Vận dụng chính sách kinh tế mới ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải nắm vững những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về chính sách kinh tế mới, từ chiều sâu của tư duy lý luận triết học - kinh tế của ông và phải được đặt trên cơ sở thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy viẹc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
39 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1727 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách Kinh tế mới – Vận dụng vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n các hợp tác xã tín dụng nhận tiền gửi tiết kiện và cho vay, qua đó những nông dân nghèo có cơ hội tăng gia sản xuất .
Tuy nhiên từ khi có chính sách thuế lương thực thì trong xã hội tồn tại một lượng lương thực thừa, và vấn đề đặt ra là tiêu thụ số lương thực thừa đó . Trong luận cương ban đầu của Lênin thì vấn đề này sẽ được giải quýet bằng cách trao đổi hàng hoá trực tiếp giữa nông nghiệp với công nghiệp, với thợ thủ công, và cá sản phẩm của các ngành khác . Mở ra các kênh tiêu thụ của nhà nước đến từng địa phương . Tuy nhiên khi thực hiện, hệ thống này quá yếu kém và không đáp ứng nhu cầu trao đổi của nông dân .
Để đáp ứng nhu cầu của mình, nhân dân tìm đến thị trường tự do . Và từ đó thị trường này ngày càng phát triển . Theo Lênin, htị trưòng này là không có lợi cho qua trình xây dựng đất nước theo mục tiêu đề ra, nhưng Lênin cũng thừa nhận và đồng ý thực hiện nó vì nó phù hợp với nền sản xuất nhỏ . Chính phủ cho phép tự do quan hệ buôn bán hàng hoá trên thị trường , từ đó từng bước xây dựng một kinh tế thị trường vận động theo quy luật thị trường , tự do giá cả , nhưng cũng có sự can thiệp của nhà nước .
Chính sách thương nghiệp, thị trường, quan hệ hàng hoá tiền tệ tỏ ra là phương tiện hữu hiệu xoá bỏ sự căng thẳng về chính trị thông qua giải quyết các vấn đề của nền kinh tê . Chính sách này được thực hiện trong chính sách Kinh tế mới gốp phần ngăn chặn đầu cơ lúa mì, ổn định thị trường, xoá bỏ độc quyền .
2.8. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Sản xuất nhỏ có đặc trưng là sản phảm sản xuất ra với số lượng ít, chất lượng thấp , không đồng đều , và hầu hết được tiêu thụ ngay trong nội bộ các ngành hay các địa phương . Nền kinh tế tự nhiên không thể đảm bảo nền tảng về kinh tế vững chắc cho xây dựng chủ nghĩa xã hội . Vì vậy việc thiết lấp các quan hệ trao đổi hàng hoá là rất cần thiết, xây dựng nền kinh tế hàng hoá , trong giai đoạn quá độ là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là rất cần thiết . Một nền kinh tế như vậy kích thích sản xuất phát triển , kích thích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất vừa làm cho kinh tế đất nước ổn định , các mặt hàng được cung cấp đầy đủ , mặt khác lại tận dụng được tất cả các nguồn lực của các thành phần khác nhau trong nền kinh tế . Tất cả các giai cấp tầng lớp , các giai cấp đều tham gia vào xây dựng đất nước .
3. Thành quả nước Nga đã đạt được khi áp dụng chính sách Kinh tế mới .
Như ta đã biết, chính sách Kinh tế mới ra đời trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước Nga, kinh tế suy sụp,xã hội có nhiều bất hoà lộn xộn thậm chí có những cuộc nổi loạn của nông dân xảy ra. Chính sách này được áp dụng trong khoảng thời gian từ năm 1921 đến năm 1926 bắt đầu với việc thực hiện chính sách thuế lương thực và sau đó là một loạt các sắc lệnh khác về phát triển nông nghiệp, công nghiệp, ... Chính sách Kinh tế mới đã thu được rất nhiều thành quả đáng nói . Từu năm 1923 các hộ nông dân đều tăng diện tích gieo trồng, số lương gia súc, việc cung cấp ngũ cốc cho các thành phố được tăng lên sau 3 năm từ 1923 đến 1925 sản lượng ngũ óc tăng đáng kể : củ cải tăng 7,9 triệu tấn, số gia súc tăng 16.3 triệu con, tổng sản phẩm nông nghiệp tăng 12%, chăn nuôi tăng 21%(Chính sách kinh tế mới qua lăng kính thời đại hiện nay ). Các cuộc bạo loạn chấm dứt ngay sau khi thi hành chính sách Kinh tế mới . Nạn cướp bóc hoành hành truớc đây giảm hẳn .
Sự thay đổi tâm trạng của nông dân có nghĩa là thay đổi, phục hồi lại sự liên minh giai cấp vô sản và nông dân . Hình thức kinh tê hình thành một cách tự nhiên tỏ ra phù hợp với với nền kinh tế tiểu nông, cùng với việc dùng các kích thích kinh tế và xoá bỏ chính sách điều khiển quá mức của nhà nước vào nền kinh tế có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển chung của nhà nước cách nạng vô sản, nâng cao mức sống, phát triển nền kinh tế Xã hôi chủ nghĩa .
Những kết quả to lớn cũng có thể thấy trong ngành công nghiệp và trong thương nghiệp . Trong công nghiệp, các xí nghiệp do nhà nước quản lí nhờ đựơc tập trung đầu tư nhiều hơn nên không con hoặc ít thấy tình trạng các xí nghiệp làm ăn thua lỗ trở thành ăn bám chính phủ, các xí nghiệp được chủ động làm ăn hơn, độc lập hơn trong các quyết định sản xuất, linh hoạt hơn do không phải chịu sự chi phối của các mệnh lệnh qua cụ thể của trên đưa xuống . Với các xí nghiệp được tư nhân, tư bản thuê dưới sự kiểm soát giới hạn của nhà nước cũng đóng gốp vai trò không nhỏ trong việc đáp ứng các nhu cầu của xã hội .
Về thương nghiệp, hệ thông thương nghiệp cả của nhà nước và thị trường đều hoạt động có hiệu quả . Đặc biệt là hệ thống thị trường hàng hoá - tiền tệ là lí tưởng cho xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn qua độ .
4. Sự kết thúc của chính sách Kinh tế mới.
Nói chung Lênin khẳng định viẹc pá dụng chính sáh Kinh tế mới là trong một thời kì lâu dài . Tốc độ chậm ơn có thể đảm bảo cho nền kinh tê vững chắc hơn . Lênin đặc biệt phản đối tư tưởng trở lại áp dụng các chính sách thời cộng sản thời chiến .
Khi Stalin lên nắm giữ chức tổng bí thư đảng cộng sản Nga thì tình thế lại hoàn toàn khác hẳn . Phương pháp của Stalin trong phát triển kinh tế không phải đặt các mối quan hệ kinh tế lên hàng đầu mà thay vào đó là các quan hệ hành chính, đồng thời chủ trương tập trung phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng với tốc độ nhanh chóng bất chấp sự trì trệ của sản xuất nông nghiệp biểu hiện là : trái với công nghiệp sản lượng tăng rất nhanh, trong nông nghiệp sản lượng tăng nhậm chạp .
Stalin yêu cầu tập thể hoá nhanh chóng cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp . Sau thời kì kủng hoảng 1927 Stalin có những chính sách về tịch thu lúa mì của phú nông nếu bị phát hiện là có đầu cơ tích trữ lương thực, chia một phần cho người phát hiện . áp dụng các hình thức xử phạt nặng đối với tội tàng trữ lúa mì . Điều này làm cho nông dân sợ, dẽ dàng thu mua lúa mì, nhưng lại chính là bỏ qua lời kêu gọi liên minh giai cấp của Lênin.
Cứ như vậy chính sách Kinh tế mới dần mất đi những đặc điểm cơ bản đến khi nó hoàn tàn bị xoá bỏ và chìm vào quên lãng . Chỉ đến khi Liên Xô sau này lâm vào tình trạng suy thaói nghiêm trọng do thực hiện quá lâu các chính sách nhằm tăng tốc độ phát triển của nền kinh tế một cách qua nhanh chóng, tuy có thời gian Liên Xô đã trở thành quốc gia có nền kinh tế thứ nhất Châu Âu thứ nhì thế giới, nhưng lại chịu tác hại qua lớn của những cuộc khủng hoảng mà không thể khắc phục được . Khi đó người ta mới nghiên cứu lại những giá trị còn đầy tính thời sự ngay cả với ngày nay thì mọi việc đã là quá muộn . Sự tan rã của Liên Xô chính là minh chứng cho sự nóng nảy chủ quan xa rời những lí luận cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin . Đây là bài học quý giá cho bất cứ nước nào đang tiến trên con đường Xã hội chủ nghĩa .
Chính sách Kinh tế mới ra đời và được áp dụng ở nước Nga không được lâu dài vì vậy ý nghĩa của nó đối với nền kinh tế chưa được khám phá hết , ngững hiệu quả lâu dài của nó hầu như chưa được nhận định rõ ràng . Tuy nhiên với những gì mà chính sách này đã thực hiện được ở nước Nga đã chứng tỏ sức mạnh của nó đối với việc phục hồi kinh tế trước mắt và xây dựng chế độ mới , chế độ Xã hội chủ nghĩa sau này .
Lênin xây dựng chính sách này cho tình hình cụ thể ở nước Nga , tuy nhiên chính sách Kinh tế mới hoàn toàn có thể áp dụng ở các nước khác nếu kết hợp với phương pháp lịch sử cụ thể của chủ nghĩa Mác – Lênin . Điều đó có nghĩa là yêu cầu để một nước nào khác áp dụng chính sách Kinh tế mới đó là đảng cầm quyền ở nước đố phải biết vận dụng sáng tạo nó vào tình hình kinh tế chính trị của nước mình sao cho phù hợp nhất , có hiệu quả nhất . Nói cách khác chính sách Kinh tế mới có tính chất quốc tế .
II. Chính sách Kinh tế mới khi vận dụng vào Việt Nam
1. Hoàn cảnh Lịch sử của Việt Nam.
1.1. Lịch sử.
Việt Nam là nước nằm ở Đông nam Châu á, là quốc gia có truyền thống lâu đời về dựng nước và giữ nước . Với 4000 lịch sử, Việt Nam đã trãi qua những giai đoạn lịch sử đầy hào hùng chống quân xâm lược . Từ thời trung cổ là những cuộc xâm lấn liên tiếp của phong kiến phương bắc, sau này là hai đế quốc lớn phương Tây: Pháp và Mĩ .
Trong tất cả các cuộc chiến dân tộc Việt Nam luôn tỏ ra mình là dân tộc anh hùng, sáng tạo luôn biết tiếp nhận cái mới . Nhất là sau khi chủ nghĩa Mác xuất hiện và được Đảng cộng sản Việt Nam truyền bá vào giai cấp công nhân nói riêng và toàn bộ nhân dân nói chung thì một trang sử mới đã mở ra với đất nước chúng ta . Giai cấp công nhân với vũ khí lí luận là chủ nghĩa Mác – Lênin lãnh đạo toàn bộ nhân dân Viẹt Nam đấu tranh cho đọc lập của dân tộc . Chiến thắng đầu tiên và cũng là mốc son chói lọi trong lịch sử chính là cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời .
1.2. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trước thời kỳ đổi mới.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá, vận động theo cơ chế thị trường. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội không qua gia đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên nước ta thiếu cái cốt vật chất của một nền kinh tế phát triển. Thực trạng của nền kinh tế được biểu hiện ở những mặt sau đây:
-Cơ cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém.
-Trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, khôn có khả năng cạnh tranh.
-Sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, kỹ thuật thủ công, mang nặng tính bảo thủ, trì trệ.
-Phân công lao động chưa sâu sắc, các mối liên hệ kinh tế kém phát triển, thị trường còn hẹp, đơn điệu.
-Thu nhập của dân cư quá thấp , sức mua thấp, nhu cầu tăng chậm dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh là khó tránh khỏi.
-Thiếu một đội ngũ những người quản lý sản xuất, kinh doanh có khả năng tham gia cạnh tranh trong và ngoài nước.
-Ngoài ra, kiểu quản lý nền kinh tế chỉ huy đã làm xơ cứng các mối liên hệ kinh tế. Điều đó biểu hiện:
+Từ năm 1986 trở về trước dù trên thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, còn quan hệ hàng hoá- tiền tệ, nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành phần- thành phần xhcn mà thôi, dựa trên chế độ công hữu về TLSX dưới hai hình thức.
+Với tên gọi kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa một sự sao chép theo nguyên bản mô hình Liên Xô trước đây, đã làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động mềm dẻo, như giá trị, giá cả, lợi nhuận... bị hình thức hoá đến cao độ; không phản ánh các quy luật của thị trườgn, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa.
+Quy luật vận động của kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển có kế hoạch và cân đôí nền kinh tế quốc dân.
+Mục đích hoạt động kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp không phải vì lợi nhuận như vốn có của kinh tế hàng hoá mà lá tuân thủ một cách nghiêm ngặt hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh đựơc phát ra từ một trung tâm.
+Các quy luật kinh tế hàng hoá hoặc do ý chỉ chủ quan thu hẹp phạm vi hoạt động xem như không hợp pháp hoặc có thừa nhận cũng chỉ đóng vai trò hết sức thứ yếu trong sự vận động của nề kinh tế mà thôi.
Những quan niệm ấu trĩ trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu hiện của sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không tuân thủ theo quá trình lịch sử tự nhiên trong sự phát triển xã hội nói chung và trong kinh tế nói riêng. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho sự trì trệ kéo dài, đồng thời làm xuất hiện yêu cầu cấp bách là phải chấn hưng nó cho phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan phù hợp với các xu thế thời đại ngày nay.
1.3. Nền kinh tế Việt Nam từ sau thời kỳ đổi mới đến nay.
Thành tựu đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế là đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế ( lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu).
Tình hình lương thực thực phẩm có chuyển biến tốt. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, nay chúng ta đã vươn lên đáp ứng được nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống của nhân dân và cải thiện cán cân xuất nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp của việc phát triển sản xuất, thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp, xoá bỏ chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều hoà cung cầu lương thực- thực phẩm trên phạm vi cả nước. Nhưng bình quân lương thực đầu người của nước ta còn thấp, việc điều hoà lương thực có lúc chưa tốt, quản lý dự trữ lương thực quốc gia có khuyết điểm to lớn, giá cả lương thực - thực phẩm có những lúc tăng đột biến, vì nhiều nguyên nhân, tình trạng thiều đói từng thời gian vẫn còn xẩy ra ở nhiều nơi. Chúng ta không thể chủ quan, coi nhẹ nhiệp vụ đẩy mạnh sản xuất và điều hoà lương thực-- thực phẩm.
Hàng hoá trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tuy chưa đạt kế hoạch, nhưng cũng tăng hơn trước và có tiến bộ rõ rệt về mẫu mã , chất lượng. Một số sản phẩm tư liệu sản xuất tăng khá. Các cơ sở sản xuất gắn chặt hơn với nhu cầu thị trường, phần bao cấp của nhà nứơc về vốn, giá vật tư, tiền lương... giảm đáng kể.
Một thành tựu khác về đổi mới kinh tế là bứơc đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nứơc. Chính sách này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đã đi nhanh vào cuộc sống. Chính sách ấy đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế; khơi dậy được nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo thêm việc làm và sản phẩm cho xã hội; thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường.
Công tác kế hoạch hoá đã chuyển từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định hướng là chủ yếu, bước đầu sử dụng các đòn bẩy kinh tế và lực lượng vật chất để bảo đảm cân đối tổng cung- tổng câù trong nền kinh tế. Đã xây dựng chiến lược kinh tế- xã hội, quy hoạch ngành và vùng, mở rộng thông tin kinh tế, nâng cau vài trò của hợp đồng kinh tế.
Bộ maý nhà nước từng bứơc chuyển sang thực hiện chức năng quản lý nhà nước, khắc phục dần sự can thiệp vào điều hành kinh doanh của cơ sở. Việc xây dựng pháp luật kinh tế được đẩy mạnh.
Cùng với những đổi mới cơ chế quản lý ở tầm vi mô, chúng ta đã tiếp tục điều chỉnh quan hệ sản xuất ở nông thôn, cải tiến chế độ khoán và cơ chế quản lý trong các hợp tác xã nông nghiệp; mở rộng về nhiều mặt quyền tự chủ kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh, tạo điều kiện phát huy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh tế và của người lao động. Nhờ đó đã thúc đẩy các cơ sở sản xuất thưo nhu cầu thị trường, phấn đấu áp dụng tiến bộ kỹ thuật và cải tiến quản lý, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu hình thành nhưng chưa đồng bộ, còn thiếu nhiều luật lệ, chính sách bảo đảm sản xuất, kinh doanh đúng hướng; chậm tổng kết để đề ra chương trình tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế có hệ thống. Bên cạnh những sự tiến bộ, sự quản lý và điều hành vĩ mô của nhà nước ở các cấp cũng bộc lộ nhiều mặt non yếu, chưa thực hiện nhất quán và có hiệu quả chức năng định hướng, kiểm soát và điều tiết các thành phần kinh tế.
2. Những nguyên nhân có thể áp dụng vào Việt Nam.
2.1. Chế độ chính trị .
Ngay từ khi lên nắm chính quyền, Đảng cộng sản Việt Nam - Đẳng cầm quyền ở Việt Nam - đã chọn con đường tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa . Và từ đó đến nay vẫn kiên trì đi theo con đường này . Bất chấp những biến động lớn trong tình hình chính trị quốc tế, đặc biệt là khi Liên xô tan rã, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Châu Âu thất bại trong khi xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra những thách thức lớn cả về kinh tế và niềm tin vào sự khả thi của chủ nghĩa xã hội, Đảng công sản Việt Nam đã lãnh đậo nhân dân một cách linh hoạt sáng tạo, biết sửa chữa khuyết điểm và đổi mới kịp thời . Nhờ đó tình hình chính trị không những vượt qua được thời kì khủng hoảng mà ngày một vững chắc .Củng cố vị trí trên chính trường thế giới .
2.2. Kinh tế .
Việt Nam là nước có nền kinh tế nông nghiệp với truyền thống trồng lúa nước lâu đời . Tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng công nghiệp kém phát triển . Thời phong kiến công nghiệp, thương nghiệp hầu như không phát triển . Công nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ phục vụ cho nhu cầu tại chỗ . Thương nghiệp chỉ tồn tại trong các thành thị lớn, trao đổi giao lưu kinh tế giữa các vùng hầu như không có, quan hệ buôn bán với nước gnoài hạn chế . Nói chung đó là nền kinh tế tự cấp tự túc đạc trưng cho chế độ phong kiến .
Sang cuối thế kỉ thứ 19 đầu thế kỉ thứ 20 khi thực dân Pháp sang xâm lược với chiêu bài khai hoá nhằm vơ vét tài nguyên thuộc địa đưa về mẫu quốc . Để phục vụ cho quá trình khai thác và vơ vét Pháp có xay dựng một số công trình công nghiệp và khi đó công nghiệp ở Việt Nam mới thực sự hình thành . Tuy nhiên các ngành công nghiệp đó chủ yếu là các ngành khai thác, chế biến sản phảm thô ( khai mỏ, luyện kim ...) không đòi hỏi có kĩ thuật sản xuất cao, và một số ngành sản xuất nhu yếu phẩm ( dệt ) .
Nông nghiệp cũng có sự chuyển biến, về các cây lương thực thì không nhiều tuy thực dân Pháp có đưa vào trồng ở Việt Nam một số loại cây công nghiệp chủ yếu là lanh, bông, cao su... Nhất là cao su được trồng với quy mô lơn thành các đồn điền cao su .
Thực dân Pháp đã biến Việt Nam thành thuộc địa phụ thuộc hoàn toàn vào Pháp . Nhân dân Việt Nam có đời sống vô cùng cực khổ, công nhân và nông dân là hai tầng lớp dưới đáy xã hội . Nông dân chịu nhiều tầng áp bức do Pháp duy trì bộ máy phong kiến còn rơi rớt lại để tiện bề cai trị .
Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, thêm Nhật nhảy vào vơ vét làm tình hình kinh tế Việt nam càng thêm cạn kiệt . Nạn đói năm 1945 làm cho hơn 2 triệu người chết đới ỏ Bắc kì, lí do chủ yếu của nạn đói này là Nhật và Pháp bóp nặn cùng kiệt nhân dân trong thời kì cuối của cuộc chiến tranh thế giới.
2.3. Xã hội .
Xã hội Việt Nam thời kì trước cách mạng là một xã hội thực dân nửa phong kiến phức tạp xen lẫn những giai cấp tàng lớp cũ và mới . Xã hội bao gồm : nông dân, địa chủ phong kiến, công nhân, tư sản, tiểu tư sản, trí thức . Mâu thuẫn xã hội cực kì gay gắt,gia cấp nông dân phải chịu nhiều tầng áp bức ( Thực dân pháp ,phát xít Nhật , và bộ máy phong kiến cũ ) . Công nhân tuy là giai cấp mới ra đời nhưng có tinh thần đấu tranh cao , cuộc sống của họ cực khổ đặc biệt là những công nhân làm trong các đồn diền trồng cây công nghiệp của thực dân , với những người này họ phải làm vất vả cả ngày nhưng cũng không đủ lương thực để ăn , công nhân trong các xí nghiệp cũng không hơn gì .
Sựu bất bình về chính sách cai trị trong nhân dân ngày càng lớn , càng về sau càng có tổ chức , có khi thành những cuộc bãi công lớn buộc chính quyền phải nhượng bộ phần nào . Nhưng ngay sau đó lại đàn áp các cuộc đấu tranh một cách thẳng tay .
3. Chính sách kinh tế mới của V.I.Lê-nin với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam cho thấy rằng, không thể giải quyết được những vấn đề câp bách trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế bằng các chủ trương, biện pháp dựa trên tư duy kinh tế cũ, mang đầy tính bị động và đói phó với tình hình. Bởi vậy đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tê, là một chủ trương hoàn đúng đắn, là bước chuyển có ý nghĩa cách mạng, đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phải đi theo con đường rút ngắn, với hình thức qúa độ gián tiếp mà lịch sử đã quy định. Trong một bói cảnh lịch sử cụ thể không bình thường, nhiều biến động, đương nhiên chúng ta phải xây dựng không chỉ đường lối chiến lược, mà cả những giải pháp tình thế, vừa có khả năng đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa tạo nền móng cho sự phát triển lâu bền. Chiến lược và sách lựơc đó phải dựa trên một nền tảng lý luận vững chắc và được hình thành trên cơ sở thực tiễn đầy đủ, kết hợp kinh nghiệm trong nước và kinh nghiệm quốc tế.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay cho thấy rõ, chính sách kinh tế mới NEP của V.I.Lê-nin là mẫu mực về một giải pháp tình thế, và còn là đường lối mang tính chiến lược, là cái đem lại cho chúng ta cơ sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm thực hiện chính sach kinh tế mới ở nước Nga đầu những năm 20 vẫn còn là bài học bổ ích cho đất nước chúng ta trong bối cảnh hiện nay. Thực tiễn của những năm đầu đổi mới ở nước ta cho thấy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất hàng hoá nhỏ, lạc hậu, nông dân chiếm đại bộ phận dân cư, chúng ta không thể không phát triển kinh tế hợp tác xã. Song vấn đề là ở chỗ, từ những tư tưởng cơ bản của V.I.Lê-nin về chính sách kinh tế mới và quan niệm của ông về chế độ hợp tác xã trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta phải coi kinh tế hợp tác xã như là một tế bào của nền kinh tế thị trường. Khi đó, vấn đề không chỉ là ở chỗ, tìm kiến những hình thức trung gian, những biện pháp quá độ cho việc khôi phục và phát triển nền kinh tế nông nghiệp, mà còn là ở chỗ rút ra một kết luận có ý nghĩa lý luận lớn lao. Đó là kết luận về tính thiết yếu của việc thực hiện các hình thức quá độ gián tiếp, những biện pháp trung gian, qúa độ đặc biệt đối với một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,. Rằng khi bối cảnh hiện thực đã thay đổi thì những biện pháp quá độ đó cũng phải thay đổi. Bản thân V.I.Lê-nin khi nói về việc thi hành chính sách kinh tế mới và thực hiện chế độ hợp tác xã cũng đã cho rằng, những biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước tiểu nông nghiệp không thể giống nhau. Rằng trong mỗi thời đại lịch sử đặc biệt, trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể chúng ta phải tìm ra và thực hiện được những biện pháp đặc biệt, phù hợp với thời đại, với hoàn cảnh đó. Thêm vào đó, ứng với mỗi giai đoạn lịch sử, chúng ta cần phải tìm ra cái mắt xích đặc biệt và khi đã tìm ra nó thì cần phải nắm lấy để giữ vững được toàn bộ cái mắt xích và chuẩn bị cho bước chuyển vững chắc sang mắt xích kế bên.
Những tư tưởng đó của V.I.Lê-nin cho thấy, từ một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng mọt loạt biện pháp quá độ đặc biệt, quá độ gián tiếp, chứ không thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội được. Rằng một khi chúng ta chưa có một nền đại công nghiệp cơ khí lớn, chưa có được nền sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, có trình độ phát triển cao, xét về phương diện kinh tế thì sự tồn tại của thành phần kinh tế hợp tác thiết nghĩ là tất yếu và cần thiết. Thực tiễn của công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm vừa qua đã chứng minh cho tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Một trong những cơ sở lý luận của đường lối đó chính là tư tưởng cơ bản của V.I.Lê-nin về chính sách kinh tế mới, quan niệm của ông về đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần khi thực hiện chính sách kinh tế mới về việc sử dụng Chủ nghĩa tư bản nhà nước, thực hiện chính sách tự do buôn bán, kinh doanh trên cơ sở của mối quan hệ hàng tiền với sự điều tiết của nhà nước. Với cơ sở lý luận đó, với thực tiễn của hơn 10 năm đổi mới đất nứơc theo định hướng xã hội chủ nghĩa và cụ thể hoá Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới,phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2020.
Vận dụng chính sách kinh tế mới ở nước ta hiện nay chỉ có thể thành công trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đồng thời đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phải đi theo con đường phát triển rút ngắn với hình thức quá độ gián tiếp mà lịch sử đã quy định. Vận dụng chính sách kinh tế mới ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải những tư tưởng cơ bản của V.I.Lê-nin về chính sách kinh tế mới, từ chiều sâu của tư duy lý luận triết học- kinh tế của ông và phải được đặt trên cơ sở thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo địng hướng xã hội chủ nghĩa, lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
3.1. Vận dụng quan hệ hàng -tiền trong đổi mới cơ chế quản lý ở cơ sở - kinh tế nhà nước.
Cơ chế quản lý ở cơ sở thật sự mở đầu hướng đi đúng đắn từ khi có Nghị quyết ( dự thảo) 06 củ Bộ Chính trị. Đến Nghị quyết 3 của Ban chấp hành Trung ương trong Đảng ( khoá VI) đã đặt ra vấn đề bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh với tư cách là người sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa".
Quan điểm của Đảng ta là chuyển các đơn vị cơ sở của nền kinh tế sang sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chống kiểu kinh doanh tuỳ tiện theo xu hướng vô chính phủ.
Quan điểm đó tạo ra thuận lợi cho việc vận dụng quan hệ hàng- tiền và đòi hỏi vận dụng các quan hệ ấy theo nội dung mới của nó trong cơ cấu nhiều thành phần, trong đó kinh tế xã hội chủ nghĩa đóng vai trò chủ đạo.
Trong thời gian trước mắt, cần vận dụng quan hệ hàng-tiền trên mấy mặt chủ yếu sau đây:
a. Trước hết là vấn đề thiết lập tính kế hoạch, tính tổ chức trong hoạt động sản xuất ở cơ sở, gắn với nhu cầu xã hội và điều kiện thị trường. Đây là những yêu cầu bình thường của bất cứ đơn vị sản xuất hàng hoá nào. Quyền chủ động sản xuất kinh doanh chỉ bắt đầu từ đó. Trong khi các điều kiện tái sản xuất còn thiếu thốn, quan hệ kinh tế còn rối ren, thì cần có những chỉ tiêu pháp lệnh và hướng dẫn nhằm tạo thuận lợi cho việc phát huy quyền chủ động của cơ sở. Đây là những bước quá độ . Qúa trình giảm dần các chỉ tiêu pháp lệnh và sử dụng các hình thức như đơn đặt hàng của nhà nước và các đơn vị khác, sử dụng phương pháp đấu thầu và các đòn bẩy kinh tế khác sẽ tăng lên cùng với mức trưởng thành tính tự chủ sản xuất của các cơ sở.
b. Cần vận dụng quy luật giá trị trong việc xác định chi phí sản xuất sản phẩm theo hướng khai thác tiềm năng tổ chức sản xuất ngày càng hợp lý, vận dụng tiến bộ kỹ thuật nhanh hơn, sử dụng các định mức tiến bộ cho phép tiết kiệm chi phí vật chất và lao động, cho phép tạo ra sản phẩm với chất lượng cao, giá thành hạ, cho phép với vốn sản xuất nhất định có thể tạo ra khối lượng hàng hoá nhiều hơn. Đó là đòi hỏi của quy luật giá trị trong sản xuất đồng thời là con đường để đơn vị cơ sở có thu nhập và đóng góp nghĩa vụ ngày càng tăng, có điều kiện cải thiện đời sống người lao động, có khả năng tự phát triển ngày càng lớn.
c. Việc vận dụng quy luật giá trị trong sản xuất ở cơ sở đòi hỏi phải chủ động được nguồn vật tư, nguyên liêu, năng lượng. Riêng vật tư cho xí nghiệp có hai nguồn. Nguồn vật tư nhà nứơc, cần chuyển sang kinh doanh, tiến tới nhà nước hoàn toàn không bù lỗ. Cần xoá bỏ chế độ cấp phát vật tư nhà nước. Trong điều kiện vật tư không đủ, cần phải phân phối theo các mục tiêu ưu tiên của kế hoạch nhà nước với giá cả bảo đảm kinh doanh. Chỉ bù lỗ trong một số ít trường hợp và tạm thời.Vật tư xí nghiệp mua từ thị trường cố nhiên phải chấp nhận giá cả thị trường.
Mối quan hệ hạch toán giá cả của hai nguồn vật tư trong chi phí sản xuất là một vấn đề cần được nghiên cứu để xí nghiệp có lợi và góp phần cải thiện giá cả sản phẩm.
Không thể bàn riêng rẽ từng mặt một, mà phải đặt các mối quan hệ đó trong yêu cầu của kinh tế hàng hoá có kế hoạch, với bước đi thích hợp đồng bộ.Xem xét vấn đề dưới góc độ thực tiễn, việc vận dụng quan hệ hàng -tiền trong đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về kinh tế có mấy nội dung chủ yếu sau đây:
a. Vấn đề đầu tiên hiện nay là cần phân biệt rõ chức năng quản lý kinh doanh của các đơn vị kinh tế với chức năng quản lý nhà nứơc về kinh tế. Có làm rõ sự phân công này thì việc vận dụng quan hệ hàng- tiền mới đi đúng hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn phân biệt các chức năng này cần có sự nghiên cứu tổng kết thực tiễn quản lý và đổi mới công tác kế hoạch hoá của nhà nước.
b. Thực tiễn quản lý nước ta trước mắt đang đòi hỏi nhà nước vận dụng tính quy luật "thương nghiệp là mắt xích đặc biệt" trong dây truyền quản lý. Giải quyết vấn đề thương nghiệp nước ta, không chỉ là để thúc đẩy các đơn vị cơ sở chuyển sang cơ chế mới mà còn là yêu cầu chính trị - kinh tế. Trong điều kiện nước Nga Xô-viết đầu những năm 20. Lê-nin đã chỉ rõ:"Cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội chưa có. Cơ sở đó ở đâu?. Trong việc trao đổi hàng hoá với nông dân".
ý nghĩa đặc biệt của việc giải quyết vấn đề thương nghiệp nước ta là tổ chức việc trao đổi hàng hoá đúng đắn giữa nông nghiệp với công nghiệp, giữa thành thị với nông thôn, tạo ra bước đầu cơ sở kinh tế phù hợp với yêu cầu củng cố nhà nước. Nhiều đơn vị điển hình trong thương nghiệp ( như công ty lương thực thành phố Hồ Chí Minh, công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Seaprodex,vv... ) cung cấp những kinh nghiệm tố trong việc giải quyết vấn đề giá cả, hợp đồng, lợi nhuận, cung ứng vật tư, vv... Tổng kết kinh nghiệm đó là căn cứ để chúng ta cải tổ lại lĩnh vực thương nghiệp. Không tiến hành sự cải tổ này thì mọi yêu cầu chính trị và kinh tế trong cơ chế quản lý mới không thực hiện được.
c. Xây dựng chính sách quốc gia theo quan điểm kinh tế hàng hoá có kế hoạch. Đây là tiền đề cho mọi cải cách. Lê-nin đã chỉ rõ rằng:" Bất kể thế nào, chúng ta cũng phải thực hiện bằng được những cải cách vững chắc về mặt tài chính, nhưng chúng ta nên nhớ rằng nếu chính sách tài chính của chúng ta không thu được thắng lợi thì mọi cải cách triệt để của chúng ta cũng sẽ thất bại". Lê-nin đòi hỏi phải có quan điểm tập trung tài chính, vì lợi ích người lao động, Lê-nin nói:" Tôi coi chế độ tập trung là một đảm bảo tối thiểu nhất định cho quần chúng lao động". Chế độ tập trung tài chính không mâu thuẫn với quyền chủ động và óc sáng kiến của các địa phương, vì nó dựa trên các nguyên tắc tài chính xã hội chủ nghĩa - cơ sở của sự vận dụng quan hệ hàng - tiền vào lĩnh vực này.
3.2. Những điểm mới trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
a. Về các ưu đãi liên quan địa bàn đầu tư nước ngoài.
Trong LSĐ ( điểm 2 đoạn 2 điều 3) các từ "miền núi, vùng sâu, vùng xa" không được đưa vào danh mục địa bàn ưu tiên, nhưng không có nghĩa là những vùng đó không được khuyến khích đầu tư nước ngoài, mà ở đây chúng ta cần hiểu rằng nếu các vùng đó thuộc diện " Địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn " thì sẽ thuộc địa bà được áp dụng chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài.
b. Về nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh.
Như vậy, LSĐ ( khoản 1 Điều 14) đã thu hẹp phạm vi các vấn đề bắt buộc các bên phải giải quyết theo nguyên tắc nhất trí tại hội đồng quản trị của doanh nghiệp ( bỏ các vấn đề: bổ nhiệm, miễn nhiệm kế toán trưởng, duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình, vay vốn đầu tư).
Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao lại thu hẹp lại như vậy? Nếu chúng ta so sánh Luật 1996 với Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 về vấn đề trên thì thấy răng bản thân Luật 1996 đã thu hẹp các vấn đề bắt buộc các bên phải giải quyết theo nguyên tắc nhất trí hoàn toàn. Việc sửa đổi lần này theo hướng như vậy xuất phát từ các nguyên nhân sau:
+ Đảm bảo cho việc giải quyết các vấn đề phù hợp voí quy luật phổ biến của kinh tế thị trường : ai bỏ vốn lớn hơn, người đó có quyền quyết định nhiều hơn;
+ Đảm bảo cho sự xích lại gần nhau giữa các quy định của Luật đầu tư nước ngoài với các quy định tương ứng trong pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trong nước ( chẳng hạn theo Luật doanh nghiệp 1999 những vấn đề quan trọng nhất của doanh nghiệp phải được hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc tỷ lệ góp vốn của các bên).
+ Tạo môi trường đầu tư nước ngoài hấp dẫn hơn ( các nhà đầu tư nước ngoài thường ưa thích nguyên tắc giải quyết theo tỷ lệ vốn hơn là nguyên tắc nhất trí).
c. Về việc chuyển đổi hình thức doanh nghiệp
Việc bổ xung phần này xuất phát từ các nguyên nhân sau: 1/ việc chuyển đổi các hình thức doanh nghiệp là nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường hiện nay;2/ việc mở rộng các hình thức chuyển đổi như vậy đáp ứng tinh thần của Luật Doanh nghiệp 1999 về vấn đề này; 3/ tạo ra môi trường đầu tư nước ngoài thông thoáng hơn ( các nhà đầu tư nước ngoài có nhiều cơ hội hơn trong việc thay đổi phương án kinh doanh trong quá trình đang đầu tư tại Việt Nam).
d. Về biện pháp đảm bảo đầu tư nước ngoài khi có thay đổi của pháp luật.
Các biện pháp đảm bảo cho hoạt động đầu tư nước ngoài khi có sự thay đỏi của pháp luật theo LSĐ ( điều 21) được xác định rõ ràng trong Luật, chứ không phải quy định theo cách giao phó cho các cơ quan có thẩm quyền tuỳ cơ ứng biến như trước ( theo luật 1996: Nhà nước có biện pháp giải quyết thoả đáng đối với quyền lợi của nhà đầu tư). Các biện pháp đảm bảo rõ ràng như được quy định trong LSĐ sẽ làm an tâm nhà đầu tư hơn khi họ có nguy cơ bị xáo động kế hoạch kinh doanh do có sự thay đôỉ của pháp luật.
e. Về quyền sử dụng ngoại tệ.
LSĐ ( điều 33) sửa đổi, bổ xung theo hướng; mở rộng quyền mua ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên hợp đồng tacs kinh doanh , so với trước họ đã có thêm quyền mới- quyền mua ngoại tệ tại ngân hàng thương mại để đáp ứng cho các giao dịch vãng lai và các giao dịch được phép khác theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối; Mở rộng phạm vi bảo đảm cân đối ngoại tệ từ phía Chính phủ Việt Nam cho các nhà đầu tư nước ngoài- Chính phủ bảo đảm cân đối ngoại tệ cho những dự án đặc biệt quan trọng đầu tư theo chương trình của chính phủ trong từng thời kỳ và bảo đảm hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho một số dự án quan trọng khác.
f. Về việc chuyển nhượng vốn
Thứ nhất, nếu Luật 1996 quy định doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có quyền chuyển nhượng vốn của mình, nhưng phải ưu tiên cho các bên Việt Nam, thì LSĐ bỏ việc ưu tiên này; thứ hai, nếu Luật 1996 quy định trường hợp chuyển nhượng cho bên Việt Nam thì được giảm hoặc miễn thuế lợi tức thì LSĐ cũng loại bỏ sự khác biệt đó.
g. Về việc mở tài khoản ở ngân hàng nước ngoài.
Nếu Luật 1996 chỉ quy định cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép mở tài khoản vốn vay taị ngân hàng ở nước ngoài, thì LSĐ quy định quyền mở tài khoản không chỉ với vốn vay mà là tài khoản nói chung.
h. Về thuế.
Nếu như Luật 1996 chỉ quy định quyền chuyển lỗ sang các năm tiếp theo đối với doanh nghiệp liên donah thì LSĐ quy định quyền này áp dụng cho không chỉ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và cả bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh.
LSĐ( Điều 41) đã bỏ quy định mức % doanh nghiệp liên doanh phải trích từ lợi nhuận hàng năm của mình để lập quỹ dự phòng ( 5%) và quy định mức giới hạn của quỹ đó ( 10% vốn pháp định của doanh nghiệp). Thay vào đó LSĐ giao quyền tự chủ nước ngoài trong việc quyết định các vấn đề đó. Điều này rõ ràng phù hợp hơn với quy luật kinh tế thị trường so với cách quy định trước đó : các doanh nghiệp cần có quyền chủ động trong lĩnh vực tài chính trừ các nghĩa vụ tài chính với nhà nước. Theo LSĐ ( Điều 43) mức thuế mà nhà đầu tư nước ngoài phải nộp khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thấp hơn so với Luật 1996 ( 3%,5%,7% của LSĐ so với 5%,7%,10% của Luật 1996).
4. Thành tựu và những mặt hạn chế sau những năm đầu đổi mới.
4.1. Những thành tựu bước đầu.
Sau những năm đầu đổi mới, nước ta đã tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội. Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giầu tăng lên số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao động có việc làm. Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng ở cả nông thôn và thành thị.
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hoá gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ.
Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong việc tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã từng bước cụ thể hoá đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội; đã ban hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ xung và ban hành mới nhiều văn bản pháp luật quan trọng, tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà nước, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hoá được phát huy. Các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc đoàn kết, gắn bó trong sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đồng bào ta ở nước ngoài cũng ngày càng hướng về quê hương vì đại nghĩa ấy.
Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá. Khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc, tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào; xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức ASIAN; củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống với nhiều nước, từng bước đổi mới quan hệ với Liên Bang Nga, các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập và các nước Đông Âu.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
4.2. Khuyết điểm và yếu kém.
Cùng với việc đánh giá đúng thành tựu, cần nhận rõ những khuyết điểm và yếu kém. Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dụng, dồn vốn cho đầu tư phát triển. Đến nay nước ta vẫn còn là một trong những nứơc nghèo nhất trên thế giới; trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất- kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều. Trong khi nhu cầu vốn đầu tư phát triển rất lớn và cấp bách, một số cơ quan nhà nước, đảng, đoàn thể, tổ chức kinh tế, một bộ phận cán bộ và nhân dân lại tiêu xài lãng phí, quá mức mình làm ra, chưa tiết kiệm để dồn vốn vào đầu tư phát triển. Nhà nước còn thiếu chính sách để huy động có hiệu quả nguồn vốn trong dân. Sử dụng nguồn lực còn phân tán, kém hiệu quả, chưa kiên quyết tập trung cho các chương trình, dự án kinh tế- xã hội cấp thiết.
Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa được ngăn chặn. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước, đảng và đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh vự nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu và cả trong hoạt động của nhiều cơ quan thi hành pháp luật,... nghiêm trọng kéo dài.
Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buồng lỏng. Chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước làm chậm. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, để hợp tác xã ở nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, cản trở sản xuất phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kinh tế này. Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài có nhiều sơ hở.
Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị, xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình. Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất, đạo đức, sức chiến đấu của một số bộ phận tổ chức cơ sở đảng suy yếu.
5. Những giải pháp nhằm áp dụng NEP có hiệu quả ở Việt Nam.
5.1. Xây dựng tư duy lý luận và quan điểm lý luận đúng đắn.
Xây dựng tư duy lý luận và quan điểm lý luận đúng đắn về chủ nghĩa xã hội hiện thực và về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện lịch sử - cụ thể. Mọi người đều biết nguyên lý: " Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng". Chúng ta đã có lý luận Mác_Lê-nin làm nền móng và kim chỉ nam cho hành động. Nhưng lý luận đó phải thông qua sự vận dụng của các cơ quan lãnh đạo Đảng và nhà nước. Khâu vận dụng đầu tiên và quan trọng nhất là hình thành tư duy lý luận và quan điểm lý luận đúng về sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của đất nước. Đây là bước tích luỹ tiềm năng lãnh đao và phòng bệnh " chủ quan duy ý chí" ngay từ gốc. Việ hình thành tư duy lý luận và quan điểm lý luận đúng chỉ có thể bằng con đường duy nhất là căn cứ vào lý luận Mác_Lê-nin mà phân tích thực tiễn thời kỳ quá đô, những nội dung của chặng đường, những điều kiện bảo đảm thắng lợi của cách mạng.
Lê-nin đã cho ta một kiểu mẫu về xây dựng tư duy lý luận và quan điểm lý luận như thế. Điều kiện lịch sử cụ thể mà chủ nghĩa xã hội ra đời ở nước Nga khôn hoàn toàn giống như lý luận C. Mác đã phân tích. Là một nhà khoa học, Lê-nin không bỏ qua lý luận khoa học của C. Mác, mà vận dụng và phát triển lý luận đó vào điều kiện mới. Từ đó, Người đã rút ra quan điểm lý luận và đã nêu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực và đã nêu ra trong báo cáo về việc thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa, bằng thuế lương thực ngày 15-3-1921 tại Đại hội Đảng lần thú X. Đó là quan điểm lý luận về thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trong một nước nông nghiệp lạc hậu phải trải qua một loạt những bước quá độ đặc biệt. Đó là quan điểm lý luận về hai điều kiện bảo đảm thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong một nước nông nghiệp sản xuất nhỏ.
5.2. Vận dụng tư duy lý luận - chính trị vào hoạt động thực tiễn.
Hình thành tư duy lý luận - chính trị là một bước quan trọng, nhưng chỉ mới tạo ra tiềm năng của hoạt động lãnh đạo - quản lý. Phải biến tiềmnăng tư duy khoa học đó thành hiệu quả lãnh đạo - quản lý thông qua vận dụng tư duy ddó vào nghiên cứu chính sách, chủ trương, vào tổ chức thực tiễn ở một vị trí nhất đình, trong mối liên hệ với toàn bộ hệ thống hoạt động của Đảng, nhà nước và quần chúng.
Muốn vận dụng có hiệu quả, phải dựa vào các nguyên tắc nhất định, coi như là chuẩn mực và định hướng của quá trình đi từ tư duy trừu tượng đến tổ chức thực tiễn. Trong thực trạng nước ta hiện nay, vận dụng tư duy lý luận - chính trị vào thực tiễn, cần được chú ý mấy mặt sau đây:
Một là, đánh giá tình hình, thực trạng kinh tế- xã hội theo nguyên tắc Lê-nin-nit. Hiệu quả của lãnh đạo- quản lý, trước hết phụ thuộc vào đánh giá tình hình mang tính nguyên tắc. Đó là phương pháp phân tích mâu thuẫn kinh tế - xã hội - cách nhìn thẳng vào sự thật, theo đúng nghĩa của nó. Chỉ có cách đó, mới giúp cho cơ quan lãnh đạo nắm vững thực chất của mối quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội giữa các giai cấp và tầng lớp, được phản ánh trong nghị quyết cùng với việc giải pháp từ đó ra. Lê-nin chỉ rõ:" Sức mạnh của chúng ta là ở chỗ, chúng ta đã đánh giá một cách tuyệt đối rõ rệt và sáng suốt tất cả những lực lượng giai cấp hiện có ở Nga, cũng như trên quốc tế". Cách đánh giá tình hình đó khác hẳn với cách đánh giá chỉ nêu ra ưu điểm và khuyết điểm, thuận lợi và khó khăn, mà từ đó thường rút ra kết luận muôn thuở là phát huy ưu điểm và thuận lợi, khắc phục khó khăn và khuyết điểm, biểu hiện tư duy theo lối mòn, theo quán tính chủ quan duy ý chí.
Hai là, trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương pháp phân tích mâu thuẫn, còn phải vận dụng phương pháp xem xét hệ thống, từ đó đề ra những biện pháp đồng bộ và có trọng điểm như một cơ chế, trong đó có mắt xích đặc biệt cần nắm chắc để chuyển biến tình hình theo hướng tích cực. Chính Lê-nin đã sử dụng hai phương pháp trên để xem xét vấn đề đời sống giai cấp công nhân và khôi phục công nghiệp trong mối quan hệ yêu cầu trao đổi giữa công nghiệp với nông nghiệp. Người đã chỉ ra thương nghiệp là mắt xích cần đem toàn lực ra để nắm lấy.
Hai phương pháp nói trên không thể tách rời trình độ tư duy lý luận - chính trị,mà là một thể thống nhất trong việc hình thành tư duy đúng và vận dụng có hiệu quả vào hoạt thực tiễn. Để vận dụng các nội dung và phương pháp nói trên, còn đòi ở người lãnh đạo các phẩm chất sau đây:
Ba là, thực hiện nguyên tắc tính thống nhất giữa tư duy và hành động, nói và làm. Đây là bước " chuyển hoá năng lượng" , từ sức manh tiềm tàng của tư duy khoa học thành nghị lực sắt đá, quyết tâm cao trong hành động tổ chức thực tiễn. Chính ở bước này mới kiểm tra được sự đúng đắn của tư duy. Bước chuyển này phân biệt phẩm chất của người cộng sản với người cách mạng tiểu tư sản. Khác với thói quen do dự, nửa vời của ngừơi cách mạng tiểu tư sản trước khó khăn phức tạp của đời sống thực tế, người cộng sản có được một niềm tin vào chân lý nên họ có đủ sức mạnh và tình kiên định tiến tới mục đích. Uy tín của Đảng và mỗi đảng viên, rút cục là ở kết qủa của hành động đúng như lời dạy của người thầy cách mạng vô sản " không ai có thể làm mất uy tín của ngưòi cộng sản trừ phi họ tự làm mất uy tín của mình".
Bốn là, đối với một tổ chức, một tập thể, việc vận dụng tư duy mới, quan điểm mới đã thể hiện trong chính sách, nghị quyết, phải đi đôi với công tác tổ chức cán bộ. Bộ máy hành động và người cán bộ chủ chốt phải phù hợp với tư duy và quan điểm mới thì mới bảo đảm nguyên tắc thống nhất tư duy và hành động. Cũng như đối với mỗi người cộng sản, đây xũng là bước kiểm tra tổ chức Đảng về tính tiên phong và tính giai cấp của nó, khắc phục ảnh hưởng tiểu tư sản vốn nặng nề ở một nước nông nghiệp lạc hậu. Lê-nin nói: " Chỉ có đội tiên phong vô sản dầy dặn là có thể đứng vững và chống lại được mọi sự do dự".
C. Kết luận.
1. Tổng hợp về chính sách kinh tế mới (NEP).
Tóm lại, trong quan niệm của V.I. Lê-nin, chính sách kinh tế mới là "một phương sách xử lý mới trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa", là bước lùi, là sự "rút lui có tính chất chiến lược", lùi bước hay rút lui cho tới khi đã chuẩn bị kỹ lưỡng, đã đủ sức để chuyển sang một cuộc tiến công vững chắc". Chính sách kinh tế mới không phải là sự " đi chệch" khỏi con đường xã hội chủ nghĩa, không phải là " sự đầu hàng" trước giai cấp tư sản. Chính sách kinh tế mới là một sự thay đổi tất yếu, hợp lý và mềm dẻo, linh hoạt, là sự thay đổi thận trọng, từng bước, song hết sức cần thiết khi bối cảnh lịch sử đã có những thay đổi mang tính bước ngoặt.
Chính sách kinh tế mới không chỉ có ý nghĩa lớn lao với nước Nga. Nó còn có ý nghĩa quốc tế và trong bối cảnh của công cuộc cải tổ, đổi mới chủ nghĩa xã hội hiện nay, nó vẫn là cái cần thiết, mang tính thời sự. Những tư tưởng cơ bản của V.I.Lên-nin về chính sách kinh tế mới vẫn là những chỉ dẫn lý luận cần thiết, kinh nghiệm bổ ích cho các nước đang trong giai đoạn thực hiện bước quá độ gián tiêp lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có nước ta.
Với sự nhận thức hết sức rõ ràng và đúng đắn về ý nghĩa quốc tế và tính thời sự của chính sách kinh tế mới, Đảng ta đã khẳng định việc vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lên-nin về chính sách kinh tế mới, nhất là quan niệm của ông về Chủ nghĩa tư bản nhà nước là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc sáng tạo ra những hình thức quá độ những nấc thang trung gian phù hợp với bối cảnh của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
2. Bài học và kinh nghiệm.
Thực tiễn của những năm tiến hành công cuộc đổi mới ở nước ta vừa qua đã cho thấy hiệu quả của việc sử dụng quy luật giá trị và quan hệ hàng- tiền trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất, phát triển kinh tế, đồng thời cho thấy rõ việc sử dụng chúng là đặc trưng không thể thiếu của cơ chế quản lý kinh té mới mà chúng ta đang ra sức xây dựng. Bởi vậy, hiện nay, vấn đề đặt ra với chúng ta là nhận thức đúng đắn và vận dụng có hiệu qủa hơn nữa quy luật giá trị và quan hệ hàng - tiền trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và theo tư tưởng của V. I. Lênin khi thực hiện chính sách kinh tế mới, là tiến hành việc nhà nước điều tiết những mối quan hệ đó sao cho không phải là thủ tiêu chúng, mà là phát triển chúng theo hướng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, khi sử dụng quy luật giá trị và quan hệ tiền - hàng, chúng ta không chỉ phải tính đến những đặc thù của nền kinh tế nước ta, mà còn phải tính đến trình độ phát triển của nền kinh tế đó, tính đến định hướn xã hội chủ nghĩa của nó.
Vận dụng chính sách kinh tế mới ở nước ta hiện nay chỉ có thể thành công trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đồng hời đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phải đi theo con đường phát triển rút ngắn, với hình thức quá độ gián tiếp mà lịch sử đã quy định.
Vận dụng chính sách kinh tế mới ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải nắm vững những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về chính sách kinh tế mới, từ chiều sâu của tư duy lý luận triết học - kinh tế của ông và phải được đặt trên cơ sở thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy viẹc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Tài liệu tham khảo
1. Chính sách kinh tế mới và điều kiện vận dụng nó vào Việt Nam - Lênin.
2. Bàn về thuế lương thực toàn tập - NXB. Thống kê
3. Tạp chí Kinh tế và Phát triển
4. Văn kiện Đại hội V, VI, VII, VIII, IX.
5. Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12/2002.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35392.doc