Có nhiều loại tỷ giá khác nhau được sử dụng trên thị trường hối đoái, tuỳ thuộc vào tiêu thức phân loại khác nhau.
a) Căn cứ vào đối tượng xác định:
Nếu phân loại theo đối tượng xác định, người ta chia ra hai loại tỷ giá:
- Tỷ giá chính thức: là một loại tỷ giá do Ngân hàng Trung ương nước đó xác định và công bố.
- Tỷ giá thị trường: là tỷ giá hình thành do quan hệ cung cầu trên thị trường hối đoái.
b) Căn cứ vào kỹ thuật giao dịch:
Nếu phân loại theo kỹ thuật giao dịch, người ta chia thành hai loại tỷ giá:
- Tỷ giá giao ngay (spot): là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện chậm nhất sau hai ngày làm việc.
- Tỷ giá giao dịch kỳ hạn (forward): là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng.
c) Căn cứ vào hoạt đông xuất - nhập khẩu:
Căn cứ tiêu thức này, người ta phân ra hai loại tỷ giá:
- Tỷ giá xuất khẩu: là tỷ giá so sánh giữa tổng giá vốn hàng xuất khẩu tính trên sàn tàu bằng tiền nội địa so với ngoại tệ thu được theo giá FOB tại cảng xuất khẩu, cụ thể là:
Tỷ giá xuất khẩu = tổng giá vốn tại sàn tàu bằng nội tệ / tổng ngoại tệ thu được theo giá FOB tại cảng
65 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông để tránh hiện tượng thiểu phát buộc phải sử dụng thêm một nghiệp vụ trên mở là mua chứng khoán để bơm thêm tiền vào lưu thông; còn khi tránh hiện tượng lạm phát thì NHNN phải dùng thêm nghiệp vụ bán chứng khoán ở thị trường mở để hút bớt tiền vào lưu thông.
Tuy nhiên, do thị trường tiền tệ Việt Nam còn kém phát triển, đặc biệt là sự nghèo nàn về công cụ, cho nên hoạt động của thị trường mở còn trầm lắng. Muốn những can thiệp của Nhà nước vào thị trường ngoại hối đạt được hiệu quả thì cần giải pháp hoàn thiện thị trường tiền tệ, để NHNN có thể bơm thêm hoặc rút bớt tiền ra khỏi lưu thông, giảm áp lực lên tỷ lệ lạm phát khi cung cầu ngoại tệ căng thẳng.
- Việc can thiệp của Ngân hàng Nhà nước phải diễn ra kịp thời, với quy mô thích hợp, như thế thì thị trường hoạt động mới thông suốt. Một khi Ngân hàng Nhà nước không tiến hành can thiệp, can thiệp chậm hoặc quy mô can thiệp không phù hợp sẽ khiến thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá. Một động thái khôn ngoan thích hợp của Ngân hàng Nhà nước sẽ làm thị trường hoạt động thông suốt và hiệu quả.
- Hiện nay, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã có trên 60 thành viên chính thức, nhưng số tham gia tích cực thì rất hạn chế, dẫn đến thị trường hoạt động kém sôi nổi. Hơn nữa giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thường diễn ra một chiều, nghĩa là một vài ngân hàng chuyên đi bán, số khác chuyên đi mua, điều này khiến thị trường mất đi tính đặc thù của nó. Để khắc phục hạn chế này, một mặt mở rộng số lượng thành viên, mặt khác cần tạo điều kiện để nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia.
- Song song với những vấn đề trên, thì việc hoàn thiện quy chế giao dịch, hiện đại hoá khâu thanh toán, trang bị công nghệ thông tin tiên tiến, nâng cao trình độ và kỹ năng kinh doanh cho nhân viên,…cũng cần được xem xét thực hiện để từ đó kết nối ngày một hoàn chỉnh hơn với thị trường tiền tệ quốc tế.
- Ngoài ra, nên chú trọng phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó để Chính phủ nói chung và NHNN nói riêng phối hợp, điều hoà giữa hai thị trường ngoại tệ và nội tệ một cách thông suốt, nhất là khi cần thực hiện các can thiệp bù trừ.
2. Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để việc can thiệp vào tỷ giá hối đoái đạt hiệu quả cao:
a) Nghiệp vụ thị trường mở:
Việc thị trường mở chính thức khai trương hoạt động vào 12/7/2000 là một bước đột phá của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ từ sử dụng công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp theo tín hiệu của thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đến nay đã có 22 tổ chức tín dụng được công nhận là thành viên của nghiệp vụ thị trường mở, tăng thêm 4 thành viên so với khi mới khi trương hoạt động; trong đó có 4 Ngân hàng thương mại Nhà nước, 10 Ngân hàng thương mại cổ phần, 1 Ngân hàng liên doanh, 5 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, 1 Công ty tài chính và 1 Quỹ tín dụng Trung ương. Quy mô của thị trường mở ngày càng tăng thể hiện sự phát triển ổn định và bền vững của nghiệp vụ này.
Từ khi khai trương đến quý II/ 2003, thị trường mở vẫn duy trì 2 phương thức giao dịch là mua kỳ hạn và bán hẳn, các loại giấy tờ được mua bán trên thị trường đều có thời hạn ngắn, đồng thời hầu như chỉ có sự tham gia của những ngân hàng thương mại Nhà nước, các Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh chưa có cơ hội tham gia hay tham gia không hiệu quả.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi được quốc hội thông qua ngày 16/6/2003 đã cho phép các loại giấy tờ có giá dài hạn còn thời hạn ngắn được giao dịch trên thị trường tiền tệ. Theo đó, thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở bằng cách mua bán ngắn hạn tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các loại giấy tờ có giá khác để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Điều này tạo đà thúc đẩy nghiệp vụ thị trường mở phát triển hơn trong tương lai. Thực vậy, nếu năm 2001 chỉ có 48 phiên giao dịch thị trường mở với tổng khối lượng giao dịch là 3.933,81 tỷ đồng thì số phiên giao dịch đã tăng lên 116 và tổng khối lượng giao dịch là 61.935,91 tỷ đồng vào năm 2004 (xem thêm bảng 13). Dự báo tới đây Ngân hàng Nhà nước sẽ vận hành thị trường mở với khối lượng giao dịch còn lớn hơn.
Bảng 12:
Kỳ hạn kỳ hạn kỳ hạnối lượng đấu thầu tín phiếu Kho bạc Nhà nước (TPKBNN) và thị trường liên ngân hàng trong các năm qua (1997 - 2004)
Năm
Khối lượng dự kiến đấu thầu TPKBNN
Khối lượng trúng thầu TPKBNN
Doanh số mua trên thị trường mở
Doanh số bán trên thị trường mở
Tổng doanh số giao dịch thị trường mở
Tỷ trọng doanh số nghiệp vụ thị trường mở/tổng doanh số cho vay của NHNN (%)
Giao dịch qua thị trường liên ngân hàng
1997
4.190
2.917,5
1998
5.130
4.011
140.739
1999
4.400
3.011
161.834
2000
6.750
4.766
190.722
2001
8.550
3.955
3.313,81
620,0
3.933,81
41
220.916
2002
8.410
8.140
7.245,53
1.700
8.945,53
44
130.737
2003
18.000
15.901
9.843,15
11.340
21.183,15
86
150.000
2004
22.000
19.465
950
60.985,91
61.935,91
_
_
Cộng
77.430
81.166,5
21.352,49
74.645,91
95.998,4
(Nguồn : NHNN)
Mặc dù vậy, trong tương lai muốn hàng hoá của thị trường tiền tệ nói chung, thị trường mở nói riêng đa dạng và phong phú hơn thì:
Trước hết, cần chú trọng xây dựng cơ chế, hành lang pháp lý, môi trường hoạt động nhằm từng bước đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở lên đúng vị trí của nó trong việc can thiệp điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Tín phiếu kho bạc (TPKB)- loại chứng khoán chủ yếu để thực hiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở (vì là loại chứng khoán mà mức độ rủi ro thấp, tính thanh khoản cao, và sự trung lập về lợi ích là lớn nhất so với bất kỳ giấy tờ có giá nào khác), cần được tạo lập một môi trường lưu thông và giao dịch hoàn thiện. Đối với TPKB ngắn hạn, Nhà nước phải thực hiện đúng nhhiệm vụ quản lý theo chức năng của mình để đưa chứng khoán này thành cộng cụ thực hiện chính sách tiền tệ. Bộ Tài chính thì chỉ phát hành và kiểm soát loại tín phiếu dài hạn (trái phiếu Chính phủ) nhằm bù đắp những thiếu hụt ngân sách có tính chất dài hạn.
Việc cung ứng thêm tiền ra lưu thông cũng như rút bớt tiền về của Ngân hàng Nhà nước thông qua thị trường này cần thực hiện linh hoạt, đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn cho nền kinh tế cũng như tác động đến lãi suất thị trường.
Ngân hàng Nhà nước cũng cần hoàn thiện hơn nữa khâu kỹ thuật, thủ tục, tổ chức,… nhằm thu hút thêm nhiều ngân hàng thương mại tham gia thị trường.
Điều chỉnh lãi suất trong các phiên đấu thầu linh hoạt hơn để nó có thể tác động có hiệu quả vào lãi suất trong nền kinh tế.
- Tranh thủ tối đa khả năng tích luỹ ngoại tệ, đồng thời duy trì mức dự trữ ngoại tệ tương xứng với nhịp độ kim ngạch nhập khẩu. Tập trung quản lý ngoại tệ vào một đầu mối duy nhất là NHNN, ngay cả ngoại tệ của Kho Bạc Nhà Nước có được cũng phải bán ngay cho NHNN và khi có nhu cầu thì mua lại như những đơn vị khác
- Nâng cao hiệu quả sử dụng dự trữ ngoại tệ. Cụ thể, khi cần tăng ngoại tệ dự trữ vào thị trường, NHNN có thể đứng ra bảo lãnh cho các tổng công ty nhập khẩu các mặt hàng chiến lược. Điều này đảm bảo ngoại tệ dự trữ được sử dụng đúng cho hoạt động ngoại thương
- Lựa chọn cơ cấu dự trữ ngoại tệ khả thi, đa dạng hoá các ngoại tệ trong dự trữ, giảm dần sự phụ thuộc quá nhiều vào đồng USD
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước nên tổ chức đi khảo sát kinh nghiệm của những nước thành công trong việc vận hành thị trường mở với sư tham gia của các ngân hàng thương mại cổ phần, tạo điều kiện cho họ tiếp thu thực tế trong việc linh hoạt vốn khả dụng, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
b) Lãi suất:
Lãi suất mà cụ thể là lãi suất tái chiết khấu luôn được xem là công cụ thứ hai mang tính kinh tế trong can thiệp điều chỉnh tỷ giá. Từng bước nâng cao sức mạnh của công cụ lãi suất tái chiết khấu trong hoạt động can thiệp, điều chỉnh tỷ giá cũng sẽ là con đường tự do hoá tài khoản vốn mà trước hết là các giao dịch vốn ngắn hạn, đầu tư gián tiếp và cũng chính là con đường từng bước đưa đồng Việt Nam thành đồng tiền chuyển đổi, cụ thể là:
- Trước tình hình thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa khẳng định rõ vị trí chủ đạo trong thị trường (giao lưu vốn ngắn hạn), thì vẫn nên duy trì cơ chế lãi suất trần. Đồng thời, từ từ giảm dần chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, nhưng không có nghĩa là làm cho chênh lệch lãi suất này bằng không mà giảm đến mức chênh lệch là sự phản ánh những thay đổi dự tính trong tỷ giá và mức độ chênh lệch về rủi ro, tính thanh khoản giữa các đồng tiền.
- Tập trung nâng cấp, phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài phát triển. Mức độ điều chỉnh các loại lãi suất của NHNN trong mỗi đợt cần có khoảng cách đủ rộng để nó thực sự có ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ
- Khi thị trường tiền tệ đã vững mạnh, NHNN đã đủ kinh nghiệm và năng lực để vận hành thị trường, hệ thống ngân hàng thương mại đã phát triển ở trình độ nhất định, thì NHNN sẽ không cần khống chế lãi suất trần mà chỉ công bố lãi suất cho vay tái chiết khấu, tạo một cơ chế vận hành mềm dẻo theo tín hiệu thị trường. Nghĩa là căn cứ vào lãi suất hình thành trên thị trường Liên ngân hàng để điều khiển lãi suất tín dụng trong nền kinh tế. NHNN sẽ giảm dần sự can thiệpvà tiến tới xoá bỏ biện pháp hành chính trong việc điều hành lãi suất.
Tóm lại, để sử dụng công cụ lãi suất mà cụ thể là lãi suất tái chiết khấu tác động vào tỷ giá, thì Chính phủ phải từng bước tự do hoá lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của đồng tiền đó trên thị trường chứ không phải bởi những can thiệp hành chính của Chính phủ. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, lãi suất chỉ có thể sử dụng thận trọng, cân nhắc và nên phối hợp với nhiều công cụ khác.
c) Các công cụ hành chính:
Thời gian qua, các biện pháp can thiệp hành chính đã đem lại hiệu quả tốt khi góp phần giúp Việt Nam đạt được những thành công trong điều hành chính sách tỷ giá. Tuy khẳng định những biện pháp hành chính chỉ là giải pháp tình thế chứ không bao giờ giải quyết được tận gốc của vấn đề, nhưng cũng không thể xoá bỏ chúng ngay lập tức, mà chỉ nên nới lỏng một cách từ từ, tương ứng với việc gia tăng khả năng can thiệp của các công cụ mang tính kinh tế. Tuỳ thuộc vào diễn biến của nền kinh tế mà quá trình nới lỏng và thay thế dần các biện pháp hành chính bằng biện pháp kinh tế diễn ra nhanh hay chậm. Nhưng điểm tất yếu là cần dở bỏ dần những biện pháp hành chính bất hợp lý trong công tác điều hành, quản lý ngoại hối, còn các quy định hợp lý phải được giữ lại, hoàn thiện dần, đơn giản hơn, dễ hiểu và phải hiệu quả hơn để tạo một hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động ngoại hối luôn đi đúng hướng, tránh những thất bại thị trường. Công cụ này có thể tập trung vào một số điểm sau:
- Tăng cường giám sát các giao dịch ngoại hối thông qua việc kiểm soát chặt chẽ các hợp đồng thanh toán ngoại tệ, đề ra mức phạt nặng đối với trường hợp kê khống giá của hợp đồng xuất nhập khẩu và đối với các hành vi gian lận khác
- Duy trì công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi quy định về chế độ quản lý ngoại hối hiện hành, cương quyết trừng phạt nặng không phân biệt thành phần kinh tế nếu phát hiện hành vi vi phạm
- Rà soát thường xuyên các văn bản pháp quy để cải tiến kịp thời
3. Xây dựng đồng Việt Nam thành đồng tiền chuyển đổi - bước đi cần thiết để hội nhập:
a) Sự cần thiết của việc thiết lập khả năng chuyển đổi cho đồng Việt Nam:
Khả năng chuyển đổi của đồng tiền có nhiều mức độ khác nhau. Theo IMF, một đồng tiền được xem là có khả năng chuyển đổi khi chính phủ cam kết duy trì việc không hạn chế bản tệ trong các giao dịch vãng lai. Khả năng chuyển đổi của đồng tiền không chỉ ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tiền tệ nói chung, chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng mà còn tác động mạnh đến hoạt động thương mại , đầu tư của bản thân mỗi nước và tiến trình hội nhập của quốc gia đó đối với nền kinh tế toàn cầu. Thiết lập một đồng tiền Việt Nam chuyển đổi sẽ mang lại nhiều lợi ích:
- Đồng tiền Việt Nam chuyển đổi được sẽ có tính thanh khoản cao trong thanh toán đối nội, xoá bỏ dần tâm lý lệ thuộc vào đồng USD trong thanh toán và cất trữ. Đồng tiền ổn định mới kích thích việc đầu tư sản xuất trong nước phát triển, người dân ít lo ngại về giá trị của đồng tiền Việt Nam gửi trong các ngân hàng.
- Với cán cân tài khoản vãng lai, việc bản tệ được tự do chuyển đổi thành ngoại tệ làm năng động hoá hoạt động xuất nhập khẩu, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như khả năng tiếp cận thị trường thế giới của hàng xuất khẩu.
- Đồng VND chuyển đổi được vừa đảm bảo tính thanh khoản cao trong thanh toán quốc tế, đồng thời tác động mạnh tới hoạt động thu hút nguồn vốn nước ngoài do các nhà đầu tư quốc tế an tâm trong việc chuyển vốn đầu tư cũng như chuyển lợi nhuận về nước.
- Ngoài ra, việc đồng tiền Việt Nam tự do chuyển đổi góp phần loại bỏ những chênh lệch, phân cực trong mua bán ngoại tệ trên thị trường chính thức và “chợ đen”.
b) Giải pháp cho việc tăng cường khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam:
Đến nay, đồng tiền Việt Nam vẫn chưa được chuyển đổi, thể hiện ở việc các doanh nghiệp phải tìm ngoại tệ trên thị trường “chợ đen”. Nâng cao dần khả năng chuyển đổi của VND là cần thiết, bởi như đã nói con đường đó cũng chính sẽ hỗ trợ cho việc tăng cường dần sức mạnh của công cụ lãi suất tái chiết khấu trong can thiệp, điều chỉnh tỷ giá và cũng là con đường tự do hoá tài khoản vốn. Nhưng cái khó là cần tiến hành như thế nào trong điều kiện hội nhập của nền kinh tế nước nhà?
Nhìn lại cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á, mới thấy việc tự do hoá tài khoản vốn, đặc biệt là dòng vốn đầu tư gián tiếp, vốn ngắn hạn của nhiều nước quá sớm khi các công cụ tài chính khác chưa đủ mạnh, hệ thống các biện pháp theo dõi, điều hành nền kinh tế còn lỏng lẻo là một quyết định sai lầm. Nên sau khủng hoảng các quốc gia như Indonesia, Malaysia, Thailand, …đã quay lại kiểm soát chặt những dòng vốn ngắn hạn.
Từ đó, thiết nghĩ khi Chính phủ thiết lập khả năng chuyển đổi cho đồng VND, thì trước hết nên từng bước chuyển đổi trong các giao dịch vãng lai, khi nền kinh tế ổn định mới tiến hành chuyển đổi bản tệ trong các giao dịch vốn và sau đó mới mở rộng ra những giao dịch khác, chẳng hạn:
Tự do hoá các dòng vốn dài hạn, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp. Đồng thời để khuyến khích vốn đầu tư dài hạn thì cũng phải tự do hoá dần các giao dịch ròng trong tài khoản vãng lai do hoạt động đầu tư dài hạn gây ra.
Tiến tới tự do hoá hoàn toàn các giao dịch, chuyển giao ròng trong tài khoản vãng lai.
Từng bước tự do chuyển đổi các giao dịch vốn ngắn hạn như cho phép người nước ngoài tham gia mua chứng khoán với một tỷ lệ nhất định trong thời gian đầu, sau đó mới mở rộng dần và chuyển đổi hoàn toàn tài khoản vốn.
Chuyển đổi hết những giao dịch còn lại trong tài khoản vãng lai và tiến tới một đồng tiền chuyển đổi hoàn toàn.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng vấn đề chuyển đổi đồng tiền Việt Nam không thể thực hiện một cách nóng vội mà phải phù hợp với nhu cầu và khả năng phát triển thực sự của nền kinh tế đất nước.
4. Giải pháp cho vấn đề đôla hoá ở Việt Nam:
Đối với những nước có xuất phát điểm thấp, đang trong tình trạng chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt Nam thì đôla hoá là tình trạng khó tránh khỏi. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, về thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch,…không thể một sớm, một chiều xoá bỏ hay giảm thiểu được.
Phần đề cập đến những chủ trương chính sách lớn của Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IV, một lần nữa khẳng định yêu cầu đối với lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng: “Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng tiền Việt Nam”. Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và Ngân hàng Trung ương trong vấn đề đôla hoá là rất rõ ràng: xoá bỏ đôla hoá trong nền kinh tế - xã hội nước ta phải thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính, kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội, trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế, nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng, thuộc tính của tiền tệ.
Thực vậy, việc xử lý đôla hoá không thể theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay, cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đầu tư bằng đôla trong dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư cho dự án phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta đang hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế. Nói kiềm chế và đẩy lùi mặt tiêu cực, có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự tồn tại của đôla hoá ở những mặt tích cực khách quan. Điều quan trọng nhất là Nhà nước cần giữ vai trò chủ động trong việc điều chỉnh hiện tượng đôla hoá. Chúng ta không thể sử dụng các biện pháp hành chính như đã từng áp dụng trước đây như: tăng tỷ lệ kết hối lên 100%, không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không nhận tiền gửi ngoại tệ hoặc hạ thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp được mở tài khoản ngoại tệ tại một ngân hàng,…Những biện pháp hành chính này qua thực tiễn đã chứng tỏ là chúng gây khó khăn cho các doanh nghiệp, không khuyến khích nguồn kiều hối chuyển về nước, cũng không phù hợp với xu hướng hội nhập của khu vực và thế giới. Do đó, để giữ được những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đôla hoá, cần thực hiện một số giải pháp sau đây:
a) Tạo môi trường đầu tư trong nước để có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện tồn trong dân thông qua các biện pháp sau:
- Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cạnh trạnh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong sản xuất, thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
- Mở rộng các dự án đầu tư của Chính phủ về: dầu khí, cầu đường, điện lực,…trong đó khuyến khích sự tham gia, đầu tư của các thành phần kinh tế.
- Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng hoá các danh mục đầu tư trong nước. Thay cho dự kiến phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế bằng việc mở rộng phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước, huy động vốn đôla trong dân.
b) Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ:
- Cần tiếp tục cơ cấu tích cực hơn mệnh giá đồng Việt Nam, phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ, kể cả thẻ tín dụng quốc tế.
- Thay cho việc chỉ gắn với một đồng đôla Mỹ như trước đây, tỷ giá ngang giá nên gắn với một “rổ” tiền tệ bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPI và một số đồng tiền các nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc,…Các đồng tiền này tham gia vào rổ tiền tệ theo tỷ trọng thương mại và đầu tư với Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như trên nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào đôla Mỹ, và phản ánh xác thực hơn cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính đến xu hướng biến động các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn. Xây dựng một chính sách tỷ giá linh hoạt, phù hợp với tình hình kinh tế của đất nước sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
- Các ngân hàng chỉ được cho vay USD đối với các đối tượng có doanh thu trực tiếp và có khả năng chi trả bằng USD. Còn tất cả doanh nghiệp trong nước khác vay của những ngân hàng thương mại trong nước đều thực hiện bằng đồng bản tệ, nếu cần ngoại tệ để thanh toán với quốc tế thì mua ngoại tệ tại thị trường ngoại hối để mở LC thanh toán.
- Không được duy trì quyền sở hữu ngoại tệ không có nguồn gốc hợp pháp. Cần có những quy chế rõ ràng rằng quyền sở hữu ngoại tệ của dân cư là quyền sở hữu ngoại tệ hợp pháp chuyển từ nước ngoài vào; không cho phép sở hữu số ngoại tệ có được do trao đổi lòng vòng ở chợ đen, rồi biến số đó thành sở hữu riêng.
- Sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ như: lãi suất, dự trữ bắt buộc,… để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng Việt Nam hấp dẫn hơn đôla Mỹ từ đó có thể hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng Việt Nam sang đôla Mỹ, chẳng hạn:
Xây dựng một chính sách lãi suất nhằm tạo ra chênh lệch lãi suất thực dương giữa tiền gửi VND và tiền gửi USD. Lãi suất thực dương này phải tính cả tốc độ mất giá của tiền Việt Nam và độ tin cậy của đôla thì mới đủ sức hấp dẫn. Khi đó, các nhà xuất khẩu cũng không muốn găm giữ ngoại tệ nữa, chẳng cần quy định tỷ lệ kết hối mà họ vẫn chuyển ngoại tệ thu được sang tài khoản VND để hưởng lãi suất có lợi hơn. Việc mua bán ngoại tệ qua hệ thống ngân hàng sẽ gia tăng, cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng cũng thay đổi. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vì thế sôi động lên, không khí cạnh tranh trên thị trường được hâm nóng, và cung cầu ngoại tệ phản ánh đúng thực chất tỷ giá hối đoái.
Ngân hàng Nhà nước tuỳ diễn biến trên thị trường tiền tệ cần linh hoạt ấn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ cao phù hợp. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ cao một mặt tác động làm giảm động cơ thu hút tiền gửi ngoại tệ của các ngân hàng, gây hiệu ứng lãi suất tiền gửi ngoại tệ thấp; mắt khác giúp tăng dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Biện pháp này cũng góp phần giảm rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của ngân hàng.
c) Cần nhất quán chủ trương quản lý lưu hành ngoại tệ theo hướng “Trên đất nước Việt Nam chỉ chi trả bằng đồng Việt Nam”. Muốn vậy, cần có quy định về việc sử dụng ngoại tệ của cá nhân như sau:
- Không được phép chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam dù là tiền mặt hay chuyển khoản, ngoại trừ duy nhất trường hợp trả chuyển khoản cho các tổ chức kinh doanh được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Việc chi trả các khoản tiền như kiều hối, tiền lương, thu nhập từ xuất khẩu lao động,…cho người trong nước bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu cũng nên chấm dứt. Việc này chỉ nên thực hiện bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc chi trả bằng tiền Việt Nam. Nhưng có lẽ biện pháp này chỉ thực hiện tốt khi tất cả các quan hệ thanh toán đối ngoại được hệ thống các tổ chức tín dụng, các ngân hàng đáp ứng đầy đủ với sự tham gia điều hoà của NHNN trên một thị trường ngoại hối hoàn thiện.
- Cá nhân có tiền gửi ngoại tệ tại ngân hàng thương mại chỉ rút ra bằng tiền mặt ngoại tệ để cất trữ riêng hoặc để đưa đi nước ngoài chi tiêu.
- Khoanh hẹp và tiến tới không cho vay ngoại tệ tiền mặt trực tiếp để kiểm soát tốt những nghiệp vụ ngân hàng mang tính đầu cơ tiền tệ.
- Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu, tình trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. Cần có biện pháp hạn chế đến mức tối đa việc lưu thông, sử dụng và niêm yết giá bằng đôla Mỹ trên thị trường Việt Nam.
Quá trình kiềm chế và đẩy lùi đôla hoá thành công là một tiền đề cần thiết để Việt Nam có một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Với sự mở cửa của khu vực tài chính trong những năm tới cùng sự tự do hóa giao dịch tài khoản vốn, thì việc đạt được mục tiêu kiềm chế và đẩy lùi đôla hoá càng trở nên khó khăn hơn. Muốn làm được cần phải có thời gian và quyết tâm cao. Điều quan trọng là những mặt tích cực của hiện tượng đôla hoá không bị xoá bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa và hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung cho chính sách tiền tệ tích cực của đất nước trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đôla hoá thì cần phải được kiềm chế, đẩy lùi và xoá bỏ dần.
5. Phá giá đồng tiền Việt Nam - một biện pháp kích thích xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại:
a) Sự cần thiết phải phá giá đồng tiền Việt Nam:
Tỷ giá hối đoái là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm trong toàn bộ nền kinh tế. Trong khi, Chính phủ Việt Nam đang áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý và vấn đề gây nhiều tranh luận của các nhà kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước là liệu đồng Việt Nam có được định giá quá cao trong giai đoạn hiện nay hay không? Nói chung, có hai xu hướng chính: Trường phái thứ nhất cho rằng đồng Việt Nam không định giá quá cao, nên chẳng cần phải phá giá; trường phái thứ hai ủng hộ chính sách phá giá để thúc đẩy nền kinh tế vì theo họ đồng Việt Nam hiện đang được định giá khá cao.
Riêng người viết, xin đưa ra trả lời cho câu hỏi trên qua phân tích tỷ giá hợp lý giữa USD và VND.
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai nói chung và cán cân thương mại nói riêng là tỷ giá hối đoái thực. Theo tính toán ở trên, thì tỷ giá thực của đồng Việt Nam so với đôla Mỹ thường nhỏ hơn 1. Do đó mà phần nào tác động bất lợi đến sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam về giá cả thông qua đó làm gia tăng nhập khẩu đồng thời kìm hãm xuất khẩu. Để đưa ra giải pháp giúp cải thiện cán cân tài khoản vãng lai là chỉ cần điều chỉnh tỷ giá USD/VND sao cho tỷ giá thực >=1, khi ấy tỷ giá danh nghĩa đạt đến giá trị hợp lý. Giá trị hợp lý là giá trị đảm bảo sức mua sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền ở trạng thái ngang giá sức mua tức tỷ giá danh nghĩa phản ánh đúng mức chênh lệch lạm phát trong và ngoài nước. Công thức tính tỷ giá hợp lý như sau:
Tỷ giá hợp lý = tỷ giá danh nghĩa Í lạm phát trong nước / lạm phát ở nước ngoài
Vận dụng công thức tính tỷ giá hợp lý áp dụng vào trường hợp của Việt Nam
Tỷ giá hợp lý USD/VND năm 2005 = tỷ giá danh nghĩa USD/VNDÍlạm phát ở Việt Nam thời kỳ 1992-2005/lạm phát ở Mỹ trong cùng thời kỳ
Chính sách chỉ có ý nghĩa khi hướng đến tương lai. Trong thời gian tới tỷ giá USD/VND nên ở mức bao nhiêu là hợp lý ? Câu trả lời đòi hỏi phải ước đoán một số nhập lượng về lạm phát ở Việt Nam và lạm phát ở Mỹ trong thời gian tới (2005). Tỷ giá danh nghĩa USD/VND lấy mức giá năm 1992 (11.179 USD/VND)với lý do được lý giải như trong phần tính toán tỷ giá thực. Việc ước tính con số lạm phát của Việt Nam trong thời gian tới để đơn giản nên lấy chỉ tiêu mà Quốc Hội đề ra là 6,5%/năm 2005. Khi dự báo tỷ lệ lạm phát của Mỹ năm 2005, ta vận dụng phương pháp hồi quy theo đó dựa trên cơ sở tỷ lệ lạm phát của các năm trước để tìm ra mối liên hệ tuyến tính giữa thời gian và tỷ lệ lạm phát. Mối quan hệ này được mô tả qua phương trình sau:
Yt = a0 + a1t
Trong đó, t: là biến thời gian
Yt: là tỷ lệ lạm phát năm t
a0, a1: là các tham số
Bảng số liệu dự báo tỷ lệ lạm phát của Mỹ
Bảng 13
Năm
Tỷ lệ lạm phát%
t
t2
yt
1992
1,03
-6
36
-6,18
1993
1,029
-5
25
-5,145
1994
1,026
-4
16
-4,104
1995
1,028
-3
9
-3,084
1996
1,029
-2
4
-2,058
1997
1,023
-1
1
-1,023
1998
1,015
0
0
0
1999
1,022
1
1
1,022
2000
1,034
2
4
2,068
2001
1,028
3
9
3,084
2002
1,016
4
16
4,064
2003
1,023
5
25
5,115
2004
1,027
6
36
6,162
Tổng
13,33
0
182
-0,079
Từ bảng trên ta tính được:
a0 = ∑y/n = 13,33/13 = 1,025
a1 = ∑yt/∑t2 = -0,079/182 = 0,00434
Phương trình hồi quy tỷ lệ lạm phát của Mỹ giai đoạn 1992-2004 là:
Yt = 0,000434t + 1,025
Dựa vào phương trình hồi quy đã xác định ta tính được tỷ lệ lạm phát của Mỹ năm 2005 như sau:
y2005 = 0,000434Í7 + 1,025 = 1,028
Thuật ngữ lạm phát thời kỳ 1992 - 2005 hàm ý là mức biến động giá năm 2005 so với năm 1992 và được tính toán như sau:
Lạm phát của Việt Nam thời kỳ 1992 - 2005 = ЛCPIiVN (i = 1992-2005) = 1,888Í1,065 = 2,01
Lạm phát của Mỹ thời kỳ 1992-2005 = ЛCPIiM (i = 1992-2005) = 1,344Í1,028 = 1,38
Vậy tỷ giá hợp lý USD/VND = 11.179 Í2,01/1,38 = 16.282
So sánh mức tỷ giá hợp lý tính toán được với tỷ giá danh nghĩa đang giao dịch trên thi trường hối đoái (chưa tới 16.000VND/1USD) ta thấy tỷ giá hợp lý lớn hơn tỷ giá danh nghĩa. Kết quả này chứng minh VND đang được đánh giá cao so với đồng USD. Để đảm bảo tỷ giá thực bằng 1 thì tỷ giá danh nghĩa phải được điều chỉnh bằng tỷ giá hợp lý tức là cần phá giá nhỏ đồng tiền Việt Nam, khoảng 3% so với tỷ giá hiện tại (15.800VND/USD).
b) Tác động của phá giá đến nền kinh tế Việt Nam:
- Phá giá không gây lạm phát cao như nhiều người lo ngại. Tại các nước đang phát triển, lạm phát là một hiện tượng thuộc về cơ cấu kinh tế do độ co giãn cung thấp, khan hiếm ngoại tệ và thâm hụt ngân sách Chính phủ. Phá giá nhỏ chỉ có tác động trực tiếp làm giá hàng nhập khẩu tăng đợt đầu, kéo theo tăng tỷ lệ lạm phát, chứ không phát sinh các tác động gián tiếp về tâm lý đẩy tỷ lệ lạm phát tăng cao hơn dự kiến. Hơn nữa, biến động của tỷ giá VND là hệ quả chứ không phải nguyên nhân của lạm phát.
- Phá giá là nhân tố thúc đẩy xuất khẩu và kìm hãm nhập khẩu. Kinh nghiệm cho thấy, hai lần phá giá 5% năm 1997 và 7% năm 1998 (tỷ giá danh nghĩa), khi tỷ lệ lạm phát là 13,1% dẫn đến tỷ giá thực bị phá là 10,7%,đã hạn chế tốc độ suy giảm sức canh tranh của Việt Nam so với các nước trong khu vực. Song song với việc phá giá thì cũng phải tiếp tục hoàn thiện các chính sách của Nhà nước.
- Nông nghiêp - một trong những lĩnh vực quan trọng của cơ cấu nền kinh tế nước ta, sẽ được được mở ra nhiều cơ hội mới khi tiến hành phá giá. Nông sản là hàng hoá thương mại quốc tế và giá cả của chúng do thị trường quốc tế xác định, chính vì vậy cần có một tỷ giá hợp lý để thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển. Đồng thời, phá giá cũng góp phần làm tăng sức cạnh của nền kinh tế, cho phép Chính phủ giảm bớt các hàng rào bảo hộ mậu dịch (một trong những vấn đề khó khăn khi đàm phán tham gia WTO).
- Phá giá còn thúc đẩy cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước, cải thiện tình hình tài chính của các ngân hàng. Việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa đạt hiệu quả cao, phá giá sẽ thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có lãi và triệt tiêu các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, mắc nợ được bao cấp. Bên cạnh đó, các ngân hàng sẽ có cơ hội thu được nhiều khoản nợ hơn.
- Ngân hàng Trung ương sẽ không bị mất đi các khoản dự trữ ngoại tệ, bởi:
So với các nước trong khu vực, độ mở cửa của thị trường tiền tệ Việt Nam rất thấp; nợ nước ngoài không cao, phần lớn là nợ Chính phủ, có tính ưu đãi và dài hạn; vốn vay nước ngoài chủ yếu để đầu tư, phát triển; và cân đối kinh tế về cơ bản vẫn được duy trì.
Phá giá hiện nay là phá giá chủ động với những chính sách điều tiết của Chính phủ luôn được đi kèm, các cân bằng kinh tế đều ổn định, dự trữ ngoại tệ ở mức cao, …nên khó phát sinh khủng hoảng, mà trái lại còn có tác dụng lên nhập khẩu.
Với các nước phát triển, mức sự trữ ngoại tệ là 16 tuần nhập khẩu, trong khi ở Việt Nam,dù chưa có tự do lưu chuyển vốn quốc tế và đồng tiền chưa chuyển đổi, nhưng dự trữ ngoại tệ đã đạt tương đương với 9,2 tuần nhập khẩu.
c) Giải pháp cho vấn đề phá giá ở Việt Nam:
Trên thực tế, diễn biến kinh tế sau khi phá giá thường theo nguyên tắc đường cong J. Tức là trong giai đoạn đầu, cán cân các giao dịch vãng lai đi xuống vì hiệu ứng lên giá các hàng hoá nhập khẩu do phá giá (hiệu ứng giá cả). Giai đoạn tiếp theo, cầu về hàng hoá nhập khẩu và cung về xuất khẩu tăng, đã cải thiện dần dần số dư cán cân tài khoản vãng lai (hiệu ứng khối lượng).
Hình 14
Cán cân vãng lai
Đường cong J
Bội thu (+)
t T+1 T+2
Thời gian tới
Mức cân đối
ban đầu
Thâm hụt (-) Hiệu ứng giá cả Hiệu ứng khối lượng
Ở Việt Nam, trong những tháng đầu thực hiện phá giá tăng trưởng kinh tế có chiều hướng chậm lại, do đó đòi hỏi phải sử dụng dự trữ ngoại tệ và viện trợ quốc tế để ổn định tỷ giá mới. Nhưng giai đoạn sau, theo hiệu ứng Marshell – Lerner, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế sẽ tăng lên nhanh, cơ cấu kinh tế phát triển ngày càng hợp lý hơn, đẩy mạnh xuất khẩu, hệ thống tài chính - ngân hàng sẽ mạnh hơn trước,…
Vấn đề đặt ra là thời điểm và phương thức phá giá. Thời gian gần đây, nước ta đang phải đối diện với tình trạng lạm phát gia tăng, lạm phát năm 2004 đã lên đến 9,5% nên chỉ tiêu năm 2005 là cần phải được giữ dưới mức 6,5%. Điều đó cho thấy Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn này đang đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát lên hàng đầu. Kết luận rút ra là trong ngắn hạn khi lạm phát đang đe doạ đến sự phát triển và ổn định nền kinh tế thì ổn định tỷ giá được xem như cái neo để ổn định lạm phát, nếu có thể thì chỉ phá giá ở một mức nhỏ. Nhưng trong dài hạn, khi lạm phát đã được kiểm soát thì nên phá giá thực hiện để gia tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hoá của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Mặt khác, nhằm hạn chế những tác động bất lợi gắn liền với phá giá thì cần kết hợp một số chính sách như: gia tăng lãi suất tương ứng với mức giảm giá đồng Việt Nam để cân bằng lợi ích cho người nắm giữ đồng VND và ngăn ngừa nguy cơ bùng nổ lạm phát. Có thể thực hiện phá giá bằng cách nới lỏng dần biên độ giao động hơn là ấn định một mức tỷ giá cụ thể để tránh bị tấn công bởi đầu cơ và khuyến khích các lực cung cầu trên thị trường hình thành tỷ giá cân bằng. Hơn nữa, để có một cuộc phá giá thành công thì cần đảm bảo hội đủ các điều kiện của nó như: giá thành sản xuất bao gồm tiền lương và các đầu vào khác không được chỉ số hoá theo tỷ giá danh nghĩa, khối lượng tiền tệ không được tăng nhanh hơn tốc độ tăng giá sinh ra bởi tăng giá hàng nhập và tổng các hệ số co giãn cầu nước ngoài và cầu nhập khẩu phải lớn hơn 1.
6. Hoàn thiện các công cụ kinh tế nhằm thức đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá
a) Hoàn thiên công cụ tín dụng
- Các công cụ tín dụng được điều chỉnh tập trung giảm chi phí đầu vào đối với sản xuất, tạo điều kiện giảm giá thành sản phẩm xuất khẩu.
- Nhà Nước sớm thiết lập cơ chế tín dụng và ưu đãi tín dụng xuất khẩu có tính hệ thống cho toàn bộ hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu nhằm tập trung toàn bộ các công cụ hỗ trợ tín dụng, ưu đãi tín dụng cho xuất khẩu vào một kênh duy nhất, một đầu mối duy nhất
- Tái cơ cấu lại hệ thống NHTM của Nhà Nước theo hướng cổ phần hoá, tăng vốn cho các NHTM này (bằng cách bán cổ phiếu cho các doanh nghiệp kinh doanh để cùng góp vốn và chịu trách nhiệm) để đủ sức cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
- Nới lỏng quy định về bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất bằng VND và ngoại tệ: các thủ tục cho vay và bảo lãnh tín dụng cho hoạt động xuất nhập khẩu như trường hợp các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu
- Phát triển dịch vụ tài chính hỗ trợ xuất khẩu, sớm triển khai hình thức cho thuê tài chính
b) Hoàn thiện một số công cụ kinh tế khác
- Quỹ bảo hiểm xuất khẩu của Nhà Nước cần sớm được xây dựng và hoạt động để bảo vệ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trước các rủi ro trong hoạt động thăm dò thị trường xuất khẩu, xâm nhập vào thị trường mới và trong thanh toán, sớm áp dụng các hình thức: bảo hiểm đầu tư ra nước ngoài, bảo hiểm rủi ro về tỷ giá hối đoái, …
- Chuyển dần việc sử dụng các công cụ kinh tế hỗ trợ xuất khẩu như hỗ trợ xúc tiến thương mại, thưởng xuất khẩu và nhiều biện pháp quản lý ngoại hối hiện nay về cơ bản có những nội dung không phù hợp với những quy định của WTO sang tăng cường sử dụng các chương trình hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu như phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và giảm các loại chi phí tiện ích công là đầu vào cho sản xuất như: điện, chi phí vận chuyển, bưu chính, thuê đât, …và hỗ trợ các chương trình theo nguyên tắc ưu đãi dành cho các nước đang phát triển của WTO.
- Cải cách hành chính, hệ thống luật pháp, đặc biệt là luật thuế theo hướng đơn giản, đồng bộ, ổn định. Tinh lọc những điều luật rườm rà, gây phiền hà tốn kém thời gian, chi phí không cần thiết làm nản lòng các nhà đầu tư.
7. Nâng cao chức năng của các công cụ phòng ngừa rủi ro:
Trong điều kiện tỷ giá hiện nay, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, cho nên cần sớm kiện toàn, hoàn thiện chức năng của các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá mà tiêu biểu là nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi và quyền chọn tiền tệ.
Nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi:
à Tổng quan tình hình thị trường ngoại hối kỳ hạn Việt Nam:
Ngày nay ở các nước phát triển, giao dịch ngoại hối kỳ hạn và hoán đổi đã phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trên thị trường ngoại hối, bởi nó rất hiệu quả trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với các khoản thu chi xuất nhập khẩu bằng ngoại tệ, đồng thời đây là công cụ để các nhà đầu cơ kiếm lời.
Ở Việt Nam, thị trường kinh doanh ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi đã chính thức đi vào từ đầu năm 1999 trên cơ sở pháp lý là Quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN về ban hành “Quy chế giao dịch hối đoái”.Nhằm tạo thuận lợi cho công tác quản lý, đồng thời đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp và sự an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại, NHNN Việt Nam trong những năm qua đã tích cực nghiên cứu, ban hành các quy định hợp lý trong từng thời kỳ về giới hạn, phạm vi, tỷ giá đối với các giao dịch này.
Văn bản gần đây nhất là Quyết định số 679/2002/QĐ-NHNN ngày 1/7/2002 của thống đốc NHNN về việc ban hành một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ. Theo đó, các TCTD chỉ được phép thực hiện giao dịch kỳ hạn (Forward), hoán đổi (Swap) heo kỳ hạn tối thiểu là 7 ngày, tối đa là 180 ngày kể từ ngày ký hợp đồng giao dịch cho tất cả các loại giao dịch ngoại tệ. Riêng đối với giao dịch giữa đồng Việt Nam và đôla Mỹ, mức tỷ giá áp dụng cho từng kỳ hạn tối đa không vượt quá mức trần của tỷ giá giao ngay tại thời điểm ký hợp đồng giao dịch cộng với tỷ lệ % gia tăng cho phép quy định cho bốn kỳ hạn cụ thể là: 7-30 ngày (0,5%), 31-60 ngày (1,2%), 61-90 ngày (1,5%), 91-180 ngày (2,5%). Đối với giao dịch liên quan đến các loại ngoại tệ khác, tỷ giá kỳ hạn, hoán đổi do Tổng giám đốc các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ xác định.
Từ cơ sở các quy định trên, thị trường ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi ở Việt Nam trong những năm qua đã từng bước phát triển và hoạt động có hiệu quả, góp phần giảm tình trạng căng thẳng ngoại tệ trên thị trường giao ngay, tạo thêm công cụ để các doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro tỷ giá, mặt khác giúp thị trường ngoại hối Việt Nam làm quen với các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ mới trên thị trường quốc tế.
Sau hơn 4 năm đi vào hoạt động , thị trường hoán đổi kỳ hạn Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế nhất định như doanh số giao dịch còn nhỏ, thường chỉ chiếm khoảng 4-6% doanh số mua bán ngoại tệ giao ngay; các giao dịch tập trung chủ yếu và các kỳ hạn ngắn (7-60 ngày); cơ cấu giao dịch bất hợp lý với việc bán ngoại tệ là chủ yếu, doanh số bán thường gấp 3-6 lần doanh số mua; đối tượng giao dịch tập trung chủ yếu vào các ngân hàng nước ngoài.
Nhằm khắc phục những bất cập nói trên, tạo thuận lợi hơn nữa cho việc phát triển và mở rộng thị trường ngoại tệ hoán đổi, kỳ hạn, ngày 28/5/2004 Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành Quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định 679/2002/QĐ-NHNN liên quan đến việc giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín dụng phép kinh doanh ngoại tệ. Từ đây, giới hạn về thời hạn giao dịch ngoại tệ hoán đổi, kỳ hạn đã được dỡ bỏ, cho phép thực hiện thông lệ quốc tế, và mở rộng từ mức 7-180 ngày như trước đây lên mức 3-365 ngày nhằm đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và ngân hàng, khuyến khích thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển. Nhưng điểm đổi mới đáng chú ý nhất của quyết định trên là thay đổi cơ bản về cách thức quản lý mức tỷ giá trong các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi giữa USD và VND, nên tỷ giá kỳ hạn giữa VND và USD không còn bị khống chế bằng việc quy định mức trần cứng áp dụng cho từng kỳ hạn trên cơ sở tỷ lệ gia tăng so với trần tỷ giá giao ngay theo tính toán chủ quan của NHNN trong từng thời kỳ mà cho phép TCTD và doanh nghiệp tự do xác định và thoã thuận trong pham vi mức tỷ giá kỳ hạn được tính theo thông lệ quốc tế, trên cơ sở chênh lệch giữa hai mức lãi suất hiện hành của hai đồng tiền giao dịch là VND và USD.
Giải pháp cho nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi:
Muốn cho thị trường ngoại hối nói chung, nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi nói riêng có thể phát triển xa hơn thì cơ chế xác định tỷ giá, lãi suất đóng vai trò quyết định. Có thể thấy, mục đích chính của hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi là phòng chống rủi ro tỷ giá, vì trong cơ chế thị trường tỷ giá là đại lượng nhạy cảm với nhiều biến số nên biến động khôn lường. Nói cách khác, nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi chỉ có thể phát triển theo đúng nghĩa của nó khi tỷ giá được thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Khi chính sách cung cầu cố định trong một biên độ hẹp sẽ không tạo ra môi trường để phát triển các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đối.
Do đó, để nâng cao hơn nữa chức năng của nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi thì cần tạo thêm bước chuyển mới trong giao dịch hoán đổi, kỳ hạn ngoại tệ qua việc tạo nhiều cơ chế thông thoáng hơn cho hoạt động của các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Điều này chắc chắn sẽ có tác dụng tích cực cho các TCTD và các doanh nghiệp trên thị trường ngoại hối kỳ hạn, hoán đổi để họ có thể nâng cao lợi ích và tăng tính linh hoạt chủ động trước những rủi ro của thị trường khi có sự thay đổi đột ngột về tỷ giá, lãi suất, đồng thời hạn chế mức lỗ của các TCTD và khách hàng để từ đây tạo thói quen sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối. Hơn nữa, nó còn thể hiện một bước tiến mới trong công tác quản lý ngoại hối của Nhà nước theo hướng tăng cường sự thông thoáng, tự do hoá trên cơ sở phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm đa dạng hoá và thúc đẩy thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển, đưa thị trường trong nước tiếp cận và hội nhập với ngân hàng quốc tế, nâng cao tính cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Cụ thê:
- Tăng cường thông tin thị trường về lưu chuyển ngoại hối và cán cân thanh toán làm cơ sở cho các đối tượng tham gia trên thị trường thựuc hiện đánh giá để có được quan điểm vững chắc về tỷ giá
- Xoá bỏ (hoặc dần xoá bỏ) các quy chế ngăn cản hoạt động của thị trường, trong đó có các quy chế liên quan đến yêu cầu kết hối với NHTW, đánh thuế và phí đối với các giao dịch ngoại hối và các hạn chế đối với giao dịch liên ngân hàng
- Thống nhất và đơn giản hoá các văn bản quy phạm về ngoại hối và xoá bỏ sự kiểm soát đối với các hoạt động thị trường kỳ hạn khi mà các định chế tài chính đã đạt được một trình độ tinh vi nhất định trong việc quản lý rủi ro. Tránh các hiện tượng sửa đổi bất thường và thường xuyên của luật pháp để nâng cao tính minh bạch của thị trường và cắt giảm chi phí giao dịch
b) Nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ:
à Nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ và sự vận hành của nó trên thị trường hối đoái Việt Nam:
Quyền chọn tiền tệ là quyền được mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ trong một khoảng thời gian hoặc tại một thời điểm xác định trong tương lai, với một tỷ giá hối đoái đã được thoả thuận ở thời điểm hiện tại. Quyền chọn gồm hai loại: Quyền chọn mua (Call Option) là quyền được mua ngoại tệ theo một tỷ giá xác định đã được thoả thuận trước, trong một khoảng thời gian hay tại một thời điểm nhất định ở tương lai; quyền chọn bán (Put Option) là quyền được bán ngoại tệ theo một tỷ giá nhất định đã được thoả thuận trước trong một khoảng thời gian hoặc tại một thời điểm nhất định ở tương lai. Việc giao dịch quyền chọn được tiến hành qua hợp đồng quyền chọn tiền tệ (currency option contract), với hai chủ thể tham gia là người mua và người bán hợp đồng, trong đó người mua phải trả cho người bán (ngân hàng) một khoản tiền gọi là phí quyền chọn.
Trên thị trường hối đoái quốc tế, quyền chọn tiền tệ đã được sử dụng phổ biến từ thế kỷ XIX. Ở Việt Nam, ngày 12/2/2003 Thống đốc NHNN đã chấp nhận đề nghị của ngân hàng thương mại xuất nhập khẩu Việt Nam (EXIMBANK), cho phép ngân hàng này thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. Đối tượng tham gia giao dịch là mọi doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, còn đồng tiền giao dịch gồm tất cả các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi, như: EUR, USD, GBP, AUD, CHF,… Ngày 23/3/2003, ngay sau khi chính thức khai trương nghiệp vụ này, EXIMBANK đã nhận được sự hưởng ứng của nhiều doanh nghiệp lớn, 11 hợp đồng quyền chọn được ký kết. Và trong số đó, tính đến ngày 3/3/2003 đã có 5 quyền bán với tổng trị giá 150.000 EUR cùng 6 quyền mua với tổng trị giá 558.000 EUR và 5.000.00 JPI. Trong số đó có một hợp đồng quyền chọn mua với giá 200.000 EUR, đã được khách hàng thực hiện và thu lời 700 USD, số tiền tuy không lớn song đây là một minh chứng thực tế khá rõ về lợi ích của việc sử dụng công cụ bảo hiểm tỷ giá Option. Sự hưởng ứng nhệt tình của các doanh nghiệp cũng phần nào phản ánh nhu cầu bức xúc đối với việc mở rộng quy mô của các giao dịch quyền chọn.
Mới đây (tháng 5/2005), thống đốc NHNN tiếp tục cho phép triển khai nghiệp vụ Option ngoại tệ cho VND, đây quả là một bước đột phá mới trong việc cung cấp thêm công cụ phòng ngừa rủi ro hiện đại trên thị trường tiền tệ. Hai ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) và Kỹ Thương được thực hiện thí điểm quyền chọn mua bán giữa các ngoại tệ với VND. Trong bối cảnh hiện tại, khi triển vọng đồng USD tăng giá là có cơ sở, nhưng điều này còn phụ thuộc vào tương quan lãi suất giữa USD và VND, do nhiều ngân hàng hiện đã tăng lãi suất huy động và cho vay VND, thì chuyện đưa vào áp dụng nghiệp vụ Option ngoại tệ với VND cho thấy cơ chế tỷ giá đang được vận hành theo hướng thị trường mạnh mẽ.
à Giải pháp cho nghiệp vụ quyền chọn ở Việt Nam:
Để nghiệp vụ quyền chọn có tác dụng lớn, tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ và thu hút được nhiều đối tác tham gia hơn, thiết nghĩ:
NHNN cần nghiên cứu để sớm quyết định cho phép tất cả các ngân hàng thương mại có hoạt động kinh doanh quốc tế được thực hiện giao dịch quyền chọn tiền tệ. Một khi có nhiều ngân hàng thương mại cùng thực hiện nghiệp vụ này, sẽ tạo điều kiện thực hiện hoạt động tái bảo hiểm giữa những ngân hàng thương mại trong nước, cũng như trên thị trường quốc tế, hơn nữa tạo thêm sự cạnh tranh về phí mua quyền giữa nhiều ngân hàng sẽ khiến nghiệp vụ này hấp dẫn hơn.
Bên cạnh việc cho phép mở rộng phạm vi đồng tiền giao dịch cho VND, NHNN cũng nên xen xét để nâng giới hạn đồng tiền giao dịch sang các loại ngoại tệ chưa có khả năng tự do chuyển đổi khác ngoài VND, nhằm làm tăng tính linh hoạt của các giao dịch quyền chọn.
Đây mới chỉ là giai đoạn đầu áp dụng, nên vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa thực sự xem quyền chọn là một công cụ hiệu quả khi muốn phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Bởi thế, các ngân hàng nên đưa ra những điều kiện ưu đãi nhằm kích thích lợi ích vất chất, đồng thời cần có biện pháp thích hợp tuyên truyền, phổ biến hay những chương trình giới thiệu giúp doanh nghiệp biết được lợi ích có thể mang lại cho họ từ nghiệp vụ quyền chọn. Chẳng hạn, từ sự suy đoán tỷ giá, doanh nghiệp không bị động về ngoại tệ trong thanh toán cho các hợp đồng mua bán ngoại thương cũng như xác định được giá thành các lô hàng nhập khẩu dù trong điều kiện tỷ giá biến động thế nào. Có như vậy, mới tạo cơ hội đưa doanh nghiệp tiếp cận và quen dần với việc sử dụng nghiệp vụ này.
NHNN cũng cần hỗ trợ để các ngân hàng thực hiện nghiệp vu quyền chọn một cách tốt hơn, bằng cách:
Mở chương trình đào tạo nghiệp vụ cho các cán bộ ngân hàng để họ nắm vững và vận dụng hiệu quả Option trong thực tiễn.
Hỗ trợ vốn với lãi suất ưu đãi.
Cùng với các nghiệp vụ giao ngay (Spot), kỳ hạn (Forward), hoán đổi (Swap) đã được giao dịch trên thị trường hối đoái Việt Nam, thì việc đưa vào áp dụng quyền chọn tiền tệ (Currency Option) là một biểu hiện của quá trình đa dạng hoá sản phẩm trên thị trường hối đoái. Với một vài giải pháp vừa nêu, hi vọng sẽ góp phần hoàn thiện một bước việc vận dụng nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ, trên cơ sở đó, góp phần phát triển thị trường hối đoái Việt Nam , từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
8. Tăng cường khả năng dự báo tỷ giá
Trong một môi trường bất ổn, thì dự báo luôn là một công cụ đắc lực hỗ trợ cho các nhà đầu tư trong quá trình ra quyết định đầu tư. Trong hoạt động kinh doanh có liên quan đến ngoại hối và vì vậy là tỷ giá hối đoái, bên cạnh việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro như hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi, tương lai và quyền chọn thì dự báo giúp nhà đầu tư ở vào thế chủ động trong mọi tình huống và là căn cứ để nhà đầu tư xác định vị thế của mình trong các hợp đồng mua bán ngoại tệ. Do đó, mà dự báo giúp giảm thiểu được rủi ro. Đối với trường hợp của Việt Nam, thời gian qua tỷ giá hối đoái được kiểm soát khá chặt chẽ, nên chưa bộc lộ rõ bản chất “dễ nhạy cảm, thay đổi” của nó. Do đó, không đặt thành vấn đề phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động của các doanh nghiệp. Định hướng trong thời gian tới, khi chính sách điều hành tỷ giá của Nhà Nước trở nên thông thoáng, linh hoạt hơn thì cái “ổn định giả tạo” của tỷ giá hiện nay sẽ mất dần đi thay vào đó, tỷ giá với bản chất một loại giá cả nhạy cảm trong nền kinh tế sẽ hiện hình với điệu bộ “sớm nắng chiều mưa”. Khi đó, dự báo át sẽ đặt thành vấn đề. Dự báo đại loại như một trò chơi cá cược và do đó nó có xác suất đúng và xác xuất sai. Tính khoa học của dự báo thể hiện ở chỗ, dựa trên tính biến động của hiện tượng trong quá khứ từ đó, tìm ra quy luật, hàm xu hướng thể hiện sự biến động đó kết hợp với điều kiện nhân tố mới đã thay đổi để xác định đối tượng trong tương lai. Dự báo tỷ giá hối đoái cũng vậy, đã có hàng tá các mô hình được đưa ra nhằm ứng dụng vào việc dự báo tỷ giá. Nhưng tương lai là điều gì đó không chắc chắn. Dù các mô hình có căn cứ vững vàng đến đâu thì cũng có thể gặp thất bại bởi một sự kiện không chắc chắn trong tương lai. Nói như thế không có nghĩa, dự báo là không cần thiết. Ngược lại, dự báo là công việc rất quan trọng, và khó khăn. Đôi khi kết quả dự báo đưa ra bởi một tính toán phức tạp lại không chính xác bằng một ước đoán chủ quan, linh tính thuần tuý khó lý giải
Nhân đây, người viết cũng xin đưa ra mô hình dự báo tỷ giá cho Việt Nam trong thời gian tới như sau:
Ei = a×nhân tố1i+ b× nhân tố2i + c× nhân tố3i+… + d
Trong đó: E là tỷ giá hối đoái
i là thời kỳ kỳ dự báo
Mô hình tuy đơn giản nhưng nói lên mối quan hệ giữa tỷ giá với các nhân tố ảnh hưởng như (lạm phát, lãi suất, kỳ vọng, kiểm soát của chính phủ,…) và mức độ sai số d
Dựa vào biến động của tỷ giá và các nhân tố ảnh hưởng cụ thể lãi suất, lạm phát, …và sử dụng mô hình hồi quy đa biến ta xác định được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố thể hiện qua các hệ số a, b, c,.. đến tỷ giá hối đoái. Từ đó, dự báo các nhân tố ảnh hưởng trong thời gian dự báo để xác định tỷ giá hối đoái. Do thời gian có hạn, đề tài chỉ có thể đưa ra mô hình dự báo tỷ giá mang tính định hướng chung. Công việc lượng hoá tỷ giá hối đoái đòi hỏi thu thập rất nhiều nhập lượng đầu vào và sử dụng mô hình tính toán phức tạp nằm ngoài khả năng của người viết.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TONG HOP.doc