ ưu thế của chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất. Trước những mâu thuẫn đó, chính quyền Hồ Quý Ly đẫ tiến hành cải cách nhằm hạn chế sự phát triển chế độ nông nô, nô tỳ, tước đoạt bớt ruộng đất tư hữu, khôi phục ưu thế của chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất và của chế độ chiếm hữu làng xã. Nó còn làm hãm lại bước phát triển cuả quan hệ sản xuất phong kiến.
Vấn đề ở đây là xu thế phát triển của quan hệ sản xuất phong kiến là tất yếu. Cải cách của Hồ Quý Ly mở rộng diện tích công trên cơ sở mối quan hệ cũ không giải quyết được những vấn đề xã hội đặt ra.
2. Từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI
Sau nhà Hồ, ách thống trị của nhà Minh đặt lên nước ta, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta đã nổ ra, kết quả là nhà Lê thành lập với chiến thắng của Lê Lợi. Vừa lên ngôi, nhà Lê đã đảm nhận sứ mệnh lịch sử to lớn qiải quyết các vấn đề xã hội đặt ra
Ngay từ 1427, Lê Lợi đã ra lệnh thu thuế ruộng công để tích trữ và kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê quán nhận lại ruộng đất cày cấy và xây dựng lại làng xóm. Năm 1428, nhà Lê hạ lệnh làm sổ ruộng sổ hộ, ra lệnh cho các địa phương thống kê số ruộng đất của các quan ty ngạch cũ, các thế gia triều trước…dâng nộp lên vua. Nhà Lê đã khẳng định quyền sở hữu tối cao của mình với lãnh thổ quốc gia, đã sung công được hàng loạt điền trang cuả các quý tộc Trần, Hồ tuyệt tự, hàng loạt thửa ruộng tư của các địa chủ, nhân dân bị chết trong chiến tranh, hàng loạt ruộng đất tư của bọn Việt gian bán nước và quân xâm lược. Trên cơ sở đó nhà Lê ban hành các chính sách ruộng đất rộng rãi và thống nhất nhằm giải quyết các vấn đề mâu thuẫn đang xảy ra trong xã hội.
- Phương thức phong thưởng ruộng đất
Nhà Lê phong thưởng ruộng đất cho các công thần. Trên tấm bia Quốc triều tả mệnh công thần, Lê Chính ngay trong buổi đầu gặp Lê Lợi, nhờ có công lớn, đã được phong Lân hổ vệ tướng quân, tước quan nội hầu, ban thưởng 100 mẫu quan điền. Cách phong thưởng đó được nhà Lê biến thành chính sách cụ thể cho tướng sĩ sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng.
Ruộng đất phong thưởng nói chung là ruộng của các họ tuyệt tự trong chiến tranh, ruộng bỏ hoá, đất hoang có thể khai khẩn được. Nhà nước không lấy ruộng đất công đang được cày cấy và chịu thuế để phong thưởng cho các công thần. Nhà Lê còn thi hành chính sách phong thưởng ruộng đất cho các công thần ở các đời vua sau. Ruộng đát được dùng gồm hai loại: ruộng công làng xã (quan điền) và ruộng ngoài sổ thuế, đất hoang tự khai khẩn được.
Chính sách ban thưởng ruộng đất cho các công thần ở buổi đầu Lê sơ có tác dụng lớn trong việc khôi phục sản xuất nông nghiệp, thì chính sách phong thưởng ở các triều vua sau chủ yếu là một sự phân chia quyền thu địa tô nhưng gặp nhau là đều là sự phân chia quyền bóc lột nhân dân lao động giũa Nhà nước và quan lại, mở rộng số địa chủ trong nước. Con đường tư hữu hoá ruộng phong thổ trở thành tất yếu.
- Chính sách ban cấp ruộng đất
Chính sách ban cấp ruộng đất còn gọi là chế độ lộc điền, mục đích nhằm gia tăng quyền lực thực tế của ruộng đất công làng xã cuả Nhà nước. Trước Lê Thánh Tông, Nhà nước vẫn tiếp tục thực hiện chính sách ban cấp hộ nông dân để làm bổng lộc cho quan lại. Phải đến năm 1477, dưới triều vua Lê Thánh Tông chính sách ban cấp lộc điền mới chính thức được ban hành. Chính sách này quy định: quý tộc, quan lại từ hoàng thái tử cho đến tòng tứ phẩm đều được cấp hàng năm một số tiền nhất định như: Hoàng thái tử 500 quan, Thân vương (Hoàng tử) 200 quan, Tự thân vương (con đầu của hoàng tử) 140 quan… Ruộng đất dùng để ban cấp làm lộc điền là ruộng công làng xã. Ngoài ra Nhà nước còn quy định rõ: ruộng đất thế nghiệp được truyền lại cho con cháu, hưởng lộc đời đời. Đến năm 1473 Lê Thánh Tông còn ban hành chế độ cấp đất ở kinh thành cho các công thần, quan lại. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước trung ương ban hành một quy chế đầy đủ về việc cấp ruộng lộc cho các quý tộc, quan lại, trong đó đặc biệt ưu hậu đối với các hoàng tử, công chúa. Họ không những được cấp hàng trăm mẫu ruộng thế nghiệp chứ không phải 2 – 3 chục mẫu như thời Trần.
Chế độ lộc điền của nhà Lê đã góp phần củng cố và phát triển chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng như góp phần xác lập những quan hệ sản xuất địa chủ, tá điền và chế độ bóc lột địa tô. Chế độ lộc điền là một chuyển biến quan trọng của chế độ bổng lộc cho quan lại – trước đây cấp bằng hộ có thuế - phù hợp với bước phát triển mới của chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất và của những quan hệ sản xuất trong quá khứ. Nó tiến thêm một bước quan trọng vào chế độ chiếm hữu ruộng công của làng xã, khẳng định tính chất phong kiến của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất.
- Chính sách đối với ruộng công làng xã
Sau chiến tranh, Nhà nước trung ương đã nắm trong tay một số ruộng khá lớn, nếu không khôi phục sản xuất, số ruộng công không thể tạo điều kiện giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị lớn của xã hội. Trong suốt quá trình xây dựng Nhà nước, vua Lê sử dụng ruộng đất công để ban cấp, phong thưởng cho công thần, quan lại, làm thu hẹp một phần đáng kể ruộng đất công trong cả nước. Qua hai lần thi hành chính sách phân chia ruộng đất bằng chính sách quân điền, nhà Lê đã quản lý và sử dụng được số ruộng công còn lại.
Năm 1428 Lê Lợi hạ lệnh cho quan địa phương phải kê khai tất cả các loại ruộng để lập sở ruộng. Vua ra phủ dụ: “Chiến sĩ thì nghèo, du sĩ thì giàu, người chiến sĩ phải chiến đấu thì không có tấc đất để ở, kẻ du thực vô ích cho xã hội thì lại có ruộng đất quá nhiều... Do đó không có người tận tâm với nước, mà chỉ lo việc phú quý”, nên phải phân chia ruộng đất, trên nguyên tắc ruộng đất công làng xã không được mang ra mua bán hay chuyển nhượng. Ngoài nhà vua ra, không ai - dù là tập thể làng xã - được phép dành một phần đất công nào đó để làm một việc nào đó cần thiết, hay ban cho một nhân vật cụ thể nào. Nhà nước trung ương trở thành người chủ trực tiếp của toàn bộ ruộng công làng xã.
Ruộng đất công làng xã 6 năm 1 lần được phân phối lại, dưới sự chỉ đạo của nhà nước. Quỹ đất theo đơn vị làng xã, có thể điều chỉnh chút ít giữa các xã lân cận. Đối tượng được chia ruộng kể từ quan tam phẩm (nếu chưa có hoặc ít lộc điền) được chia 11 phần tới các loại cô nhi quả phụ được 3 phần. Người cày ruộng phải nộp tô cho Nhà nước (quan tam, tứ phẩm được miễn).Loại công điền quân phân này trên danh nghĩa thuộc quyền sở hữu Nhà nước, do làng xã quản lý và các hộ gia đình sử dụng.
Chính sách quân điền Lê sơ là một bước trong quá trình phong kiến hoá làng xã, chuyển từ nền kinh tế điền trang quý tộc sang nền kinh tế tiểu nông, là một bước củng cố quyền sở hữu Nhà nước về ruộng đất công làng xã, góp phần trói buộc nhân dân vào ruộng đất đất và làng xã, duy trì số dân đinh cần thiết phục vụ đất nước. Làng xã trở thành một đơn vị kinh tế phụ thuộc Nhà nước, vừa cung cấp thóc gạo, vừa cung cấp nhân lực lao dịch, binh dịch, cung cấp đất đai để Nhà nước ban cho các viên chức của mình. Có thể khẳng định rằng, chính sách quân điền đã góp phần quan trọng vào việc xác lập những quan hệ sản xuất phong kiến ở nông thôn nửa sau thế kỷ XV. Diện tích đất công đã bị thu hẹp đáng kể. Nó cũng là nguyên nhân đẩy nhân dân bỏ làng đi đến những vùng đất mới để khẩn hoang, lập nên làng mới. Nhà nước cũng nhân tình trạng đó mà mộ dân khai thác đồn điền và ban hành các chính sách khuyến khích khai hoang, sớm nắm lấy ruộng đất khai hoang. Chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất công làng xã được khẳng định về pháp lý và trên thực tế.
- Chính sách đồn điền và khẩn hoang
Dưới sức ép củatình trạng nhân dân lao động bị thiếu đất, bỏ làng đi lưu vong, trong khi các vùng ven biển, ven sông đất đai bỏ hoang nhiều, có thể khai khẩn thành ruộng để sử dụng, vua Lê đã cho đưa tù binh đi khai phá các nơi này, lập làng xóm mới. Đây là sự kế tục việc tổ chức đồn điền và đặt chánh phó đồn điền sứ đê trông coi tiến hành từ thời Trần.Chính sách đồn điền được thực hiện rộng rãi dưới thời Lê Thánh Tông. Năm 1462, lang trung Hoàng Thanh dâng sớ xin thành lập đồn điền ở những vùng đất hoang. Năm 1467, các quan lại ở Tân Bình (Quangr Bình – Bình Trị Thiên) đề nghị đào kênh Tân Bình…
Ruộng đất ở các sở đồn điền dĩ nhiên thuộc sở hữu và quản lý trực tiếp của Nhà nước trung ương và trở thành một nguồn thu nhập quan trọng. Chính sách đồn điền của nhà Lê đã có tác dụng tích cực trong mở rộng diện tích canh tác.
Nhà Trần bên cạnh chính sách đồn điền còn khuyến khích các phò mã côngchúa vương hầu tự chiêu mộ nô tỳ đi khai hoang, xây dựng các tư trang. Song chính sách này mới chỉ dừnglại ở giai cấp quý tộc và chủ yếu nhằm xây dựng những trang trại tư nhân.Sang nhà Lê, yêu cầu khôi phục kinh tế sau chiến tranh buộc nhà Lê phải khuyến khích nhân dân khẩn hoang, xây dựng làng và cho các công thần khai quốc được khai hoang lập nghiệp . Lê Thành Tông quyết định ban hành một số chính sách khẩn hoang dẫn đến hình thành hai loại ruộng: ruộng thông cáo và ruộng chiếm xạ. Qua các nguồn sử sách cho thấy, để mở rộng hơn nũa diện tích trồng trọt và thanh toán triệt để tình trạng bỏ hoá ruộng đất, Nhà nước đã ban hành phép chiếm xạ và phép thôngcáo. Phép chiếm xạ quy định, những người khôngcó ruộng hoặc có ít ruộng ở làng xã khác thuộc huyện, phủ khác được phép tự tìm lấy những khu đất hoang hoá để xin cấp hoặc khai khẩn, cày cấy, nộp thuế. Ruộng đất khai khẩn một nửa là ruộng công của làng. Ruộng chiếm xạ có thể bị Nhà nước công hữu hoá. Nó có tác dụng khuyến khích dân nghèo khai khẩn đất hoang hoá, mở rộng diện tích canh tác và tăng thêm nguồn thu nhập cho đất nước.
Nhà Lê còn ban hành chính sách về vấn đề mua bán ruộng đất: khẳng định lại lệ giữ đất và hạn chuộc ruộng trên 30 năm đối với người trong họ, 20 năm đối với người ngoài họ. Năm 1466, nhà Lê quy định: “những văn tự cầm bán từ thời Trần, Hồ đến thời giặc Ngô đều không được chuộc, nếu là văn tự từ năm Thuận Thiên thứ nhất trở đi thì cho chuộc”.
Tóm lại đến thế kỷ XV, bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước vẫn giữ một vai trò quna trọng trong chế độ ruộng đất nói chung. Đó vẫn là cơ sở kinh tế chủ yếu của Nhà nước trung ương tập quyền, Nhà nước đã bảo vệ nó, chống lại tư hữu hóa, đồng thời tăng cường hơn nữa quyền chi phối của mình, thống nhất cách sử dụng và phân phối ruộng đất công làng xã, mở rộng việc khẩn hoang trên cơ sở điều hoà quyền lợi giữa Nhà nước và tư nhân. Thế kỷ XV cũng là thời điểm quan trọng của sự phát triển chế độ tư hữu vốn đã được khuyến khích, thúc đẩy từ thế kỷ XIII – XIV. Xu hướng ngày càng thu hẹp của bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước từng bước phát triển mặc mọi cấm đoán, hạn chế của nhà nước. Bên cạnh đó, còn có hàng loạt điều luật về mua bán ruộng đát, cho thấy sự phát triển của tư tưởng pháp lý nhà Lê, đồng thời phản ánh sự phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Có thể thấy với sở hữu tư nhân, chính quyền nhà Lê tôn trọng quyền tư hữu, không đánh thuế nặng mà có sự ưu đãi, tuy quỹ ruộng đất tư có sự thu hẹp bớt. Có một vấn đề nổi lên là chính sách hai mặt của Nhà nước: vừa mở rộng (chế độ lộc điền), vừa hạn chế (quản lý chặt) ruộng đất công.
3. Từ thế kỷ XVI - XVIII ở Đàng Ngoài
Từ đầu thế kỷ XVI, ruộng đất công làng xã dần bị bọn cường hào địa phương lũng đoạn. Chiến tranh và sự bất lực cảu nhà nước càng ảnh hưởng quan trọng đến cuộc sống nông thôn. Ở nhiều nơi, ruộng thờ các triều, các công thần triều đại trước, ruộng công thần nàh Lê bị chấp chiếm và phân tán. Ruộng công làng xã ngày càng bị thu hẹp. Tình hình đó buộc nhà Lê – Trịnh phải bỏ chế độ lộc điền, thu bớt ruộng ban thưởng cho các công thần nhà Lê để có ruộng đất phong thưởng cho các tướng có công trong chiến tranh Trịnh – Mạc, Trịnh – Nguyễn, cấp cho các quan lại được cử đi sứ, cấp cho quan chức về hưu… Một bộ phận ruộng đất công được cấp cho quân sĩ.
Để đảm bảo thu nhập, trừ các loại ruộng công thần, ruộng sứ thần, ruộng binh lính, nhà Lê – Trịnh bắt tất cả các loại ruộng khác từ ruộng cấp tứ, ruộng thế nghiệp, ruộng công đều phải nộp thuế. Năm 1644, Nhà nước ban hành phép “Bình lệ”, giao cho địa phương thống kê số đinh, số điền rồi tính toán tổng số tiền thuế phải nộp cho Nhà nước theo từng xã. Số lượng đó xác định một lần và hàng năm Nhà nước theo thế mà thu, không cần biết đến sự thay đổi về dân đinh hay diện tích đất chịu thuế.
Năm 1694, trước tình trạng nhân dân ngày càng khó khăn, ruộng công làng xã bị lũng đoạn, phủ chúa buộc phải ra lệnh cho các xã thôn trong nước làm lại sổ ruộng đất, ghi rõ biên giới, núi song, ao hồ, ruộng đất chung gọi là “tu tri bạ”, nhằm ngăn chặn tệ chiếm công vi tư. Trên cơ sở đó năm 1771, phủ chúa ban hành lại phép quân điền (quân điền Vĩnh Thịnh hay quân điền Trịnh Cương). Nội dung của chính sách này nhằm hạn chế đối tượng nhận ruộng, những người đã được cấp dân lộc hay ruộng lộc, những người có ruộng tư (của vợ hoặc chồng) đã đủ mức đều không được chia ruộng công làng xã, dân đinh đến tuổi (18 tuổi) thì được chia nhưng quá 60 tuổi thì phải trả lại cho làng xã, khẩu phần và cách chia theo quy chế của nhà nước. Điều đặc biệt là trong trường hợp “quân dịch nặng nề, bức bách” xã dân có thể cầm bán ruộng khẩu phần và chuộc lại. Bằng phép quân đièn, nhà nước Lê – Trịnh cố gắng thể hiện quỳên lực tập trung của mình song do tình trạng ruộng công không còn mấy nên ý nghĩa tích cực không đáng kể. Năm 1740, khi phong trào nông dân bắt đầu rầm rộ, nhà nước Lê – Trịnh dự định ban hành phép quân điền mới “san đều giàu nghèo, cân bằng phú dịch” nhưng không thực hiện được.
Sự thu hẹp của ruộng đất công chứng tỏ ruộng đất tư hữu phát triển cao độ, việc mua bán kiện tụng về ruộng đất luôn luôn là chuyện rắc rối ở làng xã. Năm 1668, chúa Trịnh Căn đã phải hạ lệnh miễn thuế cho loại ruộng “ẩn lậu”, cấm dân xã không được tố cáo, quan lại không được khám xét, vì vậy hình thành nhiều loại địa chủ khác nhau: cung nhân, hoạn quan, quan lại, công thần, hào phú làng xã. Đến cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, trên đất Đàng Ngoài đã hình thành hàng loạt địa chủ có trên 100 mẫu ruộng, nhiều người trong đó có hơn 1000 mẫu, hình thành một số trang trại của các nhà quyền thế. Năm 1711, chúa Trịnh ra lệnh “cấm quan lại có ruộng đất, tự tiện lập làm trang trại… Nếu ai đã từng thiết lập trang trại ở một xứ nào rồi thì cho phép tự mình được triệt đi, hạn trong 3 tháng phải xong. Nêú ai chần chừ…sẽ luận tội theo pháp luật”. Như vậy, hình thức sở hữu điền trang bị xoá bỏ.
Sự phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất đã dẫn đến sự thay đổi chế độ thuế. Năm 1719, chúa Trịnh Cương nhận định: “triều trước…đặt ra phép Bình lệ…đến nay đã hơn 50 năm, trong thời gian ấy, số hộ khẩu lên xuóng mà ngạch thuế vẫn thu như cũ, nhân dân nhiều nơi phải chịu quá nặng, dần dần đến nỗi cùng đường xiêu giạt’. Đến năm 1722, ban hành chế độ thuế ruộng tư nhằm làm cho kẻ giàu, người nghèo đỡ đần lẫn nhau. Theo lệ thuế mới, tất cả các loại ruộng đất tư, ruộng làng xã đều phaỉ chịu thuế. Lần đầu tiên sau 200 năm, ruộng tư bị đánh thuế, thuế ruộng công cũng giảm gần 60% so với năm 1670. Điều đó có nghĩa là Nhà nước thừa nhận về mặt pháp lý hình thức ruộng tư.
4. Thế kỷ XVI - XVIII ở Đàng Trong
Từ lúc còn là hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam dưới thời Lê, ruộng đất ở đây đã từng bước được khai khẩn để rồi vào thế kỷ XVI, tác giả Ô Châu cận lục có thể viết hàng trăm trang sách ca ngợi cảnh trù phú. Vốn là vùng đất xa trung ương, lại có nhiều chướng ngại về địa lý, ngăn cách với Đàng Ngoài, đất Đàng Trong từ trước khi Nguyễn Hoàng vào trấn trị, chưa phải là đối tượng khai thác của giai cấp thống trị. Các triều đại Lê – Trịnh không quan tâm đến việc đo đạc và xác định tính chất công tư. Theo lệ thuế chung, hàng năm chính quyền địa phương được lệnh sai người đi khám xét “chiếu số ruộng cày mà thu thuế”, thậm chí có lúc “định trước một sỗ thu nào đó”. Năm 1669, ký lục Võ Thừa Phi tâu lên chúa Nguyễn: “thần nghe binh và tài là chính sách lớn của nhà nước,kho tàng đầy thì của dùng đủ ,của dùng đủ thì binh giáp mạnh . Nay dân gian nhiều người chiếm canh ruộng lậu mà không chịu nộp thuế, xin cho quan bao đạc những ruộng đất thực canh làm ruộng công để thu thuế mà cung cho quốc dụng. Chúa Nguyễn chấp thuận, sai nhóm văn thần Hồ Quang Đại chia nhau đi đo đạc những ruộng đất đang được cày cấy ở các huyện, định làm để thu thóc thuế và xem là ruộng công, giao cho xã chia cho nhân dân. Lại quy định từ đó về sau ai khai khẩn đất hoang thành ruộng, cho được xem là ruộng tư, gọi là “bản chất tư điền”, xã dân không được tranh chiếm, cho nên ruộng công chủ yếu tồn tại ở Thuận Quảng cũ.
Bên cạnh ruộng công làng xã còn có loại ruộng gọi lại quan điển trang và quan đồn điền. Thực chất là ruộng tư của chúa. Lê Quý Đôn có ghi “chúa Nguyễn lấy làm của tư, cho dân cày cấy hoặc thuê người cày cấy, mỗi kỳ sai người coi gặt, cho thuyền trở về để sung vào kho của chúa, cấp ngụ lộc cho người trong họ và bề tôi bên dưới”. Ruộng quan điền hay quan đồn điền được giao cho quân sĩ của người bị tù đày cày cấy, cũng có nơi chúa cho phát canh thu tô (thóc hoặc tiền) hoặc thuê người cày (với giá không quá 1 quan /1 mẫu.
Chúa Nguyễn rất ít cấp ruộng lộc cho quý tộc, quan lại cao cấp về cả 2 mặt con người và diện tích (mẹ của chúa cũng chỉ được 10 mẫu). Ngoài ra chúa còn lấy bộ phận ruộng công làm ruộng cấp lương miễn thuế. Ruộng tư phát triển ở hai vùng khác nhau: vùng Thuận Quảng cũ, ruộng tư phát triển dưới hình thức “bản bức tư điền” được mở rộng chủ yếu sau 1669. Năm 1770 do sự phát triển nhanh chóng của ruộng đất tư ở đây, chúa Nguyễn đã buộc các họ phải lập sổ ruộng riêng. Tệ chiếm công vi tư ngày càng phát triển, người nghèo không tấc đất cắm dùi. Trong lúc ở Thuận Quảng việc khai phá đất hoang chịu sự quản lý của nhà chúa thì ở mạn Nam, nhằm mau chóng đưa đấtđai vào vòng quản trị, các chúa Nguyễn khuyến khích các địa chủ và dân lưu vong khai hoang, biến thành ruộng đất tư. Chúa Nguyễn chỉ có điều kiện đo đạc một số ruộng nhất định, số còn lại phải theo sở hữu mà thu thuế.
Chúa Nguyễn sai các quan chia nhau đi các nơi đo đạc ruộng đất đang được cày cấy và nộp thuế. Từ đó về sau, nếu ai khai khẩn thêm được bao nhiêu ruộng đất ở các vùng đồi núi thì cho phép đặt lệ vĩnh viễn, dân xã không được tranh chiếm. Như vậy chúa Nguyễn đã công hữu hoá toàn bộ ruộng đất do nhân dân khai phá từ mấy trăm năm trước, biến nó thành một loại ruộng công làng xã kiểu Đàng Ngoài. Dân nghèo lưu vong vào phía Nam khẩn hoang ngày càng nhiều. Năm 1698 khi đặt hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, họ Nguyễn đã thu nhận thêm 4 vạn hộ dân cư ở đây, còn cho phép các nhà giàu mộ dân phiêu tán. Bên cạnh bộ phận sở hữu nhỏ của nông dân tự canh còn hình thành cả một bộ phận sở hữu lớn về ruộng đất khá đặc trưng của Đàng Trong. Ở thế kỷ XVIII, bên cạnh việc sát nhập các vùng đất của Mạc Cửu (Hà Tiên) và Dương Ngạn Địch (Gia Định), chúa Nguyễn lại động viên các nhà giàu ở Thuận Hoá, Quảng Nam mộ người vào đây, bỏ vốn khẩn hoang để lập làm ruộng tư.
Có thế thấy, bằng nhiều cách khác nhau, đến cuối thế kỷ XVIII, một phần lớn đất Nam Bộ ngày nay đã được khai phá và biến thành một vùng đất trù phú. Hình thức quan đồn điền, quan điền trang của chúa Nguyễn và các điền trang lớn, tư nhân ở phía Nam đã làm cho chế độ ruộng đất ở Đàng Trong khác biệt so với Đàng Ngoài.
5. Nửa đầu thế kỷ XIX (1802 – 1858)
Ở nửa đầu thế kỷ XIX, tình hình ruộng đất – tư liệu sản xuất chính của nông nghiệp và là nền tảng kinh tế chủ yếu của xã hội - đặt ra hàng loạt khó khăn. Do sổ sách mất mát, “cách ghi chép không được thực”, “dân xiêu tán nhiều, ruộng đất bị làng bên chiếm đoạt”...năm 1803, Gia Long cho tiến hành một đợt đo đạc lớn, lập “địa bạ” các xã. Trải qua nhiều lần làm đi làm lại, năm 1820, bộ Hộ chính thức báo cáo: Tổng diện tích ruộng đất của cả nước là 3.076.300 mẫu và 26.750 khoảnh. Thời Minh Mạng, sau nhiều đợt lập thêm địa bạ các xã chưa làm, nhất là sau đợt đo đạc ở Nam Kỳ năm 1836, bộ Hộ đã cho con số (năm 1840) : Tổng diện tích ruộng đất thực canh là 4.063.892 mẫu, trong đó tổng diện tích ruộng là 3.396.584 mẫu công tư (tức 17%). Không chỉ Nam Kỳ có rất ít ruộng công mà ở Bắc Kỳ, trải qua nhiều thế kỷ biến chuyển, nhiều xã hoặc không có hoặc ít có rất ít ruộng công. Gia Long và sau là Minh Mệnh lại tìm giải pháp trong chế độ quân điền.
Năm 1804, Gia Long ban hành phép công điền, theo đó tất cả mọi người đều được chia ruộng công ở xã, trừ các quý tộc vương tôn được cấp 18 phần, quan lại nhất phẩm được cấp 15 phần, cứ tuần tự hạ mức cho đến dân nghèo được 3 phần. Không những thế, theo lệ, ruộng đất được chia trước cho các quan chức có phẩm hàm, sau đến lính rồi cuối cùng mới đến xã dân. Năm 1831, Minh Mạng cho nhắc lại nguyên tắc này, do ruộng đất công quá ít ỏi, “các quan viên không cứ chức vụ, chức phẩm cao thấp đều xin thôi dự cấp”. Năm 1839 Minh Mạng đành chấp nhận đề nghị này, chỉ “gia ân chiếu lệ chia cấp ruộng đất khẩu phần cho các viên đã hưu trí. Đến 1840, Minh Mạng sửa lại phép chia ruộng, cho tất cả mọi người đều được hưởng một phần như nhau, riêng lão nhiêu, tàn tật được 1/2 phần, lương điền củalính không thay đổi. Chế độ này không có tác dụng đáng kể vì làng nào làm theo tục lệ làng ấy, dân nghèo vẫn không có ruộng đất. Chế độ quân điền cũng được đưa vào Nam Kỳ cuối đời Minh Mạng nhưng không đựơc bao nhiêu.
Ban đầu Minh Mệnh không đồng ý đề nghị của Vũ Xuân Cẩn “phàm ruộng tư, định hạn là 5 mẫu, ngoài ra lấy làm ruộng công cả, chia cấp cho binh dân để làm ruộng lương, ruộng khẩu phần”. Sau do thực tế yêu cầu phải ban lễ sung công một nữa số rựông đất tư, đem chia cho dân theo phép quân điền. Nhà Nguyễn tỏ ra bất lực trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất.
Một trong các cách mở rộng ruộng đất của nhà Nguyễn khá quen thuộc là lập đồn điền khai khẩn và khuyến khích nhân dân khai hoang, phục hoá… Các năm 1802, 1803, Gia Long đã nhiều lần hạ lệnh cho quan lại khuyến khích nhân dân, quân sĩ phục hoá, thế nhưng năm 1806, theo báo cáo của quan lại Bắc Thành, nhân dân tiếp tục phiêu tán đến hơn 370 thôn xã; năm 1826 theo quan lại Bắc Thành 13 huyện trong hạt trấn Hải Dương, nhân dân vì đói phiêu tán đến 108 xã thôn.
Năm 1828, theo đề xuất của Tham tán quân vụ Bắc Thành là Nguyễn Công Trứ, một hình thức khai hoang mới ra đời là doanh điền. Tức là dưới sự chỉ đạo của một quan chức nhà nước và có sự góp vốn ban đầu của nhà nước, nhân dân cùng nhau khai hoang. Ruộng đất sau khi khai hoang sẽ được phân phối cho những người có công tuỳ theo thời điểm cho phép. Lớn nhất phải kể đến việc thành lập hai huyện mới là Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Đồng thời ở đây xuất hiện hai hình thức tư điền thế nghiệp và tư điền phân cấp. Hình thức doanh điền được mở rộng ra các tỉnh phía nam, diện tích ruộng đất tăng đáng kể.
Như vậy, thông qua hệ thống các chính sách ruộng đất của các triều đại phong kiến, chúng ta thấy nét nổi bật nhất ở đây là sự chi phối của chính quyền vào các quan hệ ruộng đát. Sự chi phối mạnh hay yếu phụ thuộc vào mục đích thực hay hư của quyền sở hữu tối cao của nhà nước (cũng là dựa vào sức mạnh áp chế của nhà nước). Suốt chiều dài phong kiến trung đại, sự chi phối của nhà nước nổi bật ở cuối Trần và Hồ (với cải cách của Hồ Quý Ly); thời Lê Sơ (vua Lê Thánh Tông) và nhà Nguyễn (triều vua Minh Mạng). Mỗi thời các chính sách phát huy tác dụng tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhưng gặp nhau ở điểm chung là việc nhà nước vừa muốn nắm chặt ruộng đất trong tay qua sở hữu công làng xã lại vừa có chính sách khuyến khích sở hữu tư nhân phát triển. Khuynh hướng phong kiến hoá ruộng đất là điều tất yếu.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LSDOCS (62).doc