Đề tài Chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Những mục tiêu, chiến lược, chính sách trong bài viết này đã cho thấy hết vị trí quốc sách hàng đầu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Đảng và nhân dân ta rất tự hào về thế hệ trẻ Việt Nam, hết sức chăm lo đến sự nghiệp trồng người. Chính vì vậy tuổi trẻ việt nam phải ý thức rõ trách nhiệm làm chủ đất nước, đưa dân tộc vững bước tiến vào thế kỷ mới-thế kỷ của công nghệ, của kinh tế và tri thức. Đứng trước những thành công có tính bước ngoặt của công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, một lần nữa đã khẳng định vai trò to lớn của chính sách đào tạo – phát triển nguồn nhân lực. Đảng nhà nước ta trong suốt những năm qua đã không ngừng cải tiến, sửa đổi, bổ sung . Nhiều chính sách để khuyến khích, động viên xã hội học tập, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước. Tuy chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực còn chứa đựng một số bất cập nhưng không làm mất đi tính hiệu lực trong quản lý của Nhà nước. Con đường đổi mới sự nghiệp giáo dục – đào tạo chắc chắn còn nhiều thử thách quyết liệt nhưng chúng ta tin rằng với những chính sách chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, dưới sự đoàn kết nhất trí phất huy sức mạnh của nhân dân ta chắc chắn chúng ta sẽ giành được nhiều thắng lợi hơn nữa.

doc45 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 936 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuế thu nhập. Dành ngân sách Nhà nước thoả đáng để cử những người giỏ, có phẩm chất đạo đức tố đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề, lĩnh vực then chốt ở những nước có nền khoa học, công nghệ phát triển. Song song với việc phát huy nội lực bên trong là tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Đó là Nhà nước khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc, hương vào những ngành mà đất nước đang cần, theo quy định của Nhà nước. Khuyến khích người Việt nam ở nước ngoài có khả năng về tham gia giảng dạy, đào tạo, mở trường học, giúp đỡ tài chính theo quy định của Nhà nước. Sử dụng một phần vốn vay và viện trợ của nước ngoài để xây dựng cơ sở vật chất giáo dục, đào tạo. Hệ thống phát thanh, truyền hình giành thời lượng thích đáng phát các chương trình về giáo dục. Các ngành văn hoá, nghệ thuật, thông tấn, báo chí có trách nhiệm cung cấp những sản phẩm tinh thần có nội dung tốt cho việc giáo dục thế hệ trẻ. Định kỳ tổ chứ hội nghị giáo dục các cấp để kiểm điểm rút kinh nghiệm, bàn biện pháp phát triển giáo dục, khen thưởng cá nhân và đơn vị có thành tích. Tiếp tục phát triển các trường dân lập ở tất cả các bậc học. Nhà nước hỗ trợ, hướng dẫn, quản lý thống nhất chương trình, nội dung, chất lượng giảng dạy và học tập ở các trường dân lập, tư thục. Khung học phí ở các trường dân lập, tư thục do Nhà nước quy định. 2.2. chính sách đối với các trường học. Đối với các trường phổ thông (được quy định tại mục 2/chương2/luật giáo dục-số 11/1998/QĐ 10-ngày2-12-1998) Trước hết là yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông: Nội dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản , toàn diện , hướng nghiệp và hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống , phù hợp với tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mổi bậc học , cấp học. Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội , con người, có kỹ năng cơ bản về nghe , đọc , nói , viết và tính toán ; có thói quen rèn luyện thân thể , giữ gìn vệ sinh , có hiểu biết ban đầu về hát , múa , âm nhạc , mỹ thuật. Giáo dục trung học cơ sở phải củng cố , phát triển những nội dung đã học ở tiểu học , bảo đảm cho học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về tiếng việt , toán , lịch sử dân tộc , kiến thức khác về khoa học xã hội , khoa học tự nhiên , pháp luật , tin học , ngoại ngữ , có những hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp. Giáo dục trung học phổ thông phải củng cố , phát triển những nội dung đã học ở trung học cơ sở , hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông . Ngoài nội dung chủ yếu nhằm đảo bảo chuẩn kiến thứ phổ thông , cơ bản , toàn diện và hướng nghiệp cho học sinh còn có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực , đáp ứng nguyện vọng của học sinh. Nhà nước quản lý việc xuất bản , in và phát hành sách giáo khoa,về cơ sở giáo dục phổ thông : chấm dứt tình trạng lớp học ba ca.Đảm bảo diện tích đất đai và sân chơi , bãi tập cho các trường theo đúng quy định của Nhà nước . Tất cả các trường phổ thông đều phải có tủ sách , thư viện và các trang bị tối thiểu để thực hiện các thí nghiệm trong chương trình. Đối với các trường trung học chuyên nghiệp , cao đẳng , đại học và sau đại học, Yêu cầu nội dung và phương pháp đào tạo Với các trường trung học chuyên nghiệp : nội dung của giáo dục phải tập trung vào đào tạo năng lực nghề nghiệp , coi trọng giáo dục đạo đức , rèn luyện sức khoẻ , nâng cao trình độ học vấn theo yêu cầu đào tạo. Phương pháp giáo dục nghề nghiệp phải kết hợp giảng dạy lý thuyết với rèn luyện kỹ năng thực hành, bảo đảm để sau khi tốt nghiệp người học có khả năng hành nghề. Với các trường cao đẳng , đại học và sau đại học: Nội dung của gáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển ; bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa kiến thứ khoa học cơ bản với kiến thức chuyên ngành và các bộ môn khoa học Mác-Lênin , tư tưởng hồ chí minh. Đào tạo trình độ cao đẳng phải đảm bảo cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và chuyên ngành cần thiết . Đào tạo trình độ đại học phải đảm bảo cho sinh viên có những kiến thức khoa học và chuyên ngành tương đối hoàn chỉnh , có phương pháp làm việc khoa học , có năng lực vận dụng lý thuyết vào công tác chuyên môn . Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học , tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát huy tư duy sáng tạo , rèn luyện kỹ năng thực hành. Nội dung của giáo dục sau đại học : Đào tạo thạc sĩ phải bảo đảm cho học viên được bổ sung , nâng cao kiến thức đã học ở trình độ đại học ; tăng cường kiến thức liên ngành . Đào tạo tiến sĩ phải bảo đảm cho nghiên cứu sinh nâng cao và hoàn chỉnh kiến thức cơ bản ; có hiểu biết sâu rộng kiến thức chuyên ngành . Phương pháp đào tạo : Kết hợp các hình thức học trên lớp , tự học , tự nghiên cứu. Về cơ sở vật chất : thay thế , bổ sung cơ sở vật chất và thiết bị cho các trường dạy nghề , trung học chuyên nghiệp và đại học . Xây dựng thêm và quản lý tốt các ký túc xá của học sinh , sinh viên. Xây dựng một số phòng thí nghiệm và trạm sản xuất thử. Ngoài những trường nêu trên thì chính sách của nhà nước còn quy định đối với các trường đào tạo không chính quy như trung tâm giáo dục thường xuyên . Tuy nhiên dù ở hình thức đào tạo nào thì nhà trường đều có một quyền hạn , nhiệm vụ nhất định (Được nêu ở mục 2/chương3/luật giáo dục số 11/1998/QH 10) - Tổ chức giảng dạy , học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu , chương trình giáo dục. - Quản lý nhà giáo cán bộ , nhân viên. - Tuyển sinh và quản lý người học. - Quản lý , sử dụng đất đai , trường sở, trang thiết bị và tài chính theo quy định của pháp luật. - Phối hợp với gia đình người học , tổ chức , cá nhân trong hoạt động giáo dục. - Tổ chức cho giáo viên , cán bộ , nhân viên , người học tham gia các hoạt động xã hội. - Đối với các trường đại học , cao đẳng có quyền tự chủ , tự chịu trách nhiệm. - Xây dựng chương trình , giáo trình ,kế hoạch giảng dạy , học tập đối với các ngành nghề được phép đào tạo. - Tổ chức tuyển sinh theo chỉ tiêu của bộ giáo dục và đào tạo công nhận tốt nghiệp và cấp văn bằng theo thẩm quyền. - Tổ chức bộ máy nhà trường. - Huy động , quản lý , sử dụng các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục. - Hợp tác với các tổ chức kinh tế , giáo dục , văn hoá, thể dục , thể thao , y tế ; nghiên cứu khoa học trong nước và nước ngoài theo quy định của chính phủ. - Hiện nay nhà nước ta có những chính sách khuyến khích ưu tiên thành lập các loại trường chuyên biệt . Cụ thể là : Nhà nước thành lập các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú , trường dự bị đại học cho con em dân tộc thiểu số , con em các gia đình dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các vùng này. Trường phổ thông dân tộc nội trú , trường phổ thông dân tộc bán trú , trường dự bị đại học được ưu tiên bố trí giáo viên , cơ sở vật chất thiết bị và ngân sách. Nhà nước thành lập và khuyến khích tổ chức , cá nhân thành lập trường , lớp dành cho người tàn tật nhằm giúp các đối tượng này phục hồi chức năng , học văn hoá , học nghề , hoà nhập với cộng đồng. Trường giáo dưởng có nhiệm vụ giáo dục người chưa thành niên vi pha pháp luật để các đối tượng này rèn luyện , phát triển lành mạnh , trở thành người lương thiện , có khả năng tái hội nhập vào đời sống xã hội. 2.3.Chính sách đối với nhà giáo: Được nêu tại mục 3/chương4/luật giáo dục số 11/1998/QH10 ngày 2-12-1998 . Cụ thể là : Nhà nước có chính sách bồi dưỡng nhà giáo về chuyên môn , nghiệp vụ để nâng cao trình độ , bồi dưỡng chuyên môn ,nghiệp vụ được hưởng lương và phụ cấp theo đúng quy định của nhà nước. Không thu học phí và thực hiện chế độ học bổng ưu đãi đối với học sinh , sinh viên ngành sư phạm . Có chính sách thu hút học sinh khá giỏi vào ngành sư phạm . Đào tạo giáo viên gắn với địa chỉ và có chính sách sử dụng hợp lý. Thang bậc lương của nhà giáo là một trong những thang, bậc lương cao nhất trong hệ thống thang, bậc lương hành chính sự nghiệp của nông nghiệp. Nhà giáo được hưởng phụ cấp nghề nghiệp và các phụ cấp khác theo quy định của Chính phủ. Nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác tại các chuyên, trường năng khiếu, trường dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học, trường dành cho người tàn tật, trường giáo dưỡng hoặc các trường chuyên biệt khác được hưởng phụ cấp và các chế độ ưu đãi khác theo quy định của Chính phủ. Nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác tại vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn được UBND các cấp tạo điều kiện về chỗ ở, được hưởng chế độ phụ cấp và các chính sách ưu đãi khác theo quy định của Chính phủ. Nhà nước có chính sách luân chuyển nhà giáo công tác tại các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, khuyến khích và ưu đãi nhà giáo ở vùng thuận lợi đến công tác tại các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, tạo điề kiện để nhà giáo ở vùng này an tâm công tác. 2.4. Chính sách đối với người học. Học sinh, sinh viên là thế hệ sẽ làm chủ đất nước trong tương lai, sự nghiệp xây dựng đất nước gắn liền với sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ. Do đó Nhà nước ta đã có nhiều chính sách khuyến khích học sinh, sinh viên học tập, nghiên cứu. Cụ thể các chính sách này được nêu tại mục 2/ chương IV/ Luật Giáo dục số 11/1998/QH10 (02/12 /1998). Nhà nước có chính sách cấp học bổng khuyến khích học tập cho người học có kết quả học tập, rèn luyện từ loại khá trở lên ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, sau đại học, cấp học bổng chính sách cho sinh viên hệ cử tuyển, học sinh trường dự bị đại học, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dạy nghề dành cho thương binh, người tàn tật. Nhà nước có chính sách trợ cấp và miễn giảm học phí cho người học là đối tượng được hưởng chính sách xã hội, người dân tộc thiếu số tại các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, người mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật khó khăn về kinh tế, người cố hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn vượt khó học tập. Học sinh, sinh viên ngành sư phạm, người theo học các khoá đào tạo nghiệp vụ sư phạm không phải đóng học phí, được ưu tiên trong việc xét cấp học bổng, trợ cấp xã hội. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân cấp học bổng hoặc trợ cấp cho người học theo quy định của pháp luật. Nhà nước thực hiện tuyển sinh vào đại học, trung học chuyên nghiệp theo chế độ cử tuyển đối với con em các dân tộc tại các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn để đào tạo cán bộ, công chức cho vùng này. Người học theo chế độ cử tuyển sau khi tốt nghiệp phải chấp hành sự điều động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cử đi học. Thời gian công tác tối thiểu tại địa phương do UBNN cấp tỉnh nơi cử đi học quy định. Nếu không chấp hành sự điều động và bố trí công tác, người học phải bồi hoàn học bổng và chi phí đào tạo theo quy định của Chính phủ. Cơ quan cử người đi học có trách nhiệm tiếp nhận và bố trí công tác cho người đi học sau khi tốt nghiệp. Người học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học có khó khăn về kinh tế được quỹ tín dụng về học tập của ngân hàng cho vay để học tập . Học sinh, sinh viên được hưởng chế độ miễn, giảm phí khi sử dụng các dịch vụ công cộng y tế, giao thông, giải trí, khi tham quan viện bảo tàng, di tích lịch sử, công trình văn hoá theo quy định của Chính phủ. 2.5. Chính sách quản lý giáo dục. Tăng cường công tác dự báo và kế hoạch hoá sự phát triển giáo dục. Có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, kjắc phục tình trạng mất cân đối hiện nay. Khuyến khích thành lập các trung tâm thông tin tư vấn, hướng nghiệp cho học sinh chọn ngành nghề và tìm việc làm sau khi tốt nghiệp. Ban hành chế độ nghĩa vụ công tác sau khi tốt nghiệp các trường. Xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục. Hoàn thiện hệ thống thanh tra giáo dục, tăng cường hệ thống thanh tra tập trung vào thanh tra chuyên môn. Quản lý tốt nội dung vá chất lượng đào tạo của các đại học mở, đại học dân lập và các loại hình không chính quy. Phân cấp cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý toàn diện giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Định rõ trách nhiệm và, tăng thêm quyền chủ động cho các cơ sở đào tạo, nhất là các trường đại học. Đổi mới, mở rộng hơn nữa quan hệ hợp tác giáo dục- đào tạo với nước ngoài. Trên đây là những chính sách cơ bản mà Nhà nước ta đang chủ trương thực hiện đối với giáo dục đào tạo. Những chính sách này được đề ra và thực hiện nhằm tạo ra một đội ngũ lao động phát triển cả về chất và lượng làm nòng cốt cho quá trình chuyển dịch cơ cấu cũng như sự phát triển của đất nước nói chung. III. NỘI DUNG CỦA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ. Nội dung của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một số mô hình chuyển dịch kinh tế trên thế giới. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kết hợp khai thác nguồn lực trong nước với mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài. Mô hình chung nhất của đa số các nước trên thế giới là một mô hình kinh tế năng động: công nghiệp hoá cùng với sự phát triển cân đối giữa các ngành, phát triển hệ thống tài chính, tăng cường các mối quan hệ tái chính nhằm khuyến khích đạt tỷ lệ đầu tư cao vai trò của Chính phủ trong việc hoạch định chính sách điều chỉnh, có khả năng đối phó với những biến động bất thường trong nước cũng như nước ngoài. Mô hình này không ủng hộ chiến lược phát triển một ngành duy nhất. Nó khẳng định đầu tư là một yếu tố quan trọng quyết định phát triển, để hoà nhập với quốc tế. Trong mô hình này, vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước thể hiện là: Nhà nước bảo đảm những nguyên tắc cơ bản về kinh tế xã hội. Xây dựng các thể chế cho một khu vực Nhà nước có năng lực. Kiếm chế hành động độc đoán chuyên quyền của Nhà nước và nạn tham nhũng. Đưa Nhà nước tới gần dân hơn. Tạo điều kiện dễ dàng cho hoạt động tập thể quốc tế. Chiến lược của chính sách điều chỉnh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế kinh tế theo mô hình hướng ngoại Mô hình hướng ngoại là mô hình với chính sách chuyển dịch cơ cấu đưa nến kinh tế phát triển theo hướng mở cửa nhiều hơn, có thể thúc đẩy thương mại và các luồng tư bản đổ vào, khuyến khích lợi nhuận giữa việc sản xuất cho thị trường trong nước hay thị trường ngoài nước, tạo ra khả năng sinh lãi cao hơn trong sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Cố hai loại hình của chiến lược kinh tế mở cửa, đó là: Thứ nhất, tạo ra các khuyến khích về giá cả một cách tích cực theo hướng có lợi cho xuất khẩu( chẳng hạn thông qua trợ cấp cho xuất khẩu). Thứ hai, tạo ra sự trung lập thích hợp về giá cả giữa sản xuất cho thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Tức là khuyến khích theo hướng có lợi cho sự mở cửa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng ngoại rất có ý nghĩa đối với thuế quan và các hình thức khác của chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý kinh tế vĩ mô trong nước. Tuy nhiên chiến lược kinh tế mở cửa sẽ mang lại cho Chính phủ nước đó ít có khả năng hành động theo ý mình hơn, có tá ác xấu tới công nghệ trong nước, do đó phải dựa vào tư liệu sản xuất và công nghệ nhập khẩu, đặc biệt là các nước nhỏ có thu nhập thấp mà nền kinh tế của họ ở vào vị thế không thuận lợi. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng nội Mô hình hướng nội là chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế có xu hướng hướng nội,, có chiến lược đóng cửa nhiều hơn. nó khuyến khích theo hướng sản xuất cho thị trường trong nước, nhấn mạnh việc thay thế nhập khẩu, tự túc về lương thực, và có thể có cả các mặt hàng phi mậu dịch. Với chính sách hướng nội, Chính phủ các nước này thực hiện tăng cường sản xuất lương thực, các nông sản và khoáng sản,các biểu thuế nhập khẩu hoặc qua ta nhập khẩu lương thực được thực hiện. Các chính sách trên sẽ đem đến sự mở rộng cho các ngành công nghiệp nhỏ với sự trợ cấp thích hợp và dần àan khuyến khích nền công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, có tên là nền công nghiệp non trẻ. Chiến lược đóng cửa là thực hiện công nghiệp hoá theo hướng thay thế nhập khẩu núp đắng sau bức tường bảo hộ mậu dịch. Do vậy ít tạo ra sức ép về cạnh tranh hơn, làm cho cơ cấu sản xuất ít nhạy bén hơn, đông cứng hơn. ngoài ra, một chiến lược dựa trên cơ sở bảo hộ mậu dịch và thay thế nhập khẩu có xu hướng kèm theo sự hối lộ, độc đoán và gây trì trệ trong quá trình phát triển, ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng và GDP Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam. Đặc điểm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đảm bảo hội nhập có hiệu quả là quá trình có tính quy luật phổ biến ở các nước, song trong mỗi giai đoạn khác nhau của sự phát triển, quá trình này cũng có những đặc điểm riêng, đòi hỏi phải được các chủ thể nhận thức đúng đắn và có những ứng xử phù hợp. Ở nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tuy rằng trong thời gian qua chúng ta đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Biểu hiện chủ yếu của đặc điểm này là nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu kinh tế nói chung, tỷ lệ công nghiệp có tăng song chưa đạt mức mong muốn. Trong nội bộ các nhóm ngành, đặc biệt là trong nông-lâm-ngư nghiệp, trình độ trang bị kỹ thuật còn thấp, năng suất cây trồng, vật nuôi chưa cao, chất lượng hàng hoá còn thấp đã hạn chế khả năng xuất khẩu ra thị trường thế giới. Trong công nghiệp, máy móc thiết bị đã ít về chủng loại lại lạc hậu về công nghệ, phần lớn thuộc thế hệ cũ, trang bị chắp vá. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực, thế giới diễn ra trong bối cảnh của giai đoạn chuyển đổi cơ chế quản lý. Trong giai đoạn này, một số yếu tố của cơ chế mới từng bước được hình thành, song vẫn còn thời gian để củng cố, khẳng định, các yếu tố của cơ chế cũ vẫn còn hiẹn diện và vẫn còn phát huy tác dụng của nó trong nền kinh tế, nhiều yếu tố quản lý ở tầm chiến lược vẫn còn chưa được định hình rõ nét. Thêm vào đó, chúng ta còn gặp khó khăn vì thiếu vốn, trình độ kỹ thuật công nghệ thấp kém, lao động trình độ thấp. Việt nam đi vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời điểm thế giới đang diễn ra những thay đổi về chính trị và kinh tế . Xu thế hoà bình và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc , toàn cầu hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế đã trở thành một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện nay . Nắm rõ đặc điểm này chúng ta đang ra sức quán triệt các định hướng của các kỳ đại hội để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng và có hiệu quả. Nội dung chủ yếu của chuyển dịch cơ cấu ở nước ta: Công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn: + Phát triển toàn diện nông , lâm , ngư nghiệp , hình thành các vùng tập trung chuyên canh , có cơ cấu hợp lý về cây trồng , vật nuôi , có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng , tốt về chất lượng , đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội , đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong , ngoài nước. + Phát triển các ngành nghề , lành nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp , thủ công nghiệp , công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng , hàng xuất khẩu , công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp , các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. - Có chính sách khuyến khích và trợ giúp nông dân trong xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết khó khăn về vốn, về giá cả vật tư nông nghiệp và hàng nông sản, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. - Phát triển công nghiệp, ưu tiên các ngành chế biến lương thực , thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu,công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin. Phát triển chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng. - Phát triển nhanh du lịch ,các dịch vụ hàng không, hàng hải , bưu chính viễn thông, thương mại, vận tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán , bảo hiểm, công nghệ , pháp lý , thông tinvà các dịch vụ phục vụ cuộc sống nhân dân. Từng bước đưa đất nước ta trở thành một trung tâm du lịch dịch vụ, thương mại có tầm cỡ trong khu vực. Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ: + Chuyển dịch cơ cấu kinh tế lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế,. Tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho các vùng đều phát triển. + Đầu tư ở mức cần thiết cho các vùng trọng điểm để thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Dành nguồn lực thích đáng cho việc giải quyết những nhu cầu cấp bách, đặc biệt kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, để những vùng còn kém phát triển, nhất là những vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc ít người, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng có bước tiến nhanh hơn, dần dần giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế-xã hội giữa các vùng, coi đây là trọng tâm chỉ đạo của các ngành, các cấp. Đặc biệt quan tâm phát triển kinh tế biển, kết hợp với an ninh- quốc phòng. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại + Đẩy mạnh xuất khẩu, coi đây là trọng tâm của kinh tế đối ngoại. Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu, tinh chế. + Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắnlợi ích giữa ta với các đối tác. + Chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách chọn lọc, thích hợp. Những chuyển biến cơ bản trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Về cơ cấu ngành: Từ năm 1991-1997 cơ cấu ngành theo ba nhóm ngành lớn, nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng hàng năm. Bằng số liệu sau thể hiện xu thế biến đổi tích cực của nền kinh tế. Bảng 1: Cơ cấu GDP theo ba nhóm ngành trong những năm 1991-1997: Đơn vị: % Nhóm ngành 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Tổng cộng 100 100 100 100 100 100 100 Công nghiệp 23.0 27.3 28.9 29.6 30.1 30.7 31.2 Nông nghiệp 39.5 33.9 29.9 28.7 27.5 27.2 26.2 Dịch vụ 37.5 38.8 41.2 41.7 42.4 42.1 42.6 (Nguồn: Tổng cục thống kê.) Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tốc độ tăng trưởng bình quân của các ngành lớn của nền kinh tế khác nhau, tăng trưởng nhanh nhất thuộc về nhóm ngành công nghiệp, sau đó là dịch vụ và các ngành nông nghiệp. Đây là một sự chuyển biến tích cực, do sự tác động của nhiều nhân tố. Công nghiệp ngoài quốc doanh có nhiều bước nhảy vọt tạo ra 1/3 giá trị sản xuất toàn ngành với tốc độ phát triển ngày càng cao: năm 91- 7,6%; năm 97- 9,5%; tanư số lượng xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp; chính sách đúng hướng của Nhà nước cũng góp phần quan trọng cho sự chuyển biến tích cực này. Về cơ cấu vùng, lãnh thổ. Cơ cấu vùng đang hình thành từng bước theo quy hoạch kinh tế xã hội của các địa phương, các đô thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm. Các khu công nghiệp, khu chế xuất đã và đang được xây dựng. Một số địa bàn kinh tế, đặc biệt là một số thành phố lớn, phát huy lợi thế của mình đã thúc đẩy mạnh đầu tư, đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Một số vùng nông thôn đã có bước phát triển nhanh nhờ chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng khai thác lợi thế so sánh, gắn với thị trường. Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển ba vùng kinh tế trọng điểm, đó là: Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh( miền Bắc) TP. Hồ Chí Minh- Đồng Nai- Bà Rỵa Vũng Tàu(miền Nam) TP. Đà Nẵng- Dung Quất( miền Trung) Về cơ cấu thành phần kinh tế Chúng ta đã thực hiện đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước chủ yếu tập trung đầu tư, phát triển trong những ngành, những lĩnh vực kinh tế trọng yếu của nền kinh tế quốc dân như kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp thực hiện một số nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng, an ninh Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước được khuyến khích phát triển mạnh mẽ, dần dần chiếm tỷ trọng cao trong GDP của nền kinh tế quốc dân. Các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 2.1. Sự phát triển các loại thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành. Bởi lẽ thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Mổi doanh nghiệp phải hướng ra thị trường, xuất phát từ quan hệ cung cầu, hàng hoá trên thị trường để định hướng chiến lược và chính sách kinh doanh của mình. Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp để thích ứng với các điều kiện của thị trường dẫn tới từng bước thúc đẩy hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong cơ chế thị trường có sự quản ký của nhà nước, nhà nước tạo điều kiện phát triển đồng bộ, điều tiết các loại thị trường và tạo môi trường, điều kiện cho thị trường và cho các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô 2.2. Các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất nước. Trước hết, việc xác định các ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển phải dựa trên cơ sở xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực. Tài nguyên thiên nhiên( khoáng sản, hải sản, lâm sản, nguồn nước) và các điều kiện tự nhiên( khí hậu, thời tiết, bờ biển) phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các công nghiệp du lịch, ngư nghiệp, nông nghiệp. Thông thường ở mỗi giai đoạn phát triển, người ta tập trung khai thác các tài nguyên có lợi thế, có trữ lượng lớn, giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn và ổn định. Dân số, lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Sự tác động của nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế được xem xét trên các mặt sau: + Kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khao học, kỹ thuật mới là cơ sở quan trong phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các ngành đang hoạt động, là nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân. + Quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu nhu cầu thị trường. Đó là cơ sở phát triển các ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng. + Tập quán, truyền thống, phong tục của một địa phương, cộng đồng người ảnh hưởng đến sự phát triển các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng như các ngành nghề khác. 2.3. Tiến bộ khoa học- công nghệ. Trước hết tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra những khả năng sản xuất mới,đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng thể nền kinh tế làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp non trẻ, công nghệ tiên tiến, do đó có triển vọng phát triển mạnh trong tương lai. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, tiến bộ khoa học kỹ thuật cho phép tạo ra những sản phẩm mới chất lượng cao, chi phí kinh doanh hạ, do đó có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả là làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung theo hướng xuất khẩu. IV.MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VỚI CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC. Tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế với chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau. Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngược lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế lại đặt ra những đòi hỏi mới cho nguồn nhân lực do đó tác động đến chính sách đào tạo và phát triển. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tác động đến chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Cơ cấu kinh tế khác nhau đặt ra những nhu cầu khác nhau về nguồn nhân lực. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp lạc hậu thì đòi hỏi về trình độ nguồn nhân lực thấp, người lao động chỉ cần có sức khoẻ, có kinh nghiệm là có khả năng làm tốt công việc của mình. Cùng với sự phát triển của khoa học, những kỹ thuật mới được đưa vào sản xuất, lúc này đòi hỏi về lượng lao động thủ công giảm dần do đó lượng lao động trong nông nghiệp bị dôi dư. Phát triển công nghiệp, dịch vụ trở thành một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật của sự phát triển. Tư một nền nông nghiệp lạc hậu muốn trở thành thì tất yếu phải dựa vào hai yếu tố sản xuất chính là con người và khoa học kỹ thuật, trong đó con người là trọng tâm, là yếu tố quyết định. Do vậy tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có ảnh hưởng sâu sắc, trực tiếp đến chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của bất kỳ quốc gia nào. Trước hết khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa ba nhóm ngành nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ đã đặt ra những nhu cầu mới đối với nguồn nhân lực do đó đòi hỏi chính sách đào tạo phải có sự thay đổi. Khi đất nước muốn tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ thì phải tăng quy mô đào tạo nghề, khoa học kỹ thuật, thương mại, kinh tế và thu hút lực lượng học sinh, sinh viên vào các trường này. Tuy nhiên việc đổi mới chương trình giáo dục, đào tạo để phục vụ tốt tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải được thực hiện đồng bộ ở tất cả các cấp học. Chương trình giáo dục phổ thông phải nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực, tạo tiền đề vững chắc, định hướng cho đào tạo nghề nghiệp. Đặc biệt đối với các trường đào tạo nghề nghiệp phải tăng cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học , bổ sung những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại phù hợp với yêu cầu mới. Như vậy những chuyển biến trong các ngành kinh tế quốc dân đã đặt ra nhiều yêu cầu cấp bách cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Những yêu cầu này đòi hỏi chính sách quốc gia về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phải có những định hướng phù hợp thực tiễn trong từng giai đoạn. Cụ thể như ở Việt nam hiện nay. Với mục tiêu là trở thành một nước công nghiệp. Khi mà hiện tại lực lượng lao động trong nông nghiệp chiếm khoảng 68% tổng lao động xã hội thì rõ ràng chúng ta phải có một chiến lược đào tạo hợp lý để có thể chuyển dịch được cơ cấu lao động này. Trước hết cần phải đào tạo những ngành cần nhiều lao động như dệt may da giàyđể bố trí lực lượng lao động này đáp ứng nguồn nhân lực. Kế tiếp là có chính sách khuyến khích đào tạo những ngành có hàm lượng khoa học, kỹ thuật cao bởi lẽ sẽ làm nòng cốt cho các ngành khác. Du lịch ở Việt nam được xem là một ngành có nhiều tiềm năng phát triển. Khi cơ cấu kinh tế chuyển dịch có thiên hướng nghiêng về ngành công nghiệp không khói này thì rõ ràng lực lượng lao động phục vụ cho ngành này đang được ra sức đào tạo. Chỉ mới chục năm gần đây khoa Du lịch ở các trường Đại học đã được mở và phát triển ngày một toàn diện và thu hút đông đảo học sinh, sinh viên. Chúng ta quyết tâm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến lên sánh vai cùng bè bạn năm châu như bác Hồ từng mong muốn, đồng thời cũng cần thấy trước rằng trong điều kiện cách mạng công nghệ hiện nay, thế mạnh tương đối về nguồn lao động đơn giản hoặc tay nghề thấp sẽ ngày càng mất dần đi ý nghĩa của nó và lợi thế sẽ thuộc về các quốc gia có nguồn nhân lực trí tuệ cao, kỹ năng vững vàng, khả năng sáng tạo theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại. Điều đó đặt ra cho các trường đại học công nghệ trong cả nước phải đổi mới sâu sắc, toàn diện nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ,cán bộ quản lý có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý chí vươn lên, có đạo đức trong sáng, có khả năng trí tuệ nắm bắt, làm chủ những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ thế giới để vận dụng vào nước ta, đồng thời được bồi được bồi dưỡng phương pháp, năng lực sáng tạo, khả năng tự đào tạo, có thể học tập và cống hiến suốt đời vì nước vì dân. Để đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước hệ thống các trường đại học ngoài nhiệm vụ đào tạo chính quy phải quan tâm thích đáng đến nhiệm vụ giáo dục thường xuyên. Ngày nay công nghệ đổi mới mau lẹ, những điều học được trong nhà trường trở lên lạc hậu rất nhanh, người lao động muốn làm việc tốt thì trình độ phải thường xuyên được cập nhật. Do đó các trường đại học, cao đẳng phải làm nòng cốt trong việc giáo dục thường xuyên. Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng cũng ảnh hưởng trực tiếp đều định hướng, chính sách đào tạo của nhà nước. Để phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng thì nguồn lực về vốn và con người cũng phải đồng đều. Một địa phương muốn chuyển đổi nền kinh tế của mình, thoát khỏi độc canh nông nghiệp thì phải có những chiến lược cụ thể thay đổi cơ cấu kinh tế của mình trong đó chiến lược nhân lực được đặt ở vị trí hàng đầu vì đây là lực lượng làm chủ sản xuất. Do đó khi nhà nước có chính sách ưu tiên phất triển các vùng kinh tế mới htì nhà nước phải có chiến lược, chính sách nguồn nhân lực ở những vùng này. Cụ thể là xây dựng, mở rộng quy mô các trường học, trường đượcạy nghề, trung tâm giáo dụctại các vùng được xác định là trọng điểm của khu vực, chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho con em đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa được đảm bảo điều kiện học tập ở các trường phổ thông, cao đẳng, đại học cũng là một hình thức đảm bảo sự phát triển giáo dục cộng đồng trong cả nước. Hình thức chia ra các cấp học phí trong các trường đại học, cao đẳng cũng là một hình thức giúp đỡ con em gia đình khó khăn có điều kiện học tập. Như vậy chính sách đào tạo, phất phát nguồn nhân lực của các khu vực trong cả nước luôn chịu sự chi phối bởi sự thay đổi cơ cấu kinh tế ở mỗi vùng trong giai đoạn phát triển. 2. Chính sách đào tạo,phát triển nguồn nhân lực ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nguồn nhân lực là yếu tố trung tâm, quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Chính vì vậy chính sách, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tác động trực tiếp tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nói cách khác chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá thì chính sách cho lĩnh vực đào tạo, phát triển nguồn nhân lực được xem xét trên nhiều góc độ. Với chính sách nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động chúng ta sẽ tạo được nhiều chuyển biến tích cực. Xuất phất từ nhận thức trình độ văn hoá là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực .Một ước muốn trở thành nước công nghiệp cần có trình độ văn hoá cao làm cơ sở để nâng cao trình độ chính trị- chuyên môn-kỹ thuật cho người lao động, nâng cao năng suất lao động. Do đó khi có một hệ thống giáo dục thống nhất, toàn diện với nội dung chương trình giảng dạy phù hợp sẽ nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động. Có trình độ văn hoá người lao động sẽ có điều kiện tốt tiếp thu những kiến thức nghề nghiệp tiên tiến và từ đó mới có tay nghề, trình độ chuyên môn thực hiện công việc. Chính sách phổ cập tiểu học,tiến tới phổ cập THCS là một trong những chính sách nâng cao trình độ văn hoá mà Việt Nam đang thực hiện khá tốt. Chính những chính sách này đã tạo cơ sở bền vững cho những chuyển biến kinh tế trong tương lai. Chính sách đẩy mạnhcông túc bổ túc văn hoá cho người lao động trong độ tươi bằng cách mở rộng mạng lưới bổ túc văn hoá khắp mọi miền đất nước, có chế độ hợp lý với giáo viên kiêm nhiệm giảng dạy bổ túc văn hoá đã trực tiếp giúp những người lao động mở mang được kiến thức, tiếp thu tốt hơn quy trình công nghệ, tăng năng suất lao động. Nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất cho tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trước hết cần khẳng định rằng để đi từ sản xuất thủ công đến sản xuất bằng máy móc thiết bị hiện đại con người phải có một sự thay đổi lớn trong tư duy lao động cho đến kỹ năng,kỹ xảo. Trước kia lao động dựa vào kinh nghiệm, sức cơ bắp là chủ yếu còn khi đưa máy móc tiết bị vào sản xuất thì trí lực được đưa lên vị trí hàng đầu. Chính vì vậy khả năng trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật cho người lao động quyết định khả năng thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Khoa học kỹ thuật phát triển sẽ nhanh chóng đưa nền sản xuất có năng suất cao, hiệu quả kinh tế lớn. Chính sách đào tạo hợp lý, cân đối giữa các ngành khoa học kỹ thuật, có chính sách phù hợp khuyến khích người dạy, người học sẽ góp phần nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Những chính sách trong đổi mới công tác giáo dục đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, đổi mới cơ cấu kiến thức, trang bị các kiến thức cần thiết của công nghiệp hoá, gắn liền đào tạo với sử dụng được và từng bước đưa người lao động nhanh chóng tiếp cận công nghệ hiện đại. Với chính sách đào tạo hợp lý chúng ta có lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng lên theo các năm: năm 1996 tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật là 12,31% - đến năm 2000 con số này là 20%.Cùng với tỷ lệ tăng này thì tỷ trọng công nghiệp trong GDP cũng tăng lên. Điều đó cho thấy chính sách đào tạo tác động sâu sắc đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với chính sách ưu tiên phát triển giáo dục miền núi , vùng sâu, vùng xa chính sách xây dựng hệ thống đào tạo nghề ở các tỉnh lẻ đã và đang tạo đà chuyển dịch kinh tế ở những vùng này. Do được tiếp cận với những kiến thức, kinh nghiệm mới mà bản thân người lao động có sự thay đổi phương châm sản xuất, họ trở nên năng động hơn sáng tạo hơn trong việc áp dụng phương tiện, công nghệ sản xuất mới, đưa năng suất lao động tăng lên. Tại các tỉnh lẻ đã bắt đầu có kế hoạch đầu tư những khu công nghiệp mới thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước tạo chuyển dịch kinh tế cho địa phương và tận dụng nguồn nhân công và vật liệu nội tại trong địa phương đó. Như vậy chính sách đào tạo đã định hướng cụ thể chiến lược phát triển kinh tế. Một chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tốt sẽ thúc đẩy nhanh chóng tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Ngược lại một chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực kém năng động, không thích ứng điều kiện mới sẽ kìm hãm sự phát triển nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói riêng. V. ĐÁNH GIÁ CÁC CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM HIỆN NAY. Thành tựu và ưu điểm. Để đánh giá những ưu điểm của chính sách đào tạo,phát triển nguồn nhân lực việt nam trong thời gian vừa qua, chúng ta có thể điểm qua những thành tựu nổi bật của sự nghiệp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong chặng đường vừa qua: Thực hiện nghị quyết các đại hội VI, VII, VIII và nhất là đại hội IX trong những năm gần đây, giáo dục – đào tạo có những tiến bộ: Mạng lưới trường học phát triển rộng khắp, hầu hết các xã trong cả nước , kể cả các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo đã có trường lớp tiểu học. Các và nhiều huyện đồng bào dân tộc đã có hệ thống trường dân tộc nội trú.có được sự chuyển biến lớn này là do chính sách ưu tiên cho phát triển giáo dục của Đảng, Nhà nước cụ thể là những chính sách: Thanh toán nạn mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng ngân sách cho giáo dục . Đã ngăn chặn được sự giảm sút quy mô và có bước tăng trưởng khá. Năm học 1996-1997 cả nước có hơn 20 triệu học sinh. Giáo dục mầm non, nhất là mẫu giáo 5 tuổi đang phát triển. Công cuộc chống mù chữ và phổ cập tiểu học được phát triển khai trong cả nước. Hiện đã có 16 tỉnh thành trong cả nước trong đó có 3 tỉnh miền núi, 57% số huyện,76% số xã được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học . Tỷ lệ học sinh lưu ban bỏ học đã giảm nhiều. Giáo dục sau đại học đã đào tạo được số lượng đáng kể, cán bộ có trình độ cao mà trước đây chủ yếu phải dựa vào nước ngoài. Giáo dục – đào tạo đã góp phần quân trọng nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ lao động có trình độ học vấn cao phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và an ninh quốc phòng. Trong nông nghiệp,công nghiệp và một số các ngành khác đội ngũ cán bộ và công nhân nước ta có khả năng nắm bắt và ứng dụng nhanh chóng một số công nghệ mới. Những thành tựu đáng kể trên là do chính sách đầu tư thích đáng cho giáo dục, tăng cường ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế, hiện đại hoá hệ thống trường dạy nghề, khuyến khích phát triển hệ thống trường lớp dạy nghề dân lập và tư thục. Mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào tạo. Nhờ những chính sách như: hỗ trợ đặc biệt những học sinh có năng khiếu, hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở các cấp bậc cao, chính sách chọn người giỏi đặc biệt là con em công nhân và nông dân, để đào tạo ở đại học, thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo đẩy mạnh việc xây dựng các quỹ khuyến khích tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ giáo dục Cho đến nay chất lượng giáo dục đào tạo có nhiều tiến bộ, ở một số nơi đã hình thành phong trào học tập sôi nổi. Các gia đình, đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội đã chăm lo cho giáo dục nhiều hơn trước. Số học sinh khá giỏi, đoạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế ngày càng tăng. Với những chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với giáo viên, khuyến khích người giỏi làm nghề dạy họ. Có chính sách ưu đãi đặc biệt về tiền lương và phụ cấp đối với giáo viên dạy ở những vùng cao, vùng sâu, hải đảo và một số vùng miền núi. Chính sách thu hút những học sinh giỏi vào học ở các trường sư phạm, tăng mức đầu tư và tăng cường cỉ đạo tạo ra những chuyển biến về chất ở các trương sư phạm. Đội ngũ giáo viên đã từng bước lớn lên về quy mô và chất lượng, đây thực sự là lực lượng tiên phong dẫn dắt thế hệ trẻ hướng theo con đường học tập không ngừng với kết quả tốt. Các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục có xu hướng giảm do đổi mới cơ chế quản lý, sắp xếp, chấn chỉnh và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý giáo dục, những đổi mới về nội dung,quy trình, phương pháp giáo dục, đánh giá, đều dựa trên cơ sở nghiên cứu và trải qua thực nghiệm, phù hợp với thực tiễn việt nam. Trên đây là những đánh giá về mặt tích cực mà những chính sách cụ thể trong đào tạo ,phát triển nguồn nhân lực mang lại .Ngoài những thành tựu cơ bản,nhà nổi bật thì chính sách đào tạo,phát triển nguồn nhân lực việt nam còn có nhiều yếu kém và khuyết điểm 2. Những hạn chế, tiêu cực. Giáo dục –đào tạo nước ta còn nhiều yếu kém bất cập về quy mô, cơ cấu, nhất là chất lượng, hiệu quả chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước: Hiện nay nước ta còn 9% dân số mù chữ, tỷ lệ sinh viên trên dân số còn thấp; tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt hơn 10%, nếu nền kinh tế quốc dân còn có nhiều lao động và cán bộ có tay nghề và trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao. Cơ cấu ngành nghề , cơ cấu trình độ, cơ cấu xã hội và cơ cấu vùng của sinh viên, học sinh các trường đại học và chuyên nghiệp chua hợp lý. Một số ngành rất cần thiết cho sự phát triển của đất nước lại có quá ít học sinh đăng ký theo học. Quy mô đào tạo nghề còn nhỏ bé, trình độ thiết bị đào tạo lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Trình độ kiến thức, kỹ năng thực hành, phương pháp tư duy khoa học, trình độ ngoại ngữ và thể lực của đa số học sinh còn yếu. Ở nhiều học sinh ra trường, khả năng vận dụng kiến thức vào sản xuất và đời sống còn hạn chế. Số đông sinh viên tốt nghiệp chưa có khả năng thích ứng với những biến đổi nhanh chóng trong nghề và công nghệ. Những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục vẫn xảy ra ảnh hưởng xấu đến sự phát triển toàn diện của học sinh và quan hệ thầy trò. Một số trường có hiện tượng mua bán điểm và mua bán bằng, nhiều trường đã tăng quy mô tuyển sinh vượt quá khả năng đào tạo, mở quá nhiều lớp tại chức ở các địa phương và không thực hiện đúng quy chế, đúng chương trình, không đảm bảo chất lượng đào tạo. Chưa thực hiện tốt công bằng xã hội trong giáo dục, các trường đại học tỷ lệ sinh viên là con em nhà nghèo, con em xuất thân từ công nhân, nhất là nông dân ở vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số giảm dần. Nguyên nhân của những hiện tượng yếu kém trên là: Công tác quản lý giáo dục - đào tạo có những mặt yếu kém, bất cập. Có nhiều chủ trương đổi mới giáo dục nhưng một số chủ trương chưa được nghiên cứu chuẩn bị chu đáo trước khi áp dụng. Mở rộng quy mô đào tạo và phát triển nhiều loại hình giáo dục – đào tạo nhưng có nhiều thiếu sót trong việc quản lý chương trình, nội dung và chất lượng. Công tác thanh tra giáo dục còn quá yếu kém, thiếu những biện pháp hữu hiệu để kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo, đặc biệt là đối với các hình thức trường mở, bán công, ân lập Cơ chế quản lý của ngành giáo dục – đào tạo chưa hợp lý, buông lỏng chức năng quản lý Nhà nước, chưa thực hiện sự quản lý thống nhất, chưa phất huy quyền chủ động và trách nhiệm của địa phương và nhà trường. Nội dung giáo dục và đào tạo vừa thừa nhiều vừa chưa chưa gắn liền với cuộc sống. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức và nhân cách cũng như việc giảng dạy các môn khoa học và nhân văn, giáo dục thể chất , giáo dục thẩm mỹ bị xem nhẹ. Công tác giáo dục hướng nghiệp ở bậc phổ thông chưa được chú ý đúng mức. Giáo dục – đào tạo chưa kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất, nhà trường chưa gắn với gia đình, xã hội. Hoạt động giáo dục –đào tạo chưa gắn mật thiết với các hoạt động sản xuất và nghiên cứu khoa học. Chính phủ và các cơ quan Nhà nước chưa có những quyết định đủ mạnh về chính sách, cơ chế và biện pháp tổ chức thực hiện để thực hiện đầy đủ quan điểm coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu. + Các chính sách đã ban hành chưa đủ khuyến khích nghề dạy học và những giáo viên, giảng viên giỏi có trình độ cao. Tiền lương giáo viên chưa thoả đáng. Hệ thống các trường sư phạm tuy đã được quan tâm đầu tư hơn trước nhưng vẫn chưa đủ sức làm tốt công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Chính sách thu hút học sinh khá giỏi vào học sư phạm chua đủ mạnh. Tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục còn thấp, cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học của các trường nhìn chung chậm cải tiến. + Không ít cấp uỷ đảng và cấp chính quyền nhận thức về vai trò của giáo dục – đào tạo chưa đủ sâu sắc, chưa thấy hết trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp đào tạo – phát triển nguồn nhân lực . Thậm chí một số nơi còn cắt xén kinh phí của giáo dục – đào tạo. C. PHẦN KẾT LUẬN Những mục tiêu, chiến lược, chính sách trong bài viết này đã cho thấy hết vị trí quốc sách hàng đầu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Đảng và nhân dân ta rất tự hào về thế hệ trẻ Việt Nam, hết sức chăm lo đến sự nghiệp trồng người. Chính vì vậy tuổi trẻ việt nam phải ý thức rõ trách nhiệm làm chủ đất nước, đưa dân tộc vững bước tiến vào thế kỷ mới-thế kỷ của công nghệ, của kinh tế và tri thức. Đứng trước những thành công có tính bước ngoặt của công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, một lần nữa đã khẳng định vai trò to lớn của chính sách đào tạo – phát triển nguồn nhân lực. Đảng nhà nước ta trong suốt những năm qua đã không ngừng cải tiến, sửa đổi, bổ sung . Nhiều chính sách để khuyến khích, động viên xã hội học tập, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước. Tuy chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực còn chứa đựng một số bất cập nhưng không làm mất đi tính hiệu lực trong quản lý của Nhà nước. Con đường đổi mới sự nghiệp giáo dục – đào tạo chắc chắn còn nhiều thử thách quyết liệt nhưng chúng ta tin rằng với những chính sách chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, dưới sự đoàn kết nhất trí phất huy sức mạnh của nhân dân ta chắc chắn chúng ta sẽ giành được nhiều thắng lợi hơn nữa. Trong bài viết này em đã tập trung nghiên cứu những chính sách tổng quát cũng như cụ thể về giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Bài viết chưa khai thác triệt để yêu cầu của đề tài mà mới chỉ đi sâu vào phần nội dung chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là chủ yếu. Mặc dù vậy em hi vọng sẽ đóng góp một phần kiến thức, sự tìm tòi để đề tài này được sáng tỏ hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của thầy giáo: PGS-TS Trần Xuân Cầu. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS. Phạm Đức Thành và PGS.TS. Mai Quốc Chánh - Giáo trình kinh tế lao động - NXB giáo dục - 1998. GS.PTS. Vũ Thị Ngọc Phùng - Giáo trình kinh tế phát triển - NXB thống kê – 1999 Lê Du Phong - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới - NXB chính trị quốc gia – 2002 Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới, chủ trương, thực hiện, đánh giá. - NXB chính trị quốc gia – 1996 Đặng Hữu - Chính sách phát triển nguồn lực con người cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá trên cơ sở tiếp tục đổi mới giáo dục - đào tạo Trần Minh Ngọc - Chuyển dịch lao động trong nghành kinh tế quốc dân Lê Anh vũ - Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vũ thiện vương - Phát triển giáo dục đào tạo với tư cách điều kiện kiên quyết để phát huy nguồn lực con người Luật giáo dục số 11/1998/QH 10 ngày 1-12-1998. Tạp chí khoa học xã hội số 1/2003 Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII - NXB chính trị quốc gia – 1996 MỤC LỤC Trang A.PHẦN MỞ ĐẦU 1 B. PHẦN NỘI DUNG 3 I. CÁC KHÁI NIỆM 3 1.Nguồn nhân lực . 3 2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. 3 3. Chính sách đào tạo 5 4. Chuyển dịch vàchuyển dịch cơ cấu kinh tế 5 II. NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO VÀ 6 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và chính sách tổng quát 7 2. Chính sách cụ thể 10 III. NỘI DUNG CỦA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHUYỂN DICH CƠ CẤU KINH TẾ. 20 Nội dung của quá trình chuyển dich cơ cấu kinh tế. 20 Các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển dich cơ cấu kinh tế. 27 IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUYỂN DICH 22 CƠ CẤU KINH TẾ VỚI CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC. 29 Chuyển dich cơ cấu kinh tế tác động đến chính sách đào tạo 29 và phát triển nguồn nhân lực. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 32 ảnh hưởng tới tiến trình chuyển dich cơ cấu kinh tế. V. ĐÁNH GIÁ CÁC CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO VÀ 35 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM HIỆN NAY. Thành tựu và ưu điểm. 35 Những hạn chế, tiêu cực. 37 C. PHẦN KẾT LUẬN. 40

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8411.doc
Tài liệu liên quan