Chính sách lãi suất là công cụ điều hành vĩ mô trong nền kinh tế. Để phát huy tính tích cực và hạn chế những tác động bất lợi trong quá trình điều hành đòi hỏi các nhà lập chính sách cũng như thực thi nó trong mối quan hệ tổng hoà với các chính sách khác và các điều kiện của môi trường kinh doanh luôn biến động phải có những quyết định điều chỉnh phù hợp kịp thời. Chính sách lãi suất phù hợp có vai trò rất lớn trong hoạt động kinh tế xã hội nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập.
28 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 840 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập với cộng đồng quốc tế là tiến trình được ưu tiên hàng đầu của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Việc mở cửa và tự do hoá thương mại hoàn toàn, tiến tới tự do hoá tài chính trong khuôn khổ các chế tài kiểm soát chặt chẽ theo hướng thị trường có sự điều tiết chặt chẽ của Nhà nước là bước quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển nền kinh tế, góp phần đưa đất nước hoà nhập với sự phát triển chung của khu vực và quốc tế. Do vậy xử lí bài toán lãi suất và điều hành chính sách lãi suất được xem là vấn đề hết sức nhạy cảm được hầu hết các nước đang phát triển quan tâm, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hiện nay điều hành chính sách lãi suất đang là vấn đề phực tạp, khó khăn và cấp bách, nhằm mục tiêu thúc đẩy kinh tế, phát huy vai trò đòn bẩy của lãi suất, góp phần tạo ra dịch chuyển trong cơ cấu đầu tư và thương mại theo hướng tự do hoá và xác lập cạnh tranh tương đối bình đẳng về lãi suất giữa các nhà kinh doanh tiền tệ, tiến tới một hệ thống tài chính tiền tệ và ngân hàng hoàn thiện, lành mạnh, đảm bảo thành công chính sách tiền tệ vĩ mô
Lãi suất ngân hàng là phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, vừa là công cụ điều hành vĩ mô của Ngân hàng thương mại. Một chính sách lãi suất có hiệu quả là chính sách được áp dụng nhất quán trong một lãnh thổ và được ngân hàng Nhà nước điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo từng thời kỳ cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn nhằm thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng phục vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời đảm bảo được cho hoạt động của các ngân hàng Thương mại hoạt động thực sự có hiệu quả.
Thực tế chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thập kỷ 90 có phát huy được hiệu quả hay không, nó tác động đến cơ cấu tiêu dùng và tiết kiệm của xã hội như thế nào... Đây là vấn đề quan trọng cần xem xét để từ đó điều hành chính sách lãi suất hiệu quả hơn, phát huy tối đa hiệu quả công cụ lãi uất của chính sách tiền tệ trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước ta hiện nay.
Nội dung
A/Tìm hiểu chung về lãi suất:
Khái niệm lãi suất:
Khái niệm lãi suất:
Khi sử dụng bất kỳ khoản lãi suất nào, người vay cũng trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỷ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn ban đầu gọi là lãi suất. Vậy lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó.
Lãi suất phải được trả bởi lẽ người đi vay đã sử dụng vốn của người cho vay để phục vụ nhu cầu sinh lợi trong sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng của mình. Việc người cho vay chuyển quyền sử dụng vốn cho người khác có nghĩa là anh ta đã hy sinh quyền sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của mình.
Trong nền kinh tế thị trường người đi vay cũng như người cho vay có thể là doanh nghiệp cá nhân hộ gia đình, Chính phủ hoặc có thể là người nước ngoài. Đối với người đi vay lãi suất tạo nên khoản chi phí làm giảm lợi nhuận, còn đối với người cho vay lãi suất là một nguồn thu nhập. Vì vậy sự diễn biến của lãi suất trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi chủ thể kinh tế, nó tác động đến quyết định của các doanh nghiệp, các cá nhân, các hộ gia đình như chi tiêu hay tiết kiệm, mua bất động sản hay mua trái phiếu...
Phân loại lãi suất:
Căn cứ vào thời hạn tín dụng lãi suất được chia thành ba loại:
Lãi suất ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn.
Lãi suất trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn
Lãi suất tín dụng dài hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn.
Căn cứ vào các loại hình tín dụng lãi suất được chia thành 4 loại:
Lãi suất tín dụng thương mại áp dụng khi các doanh nghiệp cho vay dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Loại lãi suất này được tính bao hàm trong tổng giá cả hàng hoá bán chịu. Lãi suất này được tính như sau:
Giá cả hàng _ Giá cả hàng hoá
bán chịu trả ngay
Lãi suất TDTM =
Giá cả hàng hoá bán chịu
Lãi suất tín dụng ngân hàng: áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay trong hoạt động tái cấp vốn của ngân hàng Trung ương cho các ngân hàng và trong quan hệ giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường liên ngân hàng. Phân biệt khái niệm lãi suất tín dụng ngân hàng theo quan hệ kể trên như sau:
Lãi suất tiền gửi là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi. Nó được áp dụng để tính lãi phải trả cho người gửi tiền. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi và qui mô tiền gửi.
Lãi suất tiền vay là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn vay của ngân hàng. Nó được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả ngân hàng. Về mặt nguyên tắc mức lãi suất tiền vay bình quân phải cao hơn mức lãi suất tiền gửi bình quân và có sự phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn khác nhau cũng như mức rủi ro khác nhau.
Lãi suất chiết khấu áp dụng khi ngân hàng cho vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Như vậy nếu xét trong quan hệ giữa ngân hàng voéi người vay chiết khấu , lãi suất chiết khấu được trả trước cho ngân hàng chứ không trả sau như lãi suất thông thường.
Lãi suất tái chiết khấu áp dụng khi ngân hàng Trung ương tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấu tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toáncủa các ngân hàng. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi ngân hàng Trung ương cấp tiền vay cho ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu thường nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong trường hợp cần hạn chế mở rộng tín dụng của hệ thống ngân hàng nhằm kiềm chế đẩy lùi lạm phát, ngân hàng Trung ương có thể ấn định lãi suất tái chiết khấu bằng hoặc cao hơn lãi suất chiết khấu của hệ thống ngân hàng.
Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng thường được ấn định hàng ngày vào mỗi buổi sáng. Nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu tiền trung ương của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn của ngân hàng Trung ương. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào phát triển của hoạt đông thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay ngân hàng Trung ương của các tổ chức tín dụng.
Lãi suất cơ bản là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình.
Lãi suất tín dụng Nhà nước áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu. Loại lãi suất này có thể do nhà nước ấn định căn cứ vào lãi tiền gửi tiết kiệm của các ngân hàng và một số yếu tố khác như: sự biến động của lạm phát , nhu cầu cấp thiết về vốn của Nhà nước...
Lãi suất tín dụng tiêu dùng áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Mức lãi suất tín dụng tiêu dùng thường cao hơn lãi suất tín dụng ngân hàng và lãi suất tín dụng Nhà nước.
Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất, chia thành 2 loại:
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa thường được thông báo chính thức trong các quan hệ tín dụng
Lãi suất thực tế là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về lạm phát. Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát. Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát nên lãi suất thực phản ánh chính xác hơn thu nhập từ việc cho vay cũng như chi phí thật của việc vay tiền.
Căn cứ mức độ ổn định của lãi suất được chia thành 2 loại:
Lãi suất cố định là lãi suất được áp dụng trong suốt thời hạn vay.
Lãi suất thả nổi là lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có thể báo cáo trước hoặc không báo trước.
Căn cứ vào phương pháp tính lãi suất chia thành 2 loại
Lãi suất đơn được tính một lần trên số vốn gốc cho suốt kỳ hạn vay.
Lãi suất kép là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu được trong thời hạn sử dụng tiền vay.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất:
Phương pháp nhìn từ góc độ cung cầu quỹ tín dụng:
Cung cầu quĩ cho vay:
Cầu quĩ cho vay là nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc cho vay được cấu thành từ các bộ phận sau:
Nhu cầu vay của các doanh nghiệp và các hộ gia đình nhằm hình thành vốn đầu tư và trang trải các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi như lạm phát dụ tính, khả năng sinh lợi dự tính của các cơ hội đầu tư... nhu cầu vốn kinh doanh của các gia đình và của các hộ gia đình biến động ngược chiều với sự biến động của lãi suất.
Nhu cầu vay vốn của khu vực chính phủ nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Nhu cầu này độc lập với sự biến động của lãi suất.
Nhu cầu vay vốn của các chủ thể nước ngoài bao gồm các loại chủ thể như: DN , chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài chính trung gian nước ngoài. Nhu cầu vay vốn của các chủ thể này biến động ngược chiều với sự biến động của lãi suất.
Tóm lại: Cả 3 bộ phận trên tạo thành cầu quĩ cho vay. Cầu quĩ cho vay biến động ngược chiều với sự biến động của lãi suất và cầu quĩ cho vay là đường dốc xuống. Độ dốc càng thoải phản ánh lượng cầu quĩ cho vay càng nhạy cảm nhiều với lãi suất.
Cung quĩ cho vay là khối lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Nó được tạo bởi các nguồn sau:
Tiền gửi tiết kiệm của các hộ gia đình.
Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, nguồn tiết kiệm của các doanh nghiệp: dưới hình thức vốn KHCB, lợi nhuận chưa chia các quĩ khác chưa sử dụng...Nguồn này biến động cùng chiều với lãi suất tuy không nhạy cảm nhiều như nguồn trên. Nguồn tiền tiết kiệm của hộ gia đình và của các doanh nghiệp là hai nguồn chiếm phần lớn trong quĩ cho vay.
Các khoản thu chưa sử dụng đến của Ngân sách Nhà nước. Nguồn này không phụ thuộc vào lãi suất.
Nguồn vốn của các chủ thể nước ngoài có thể là Chính phủ, doanh nghiệp, dân cư nước ngoài. Sự biến động của nguồn vốn này cùng chiều với sự biến động của lãi suất.
Tóm lại: cung quĩ cho vay được tạo bởi 4 nguồn kể trên. Đường cung quĩ cho biểu diễn mối quan hệ giữa lãi suất và lượng cung là đường dốc lên. Độ dốc càng thoải thể hiện cung quĩ cho vay càng nhạy cảm với lãi suất.
Lãi suất i
StS
Cung và cầu quĩ cho vay cắt nhau tại điểm cân bằng làm hình thành nên lãi suất thị trường. Đó là mức lãi suất ở điểm cung quĩ cho vay bắng lượng cầu quĩ cho vay.
D
Quĩ cho vay
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất thị trường:
Nhân tố ảnh hưởng đến cầu quĩ cho vay:
Lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư tăng: cầu quĩ cho vay tăng, lãi suất tăng và ngược lại.
Lạm phát dự tính tăng: cầu quĩ cho vay tăng, lãi suất tăng và ngược lại.
Bội chi ngân sách Nhà nước tăng: cầu quĩ cho vay tăng, lãi suất tăng và ngược lại.
Nhân tố ảnh hưởng đến cung quĩ cho vay:
Thu nhập tăng: cung quĩ cho vay tăng, lãi suất giảm và ngược lại.
Tỷ suất lợi tức dự tính của các công cụ nợ tăng: cung quĩ cho vay tăng, lãi suất giảm và ngược lại.
Tính lỏng của công cụ nợ tăng: làm cầu công cụ nợ tăng, cung quĩ cho vay tăng, lãi suất giảm và ngược lại.
Trên thực tế các nhân tố ảnh hưởng đến cung và cầu quĩ cho vay tác động đến cả hai, không có tính riêng biệt hoàn toàn. Vì thế để dự đoán sự biến động của lãi suất cần nghiên cứu đầy đủ tác động qua lại này.
Phương pháp nhìn từ góc độ cung cầu tiền:
Cung - cầu tiền:
Mức cung tiền mà Keynes đề cập đến trong mô hình là M1. Thành phần M1 bao gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn có phát hành séc. M1 do ngân hàng Trung ương quyết định và được cố định cho mọi mức lãi suất. Vì mức cung tiền không thay đổi theo lãi suất nên đường cung tiền biểu diễn mối quan hệ giữâ lượng tiền và lãi suất là đường thẳng đứng.
Mức cầu tiền là lượng tiền mà các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân muốn nắm giữ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hiện tại và trong tương lai với giá cả và các biến số kinh tế khác cho trước. Như vậy cầu tiền tệ được tạo bởi nhu cầu tiền tệ của các doanh nghiệp, các tổ chức và các cá nhân. Lượng cầu tiền biến động ngược chiều với sự biến động của lãi suất vì vậy đường cầu về tiền là đường dốc xuống.
Đường cung và cầu cắt nhau tại điểm cân bằng làm hình thành nên mức lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tiền tệ:
Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền :
Thu nhập tăng: các chủ thể kinh tế muốn giữ thêm tiền làm nơi dự trữ giá trị đồng thời muốn chi tiền cho tiêu dùng nhiều hơn làm cầu tiền tăng, lãi suất tăng và ngược lại.
Mức giá cả tăng: sức mua giảm, người ta muốn giữ lượng tiền nhiều hơn để đảm bảo vẫn mua được lượng hàng hoá dịch vụ như trước, cầu tiền tăng, lãi suất tăng và ngược lại.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cung tiền:
Mức cung tiền MS: Sự thay đổi mức cung tiền do ngân hàng Trung ương quyết định biểu hiện khi ngân hàng Trung ương tăng cung ứng tiền thì lượng cung tiền tăng và ngược lại. Trong dài hạn, một sự tăng lên của lượng tiền cung ứng có thể dẫn đến lãi suất thị trường tăng.
B/ Chính sách lãi suất của Việt nam:
Chính sách lãi suất của việt nam trong thời gian qua:
Giai đoạn trước năm 1992 là thời kỳ lãi suất âm:
Chính sách lãi suất âm được duy trì trong suốt thời kỳ bao cấp và trong điều kiện mức lạm phát cao, mức lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi, lãi suất danh nghĩa nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát. Tình trạng này làm cho lãi suất không thể thực hiện được chức năng vốn có của nó. Lãi suất không còn là đòn bẩy kích thích nhu cầu gửi tiền của công chúng, phát huy tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và bảo đảm lợi nhuận cho ngân hàng. Trong giai đoạn này, mặc dù có nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 và hai pháp lệnh ngân hàng ngày 1/10/1990 tách hệ thống ngân hàng một cấp thành hai cấp, từng bước chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường. Nhưng do lạm phát còn ở mức độ rất cao nên chính sách lãi suất chưa thực hiện được lãi suất dương mà vẫn theo lãi suất âm. Ngân hàng Nhà nước qui định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và tiền vay để các ngân hàng thương mại thực hiện.
Giai đoạn cuối năm 1992 chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương:
Khi lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp, có điều kiện thực hiện chính sách lãi suất dương tức là lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động và lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát. Tháng 10/1992 ngân hàng Nhà nước bắt đầu từng bước thực hiện lãi suất dương và đến tháng 3/1993 thì thực hiện lãi suất dương hoàn toàn, nhưng ngân hàng vẫn qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể có sự phân biệt lãi suất giữa các thành phần kinh tế cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước thấp hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất cho vay ngắn hạn còn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm các tổ chức kinh tế.
Giai đoạn vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thê vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận:
Từ 1/10/1993 ngân hàng Nhà nước qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể vừa cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể (quyết định 184/QĐ-NH ngày 28/9/1993). Lãi suất giai đoạn này có 2 loại lãi suất cho vay doanh nghiệp Nhà nước 1,8%/tháng, lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh cao nhất 2,1%/tháng. Từ cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng đã cho vay theo lãi suất thoả thuận với tỷ lệ khá cao: từ 30% -60% dư nợ và đối tượng chịu lãi suất thoả thuận chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ nông dân, chủ yếu là khu vực phía nam và đồng bằng sông Cửu long cho vay lãi suất theo nhu cầu vốn ở nông thôn lớn hơn và chi phí hoạt động ngân hàng ở nông thôn cao hơn thì lãi suất cho vay sẽ cao hơn các khu vực khác. Thời kỳ cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất cao phổ biến là từ 0,7%-1%/tháng, cho nên hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính. Từ thực trạng này Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 8 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng đồng thời yêu cầu các ngân hàng thương mại phải tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay, đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động 0,35%/tháng. Đó là lý do chuyển sang giai đoạn thực hiện chính sách lãi suất trần.
Từ 1/1/1996 là giai đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất:
Ngân hàng Nhà nước điều hành theo chính sách lãi suất theo trần lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa của các ngân hàng thương mại. Trần lãi suất cho vay được qui định nhiều mức khác nhau, xuất phát từ đặc điểm có nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn khác nhau, nên qui định nhiều mức trần lãi suất cho vay khác nhau: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, cho vay trên địa bàn nông thôn, đến ngày 21/1/1998 chỉ còn 3 mức lãi suất bỏ mức lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn.
Vấn đề điều hành lãi suất cơ bản theo luật ngân hàng Nhà nước:
Luật ngân hàng Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998, tại điều 18 qui định “ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”. Nhưng đến ngày 2/8/2000 Ngân hàng Nhà nước mới được công bố và điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản. Vậy lãi suất cơ bản là lãi suất như thế nào, điều hành ra sao...
Lãi suất cơ bản:
Nội dung và yêu cầu của lãi suất cơ bản:
Lãi suất cơ bản là lãi suất do ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.
Nội dung lãi suất cơ bản bao gồm:
Lãi suất thực.
Tỷ lệ lạm phát.
Tỷ lệ chi phí bình quân của các ngân hàngthương mại.
Yêu cầu cho lãi suất cơ bản:
Phải phản ánh được nhu cầu tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế, trong đó phải phân biệt đâu là nhu cầu thực, đâu là nhu cầu đầu cơ để có khả năng chống đầu cơ ở thị trường tài chính đang là nguy cơ gây ra khủng hoảng tiền tệ kéo theo khủng hoảng kinh tế.
Phải thể hiện được chính sách của nhà nước dùng lãi suất để tác độnh tới kinh tế nói chung và tình hình tiền tệ nói riêng. Nhưng không phải là chính sách nặng nề thắt chặt tiền tệ như thời gian qua.
Phải tương thích với lãi suất các nước trong khu vực và rộng ra trên thế giới để vừa thu hút được vốn tín dụng từ bên ngoài, vừa không rơi vào những sai lầm chính sách như các nước bị khủng hoảng tiền tệ vào nanh vuốt của đầu cơ.
Lựa chọn loại lãi suất làm lãi suất cơ bản:
Chọn lãi suất vay tái cấp vốn (hoặc lãi suất tái chiết khấu) làm lãi suất cơ bản: Đây là lựa chọn chủ yếu của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tuy nhiên đối với Việt Nam hiện nay chưa được áp dụng vì một số lý do như: không phù hợp luật; nghiệp vụ tái chiết khấu của ngân hàng Nhà nước chưa phát triển; chưa có sự phôí hợp đồng bộ với các công cụ chính sách tiền tệ khác...
Chọn lãi suất tiền gửi tối đa: các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi mức khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất tiền vay cụ thể với cung cầu về vốn. Thực chất của lãi cơ bản loại này là ngân hàng Nhà nước chỉ công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi suất cho vay thông qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản theo cách hiểu này có ưu điểm là tạo ra một bước tiến mới trong chính sách lãi suất, tiến tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn, là cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế , tạo ra khả năng cạnh tranh lớn hơn giữa các tổ chức tín dụng, giảm thiểu sự quản lý của Nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính. Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức tín dụng huy động với bất kỳ lãi suất nào bảo đảm an toàn hệ thống và bảo vệ lợi ích của người gửi tiền. Đồng thời lãi suất cơ bản loại này thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu vực lãi suất theo quan hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau như: lãi suất khu vực nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ chức tín dụng cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có qui mô và sức cạnh tranh lớn hơn như các ngân hàng thương mại quốc doanh và chi phí ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Muốn điều hành lãi suất cho vay một cách có hiệu quả thông qua việc khống chế lãi suất tiền gửi tối đa thì ngân hàng nhà nước sẽ phải kết hợp cả hai phương pháp điều hành trực tiếp và gián tiếp: điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp quyết định nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa tương ứng. Muốn hạ lãi suất cho vay thì hạ lãi suất tiền gửi tối đa và ngược lại. Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ tác động vào khối lượn vốn trên thị trường như : Ngân hàng nhà nước mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn của các tổ chức tín dụng (nghiệp vụ thị trường mở) ngân hàng nhà nước tái chiết khấu các loại chứng từ có giá (cửa sổ chiết khấu ) thị trường liên ngân hàng hoạt động có hiệu quả nhằm thực hiện ngân hàng Trung ương là người cho vay cuối cùng. Muốn điều hành khối lượng tiền bằng các công cụ gián tiếp có hiệu quả thì việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân ở mức độ khá phổ biến làm cho ngân hàng nhà nước kiểm soát được tổng phương tiện thanh toán ở mức độ cao. Tuy nhiên hiện nay các điều kiện trên ở nước ta chưa hội đủ, vì vậy khả năng kiểm soát và quản lý lãi suất cho vay sẽ rất hạn chế, chỉ còn mỗi một công cụ trực tiếp mà ngân hàng nhà nước có thể thực hiện được là nâng hạ lãi suất tiền gửi tối đa để theo đó mà nâng hoặc hạ lãi suất cho vay. Tuy nhiên, xét về cung cầu về vốn thì việc nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa trong điều kiện chưa có các công cụ gián tiếp phối hợp có thể tác động theo chiều nghịch, hạ lãiáuất tiền gửi cũng có thể làm cho vốn tín dụng huy động được ít, trở nên khan hiếm và lãi suất cho vay sẽ đắt lên và ngược lại. Vì vậy trong điều kiện hiện tại của nước ta khi chưa hội đủ các điều kiện như trên nếu thực hiện lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì có thể dẫn đến tình trạng: các tổ chức tín dụng sẽ nâng lãi suất cho vay lên cao để đạt được lợi nhuận cao, vì bản chất của cơ chế thị trường là lợi nhuận tối đa. Dự kiến mức lãi suất cho vay có thể lên đến 2,5%/tháng hoặc cao hơn, khi đó muốn điều hành qua lãi suất tiền gửi tối đa có thể kém hiệu lực và lãi suất cho vay có thể vẫn không thể hạ được theo ý muón và lại phải quay trở lại với cơ chế lãi suất cho vay tối đa. Bài học về lãi suất cho vay thoả thuận trước đây đã chứng minh điều đó lãi suất cho vay thoả thuận lên đến 3,5%/tháng, trong khi lãi cụ thể qui định là 1,8%/tháng, các tổ chức tín dụng thì có lãi lớn nhưng doanh nghiệp gặp khó khăn nên Quốc hội đã yêu cầu chính phủ và ngành ngân hàng hạ lãi suất và chính sách lãi suất trần ra đời từ đó để khống chế các tổ chức tín dụng cho vay lãi suất quá cao. Lãi suất cao nhưng các doanh nghiệp và các hộ sản xuất vẫn phải vay vì thiếu vốn sản xuất và vay để bù đắp các khoản nợ cũ đến hạn do cung về vốn ở nước ta luôn nhỏ hơn cầu, lợi nhuận thấp hơn chi phí trả ngân hàng sẽ dẫn đến nguy cơ cả doanh nghiệp và ngân hàng đều khó khăn và sẽ đến chỗ cả hai đều mất khả năng thanh toán. Đồng thời, nếu thực hiện lãi suất này thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu vực lãi suất theo cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau như: lãi suất khu vực nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ chức tín dụng cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có qui mô và sức cạnh tranh lớn hơn như các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Và như vậy sẽ giảm bớt tính lành mạnh của cạnh tranh và trong sự cạnh tranh này chắc chắn các tổ chức tín dụng lớn, có nguồn vốn lớn là các ngân hàng thương mại quốc doanh ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần quĩ tín dụng nhân dân sẽ gặp không ít khó khăn. Việc thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay ở khu vực núi cao, hải đảo sẽ khó có cơ sở để thực hiện, trong khi các đối tượng vay vốn thuộc các khu vực này chưa được tách bạch là đối tượng chính sách được vay theo chính sách riêng của nhà nước. Vì hiện tại việc giảm lãi suất miền núi cao được qui định giảm 30% trần lãi suất cùng loại do NHNN công bố. Vì vậy, khi NHNN xây dựng và củng cố thị trường tiền tệ, chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp sang kết hợp điều hành bằng công cụ trực tiếp với công cụ gián tiếp, đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động để mua bán các chứng khoán ngắn hạn của tổ chức tín dụng, thực hiện tái chiết khấu các chứng từ của các tổ chức tín dụng, củng cố và kiểm soát thị trường liên ngân hàng để thực hiện vai trò của Ngân hàng Trung ương là người cho vay cuối cùng, tiếp tục củng cố và mở rộng việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân, để trên cơ sở đó thực hiện một chính sách lãi suất cơ bản linh hoạt hơn trần lãi suất như công bố lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa có sự kiểm soát của Nhà nước bằng cả trực tiếp hoặc gián tiếp. Và sau quá trình thực hiện thành công lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì ta sẽ tiến hành thêm một bước nữa để tự do hoá lãi suất hoàn toàn khi đã có và chủ động về các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và các điều kiện khác về kinh tế và tiền tệ ổn định
Chọn lãi suất cho vay tối đa:
Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa có thể có nhiều loại như sau:
Lãi suất cơ bản là trần lãi suất cho vay: Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay trung bình của các tổ chức tín dụng trong điều kiện bình thường đủ bù đắp chi phí và có lợi nhuận và cộng hoặc trừ một biên độ dao động để các tổ chức tín dụng hoạt động trong điều kiện khó khăn hoặc thuận lợi hơn so với mức trung bình về chi phí và cung cầu về vốn để có điều kiện bù đắp chi phí và điều hoà cung cầu vốn huy động khi cần thiết.
Lãi suất cơ bản là mức lãi suất cho vay tối thiểu đủ bù đắp các chi phí và có lợi nhuận của các tổ chức tín dụng và cộng biên dộ dao động để các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi và tiền vay cụ thể. Trong các loại lãi suất cơ bản lãi suất cho vay tối đa trên đây thì trần lãi suất vẫn là loại lãi suất có nhiều tính ưu việt hơn, các loại lãi suất cộng hoặc trừ một viên độ dao động nhất định, thực chất là khống chế lãi cho vay tối đa nhưng kém linh hoạt hơn trần lãi suất do vừa bị khống chế trần trên vừa khống chế sàn dưới về lãi suất cho vay hoặc lãi suất tiền gửi giống như khống chế chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi bằng 0,35% tháng trước đây mà đã phải xoá bỏ từ đầu năm 1998. Trần lãi suất thể hiện được tính ưu việt so với các loại lãi suất khác có thể nhận biết như sau: Đối với các tổ chức tín dụng được tự do hoá lãi suất tiền gửi và cho vay trong phạm vi trần tói đa. Tuỳ theo đặc điểm điều kiện các loại hình tổ chức tín dụng về qui mô, chi phí khác nhau, cung cầu vốn của các vùng khác nhau mà ngân hàng nhà nước có thể qui định nhiều mức trần lãi suất cho phù hợp với điều kiện riêng có của loại hình tổ chức tín dụng và của các vùng khác nhau. Các tổ chức tín dụng căn cứ vào trần lãi suất của ngân hàng Nhà nước để ấn định các mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp với cung cầu về vốn, các vùng khác nhau mức chi phí và lợi nhuận...Đối với Nhà nước, việc kiểm soát được lãi suất cho vay của của tổ chức tín dụng bảo vệ được lợi ích của người vay nhất là các doanh nghiệp Nhà nước và hộ gia đình ở nông thôn là hai thành phần chiếm tỷ trọng vay vốn ngân hàng khoảng 70% tổng dư nợ vay ngân hàng, không phải vay với lãi suất quá cao, đồng thời điều hoà lợi nhuận giữa người vay và ngân hàng một cách hợp lý. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng trong khuôn khổ trần lãi suất tránh được tình trạng chạy đua theo lợi nhuận tối đa nên bảo đảm được an toàn hệ thống của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, lãi suất cơ bản theo trần lãi suất phải là một trần đủ rộng để đáp ứng được yêu cầu của chính phủ đã đề ra trong báo cáo tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá X là thực hiện một chính sách lãi suất linh hoạt tăng cường tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, thì trần lãi suất nên ở mức độ rộng và thông thoáng phản ánh được quan hệ cung cầu về vốn tín dụng và cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng. Trần lãi suất đó phải là trần lãi suất đủ rộng, đảm bảo được cho mọi tổ chức tín dụng và mọi khách hàng ở mọi vùng khác nhau, những nơi có nhu cầu vốn lớn chi phí cho vay thấp hơn trần. Và trần như vậy chỉ có nâng lên khi cung thấp hơn cầu về vốn do các yếu tố tỷ giá, lạm phát tăng lên làm cho trần bị “chật chội”, còn khi cầu thấp hơn cung về vốn thì các tổ chức tín dụng hạ lãi suất xuống dưới trần. Vì nếu khi các tổ chức tín dụng hạ lãi suất xuống dưới trần và NHNN cũng hạ trần lãi suất sát xuống theo, thì sẽ làm mất ý nghĩa của trần lãi suất không còn là một cơ chế lãi suất linh hoạt nữa, mất tính cạnh tranh không phản ánh đúng quan hệ cung cầu vốn trên thị trường và trở thành cơ chế lãi suất gò bó, thiếu linh hoạt như yêu cầu đặt ra.
Chọn lãi suất trên thị trường liên ngân hàng: Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng thương mại cho nhau vay vốn. Nó phản ánh một cách tập trung quan hệ cung cầu về vốn trên thị trưòng. Như vậy cần phải lựa chọn loại lãi suất làm lãi suất cơ bản cho phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay.
Đối với ngoại tệ: có thể lấy lãi suất SIBOR của USD kỳ hạn 6 tháng hoặc 1 năm làm lãi suất cơ bản cho lãi suất ngoại tệ, tổ chức tín dụng được cộng thêm một biên độ dao động do NHNN qui định để ấn định lãi suất cho vay bằng USD. Lãi suất cho vay các đồng tiền khác cũng do tổ chức tín dụng ấn định. Khi xác định lãi suất cơ bản và biên độ dao động của lãi suất ngoại tệ cần căn cứ vào các yếu tố như: căn cứ vào lãi suất SIBOR của USD để công bố lãi suất cơ bản và điều chỉnh khi cần thiết; căn cứ xác định biên độ dao động của lãi suất ngoại tệ; quan hệ tỷ giá ngoại tệ trong nước; quan hệ cung cầu vốn ngoại tệ và nội tệ trong nước; chủ trương thu hút vốn trong nước và ngoài nước của Nhà nước.
Điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản:
Những sai lầm cũ :
Trong thời kỳ quan liêu trì trệ trước năm 1988, lãi suất của Việt nam không theo qui luật lãi suất thực nên lãi suất do Ngân hang trung ương áp đặt là một trong những nguyên nhân gây và kéo dài lạm phát phi mã. Đến tháng 3/1989 với quyết định 39/HĐBT qui luật lãi suất thực mới được công nhận nhưng tư tưởng “lãi suất ngân hàng phải áp sát lãi suất thị trường” đã dẫn đến lãi suất tiết kiệm cực kỳ cao 12%/ tháng dù tỷ lệ lạm phát nửa cuối năm 1988 chỉ còn 7%/ tháng và tháng 3 năm 1989 chỉ còn 5,56%/ tháng ...sau đó Nhà nước không cho hạ tiếp, nhưng lãi suất cực kỳ cao vẫn còn ảnh hưởng tâm lý ngày nay, người gửi tiền đòi hỏi lãi suất cao.
Năm 1994 Ngân hàng Trung ương đã công bố chủ trương hạ lãi suất trong cuộc họp giám đốc đầu năm, nhưng chủ trương này không được thực hiện với lý do tỷ lệ lạm phát bị đẩy cao lên gấp đôi năm 1993 mặc dù lạm phát vẫn gần với một con số. Trong 3 năm chậm hạ lãi suất tiền gửi các ngân hàng chỉ sử dụng hết 1/2, cụ thể các NHTM cổ phần từ chỗ sử dụng nguồn vốn tiền gửi để cho vay tới 87,02% năm 1993 tụt xuống chỉ còn có 74,75% năm 1994 và 58,98% vào giữa năm 1996.
Các doanh nghiệp vay vốn è cổ ra gánh một lãi suất cao để trả lãi cho người nước ngoài đem ngoại tệ vào đổi lấy VNĐ để gửi tiết kiệm với lãi suất cao gấp 4-5 lần lãi suất thế giới trong hàng loạt sổ tiết kiệm hàng tỷ đồng một sổ. Vì vậy khi dồn dập hạ lãi suất 4 lần trong năm 1996, số dư nguồn vốn tiền gửi đã giảm đột ngột vào quí IV năm đó, chuyển các NHTM từ vị thế thừa vốn sang thiếu vốn. Tình hình thừa vốn nửa đầu năm 1996 đã khiến các ngân hàng thi nhau hạ lãi suất loại tiền gửi 3 tháng từ 1,4%/tháng xuống còn 0,7% và có ngân hàng chỉ nhận tiền gửi không kỳ hạn lãi suất 0,3%/tháng để khỏi phải tăng lượng tiền gửi dư thừa phải trả lãi cao mà không đem cho vay được. Nhưng đến tháng 11/1996 các ngân hàng lại lâm vào tình trạng trái ngược là thiếu vốn vì lượng tiền gửi của người nước ngoài đã rút đi gần hết có ngân hàng số dư tiền gửi giảm tới 20%/tháng. Điều ngược lại đã xảy ra, các ngân hàng lại thi nhau nâng lãi suất tiền gửi để giữ cho số dư tiền gửi khỏi giảm sút, các ngân hàng nông thôn lãi suất tiền gửi loại 6 tháng được nâng lên phổ biến tới 1,5%-1,6% nà vẫn không đủ vốn cho vay ở đô thị có 1,25%. Cộng với cái vô lý là bắt các NHTM phải gánh chịu số lỗ do thực hiện chính sách hạ lãi suất và áp đặt chênh lệch lãi suất 0,35%, các NHTM và nhất là các ngân hàng cổ phần đã bị giảm lợi nhuận nặng nề. Tài chính vẫn duy trì mức thuế lợi tức 45% và cho rằng tỷ lệ đó vẫn phù hợp, cộng với việc tính thuế không cho ghi các khoản chi phí trích trước đã dồn các ngân hàng vào tình trạng hầu như không tích luỹ được vốn. Việc tăng vốn điều lệ hầu như không thực hiện được. Các NHTM đã yếu vì khuyết điểm để nợ quá hạn, nợ xấu tăng cao lại bị suy yếu thêm vì những chính sách dồn các NHTM vào chỗ lhông thể duy trì được tỷ suất lợi nhuận bình quân. Năm 1997 lãi suất cho vay trần lại được hạ xuống còn 1% để kích thích kinh tế phát triển, nhưng các ngân hàng cổ phần không tán thành vì các nước láng giềng phải nâng lãi suất tiền gửi lên để chống làn sóng rút tiền gửi ra mua USD. Để phòng ngừa cơn bão tiền tệ có thể lướt qua các ngân hàng trong nước cũng phải giữ lãi suất gần như cũ đến mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn chỉ còn chênh lệch với lãi suất cho vay từ 0,05% đến 0,1% gây lỗ về tín dụng. Cộng thêm vào đó tin tức các vụ Epco Minh Phụng làm cho một số người gửi tiền đổ xô vào rút tiền gửi ở các ngân hàng mà họ nghi là có cho 2 công ty này vay. Các ngân hàng này bị một phen hú vía phải vay cào vay cấu bên ngoài để đối phó kịp thời và khi đã giải thích làm dịu cơn sốt rút tiền thì đã phải tăng chi phí đến mức tỷ suất lợi nhuận giảm hẳn. NHNN đã không có loại tín dụng điều chỉnh như ở Mỹ để ứng phó cho vay tiếp quĩ kịp thời vào những lúc khó khăn như vậy, lại thờ ơ với tình trạng phải giảm mạnh lợi nhuận nên các NHTM đã phản ứng khá mạnh, vì vậy đầu năm 1998, NHNN đã phải nâng lãi suất trần lên 1,2% làm cho chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay có được cải thiện hơn nhưng vẫn còn quá thấp không đủ đảm bảo tỷ suất lợi nhuận ngành ngân hàng xấp xỉ tỷ suất lợi nhuận bình quân và không hấp dẫn người mua cổ phiếu ngân hàng. Một ngân hàng quốc doanh nâng ngầm lãi suất bằng cách trả lãi suất trước lên đến 1,167% và 1,357% sát nút và vượt lãi suất trần cho vay trong một đợt lãi suất tiền gửi lên đến mức nguy hiểm.
Điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản:
Ngày 2/8/2000 thông đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo quyết định này từ ngày 5/8/2000 các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản so NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất cơ bản và biên độ do Thống đốc NHNN qui định từng thời kỳ. NHNN công bố lãi suất sơ bản trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo quyết định của thống đốc NHNN trong từng thời kỳ. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng.
Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng Đô la Mỹ theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất đô la Mỹ trên thị trường liên ngân hàng Sing ga po (lãi suất Sibor) kỳ hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn, kỳ hạn 6 tháng đối với cho vay trung hạn, dài hạn tại thời điểm cho vay và một biên độ do thống đốc NHNN qui định từng thời kỳ. Đối với việc cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ.
Lãi suất cho vay của quĩ tín dụng nhân dân cơ sở đối với các thành viên không quá 1,35%/tháng. Các loại lãi suất cho vay ưu đãi thực hiện theo qui định hiện hành của Chính phủ và Thống đốc NHNN. Tại các quyết định số 242, 243 ngày 2/8/2000 Thống đốc NHNN đã công bố mức lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng đối với khách hàng tại thời điểm ký kết hợp đồng tính dụng theo lãi suất cho vay cố định hoặc lãi suất cho vay có điều chỉnh nhưng không vượt quá lãi suất cho vay cơ bản cộng các biên độ như sau: 0,3%/tháng đối với cho vay ngắn hạn, 0,5%/tháng đối với cho vay trung hạn. Như vậy, giữa cơ chế điều hành lãi suất cơ bản và cơ chế điều hành lãi suất trần có điểm khác nhau cơ bản là cơ chế điều hành lãi suất trần mang chủ quan của NHNN còn cơ chế điều hành lãi suất cơ bản dựa trên cơ sở thị trường. Lãi suất cơ bản được hình thành trên thị trường liên ngân hàng nhưng trước mắt do thị trường liên ngân hàng chưa phát triển nên NHNN lấy mức lãi suất cho vay khách hàng tốt nhất của các tổ chức tính dụng làm cơ sở tham khảo để xây dựng lãi suất cơ bản. Như vậy bước đầu lãi suất cơ bản đảm bảo phản ánh quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường cho vay của các NHTM đối với khách hàng. Sau này khi thị trường liên ngân hàng phát trển lãi suất cơ bản sẽ được hình thành trên cơ sở lãi suất của thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Một trong những mục tiêu quan trọng được NHNN đề ra khi xây dựng cơ chế điều hành lãi suất mới là đảm vảo không gây ra những xáo trộn về lãi suất và không làm tăng mặt bằng lãi suất cho vay trong khi vẫn đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng tăng cường huy động tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước để cho vay đầu tư phát triển kinh tế. Có thể thấy rõ cơ chế điều hành lãi suất mới không qui định sàn lãi suất. Chính vì vậy, cơ chế lãi suât mới vẫn đảm bảo khả năng cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng trong việc vay và huy động vốn. Đồng thời các khách hàng không bị rơi vào thế bất lợi trong việc thoả thuận về lãi suất với tổ chức tín dụng. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay việc thực hiện cơ chế lãi suất mới không làm tăng mặt bằng lãi suất trên thị trường. Việc thay đổi mặt bằng lãi suất sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường. Ưu điểm của cơ chế lãi suất mới là nó cho phép các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trong một phạm vi đủ rộng phù hợp với khả năng tài chính của TCTD, thời hạn vay vốn, mức độ rủi ro của từng dự án cũng như đặc điẻm của từng vùng kinh tế. Và lần đầu tiên các TCTD được phép thoả thuận với khách hàng trong việc áp dụng lãi suất cố định hoặc có điều chỉnh linh hoạt. Cơ chế lãi suất như vậy sẽ khuyến khích các TCTD mỏ rộng huy động và cho vay vốn trung dài hạn. Với cơ chế điều hành lãi suất mới, lãi suất ngoại tệ đã tiếp cận dần với thông lệ quốc tế nhưng sẽ thấp hơn mặt bằng lãi suất trên thị trường quốc tế, phù hợp với cung cầu vốn ngoại tệ trên thị trường trong nước, có lợi cho cả doanh nghiệp và ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng cho vay vốn ngoại tệ, hạn chế gửi vốn ngoại tệ ra nước ngoài.
Việc thực hiện cơ chế điều hành lãi suất mới được coi là bước tiến trong quá trình tự do hoá lãi suất. Để tiếp tục quá trình tự do hoá lãi suất, bước tiếp theo NHNN khẩn trương hoàn thiện thị trường liên ngân hàng, lấy lãi suất thị trường này làm cơ sở hình thành lãi suất cơ bản. Trong tương lai, lãi suất cho vay của các TCTD đối với khách hàng hoàn toàn do họ định đoạt trên dơ sở qua hệ cung cầu về vốn trên thị trường. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay quá trình tự do hoá lãi suất phải được thực hiện từng bước vững chắc. Chính vì vậy nhằm đảm bảo sự quản lý về lãi suất của Nhà nước, đảm bảo cho sự tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế.
C/ Một số tác động của lãi suất đến hoạt động của Ngân hàng Thương mại:
Chính sách lãi suất trong thời gian vừa qua đã có tác động đến hoạt động kinh doang của ngân hàng trên các mặt sau:
I/ ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn trung dài hạn:
Diễn biến lãi suất trong thời gian vừa qua ít có tác dụng tích cực đến việc tăng cường huy động vốn trung và dài hạn. Tỷ lệ vốn trung và dài hạn trong tổng số vốn huy động của các NHTM hiện tại rất nhỏ, nguyên nhân chính của tình trạng này là do huy động vốn trung dài hạn thì lãi suất phải cao, trong khi NHNN liên tục giảm lãi suất. Mặt khác do tồn tại trong một thời gian rất dài, lãi suất cho vay trung và dài hạn lại thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, tình trạng này mới được thay đổi trong thời gian gần đây, lãi suất cho vay trung hạn bằng lãi suất cho vay ngắn hạn.
Con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, ngoài vốn ngắn hạn ra càng phải có rất nhiều vốn trung, dài hạn. Nếu như những năm đầu của quá trình chuyển đổi từ cơ chế hành chính bao cấp sang cơ chế thị trơờng đã cần rất nhiều vốn trung và dài hạn thì đến nay để phát triển nền công nghiệp nông nghiệp hiện đại theo hướng sản xuất hàng hoá xuất khẩu thì nhu cầu vốn trung dài hạn ngày càng nhiều hơn để đáp ứng yêu cầu vốn cho hiện đại công nghệ, thiết bị.
Nhu cầu vay vốn trung dài hạn thì rất lớn, nhưng nguồn vốn trung, dài hạn huy động được thì lại rất hạn chế. Qua bảng số liệu của NHTM quốc doanh dưới đây cho chúng ta thấy hiện tại đang dùng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn. Nên chăng nếu có dùng nguồn vốn nào đó so với vốn huy động, nếu sử dụng quá nhiều ngắn hạn cho mục đích trung, dài hạn sẽ làm suy yếu khả năng an toàn thanh toán khi có một dòng tiền gửi rút ra. Về lâu dài, cần có chính sách để tăng trưởng nguồn vốn huy động trung, dài hạn.
Bảng dư nợ cho vay trung dài hạn của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
Năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Vốn trung dài hạn huy động
-
-
-
673
844
1018
2346
4912
6860
8885
Cho vay trung dài hạn
106
133
207
849
1259
2266
2438
4912
6860
8885
Tỷ lệ dư nợ trên vốn(%)
-
-
-
122
149
223
147
185
96
175
Tỷ lệ dư nợ trung hạn/tổng dư nợ
6,55
6,27
6,27
14,6
16,22
18,32
13,87
21,85
24,4
21,1
II/ Xuất hiện khả năng tiềm tàng về rủi ro lãi suất bất khả kháng:
Lãi suất cho vay liên tục giảm theo giảm lãi suất huy động vốn (cả ngắn hạn và trung, dài hạn) đã tác động tốt đến sản xuất kinh doanh, làm tăng cầu về tín dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng ở thời kỳ này, có nhiều NHTM do không lường hết được biến động của lãi suất theo chiều hướng liên tục giảm đã huy động vốn có thời hạn một đến 3 năm để cho vay trung dài hạn. Đặc biệt trong năm 1999, NHNN đã liên tục 5 lần quyết định giảm trần lãi suất cho vay tối đa. Có đợt giảm lãi suất, NHNN còn qui định buộc các NHTM giảm ngay cả lãi suất dư nợ đã cho vay; trong khi đó vốn huy động theo laic suất thời kỳ trước vẫn giữ nguyên cho tới khi đáo hạn. Tình hình này đã làm cho các NHTM rơi vào tình trạng rủi ro lãi suất. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn rất nhỏ có khi không có chênh lệch, thậm chí lãi suất cho vay thời kỳ trược đó đang còn số dư có. Trường hợp khi NHNN qui không giảm lãi suất đối với các khoản cho vay suất thấp hơn để trả nợ cũ có lãi suất cao. Kết cục rủi ro lãi suất luôn đặt gánh nặng lên các NHTM.
III/ Các NHTMQD phải bao cấp qua lãi suất cho vay:
Trong thời gian qua NHTMQD phải bao cấp cho tài chính trong việc cho vay các đói tượng chính sách với lãi suất thấp như cho vay giảm 16% và 30% lãi suất đối với khu vực III và khu cực VI theo qui định nghị định 20CP của Chính phủ, cho vay khắc phục hậu quả thiên tai theo chỉ định của Chính phủ với lãi suất 0,5%/tháng đối với cho vay ngắn hạn, 0,6%/tháng đối với cho vay trung, dài hạn...Trong khi đó lãi suất huy động bình quân đầu vào của NHTM thường cao hơn lãi suất này, có nghĩa là NHTMQD cho vay lỗ hoặc không có thu nhập và lỗ về chi phí huy động vốn, chi phí cho vay và rủi ro tín dụng không có nguồn bù đắp, nhất là cho vay các đối tượng chính sách thường rủi ro lớn hơn. Nếu cử phải thực hiện các khoản tín dụng bao cấp ngày càng lớn, thời gian kéo dài, NHTM không còn là một ngân hàng theo đúng nghĩa của nó. Tính kinh doanh sẽ vị triệt tiêu. NHTM sẽ không còn hăng hái huy động vốn để cho vay vì cho vay bao cấp lỗ không ai bù, doanh lợi ngân hàng, thu nhập người lao động bị giảm sút.
IV/ Chính sách lãi suất chưa khai thác hết động lực giảm lãi suất huy động vốn bình quân nhằm giảm lãi suất cho vay:
Tại nhiều quốc gia ngân hàng không trả lãi cho tiền gửi của các tổ chức kinh tế, ngân hàng cũng không thu phĩ dịch vụ chuyển tiền thanh toán; nhưng ở Việt Nam tiền gửi thanh toàn của các tổ chức kinh té được trả lãi. Các NHTM tự qui định lãi suất tiền gửi thanh toán của các đơn vị kinh tế trong khung trần lãi suất cho vay tối đa mà mỗi NHTM cho là hợp lý, dẫn tới:
Các NHTM để tranh dành khách hàng đã nâng lãi suất tiền gửi thanh táo kên khá cao làm tăng lãi suất huy động vốn bình quân, tăng chi phĩ NHTM. Trong khi lãi suất cho vay ở Việt Nam còn cao hơn so với khu vực và quốc tế (Ví dụ: Lãi suất ngắn hạn ở Đức và Pháp là 3,3/năm Tây Ban Nha 4,25%/năm trong khi lãi suất cho vay của nước ta là 12%/năm).
Tổng số vốn huy động của toàn ngành Ngân hàng không tăng lên mà chỉ chạy từ ngân hàng này sang ngân hàng khác gây bất ổn định trong kinh doanh cạnh tranh trở nên không lành mạnh và đặc biệt nguy hiểm cho các NHTM nhỏ vốn không lớn hơn các quĩ tín dụng. Trong trường hợp có một hoặc hai NHTMQD lớn vì lý do nào đó tăng lãi suất huy động vốn, đủ sức hấp dẫn tạo thành một luồng tiền chạy từ các NHTM nhỏ quĩ tín dụng sang các ngân hàng đang huy động vốn với lãi suất cao, có thế làm cho các NHTM này lâm vào hoàn cảnh khó khăn về thanh toán. Thực tế các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các tổng công ty 90, 91 các tổ chức có tiền gửi lớn như bảo hiểm xã hội, quĩ dự trữ quốc gia thường mở tài khoản tiền gửi tại nhiều NHTM. Khi lãi suất tiền gửi của ngân hàng nào nâng cao hơn chủ tài khoản lập tức chuyển tiền từ nơi có lãi suất thấp đến nơi đến nơi có lãi suất cao.
Như vậy với diễn biến lãi suất chưa ổn định trong thời gian qua, việc huy động vốn trung, dài hạn là rất khó khăn có nhiều rủi ro về lãi suất cho NHTM. Khi lãi suất liên tục giảm, ngân hàng chưa thể sẵn sàng huy động vốn trung dài hạn. Ngược lại, nếu lãi suất liên tục biến đổi theo chiều hướng tăng người gửi tiền không muốn gửi tiền vì lo trượt giá và sợ bị thiệt thòi, dù cho ngân hàng muốn huy động vốn trung, dài hạn nhưng sẽ không có người gửi. Lãi suất còn mang một phần bao cấp không có tác dụng tích cực trong kinh doanh, đồng thời cũng xuất hiện nhân tố mới là sự thoả hiệp giữa các NHTM lớn trong cạnh tranh nói chung và trong cạnh tranh lãi suất nói riêng nhằm bảo vệ lợi ích của hệ thống.
Kết luận
Chính sách lãi suất là công cụ điều hành vĩ mô trong nền kinh tế. Để phát huy tính tích cực và hạn chế những tác động bất lợi trong quá trình điều hành đòi hỏi các nhà lập chính sách cũng như thực thi nó trong mối quan hệ tổng hoà với các chính sách khác và các điều kiện của môi trường kinh doanh luôn biến động phải có những quyết định điều chỉnh phù hợp kịp thời. Chính sách lãi suất phù hợp có vai trò rất lớn trong hoạt động kinh tế xã hội nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV056.doc