Đề tài Chính sách khôi phục chủ quyền Hồng Kông qua lí luận một đất nước hai chế độ

MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU 1 B. NỘI DUNG 2 CHƯƠNG I. LÍ LUẬN “MỘT ĐẤT NƯỚC HAI CHẾ ĐỘ” 2 I. Nguồn gốc lí luận “Một đất nước hai chế độ”. 2 1. Vấn đề thống nhất đất nước trong lịch sử nhân loại và lịch sử Trung Quốc 2 2. Thực trạng sự nghiệp thống nhất đất nước của Trung Quốc–Vấn đề Hồng Kông. 5 3. Cách thức tiến hành khôi phục chủ quyền dân tộc 5 4. Cơ sở của lí luận “Một đất nước hai chế độ” 7 II. Nội dung và mục đích lí luận “Một nước hai chế độ” của Đặng Tiểu Bình 10 II. Thách thức của chính sách “Một đất nước hai chế độ”. 11 CHƯƠNG II. “MỘT ĐẤT NƯỚC HAI CHẾ ĐỘ” ÁP DỤNG VÀO VẤN ĐỀ HỒNG KÔNG 16 I. Lời hứa của Chính phủ Bắc Kinh 16 II. Những trở ngại trong việc thu hồi Hồng Kông 16 1. Sự khác nhau giữa hai thể chế chính trị và mô hình kinh tế của Đại Lục và Hồng Kông 16 2. Sự ảnh hưởng và mưu đồ của Anh 18 3. Nguy cơ suy giảm tầm quan trọng của Hồng Kông khi quay trở về Trung Quốc 19 4. Tâm lí của người dân Hồng Kông trước việc Hồng Kông trở về Đại Lục. 20 III. Các chính sách giải quyết vấn đề Hồng Kông 22 1. Những thuận lợi nhất định trong vấn đề Hồng Kông 22 2. Giải quyết vấn đề Hồng Kông 23 IV. Thực tiễn thành công của Lí luận “Một nước hai chế độ”. 30 1. Ý nghĩa của việc Hồng Kông trở về Trung Quốc. 30 2. Những vấn đề của Hồng Kông sau ngày trở về Đại 31 C. KẾT LUẬN 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO 36

doc52 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1877 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách khôi phục chủ quyền Hồng Kông qua lí luận một đất nước hai chế độ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơn 100 năm qua, là một mắt xích quan trọng trong nền kinh tế Tư bản, Thực dân. Hồng Kông chịu nhiều ảnh hưởng từ Anh, và Anh cúng là nhước có lợi ích nhiều nhất ở Hồng Kông. Theo báo chí Hồng Kông những năm qua, chỉ riêng thu nhập về thuế quan bình quân mỗi năm Anh thu được từ Hồng Kông trên 20 tỷ USD. Với lợi ích kinh tế như vậy đối với Anh việc chuyển giao chủ quyền Hồng Kông cho Trung Quốc rõ ràng là việc làm “cực chẳng đã”. Bởi vậy Anh tìm mọi cách duy trì quyền lợi của mình tại Hồng Kông. Trong quá trình đàm phán vấn đề chủ quyền và trị quyền là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Phía Anh muốn sau khi trao trả chủ quyền Hồng Kông vẫn giữ được quyền quản trị trên thực tế “Anh sẽ trao trả chủ quyền Hồng Kông và Cửu Long để đổi lấy quyền quản trị Tân Giới. Anh cũng cho rằng chỉ dưới sự quản lí của Anh mới đảm bảo cho Hồng Kông ổn định, phát triển và phồn vinh”. Những đề nghị này đều bị Chính phủ Trung Quốc bác bỏ, trước sau vẫn nhất quyết thu hồi trọn vẹn lãnh thổ Hồng Kông coi “vấn đề chủ quyền không phải là vấn đề có thể thảo luận được”. Về phía dư luận Anh thể hiện sự thiếu tin tưởng vào tương lai Hồng Kông, không tin rằng phía Trung Quốc sẽ thực hiện đúng như họ đã cam kết. Để đối phó với việc Trung Quốc khôi phục chủ quyền, tư lâu phía Anh đã có sự chuẩn bị về mặt chính trị. Chính quyền Anh đã thực hiện một kế hoạch “dân chủ hóa” ở Hồng Kông bằng cách tiến hành một phần bầu cử gián tiếp năm 1985, mở rộng bầu cử gián tiếp năm 1988, tổ chức bầu cử trực tiếp năm 1991. Từ năm 1994 Anh tranh thủ tiến hành cải cách chính trị ở Hồng Kông, ban hành các đạo luật dân chủ, nhân quyền, bầu cử quốc hội mới… nhằm bảo vệ, duy trì lợi ích tối đa của Anh ở Hồng Kông. Những ý đồ của Anh bị phê phán là muốn làm lây truyền “vi rút dân chủ” để gây trở ngại cho Hồng Kông sau ngày Trung Quốc khôi phục chủ quyền. Từ dó dẫn đến những mối bất hòa giữa Anh và Trung Quốc. Hồng Kông không chỉ là mối quan tâm của Anh và Trung Quốc mà còn là tâm điểm chú ý của Thế giới bởi lẽ Hồng Kông được coi là điểm giao hàng của Thế giới, rất nhiều nước trên thế giới có quyền lợi gắn chặt với tình hình chính trị và kinh tế của Hồng Kông. Vì vậy dư luận thế giới cũng có những đánh giá khác nhau trong việc Hồng Kông quay trở về Trung Quốc. Trước hết là Mỹ: Mỹ là nước sau Anh có nhiều lợi ích kinh tế, chính trị quân sự tại Hồng Kông. Tính đến cuối năm 1996, Mỹ đã đầu tư vào Hồng Kông 13,8 tỷ USD cùng 3 vạn người Mỹ đang làm việc tại Hồng Kông. Về chính trị, Mỹ luôn đứng sau ủng hộ Anh trong các vấn đề lớn về chính trị xã hội ở Hồng Kông. Đặc biệt Mỹ coi Hồng Kông là “thủ đô phương Tây trong lòng Trung Quốc”, còn Trung Quốc được coi là đối thủ tiềm tàng trong việc cạnh tranh địa vị là cường quốc số 1 ở châu Á – Thái Bình Dương trong thế kỉ tới do vậy Hồng Kông có thể được sử dụng để kiềm chế và làm mất ổn định Trung Quốc. Với Nhật Bản, tính đến cuối năm 1996 Nhật đã đầu tư vào Hồng Kông hơn 15 tỷ USD, hiện nay các vấn đề tranh chấp giữa Nhật và Trung Quốc cũng ảnh hưởng đến các chính sách của Nhật ở Hồng Kông đặc biiệt trong lĩnh vực kinh tế. 3. Nguy cơ suy giảm tầm quan trọng của Hồng Kông khi quay trở về Trung Quốc Trung Quốc tuy là trợ lực mạnh nhất của Hồng Kông nhưng cũng là mối đe dọa lớn nhất của vùng lãnh thổ này. Theo báo cáo của Cơ quan tư vấn tài chính Châu Á, có tới 90% tài chính của Hồng Kông có liên quan tới Trung Quốc Đại lục, trong khi đó hệ thống tài chính của Trung Quốc còn rất yếu kém, đồng Nhân dân tệ chưa chuyển đổi được, ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính khác vẫn bị hạn ché nghiêm ngặt. Và nếu như có một sự kiện gì xảy ra ở Trung Quốc làm chệch hướng cải cách kinh tế, chính trị ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và thậm chí đến sự ổn định xã hội, thì có lẽ cuộc khủng hoảng này cũng làm cho Hồng Kông không bao giờ hồi phục lại được. Mặt khác khi Hồng Kông trở về Trung Quốc thì Hồng Kông chính thức là khu vực địa phương của Trung Quốc sẽ làm suy giảm phần nào địa vị một trung tâm kinh tế thế giới với vai trò trạm trung chuyển độc lập. Hiện nay có nhiều tập đoàn đa quốc gia đang nhìn nhận Bắc Kinh, Thượng Hải, Thâm Quyến là những địa chỉ thay thế hợp lý và rẻ hơn Hồng Kông. Người ta dự đoán trong 5 – 10 năm tới Thượng Hải sẽ đẩy Hồng Kông xuống vị trí thứ hai về tầm quan trọng thương mại. 4. Tâm lí của người dân Hồng Kông trước việc Hồng Kông trở về Đại Lục. Sự kiện Hồng Kông trở về với Đại Lục là một sự kiện trọng đại đối với đời sống chính trị của Hồng Kông, ảnh hưởng đến tình hình kinh tế - văn hóa – xã hội của Hồng Kông. Đứng trước vấn đề này dư luận Hồng Kông có nhiều phản ứng.Theo các kết quả thăm dò dư luận, có tới 80% dân chúng Hồng Kông tin vào tương lai tốt đẹp của Hồng Kông. Người Hoa chiếm 96% cư dân Hồng Kông nói chung sẽ vui mừng khi mảnh đất của tổ quốc Trung Hoa thoát khỏi sự chiếm đóng của ngoại bang từ hơn một thế kỉ. Họ cùng một nguyện vọng là Hồng Kông trong tương lai vẫn tiếp tục phồn vinh và ổn định và nhân dân sẵn sàng thích nghi với xu thế mới.Nhưng bên cạnh đó một đặc điểm rõ ràng rằng do sự cách biệt về chế độ chính trị - kinh tế giữa Hồng Kông và Đại Lục, và nhất là do ảnh hưởng văn hóa phương Tây đậm nét ở Hồng Kông nên tâm lý e ngại, thậm chí lo sợ đối với tương lai Hồng Kông sau ngay Trung Quốc khôi phục chủ quyền là điều khó tránh khỏi. Trong cuộc thăm dò dư luận nhân dịp đoàn tiền trạm Trung Quốc vào Hông Kông của tờ Minh Báo, câu hỏi đặt ra là “Sợ hay không sợ quân đội Trung Quốc?”. Trong số 1584 người trả lời qua điện thoại, có 29% trả lời “sợ”, 35% trả lời “không sợ”, số còn lại trả lời không có cảm nghĩ sợ hay không sợ. Bên cạnh đó trong dư luận Hồng Kông cũng có một bộ phận luôn giữ thái độ hoài nghi và không hợp tác với Chính phủ Trung ương như một sồ nhân vật trong đảng Dân chủ Hồng Kông. Những hoài nghi ấy xuất phát từ những vấn đề xoay quanh sự đảm bảo cho sự phát triển của Hồng Kông: Liệu Chính phủ Bắc Kinh có giữ đúng lời hứa không? Có thể nói thu hồi Hồng Kông là nguyện vọng chung của toàn dân tộc Trung Hoa nhưng nó còn là tâm niệm là tâm huyết của người đứng đầu Chính phủ, người đề ra chủ trương chính sách này – Đặng Tiểu Bình vì thế việc giải quyết vấn đề Hồng Kông liên quan đến vai trò, uy tín, những lời hứa và những họat động của ông. Một vấn đề đặt ra là khi đến lúc người hùng của Trung Quốc (Đặng Tiểu Bình) rời khỏi “sân khấu” thì những người ủng hộ ông mà ông đã chỉ định điều hành Đảng, chính quyền và các lực lượng vũ trang vẫn còn cầm quyền có tiếp tục đi theo con đường cũ mà ông đã chọn không? Cũng xuất phát từ sự khác biệt giữa hai thể chế dẫn đến những hoài nghi từ phía Hồng Kông: Những con người nắm quyền ở Trung Quốc có thể là những người có những tư tưởng Thực dụng chủ nghĩa, song họ vẫn là những người theo Chủ nghĩa Mác – Lênin bị chi phối theo Chủ nghĩa Mao Trạch Đông trong 3 thập kỉ. Điều quan trọng hơn nữa là họ nắm quyền kiểm soát một nước đã mấy ngàn năm bị cai trị bởi một lớp tinh hoa là quan lại. Cả hai yếu tố đó đều khuyến khích một tâm lí kinh tế chỉ huy. Khi các nhà lãnh đạo Bắc Kinh ban hành các điều lệnh, họ chờ đợi các mệnh lệnh ấy được người ta vâng lời làm theo song rất chậm chạp và không hiệu quả điều này trái ngược hoàn toàn với cơ chế vận hành của Hồng Kông hoạt động theo cơ chế thị trường, hạn chế sự ảnh hưởng của Nhà nước. Một điểm nữa làm giảm lòng tin của Hồng Kông là trong nhiều năm trước đây toàn Trung Quốc được coi như thống nhất quanh trí tuệ ưu việt của một con người “nạn sùng bái lãnh tụ”. Hồng Kông đã nghe những lời rập khuôn trong sách đỏ như “nhờ sự dẫn dắt của tư tưởng Mao Trạch Đông và nhờ sự lãnh đạo của Đảng…”. Mặc dù hiện nay Trung Quốc đã có những cải biến lớn nhưng những tàn dư của một cơ chế cũ vẫn còn ảnh hưởng đến tâm lí của người Hồng Kông ở một mức độ nhất định. Từ đó người dân Hồng Kông còn nảy sinh những mối lo sợ mặc dù có những lời hứa không động đến Hồng Kông nhưng các quan chức sẽ can thiệp vào công việc của Hồng Kông và họ cũng nghi ngờ năng lực của các quan chức này khi tệ nạn tham nhũng và quan liêu vẫn còn là vấn đề bức xúc của Đại Lục. Những quan chức ở Bắc Kinh chuyên phụ trách các công việc Hồng Kông cũng tỏ ra không hiểu biết gì về sự hoạt động của một trật tự xã hội Tư bản. Vào tháng 5/1984 một sự kiện xảy ra làm Hồng Kông bàng hoàng. Từ năm 1982 các quan chức Trung Quốc vẫn nói rằng Bắc Kinh sẽ không đưa quân đội sang Hồng Kông. Ngày 21/5/1984 Cảnh Tiêu – phó chủ tịch Quốc hội đã nhắc lại lời cam kết đó. Tuy nhiên 4 ngày sau Đặng Tiểu Bình nói với các phóng viên Hồng Kông phủ định những lời tuyên bố của Cảnh Tiêu. Ông nói: “tất nhiên là binh lính sẽ tới đóng ở Hồng Kông”.Ông cúng tuyên bố: “…thà có một Hồng Kông hỗn loạn còn hơn nhân nhượng một điểm về chủ quyền”. Lời nói thẳng thừng này có thể bắt nguồn từ một cuộc đấu tranh về chính sách đối ngoại hoặc từ việc những người theo đường lối cứng rắn trong giới quân sự đòi có vai trò của Hồng Kông. Để lí giải điều này Đặng Tiểu Bình cho rằng sau năm 1997, Trung Quốc thu hồi chủ quyền ở Hồng Kông, đóng quân hay không đóng quân là quyền của Trung Quốc. Đồng thời chỉ rõ việc đóng quân chỉ có tính chất tượng trưng cho việc giữ chủ quyền của Trung Quốc, có tác dụng phòng ngừa và ngăn chặn động loạn, không quản lí việc trị an cụ thể, không can dự vào công việc nội bộ của Hồng Kông. Nhưng dù là nguyên nhân gì cũng làm tăng sự lo ngại của người dân: Hồng Kông có thể trở thành nạn nhân của một cuộc đấu tranh nội bộ với chính phủ Bắc Kinh. Điều đó có thể dẫn đến khủng hoảng lòng tin nhất là trong giới kinh doanh, thúc đẩy các luồng dân di cư mang theo số vốn lớn và sản nghiệp ra nước ngoài. Tháng 3/1984 việc hãng Jardine Matheson – một trong những hãng buôn lâu đời nhất của Anh đã rút từng phần về nước đã chứng tỏ điều đó cũng như sự phá sản trước đó 5 tháng của nhóm bất động sản Carrian. Theo ông Pirapon, chỉ tịch Hội đồng quản trị công ty Kim Cương Kim Tự Tháp, công ty lớn nhất Thái Lan chuyển khẩu đá quý sang Hồng Kông quả quyết rằng: “Ba năm sau ngày trao trả, Hồng Kông sẽ trở nên điêu tàn…”.Ông còn cho rằng cơ cấu quản lí của Trung Quốc “sẽ đục rỗng Hồng Kông. Các xí nghiệp lớn bỏ đi. Các xí nghiệp vừa và nhỏ sẽ bị phá sản”. Với đa số dư luận không đồng tình với những cách nhìn nhận bi quan quá khách đó. Những người bi quan dự đoán rằng nguồn nhân lực lao động trình độ cao sẽ “dứt áo ra đi”. Quả vậy từ năm 1997 số người Anh sống ở Hồng Kông giảm 8,5%. Số người nước ngoài sống ở Hồng Kông giảm khoảng 100.000 người so với thập kỉ trước. Điều này có thể khiến cho Hồng Kông rơi vào rối loạn và bất ổn. Như vậy sự suy giảm lòng tin của người dân ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định và phát triển của Trung Quốc đòi hỏi Chính phủ Trung Quốc phải có chính sách điều hòa, phát triển một cách đúng đắn nhằm thu hút, lôi kéo Hồng Kông trở về Đại Lục không phải chỉ trên giấy tờ, thủ tục mà còn biến Hồng Kông trở thành một bộ phận không thể thiếu của Trung Quốc, là nhân tố, là nguuồn lợi quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Trung Quốc. III. Các chính sách giải quyết vấn đề Hồng Kông 1. Những thuận lợi nhất định trong vấn đề Hồng Kông Ngoài những thách thức trong việc giải quyết vấn đề Hồng Kông thì vẫn có những nhân tố tích cực là Tính thống nhất trong văn hóa Trung hoa được đúc kết qua hàng ngàn thế hệ thể hiện ở lòng yêu nước và ý thức dân tộc sâu sắc, đây chính là chất keo dính để cố kết cộng đồng dân tộc người Hoa sống trên khắp thế giới, từ đó vượt ra ngoài phạm vi của sự khác biệt về chính trị - kinh tế - văn hóa – xã hội để thống nhất trong một đất nước chung. Chính vì vậy việc đưa Hồng Kông trở về Trung Quốc chính là nguyện vọng của đông đảo nhân dân Đại Lục và cả Hồng Kông, xóa bỏ nỗi nhục mất nước kéo dài hàng thế kỉ. Ý chí quyết tâm thu hồi Hồng Kông của nhân dân Trung Quốc và thể hiện rõ nhất ở lập trường của những nhà lãnh đạo đất nước đứng đầu là Đặng Tiểu Bình. Trong buổi tiếp thủ tướng Anh Thátchơ ngày 24/9/1982 Đặng Tiểu Bình đã thể hiện rõ lập trường cơ bản của Trung Quốc với vấn đề Hồng Kông. Lập trường này thể hiện chủ yéu có 3 vấn đề. “Một là, vấn đề chủ quyền. Hai là, sau năm 1997, Trung Quốc dùng phương thức gì để quản lí Hồng Kông, duy trì sự phồn vinh của Hồng Kông. Ba là, chính phủ hai nước Trung Quốc và Anh phải thương lượng ổn thỏa làm sao để Hồng Kông trong 15 năm, từ nay đến 1997 không có xáo động lớn.Về vấn đề chủ quyền, Trung Quốc đã dứt khoát: chủ quyền không phải là vấn đề có thể thỏa thuận được…cần khẳng định rõ năm 1997, Trung Quốc sẽ thu hồi Hồng Kông… Nếu năm 1997,tức là sau 48 năm nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, Trung Quốc vẫn chưa thu hồi được Hồng Kông thì bất cứ một nhà lãnh đạo và Chính phủ Trung Quốc nào cũng không thể nói gì được với nhân dân Trung Quốc thậm chí với nhân dân Thế giới. Nếu không thu hồi được, có nghĩa Chính phủ Trung Quốc cũng như chính phủ cuối đời Thanh, người lãnh đạo Trung Quốc cũng như Lý Hồng Chương mà thôi! Chúng tôi đã chờ đợi 33 năm, thêm 15 năm nữa tức là 48 năm…Sau 15 năm mà vẫn chưa thu hồi được, nhân dân sẽ không có lí do gì để tín nhiệm chúng tôi nữa. Chính phủ Trung Quốc cũng tự động rút lui khỏi vũ đài chính trị, không còn sự lựa chọn nào khác. Vì vậy, hiện nay, tất nhiên không phải hôm nay, nhưng cung không muộn hơn 1,2 năm Trung Quốc phải chính thức tuyên bốquyết định thu hồi Hồng Kông, chúng tôi có thể chờ 1- 2năm nữa mới tuyên bố, nhưng khẳng định không thể kéo dài lâu hơn nữa…”. Thủ tướng Anh bà M. Thátchơ được mệnh danh là “người đàn bà thép” nổi tiếng về sự cứng rắn và linh hoạt trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Đến hội nghị này bà còn mang theo cả dư uy của chiến thắng Manvinát giữa Anh và Achentina để đến thảo luận vấn đề Hồng Kông. Nhưng đối thủ của bà lại là một “công ty gang thép” với ý chí thu hồi chủ quyền cứng rắn hơn cả thép. Công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc đã dược tiến hành và đạt được những thành tựu bước đầu. Dư luận quốc tế nhìn chung ủng hộ việc Trung Quốc khôi phục chủ quyền ở Hồng Kông bởi lẽ Chủ nghĩa Thực dân đã bị xóa sổ gần nửa Thế kỉ, các dân tộc tiến tới hòa bình, ổn định, thống nhất, chủ quyền để đảm bảo cho sự phát triển của mình đặc biệt trong xu thế phát triển mới các nước có sự phụ thuộc, giàng buộc lẫn nhau về quyền lợi. Các nước Tư bản đều có quyền lợi gắn chặt với Hồng Kông vì vậy các nước này dù có các thủ đoạn chính trị khác nhau nhưng đều thống nhất ở mục tiêu đảm bảo an toàn cho Hồng Kông là đảm bảo cho sự phát triển của chính mình cùng những lợi nhuận của mình tại Hồng Kông, nếu Hồng Kông sảy ra biến loạn sẽ làm tổn hại đến các nước trong đó có Mỹ, Nhật, Anh, các nước ASEAN… Đặc biệt vè phía Anh, xuất phát từ những lợi ích về kinh tế, chính trị, ngoại giao… của mình trong khi chịu sức ép từ phía Mĩ. Ngay từ những năm đầu của thập kỉ 40 Mỹ đã muốn Anh trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc để nhờ đó Mỹ dễ dàng kiểm soát Hồng Kông. Vì vậy nếu không muốn mất đi sự ủng hộ của Mỹ, Anh phải chọn giải pháp thích hợp để giải quyết vấn đề Hồng Kông. Hơn nữa xét về mặt thể diện quốc gia, thông qua con đường đàm phán hòa bình, Anh có thể rút ra khoi Hồng Kông trong danh dự, gây được sự thông cảm và sự đánh giá cao trên trường quốc tế. 2. Giải quyết vấn đề Hồng Kông a. Công cuộc đổi mới đất nước Như đã nói Hồng Kông là lãnh thổ của Trung Quốc chịu sự ràng buộc với nước ngoài qua những bản Hiệp ước bất bình đẳng chấp nhận cho Anh thuê đất trong 99 năm, hết thời hạn dù muốn hay không muốn Hồng Kông vẫn phải quay về Trung Quốc vì vấn đề này thuộc quyền quyết định giữa Anh và Trung Quốc, còn Hồng Kông không đủ thẩm quyền. Nhưng một thực tế Hồng Kông không đứng riêng lẻ, suốt hơn trăm năm phát triển theo con đường Tư bản chủ nghĩa, Hồng Kông đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới, đứng sau Hồng Kông là cả thế giới Tư bản với sự hợp tác vĩ mô trên quy mô lớn. Muốn Hồng Kông quay trở về trở thành một bộ phận thực sự của Trung Quốc phục vụ cho lợi ích của Trung Quốc thì Trung Quốc phải tạo ra một sức hút tạo sự phụ thộc nhất định của Hồng Kông vào Trung Quốc. Sức hút này chỉ có thể tạo ra bởi kinh tế. Khi đã có sự hợp tác về kinh tế thì mọi yếu tố khác đều có thể thỏa thuận được. Nhưng để tạo được một “sức hút” giữa một nền kinh tế kém phát triển hơn với một nền kinh tế đứng hàng đầu thế giới là một điều không tưởng. Ý thức được nhiệm vụ khôi phục chủ quyền đặc biệt đều là những khu vực phát triển hơn theo một thể chế xã hội khác, các nhà cầm quyền Bắc Kinh đều nhận thức rõ vai trò của phát triển kinh tế trong việc hiện đại hóa đất nước, tạo lòng tin đối với nhân dân trong nước và nhân dân các khu vực đặc biệt như Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan trong việc Chính phủ Trung Quốc có khả năng quản lí tốt các vấn đề ở các khu vực này. Tại Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (12/1978), Trung Quốc đưa ra cải cách ở trong nước làm cho nền kinh tế sống động và mở cửa với bên ngoài nhằm thực hiện đại hóa đất nước vào thế kỉ mới. Năm 1982, trong Hiến pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chính thức ghi về chính sách mở cửa đối ngoại của nước này. Tiền đề của chính sách mở cửa đối ngoại của Trung Quốc trên cơ sở độc lập, tự chủ, bình đẳng cùng có lợi, sử dụng tốt sự phân công của quốc tế - buôn bán với các nước trên thế giới. Quá trình hình thành bố cục mở cửa đối ngoại của Trung Quốc lấy đặc khu kinh tế, các thành phố mở cửa ven biển làm trọng điểm mở cửa, sau đó chuyển dần tới các khu vực miền Trung và miền Tây ở trong nội địa. Tháng 7/1979, Chính phủ Trung Quốc xác định hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến thực hiện chính sách đặc thù và biện pháp linh hoạt, thử nghiệm xây dựng đặc khu kinh tế: Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu (tỉnh Quảng Đông) và Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến). Năm 1988 Trung Quốc lập tỉnh Hải Nam, đồng thời xây dựng đặc khu kinh tế thứ năm, đặc khu kinh tế lớn nhất của Trung Quốc – đặc khu kinh tế Hải Nam. Đặc điểm của các đặc khu kinh tế này là đều nằm gần khu vực phát triển ( Thâm Quyến tiếp giáp với Hồng Kông qua sông Thâm Quyến, Chu Hải đối diện Ma Cao, cách Hồng Kông khoảng 50km đường biển, Hạ Môn nằm đối diện đài Loan, Sán Đầu là nơi có nhiều người Hoa ra đi nhất, quê hương của 13 triệu Hoa kiều hải ngoại). Đây chính là đối tượng trong chiến lược thu hồi chủ quyền. Việc thành lập các đặc khu kinh tế này dựa trên những cơ sở từ hiện trạng và tình hình thực tế của khu vực và thế giới. Việc xây dựng các đặc khu kinh tế là một hoạt động hoàn toàn mới so với nền kinh tế tập thể “Đại Công nghiêp”, “Đại nhảy vọt” trước kia nên khi chưa biết cần phải thận trọng làm từ từ để xem xét, đúc rút kinh nghiệm, đánh giá khái quát…chính vì thế các đặc khu kinh tế hay còn gọi là các “phòng thí nghiệm”, ở đây là nơi áp dụng thử các chính sách mới ở một phạm vi hẹp, trong môi trường thí nghiệm. Nếu thất bại, phạm vi ảnh hưởng sẽ bị hạn chế từ đầu. Còn nếu thành công thì nhân rộng ra áp dụng rộng rãi trong toàn quốc. Có thể coi các đặc khu kinh tế với những chính sách ưu đãi đặc biệt cùng các điều kiện thuận lợi, cơ chế thông thoáng là các cửa sổ mở ra thế giới nơi đây sẽ tích cực thu hút vốn và công nghệ, cùng các kinh nghiệm quản lí tiên tiến trên thế giới. Việc xây dựng các Đặc khu kinh tế phát triển vùng kinh tế duyên hải phía Đông nhằm hướng đến đối tượng đầu tiên là 57 triệu người Hoa hải ngoại, là Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao trên cơ sở khích lệ tinh thần dân tộc, tranh thủ sự hợp tác đôi bên. Bởi thực chất các đặc khu kinh tế lấy Chủ nghĩa Tư bản nhà nước làm chủ thể trong chủ quyền của Trung Quốc. Pháp luật quy định phải theo 4 nguyên tắc cơ bản (nguyên tắc tự chủ của nhà nước, nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, nguyên tắc không xâm phạm với nền kinh tế nhiều thành phần, và nguyên tắc điều tiết thị trường). Đồng thời phải xuất phát từ tình hình thực tế và các quy luật khách quan của Đặc khu. Đây là nơi hội tụ đủ các điều kiện về cơ sở hạ tầng, về môi trường đầu tư và có nhiều thế mạnh truyền thống hoạt động công nghiệp công nghiệp và thương mại. Khi mô hình Đặc khu kinh tế thành công đã chứng minh đường lối phát triển kinh tế mở cửa là đúng đắn. Từ đó Trung Quốc tiếp tục xây dựng các khu mậu dịch tự do và các khu khai thác phát triển kinh tế và công nghệ. Tháng 5/1984 trên cơ sở lấy đặc khu làm bàn đạp để mở rộng mô hình kinh tế, Quốc vụ viện Trung Quốc quyết định thành lập 14 thành phố mở cửa ven biển theo bốn loại hình: Loại hình mở cửa tổng hợp, mở cửa buôn bán, loại hình cơ sở và loại hình cảng vận tải. Tháng 2/1985, Trung Quốc mở cửa ba đồng bằng: Trường Giang, Chu Giang và Nam Phúc Kiến, tạo thành một khu vực mở cử kinh tế ven biển Trung Quốc Năm 1986, Trung Quốc đưa bán đảo Liêu Đông và bán đảo Sơn Đông vào khu vực mở cửa ven biển. Tháng 6/1990, Trung Quốc phe duyệt việc khai thác, phát triển và mở cửa khu mới Phố Đông của thành phố Thượng Hải, đồng thời xây dựng khu công nghiệp ưu đãi thuế quan Ngoại Cao Kiều. Đầu năm 1992, khắp Trung Quốc dấy lên phong trào mới về mở cửa đối ngoại đánh dấu sự chuyển hướng về đối ngoại của nước này. Tháng 3/1992, Quốc vụ viện Trung Quốc quyết định mở bốn thành phố mở cửa: Hắc Hà, Noăn Phần Hà. Huy Xuân, Mãn Châu Lý. Tháng 6 cùng năm Quốc vụ viện lại mở thêm các thành phố ( huyện, thị) ven biên giới, như các thành phố: Bằng Tường, Đông Hưng (khu tự trị Quảng Tây), Vãn Đĩnh, Thụy Lệ, Hà Khẩu (tỉnh Vân Nam). Về sau, Trung Quốc còn mở cửa đối ngoại một số thủ phủ, tỉnh lỵ ở khu vực ven biển, và nội địa, ven sông Trường Giang. Tất cả chính sách của Trung Quốc là tạo ra các khu phát triển ở Trung Quốc lấy công nghệ cao làm cốt lõi, mở rộng sản xuất, tăng cường tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp nhất là hàng công nghiệp có sử dụng kỹ nghệ cao. Mượn công nghệ và kỹ nghệ quản lí nước ngoài để đào tạo công nhân và cán bộ quản lí Trung Quốc. Trước bối cảnh thế giới biến đổi không ngừng, chính sách cải cách của Trung Quốc cũng rất linh hoạt, liên tục sửa đổi hoàn thiện cho phù hợp. Trên thực tế đã thấy rõ đường lối mở cửa của Trung Quốc là đúng đắn, hợp quy luật, phù hợp xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, đáp ứng nguyện vọng của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực của Trung Quốc, sau nhiều năm thực hiện bế quan, xây dựng kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu thì vai trò cửa sơ của các ĐKKT trong các thập kỉ 70 – 80 là hợp lí. Thông qua các ĐKKT tạo ra mối quan hệ về kinh tế hết sức chặt chẽ khi Hồng Kông là trung tâm buôn bán, trung tâm tiền tệ, trung tâm vận chuyển của khu vực và thế giới, Hồng Kông có nguồn vốn đưa đến của các nước châu Á – Thái Bình Dương tập trung nhiều nhân tài quản lí cùng kĩ thuật hiện đại. Trong khi đó các ĐKKT có ưu thế về nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên thiên nhiên, đất đai phong phú và một thị trường tiêu thụ rộng lớn. Vì thế sự phát triển của các đặc khu cũng thúc đẩy sự phồn vinh của kinh tế Hồng Kông. Sự hợp tác này có lợi cho việc di chuyển những ngành công nghiệp của Hồng Kông giảm bớt sức ép về giá đất, địa tô, tiền thuê nhà, thuê nhân công và giá thành năng lượng… của Hồng Kông và những khó khăn này có thể tìm ra lối thoát tại các ĐKKT. Theo ông Đường Tường Thiên - Chủ tịch tổng hội Công nghiệp Hồng Kông cho rằng: “Mở ra các ĐKKT giữa ranh giới Trung Quốc và Hồng Kông càng cung cấp các dịnh vụ sản xuất hỗ trợ thuận tiện cho Công nghiệp Hồng Kông của chúng ta. Đây là sự giảm nhẹ trực tiếp giá thành chế tạo sản phẩm của Hồng Kông, tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng hoá của Hồng Kông…chỉ khi chúng ta cố gắng lợi dụng những cơ hội này để hạ thấp giá thành mới có thể làm kinh doanh công nghiệp của Hồng Kông càng có lợi hơn”. Có thể nói việc thành lập các ĐKKT chính là việc làm tăng thu nhập ngoại hối, lợi dụng vốn nước ngoài, nhập thiết bị tiên tiến, mở rộng công ăn việc làm cho nhân dân Đại Lục, đồng thời tạo những nhân tố phát triển mới cho Hồng Kông, theo dự đoán có tới hơn 70 nghìn doanh nghiệp của Hồng Kông đã đặt chân lên lãnh thổ Trung Quốc, sử dụng tới 5 triệu lao động người Trung Quốc và chính trung quốc là nơi cung cấp cho Hồng Kông những cơ hội mới về sản phẩm tiêu dùng, đảm bảo cho sức cạnh tranh của hàng hoá của Hồng Kông trên thị trường thế giới mà các nước châu Á khác không có được. Ngoài ý nghĩa về kinh tế quan trọng hơn là ý nghĩa về chính trị, qua việc xây dựng tốt các ĐKKT đã ổn định lòng tin của nhân dân Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan. ĐKKT xây dựng tốt hay xấu đã trở thành điều kiện cụ thể đi hay ở của một số người trong giới công thương Hồng Kông. Một khi các xí nghiệp Tư bản có thể được xây dựng ở đây thì ai lại bằng lòng ra nước ngoài làm công dân thứ hai. Hơn nữa xây dựng được các thành phố hiện đại có sự văn minh vật chất, văn minh tinh thần cao độ làm cho đông đảo đồng bào Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan nhìn thấy tiền đồ tươi đẹp của Trung Quốc Xã hội chủ nghĩa, họ tin tưởng Trung Quốc sẽ quản lí tốt đất nước và làm cho họ hướng về Tổ quốc. b. Mối quan hệ giữa Đại Lục và Hồng Kông tạo sự gắn kết từ bên trong. Để Hồng Kông quay trở về Đại Lục phải căn cứ trên mối quan hệ cụ thể giữa hai bên, dựa vào mức độ phụ thuộc của Hồng Kông với Đại Lục từ đó thấy được việc quay trở về Đại Lục là nhu cầu thiết yếu đảm bảo cho sự phát triển của hai bên. Để thực hiện điều này Chính phủ đề ra những chính sách khuyến khích đầu tư của Hồng Kông vào nội địa. Trước đây, từ những năm 50 đến đầu những năm 70, xuất phát từ quan điểm về đấu tranh giai cấp, Trung Quốc đã có những quan niệm không đúng với Hoa kiều coi họ là tư sản bóc lột, phản động…họ là đối tượng của đấu tranh giai cấp. Từ cải cách đến nay, với quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, quan niệm đối với Hoa kiều đã thay đổi dựa trên ưu thế cùng là đồng bào, cùng là người dân Trung Quốc, cùng sống trên một dải đất,có huyết thống chung, cùng chung lịch sử, văn hóa, tập quán, tín ngưỡng còn tuyên truyền, giáo dục nhằm mục đích làm cho cộng đồng người Hoa ở Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan hướng về Tổ quốc. Một mặt Trung Quốc cố gắng duy trì tình hình chính trị xã hội ổn định, đoàn két đa dân tộc, mặt khác Chính phủ cũng ban hành những luật định khuyến khích đầu tư trực tiếp từ khu vực nước ngoài như “Những quy định về việc khuyến khích đồng bào Đài Loan đầu tư” (năm 1989); “Những quy định về việc khuyến khích Hoa kiều và đồng bào Hồng Kông, Ma Cao đầu tư”(năm 1990)…Hoa kiều được tạo điều kiện thuận lợi về thăm thân nhân, hồi hương, đầu tư, buôn bán…, được miễn thị thực nhập xuất cảnh, Hoa kiều nhập Quốc tịch thủ tục rất đơn giản, thuận tiện. Hoa kiều khi về nước không hạn chế thời gian cư trú, không phải hạn chế thời gian cư trú, không phải khai báo đăng kí, được tự do đi lại. Khi đầu tư vào Trung Quốc, Hoa kiều được hưởng chính sách ưu đãi: 2 năm đầu miễn thuế, 3 năm sau giảm một nửa… Nhà nước Trung Quốc bảo vệ tài sản, lợi nhuận của các nhà đầu tư Hoa kiều và không quốc hữu hóa tài sản của họ…những chính sách này làm cho Hoa kiều thêm gắn bó tin tưởng với quê hương, đất nước. Tranh thủ lòng tin của Hoa kiều, Trung Quốc đã thu hút được nguồn lực của họ vào quá trình phát triển của đất nước đặc biệt thu hút vốn đầu tư vào trong nước. Từ năm 1992 trong 100 nước và khu vực đến Trung Quốc đầu tư, Hồng Kông chiếm vị trí hàng đầu. Riêng năm 1993, Hồng Kông đầu tư vào nội địa 49.134 hạng mục, chiếm 58,89% trong tổng số hạng mục; kim ngạch kí kết theo hiệp định là 73,935 tỉ USD, chiếm 66,5%, kim ngạch thực tế là 15,709 tỉ USD chiếm 57% đặc biệt tỉnh Quảng Đông là nơi giành được vốn đầu tư của Hồng Kông sớm nhất và nhiều nhất. Bình quân mỗi năm, Quảng Đông thu hút được hơn 40% tổng số vốn đầu tư của Hồng Kông vào nội địa. Quy mô đầu tư của Hồng Kông có xu hướng mở rộng khắp thị trường nội địa… Chính nhờ các hoạt động đầu tư của Hồng Kông vào Đại Lục có tác động quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế Đại Lục. Từ năm 1979 đến 1995, đầu tư trực tiếp của Hồng Kông vào Đại Lục đạt 81,45 tỉ USD, tương đương với 3% tổng giá trị sản lượng nền kinh tế quốc dân được tăng lên. Không chỉ có lợi cho Đại Lục mà mối quan hệ hợp tác kinh tế đôi bên còn có vai trò hết sức quan trọng đối với Hồng Kông. Hồng Kông trước đây đóng vai trò là cử ngõ đi vào Trung Quốc, hoạt động như một hành lang cho các mặt hàng xuất khẩu của đại Lục và điều đó đã giúp cho vùng lãnh thổ này trở thành một trong 10 nền kinh tế thương mại lớn nhất thế giới còn Đại lục trở thành người bạn mậu dịch chủ yếu là thị trường xuất khẩu lớn nhất. Từ cuối những năm 70 trở lại đây, mậu dịch giữa Hồng Kông và Lục địa Trung Quốc tăng trưởng mạnh. Theo thống kê của Hải quan tổng mức mậu dịch song phương tăng từ 3,54 tỉ USD năm 1979 lên 40,7 tỉ USD năm 1996 trong vồng 16 năm tăng 11 lần. Năm 1995 hàng hoá Hồng Kông nhập khẩu từ Lục địa Trung Quốc đạt 539,48 tỉ HKD chiếm 36,2% tổng mức nhập khẩu của Hồng Kông. Hồng Kông xuất khẩu vào Lục địa đạt 64,565 tỉ HKD chiếm 27,4% tổng mức xuất khẩu của Hồng Kông. Do Lục địa Trung Quốc quan hệ với 168 nước trong khu vực trên thế giới đại đa số được tiến hành thông qua Hồng Kông, địa vị Hồng Kông là cảng chuyển khẩu càng được nâng cao. Năm 1979 tổng giá trị hàng hoá của Lục địa Trung Quốc chuyển khẩu qua Hồng Kông chỉ có 688 triệu HKD, năm 1992 tăng lên 404 tỉ HKD, bình quân năm tăng 30%, cùng kì giá trị mậu dịch của nước ngoài chuyển khẩu qua Hông Kông vào Trung Quốc là 212 tỉ HKD. Năm 1993 mậu dịch chuyển khẩu song phương chiếm 88% mức mậu dịch chuyển khẩu của Hồng Kông. Năm 1995 mậu dịch chuyển khẩu của Hồng Kông sang Lục địa là 384,043 tỉ HKD chiếm 34,5% tổng mức mậu dịch chuyển khẩu của Hồng Kông. Theo thống kê hiện nay tổng giá trị sản xuất của Hồng Kông có 1/8 bắt nguồn từ mậu dịch của Lục địa. Trung Quốc cải cách mở cửa và nền kinh tế phát triển tạo hậu thuẫn vững trắc cho địa vị Trung tâm kinh tế của Hồng Kông. Hiện nay mức xuất nhập khẩu mỗi năm của Hồng Kông đạt 300 tỉ USD trong đó 80% là của Lục địa còn 20% là của Hồng Kông trong số 20% đó đa số dựa vào nguồn nguyên liệu của Lục địa. Nền kinh tế Hồng Kông trở thành chỉnh thể không thể thiếu được của Lục địa. Hồng Kông dựa vào Lục địa là một lợi thế rất lớn, đây chính là nhân tố cơ bản nhất mà bất kì nơi nò của Châu Á – Thái Bình Dương đều không có được. Hồng Kông trở thành một bộ phận không tách rời trong chiến lược mở cửa một đường thẳng với ba điểm là Trung Quốc – Hồng Kông – Thâm Quyến biến Hồng Kông thành Trung tâm kinh tế của vùng đồng bằng sông Chu. Chiến lược này lấy Hồng Kông làm cầu nối, lấy Thâm Quyến làm cơ sở lấy Lục địa làm nội địa. Thông qua đặc khu Thâm Quyến phát huy ưu thế khoa học – kĩ thuật, tiền tệ, thông tin, quản lí của Hồng Kông kết hợp với nguồn nhân lực dồi dào, tài nguyên thiên nhiên phong phú, thị trường tiêu thụ rộng lớn để thu đueọec hiệu quả kinh tế cao nhất.Việc vận hành nền kinh tế trong điều kiện Quốc tế hóa cao độ là một trong những bộ phận hình thành thị trường Quốc tế. Sự hợp tác giữa Trung Quốc và Hồng Kông đã làm vai trò của Hồng Kông với Trung Quốc có sự thay đổi, Hồng Kông đã biến tác dụng “cửa sổ” thành “bàn đạp”, biến “cầu nối” thành “con đường”, liên hệ giữa thị trường Trung Quốc với thị trường Thế giới. Vai trò kinh tế cũng biến từ người chịu trách nhiệm mậu dịch đối ngoại và hoạt động đầu tư thành người phục vụ thể chế cải cách mở cửa và xây dựng kinh tế thị trường XHCN của Trung Quốc và thu được lợi ích từ phục vụ. Cũng chính từ sự hợp tác về kinh tế đó là điều kiện và tiền đề hết sức quan trọng để Trung Quốc bàn về việc thu hồi chủ quyền với Hồng Kông và sự bảo đảm cho lời hứa của Chính phủ Bắc Kinh tôn trọng hiện thực, lịch sử Hồng Kông, duy trì sự ổn định, phồn vinh và phát triển của Hồng Kông. Để tiến tới thu hồi chủ quyền quốc gia một cách hợp pháp trên cơ sở pháp lí quốc tế Trung Quốc bắt tay hội đàm với Chính phủ Anh để giải quyết vấn đề Hồng Kông. Cuộc đàm phán Trung – Anh đã chính thức bắt đầu từ ngày 23/9/1982. Đến ngày 19/12/1984 hai bên mới đặt bút kí Thông cáo chung, kết thúc cuộc đàm phán kéo dài hơn hai năm. Tuyên bố này cùng ba văn kiện kèm theo đã được hai chính phủ trao thư phê chuẩn tại Bắc Kinh ngỳa 27/5/1985. Từ ngày đó, Tuyên bố chung bắt đầu có hiệu lực “giai đoạn quá độ” của Hồng Kông cũng bắt đầu với sự bảo đảm ủng hộ và thực hiện của Chính phủ hai bên. Đến đây đã xác định rõ ràng về vấn đề Hồng Kông thấy rằng không chỉ dừng lại ở vấn đề mang tính quốc tế giữa hai chính phủ Trung Quốc và Anh, điều này được cụ thể hóa bằng các hiệp ước được kí kết trên văn bản pháp luật mà còn là sự gắn bó, mối quan hệ qua lại trong bản thân Lục địa với Hồng Kông đặc biệt qua lĩnh vực kinh tế ngoài ra những yếu tố văn hóa – xã hội có những nét tương đồng trong một nền văn hóa Trung Hoa từ lâu đời, có nguồn gốc đều là con cháu của Viêm, Hoàng. IV. Thực tiễn thành công của Lí luận “Một nước hai chế độ”. Ý nghĩa của việc Hồng Kông trở về Trung Quốc. Từ ngày 1/7/1997, lãnh thổ Hồng Kông đã chính thức trở về với Đại Lục Trung Quốc. Đây là cuộc chuyển giao quan trọng có ý nghĩa sâu sắc đối với không chỉ nhân dân Trung Quốc, Hồng Kông mà còn thu hút sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Trước hết là ý nghĩa chính trị, lịch sử: Việc thu hồi chủ quyền Hồng Kông đối với Trung Quốc đã kết thúc thời hạn lịch sử hơn một thế kỉ Trung Quốc phải cắt nhượng một phần lãnh thổ cho ngoại bang cai trị và cũng chấm dứt nỗi sỉ nhục của dân tộc Trung Hoa suốt hơn một trăm năm qua phải gánh chịu do sự hèn yếu của triều đình Mãn Thanh đã kí kết các điều ước bất bình đẳng với đế quốc Anh sau cuộc Chiến tranh Nha Phiến năm 1840. Tờ “Nhân Dân Nhật Báo” Trung Quốc đầu tháng 12/1996 đã bình luận: “Lịch sử như một tấm gương, triều đình Mãn Thanh Trung Quốc bị mất đi Hồng Kông, đó là biểu hiện của sự hèn yếu bất lực và lạc hậu của Trung Quốc. Hồng Kông trở lại vòng tay của Tổ quốc chứng tỏ nước Trung Quốc hiện nay đang hùng mạnh, tràn đầy hi vọng. Bên cạnh đó việc Trung Quốc thu hồi Hồng Kông cũng là thu về phía mình một “hòn ngọc phương Đông”, thu về một nguồn lợi lớn, cũng là những điều kiện cần thiết, thuận lợi cho quá trình phát triển đi lên của Trung Quốc. Chắc chắn sau ngày trở về Hồng Kông vẫn phát huy vai tò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Báo chí Trung Quốc đã nêu phương châm 20 chữ của Trung Quốc đối với Hồng Kông sau tháng 7/1997 là : “cảo hoạt Hương Cảng, lập túc Á – Thái, ổn định châu biên, xúc tiến thống nhất, chấn hưng Trung Hoa”, (nghĩa là: làm sống động Hồng Kông, đứng vững ở Châu Á – Thái Bình Dương, ổn định biên giới xung quanh, thúc đẩy thống nhất đất nước, làm phồn vinh Tổ quốc Trung Hoa). Nhiều học giả thế giới cho rằng sau năm 1997, Hồng Kông sẽ giúp Trung Quốc “chắp cánh cho hổ” để trở thành thị trường kinh tế mậu dịch lớn nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương với tổng kim ngạc ngoại thương xếp thứ 4 thế giới (khoảng 650 tỉ USD sau Mỹ, Đức, Nhật) và tổng dự trữ ngoại tệ đứng đầu thế giới ( khoảng 180 tỉ USD). Ngoài ra, sau năm 1997 Hồng Kông sẽ gánh vác thêm cho Trung Quốc hai nhiệm vụ mới là: Hồng Kông trở thành khu vực thí điểm tự do chuyển đổi Nhân dân tệ sang các ngoại tệ khác, đồng Nhân dân tệ sẽ được các ngân hàng Hồng Kông bảo hiẻm, Trung Quốc sẽ được lợi về giá thành thấp. Ngược lại các ngân hàng Hồng Kông cũng được lợi về nghiệp vụ đổi tiền và khi tie giá đồng Nhân dân tệ ổn đinh sẽ giúp cho kinh tế Hồng Kông phát triển ổn định. Đồng thời Hồng Kông trở thành địa bàn tiền duyên cho Trung Quốc gây sức ép với Đài Loan thực hiện “ba thông” (thông thương, hàng hải, hàng không, bưu điện) và ngăn cản chính sách “Hướng Nam” của Đài Loan, tiến tới hướng Đài Loan chấp nhận phương án thônga nhất Trung Quốc heo công thức “một quốc gia hai chế độ” có lợi cho Trung Quốc. Những vấn đề của Hồng Kông sau ngày trở về Đại Từ khi trở về với Trung Quốc, Chính phủ Trung ương Trung Quốc đã dựa vào “Luật cơ bản” để giải quyết sự việc của Hồng Kông, ngoài việc tích cực ủng hộ, phối hợp với chính quyến Hồng Kông, bảo vệ lợi ích của bản thân Hồng Kông, Chính phủ Trung ương còn áp dụng chính sách không can thiệp trực tiếp vào công việc của Hông Kông, đảm bảo cho Hồng Kông thưc hiện hiệu quả chính sách “Một đất nước hai chế độ”. Trong khi thi hành các chính sách, đặc khu hành chính Hông Kông luôn luôn quán triệt phương châm, chính sách “Một đất nước hai chế độ” và “Người Hồng Kông quản lý Hồng Kông”, duy trì vai trò cảng tự do và ổn định xã hội trong lãnh thổ Hồng Kông. Sau khi Hồng Kông trở về Trung Quốc, những hoạt động biểu tình chống đối của quần chúng nhân dân có phần gia tăng, thậm chí xuất hiện những cuộc biểu tình chống đối quy mô lớn, cho dù động cơ là gì nhưng về cơ bản đều có thể giải quyết theo pháp luật mà chưa gây ra những xung đột nghiêm trọng trong xã hội thì chính quyền đặc khu và chính phủ Trung ương đều không can thiệp, đó chính là một biểu hiện quan trọng về sự thành công trong thực tiễn của chính sách “Một đất nước hai chế độ”, tránh được những biến động xã hội trong qua trình cải cách chính trị dân chủ. Về tổng thể Hồng Kông là một nơi có quyền tự do ngôn luận, có ý kiến ủng hộ cũng có ý kiến phản đối, đặc biệt là tiếng nói của phái dân chủ không bị bưng bít, những lời phê bình chính quyền đặc khu không bị hạn chế. Bên cạnh đó chế độ kinh tế thị trường tự do của Hồng Kông được duy trì và phát triển. Đến năm 2007, 10 năm liền liên tục Hồng Kông được quỹ di sản của Mỹ (Quỹ Heritage) bình chọn là “nền kinh tế tự do nhất toàn cầu”, đây cũng là lần thứ 13 Hồng Kông nhận danh hiệu này. Quỹ này cho rằng Hồng Kông vẫn tiếp tục là cảng miễn thuế, mức độ can thiệp của chính quyền vào các hoạt động thương mại dịch vụ và mức độ cản trở đầu tư nước ngoài thấp, rất ít hạn chế trong lưu thong tiền tệ và ngân hàng, điều này cũng là một sự khẳng định cao đối với chính quyền Hồng Kông và chính sách “một đất nước hai chế độ”. Sau khi trở về Trung Quốc, thể chế kinh tế tự do của Hồng Kông không những không phải chịu ảnh hưởng, mà còn phát triển thêm một bước, Hồng Kông tiếp tục duy trì đia vị là trung tâm tài chính, trung tâm vận taỉ đường thủy, trung tâm thông tin và trung tâm dịch vụ thương mại quốc tế của mình. Đặc khu hành chính Hồng Kông không ngừng cải cách, hoàn thiện những chế độ liên quan, nâng cao hiệu suất, làm cho vi trí trung tâm tài chính và vận tải đường thủy quốc tế được củng cố, ngày càng có nhiều cơ quan tài chính trên thế giới tập trung ở Hồng Kông; Hồng Kông trở thành một trong những thị trường chứng khoán lớn nhất châu Á và thế giới. Lượng xếp dỡ hàng container tiếp tục duy trì vị trí hàng đầu trên thế giới, sân bay mới của Hồng kông đưa vào sử dụng từ năm 1998, lượng vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không liên tục đứng đầu thế giới. Tất cả những điều này chứng tỏ sau khi trở về Trung Quốc vẫn có sức sống và tiềm lực phát triển. Bên cạnh những thuận lợi đó Hồng Kông còn đối mặt với nhiều thách thức. Đầu tiên chịu ảnh hưởng mạnh bởi khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, và sự bùng phát dịch cúm gia cầm, dịch SARS làm sự phát triển kinh tế của Hồng Kông xuất hiện những dao động, làm sụt giảm giá thị trường chứng khoán vào cuối tháng 10/1997, thâm hụt tài chính của chính quyền đặc khu tăng cao, quý I năm 2002 lên đến 70 tỷ HKD, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế đặc biệt năm 1998 một hiện tượng hiếm thấy trong vòng hơn 50 năm lại đây, kinh tế Hồng Kông tăng trưởng âm. Tình hình xã hội nhiều bất ổn đặc biệt là vấn đề thất nghiệp. Từ năm 1998 trở lại đây tỷ lệ thất nghiệp của Hồng Kông liên tục vượt qua mức 4%, 6%, 7%, năm 2003 đạt gần 8%. Nền kinh tế Hồng Kông vẫn tiếp tục đối mặt với một số khó khăn, chủ yếu là sự điều chỉnh chậm chạp trong kết cấu kinh tế, ngành chế tạo tăng trưởng chậm, thực chất giá trị sản lượng thuần bình quân năm trong 10 năm gần đây giảm xuống còn hơn 9%. Đặc biệt là tiến triển của ngành khoa học kỹ thuật cao không nhiều, nghiệp vụ chuyển dịch kết cấu kinh tế vẫn còn nặng nề. Sự phát triển của kinh tế Hồng Kông chịu nhiều ảnh hưởng bởi các nhân tố kinh tế bên ngoài và nhân tố phi kinh tế. Đây là điều mà các giới Hồng Kông phải tiếp tục cùng nhau cố gắng, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế Hồng Kông phát triển ổn định. Điều này cũng là vấn đề quan tâm của Chính phủ Đại lục. Chính phủ Trung Quốc phối hợp với chính quyền Đặc khu từng bước tìm ra những biện pháp giải quyết. Trước hết về vấn đề khủng hoảng tài chính ở khu vực Đông Á từ tháng 7/1997 bắt đầu ở Thái Lan, lan sang các nước Đông Nam Á, Đông Băc Á trong đó có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế tài chính ở Hồng Kông, nhưng Hông Kông lại nằm trong số ít quốc gia thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng sớm nhất. Để có điều này vai trò không nhỏ thuộc về sự can thiẹp, giúp đỡ của Chính phủ Trung Quốc. Bản thân nền kinh tế Hồng Kông có những đặc điểm thuận lợi nhất định như là nền kinh tế ít mắc nợ nước ngoài chủ yếu là hình thức nợ ngắn hạn với cơ cấu công nghiệp phần lớn là các xí nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng phản ứng linh hoạt với những thay đổi của môi trường kinh doanh, cơ sở tài chính khá vững vàng đặc biệt Hồng Kông có một sự hậu thuẫn lớn đứng đằng sau là nền kinh tế Trung Quốc khổng lồ. Trước tình hình khủng hoảng Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các biện pháp giải quyết: Theo quy định vào cuối năm 1997, các công ty của Trung Quốc tại Hồng Kông phải nộp lãi và thuế cho chính phủ nhưng do tình hình thị trường chứng khoán Hồng Kông gặp khó khăn nên việc nộp thuế và lãi được nộp chậm lại Ngân hàng Trung ương chuẩn bị sẵn một khoản ngoại tệ 15,2 tỷ USD để mua vào đồng đô la Hồng Kông Cho phép các chi nhánh ngân hàng ở Hồng Kông có thể tăng số lượng mua vào từ 5 – 10% cổ phiếu để giữ giá đồng tiền của mình. Các công ty Trung Quốc ở Hông Kôngphải thường xuyên liên lạc và hiệp đồng với các tập đoàn tài chính để cùng giúp ổn định thị trường chứng khoán và tiền tệ Hồng Kông. Cụ thể Trung Quốc ra sức ổn định tỷ giá đồng NDT và đồng HKD với đồng USD. Trong tình hình cần thiết, Trung Quốc có thể huy động khoảng 10 tỷ USD theo kế hoạch đầu tư vào Bắc Mỹ chuyển về đầu tư vào Hồng Kông để hhỗ trợ cho kinh tế Hồng Kông, trong khi đó ngân hàng Trung ương Trung Quốc cũng đưa khoảng 1tỷ USD từ ngân hàng London chuyển về đầu tư ở Hồng Kông. Việc giữ ổn định tỷ giá bản tệ của các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã được dư luận thế giới đánh giá cao. Họ cho rằng đồng NDT là “phòng tuyến cuối cùng” ngăn chặn cơn bão táp tiền tệ châu Á đồng thời nhằm đảm bảo sự ổn đinh và phát triển của Hồng Kông. Để giải quyết những vấn đề còn tồn tại như vấn đề nhà ở việc làm…Chính phủ đã tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, khu vui chơi giải trí để kéo theo sự tăng trưởng trở lại của kinh tế, tạo hàng chục nghìn việc làm và mang lại hiệu quả kinh tế. Kinh tế Hồng Kông những năm gần đây được đánh giá phát triển tố nhất trong vfồng 20 năm qua với tỉ lệ tăng trưởng nhanh, lạm phát, thất nghiệp thấp. Năm 2006 GDP tăng 6,8% đạt 189,5 tỉ USD, GDP bình quân đầu người đạt 27.466 USD/năm, tổng kim ngạch tăng hơn hai lần của 10 năm trước. Hồng Kông hiện là nền kinh tế thương mại đứng thứ 11, thị trường ngoại tệ đứng thứ 6, trung tâm ngân hàng đứng thứ 15 thế giới. Thị trường chứng khoán và bất động sản đang phát triển nhanh chóng. Thị trường cổ phiếu Hồng Kông đứng thứ 2 châu Á. Dự trữ ngoại tệ năm 2006 xếp thứ 7, kim ngạch thương mại xuất khẩu xếp thứ 9 thế giới. Hồng Kông còn là cảng hàng không ,lớn nhất quốc tế và khu vực, mỗi tuần có khoảng 4900 chuyến bay chở hành khách cùng 700 chuyến bay chở hàng định kì từ Hồng Kông bay đi 139 thành phố trên thế giới. Như vậy với những chỉ số phát triển kinh tế khả quan đó chứng minh một cách rõ ràng rằng Hồng Kông vẫn đang vận hành tốt đẹp trong quồng quay của Trung Quốc và Thế giới là sự kiểm nghiêm trên thực tế sự thành công của chính sách “Một đất nước hai chế độ”. C. KẾT LUẬN Kể từ ngày 1/7/1997 Hồng Kông chính thức đón nhận tên gọi Đặc khu hành chính Hồng Kông, trở thành một bộ phận của đất nước Trung Quốc, đúng như vai trò và sứ mệnh của mình, hiện nay Hồng Kông đang có những bước tiến mới khẳng định và nâng cao vị trí của mình trên trường quốc tế đồng thời thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ, thúc đẩy quá trình phát triển hội nhập của Trung Quốc. Trung Quốc cũng ý thức rõ ràng rằng tình hình kinh tế chính trị của Đại Lục có ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định và phồn vinh của Hồng Kông, từ đó khiến Trung Quốc có những bước đi thận trọng hơn trong đường lối phát triển. Có thể nói việc Trung Quốc thu hồi chủ quyền Hông Kông có giá trị to lớn không chỉ vì ý nghĩa lịch sử mà để có thể thu nhận một viên ngọc về phía mình, Trung Quốc đã có những thay đổi, chuyển biến mang tính chất chiến lược và tích cực đưa đất trên con đường phát triển. Thông qua đó Trung Quốc cũng để lai nhiều bài học có giá trị quốc tế sâu sắc về kinh tế và chính trị. Việc xây dựng mô hình “Một đất nước hai chế độ” để thu hồi các khu vực có đặc điểm khác trong một nước là một sáng tạo độc đáo, độc đáo vì nó phù hợp vời tình hình thực tế của Trung Quốc và Hồng Kông, đồng thời cũng chỉ ra một lí luận chung khi giải quyết các vấn đề dân tộc phải trên cơ sở của sự tôn trọng lịch sử, tôn trọng hiện thực của mỗi bên đặt trong xu hướng phát triển chung. Với việc lợi dụng các khu vực phát triển như Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Trung Quốc đã cho xây dựng các đặc khu kinh tế như đầu mối thu hút đầu tư từ bên ngoài nhằm kéo nền kinh tế của các khu vực trong nước phát triển. Đây là một bài học cho các nước đang phát triển cần tận dụng những lợi thế đối ngoại để hướng nền kinh tế ra bên ngoài theo xu thế hội nhập. Việc xây dựng các khu kinh tế mở ven biển thu hút vốn đầu tư nước ngoài của nước ta cũng trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm từ thành công của những đặc khu kinh tế của Trung Quốc. Trên một khía cạnh nhất định nước ta cũng có nhiều đặc điểm tương đồng với Trung Quốc, việc tìm hiểu về những chính sách, bước đi từ Trung Quốc giúp chúng ta rút được những kinh nghiệm cần thiết cho công cuộc đổi mới và phát triển đất nước của mình. Hồng Kông một - mô hình kinh tế tiến bộ, là một trong những bạn hàng quan trọng của nước ta, tìm hiểu về Hồng Kông cũng hết sức cần thiết trong chiến lược phát triển của đất nước ta trên cơ sở học hỏi, giao lưu tiếp nhận những cái tiến bộ, thích hợp loại bỏ những điều không thích hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đặng Tiểu Bình từ lý luận đến thực tiễn – Trần Tiên Khuê, người dịch: Lê Khánh Trường – NXB Khoa học xã hội. Đặng Tiểu Bình – Một trí tuệ siêu việt. Tác giả: Lưu Cường Lân, Uông Đại Lý. Mưu lược Đặng Tiểu Bình – Xuân Duy, Quỳnh Dung. 1/7/1997 Hồng Kông “Ngọc bích quy Triệu” – Thái Nguyễn Bạch Liên biên dịch. Trung Quốc và vấn đề Hồng Kông 1984 – Tài liệu sưu tập từ thông tấn xã 1984. Đặng Tiểu Bình văn tuyển. Kinh tế Hồng Kông và vai trò của nhân tố Trung Quốc – Nguyễn Minh Hằng 1996: Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc Đôi nét về quan hệ kinh tế mậu dịch giữa Hồng Kông với Đại lục và sau ngày Hồng Kông trở về với Trung Quốc – Hoàng Thế Anh 1997: Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc. Hồng Kông – Hai năm sau khi Trung Quốc khôi phục chủ quyền: Đề tài cấp viện năm 1999 /Vũ Thùy Dương: Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc Đặc khu kinh tế và 14 thành phố mở cửa của Trung Quốc/ Nguyễn Văn Tường, Đỗ Ngọc Toàn 1986: Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc Zhongguo hui gui (Nhìn lại Hồng Kông)/Vương Hoàng Thành – NXB Tân Hoa – Bắc Kinh. Zhongguo de zuotian, jintian, mingtian (Hôm qua, hôm nay, ngày mai của Hồng Kông)/Hạ Hoằng Cảnh chủ biên – NXB Trí thức thế giới. Các đặc khu kinh tế của Hồng Kông/ Phạm Hưng Long 1986: Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc Đánh giá nghiên cứu tư tưởng “Một đất nước hai chế độ” của Đặng Tiểu Bình – Ngô Lệ Quỳnh: Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc Hồng Kông trên đường phát triển và trở về Trung Quốc/ Luận án thạc sĩ: Nguyễn Kim Nga. Tạp chí: Nghiên cứu Trung Quốc + Chính sách “Một đất nước hai chế độ” Thành tựu lớn của Trung Quốc trong 25 năm cải cách - mở cửa.Dương Văn Lợi/số 1(53)-2004 + Hồng Kông – Thành tựu và những vấn đề cần suy nghĩ sau mười năm trở về Trung Quốc. GS Vương Kiến Dân – Viện khoa học xã hội Trung Quốc. Người dịch Nguyễn Thanh Giang: Số 5(75)/2007. + Hồng Kông trước ngày Trung Quốc khôi phục chủ quyền số 6(26)tháng12/1999. + Đầu tư trực tiếp của Hồng Kông vào nội địa Trung Quốc và triển vọng của nó sau năm 1997 – Nguyễn Kim Bảo số 5(21)/1998. + Những dự đoán về triển vọng Hồng Kông sau ngày chuyển giao chủ quyền – Nguyễn Huy Quý số 3(13)/1997. + Hồng Kông sau tháng 7 – 1997 niềm vui, nỗi lo – Hồ Châu số 3(13)/1997. +Hai mươi năm mở cửa đối ngoại của Trung Quốc. Hiện trạng – vấn đề và triển vọng – Nguyễn Thế Tăng số 4(20)/1998 + Kinh nghiệm xây dựng các Đặc khu kinh tế ở Trung Quốc/ Bùi Dương Nghiêu số 1 (23)- 1999 Tạp chí nghiên cứu Quốc tế + Xung quanh việc Trung Quốc thu hồi chủ quyền Hồng Kông và những tác động liên quan/Chu Công Phùng số 18/1997 + Quan hệ đối ngoại của Hồng Kông btrước và sau tháng 7/1997 – Hoàng Hà Thu/ số 18/1997 18. Tạp chí: Những vấn đề kinh tế Thế giới + Vì sao Đài Loan, Hồng Kông và Singapo ít bị khủng hoảng tài chính – Nguyễn Bình Giang số 5(55)/1998 + Nhìn về Hồng Kông số 4 (48)/1997 + Vai trò Trung Quốc trong khủng hoảng kinh tế Đông Nam Á – PTS. Hoa Hữu Lân, Đỗ Thị Liên Vân số 6(62)/1999 + Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á đến Trung Quốc – TS Đinh Công Tuấn số 2(64)/2000 + Kinh tế Hồng Kông sau năm năm trở về Trung Quốc – Ngô Thị Trinh số 4(78)/2002 + Trung Quốc thu hút vốn nước ngoài trong công nghiệp hóa – Phạm Thái Quốc số 4(54)/1998 Tạp chí Châu Á – Thái Bình Dương + Chính sách đầu tư của Trung Quốc – Thanh Hà số 2(15)/1997 + Các nền kinh tế mới công nghiệp hóa – Ngô Thị Trinh số 1(26)/2002 +Sự suy giảm kinh tế của các nước NIC – Ngô Thị Trinh số 2(37)/2002 19. Báo Nhân Dân + Một số tư liệu liên quan đến Hồng Kông – Ngày 28/06/1997 + Những vấn đề của Hồng Kông trong thời kì mới – Ngày 4/07/1997 + Trung Quốc chào mừng thu hồi Hồng Kông – Ngày 21/07/1997 + Hồng Kông sau mười năm trở về Trung Quốc thánh 7/2007 20. Tuần báo Quốc tế + Hồng Kông sau bước ngoặt lịch sử - Ngày 01/07/1997 + Dư luận Thế giới về Hồng Kông sau chuyển giao số 28/1997 + Những cơn hồng thủy cuối cùng số 26/1997 + Hồng Kông – Nơi giao hòa những giá trị số 25/1997 21. Báo Lao Động: Gútbai Hồng Kông – Nỉhảo Hương Cảng ngày 02/07/1997 22. Trang web, tạp chí điện tử www.baitu.com www.xinzhonghua.com www.huaxia.com www.8bio.com www.vietnamnet.vn/kinhte/thitruong/2003/6/13924: Toàn cầu hóa kinh tế - Vấn đề và cách tiếp cận: PGS.TS Lê Doãn Tá Toàn cầu hóa kinh tế - Cách tiếp cận, cơ hội và thách thức: Bài viết của Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển đăng trên báo dediện tử ngày 17/1/2005 Toàn cầu hóa : www.vi.vikipedia.org - Tòan cầu hóa, được và mất / Văn Như Cương- Tạp chí Trí tuệ MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLSDOCS (44).doc