Việc phát triển và hoàn thiện chính sách điều hành và xác lập lãi suất ở Việt Nam rõ ràng đang còn đặt ra nhiều vấn đề đáng được lưu ý. Nhất là trong thời kỳ sau kkhi gia nhập WTO, sự thâm nhập của các công ty tài chính, các Ngân hàng lớn trên thế giới trong khi sự yếu kém trên nhiều mặt của thị trường tài chính và công cụ chính sách lãi suất của Việt Nam đã đặt ra không ít những khó khăn thách thức cho nền tài chính Việt Nam. Thông qua một số các biện pháp hợp lý, chúng ta cần đẩy mạnh hợp lý hoá các công cụ và chính sách lãi suất như một công cụ chính yếu trong điều hành toàn bộ thị trường tài chính. Có như vậy mới đảm bảo minh bạch hoá và đủ sức cạnh tranh với các tiềm lực kinh tế từ nước ngoài.
Trong điều kiện quá trình tự do hoá lãi suất vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, chúng ta cần có những bước thay đổi thận trọng trong cả cơ chế điều hành và áp dụng các mức lãi suất thị trường, không nóng vội, chủ quan dễ dẫn đến nguy cơ khủng hoảng, thậm chí đổ vỡ thị trường tài chính trong nước. Do vậy, yếu tố bên trong từ chính các tổ chức tài chính, bộ máy điều hành là cực kỳ quan trọng.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1806 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn nhàn rỗi, vừa để thúc đẩy đầu tư trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
2. Vai trò vi mô
Lãi suất là yếu tố thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp, bù đắp chi phí và đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng: Doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng phải hoàn trả đúng kì hạn cả vốn lẫn lãi.Vì vậy, muốn đảm bảo có nguồn vốn trả nợ, doanh nghiệp phải quan tâm thực sự đến kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Nếu hoàn trả nợ không đúng kì hạn, lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất đúng hạn (bằng 1,5 lần lãi suất đúng hạn) điều này thúc đẩy các doanh nghiệp phải cố gắng kinh doanh tốt, đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn. Hoạt động tài chính của ngân hàng kinh doanh và tổ chức tín dụng là huy động vốn để cho vay. Khi huy động vốn, ngân hàng phải trả lãi cho người gửi, khi cho vay sẽ thu lãi của người vay. Ngân hàng phải tính toán mức lãi suất cho vay và đi vay hợp lý để bù đắp các khoản chi phí nghiệp vụ và có lợi nhuận cho mình.
Mặt khác, lãi suất chính là công cụ để cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng.Thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ khống chế “trần” tối đa về lãi suất cho vay và mức độ chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay nhằm đảm bảo các lợi ích cho người gửi, người vay và ngân hàng kinh doanh có khả năng bù đắp chi phí và một phần rủi ro nếu có. Trong kinh tế thị trường, do yêu cầu của quy luật cạnh tranh, mọi thành phần kinh tế đều có sự cạnh tranh quyết liệt vì sản phẩm tiêu thụ, giá bán, phương thức phục vụ, dịch vụ bán hàng…. Đứng vững được trong quá trình cạnh tranh đó là điều không đơn giản. Với phương châm “đi vay để cho vay”, hoạt động huy động và sử dụng vốn của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy, các ngân hàng thương mại đều phải đổi mới phương thức phục vụ và huy động vốn để huy động được vốn tối đa đồng thời cũng phải đẩy mạnh cho vay. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng khác cũng cần phấn đấu hạ thấp chi phí, tạo cơ sở hạ thấp lãi suất”đầu ra” để thu hút được nhiều khách hàng đến mở tài khoản và vay vốn.
CHƯƠNG II.
CHÍN H SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ DIỄN BIẾN LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY.
Lãi suốt huy động và lãi suất cho vay được duy trì hká ổn định cho đến cuối năm 2007. Từ tháng 1 năm 2008, do chính sách thắt chặt tiền tệ ngân hàng Nhà Nước đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm giảm lượng tiền trong lưu thông. Từ đó các ngân hàng bắt đầu tăng lãi suất để huy động vốn, đảm bảo thanh khoản.
Tình hình lãi suất huy động: Lãi suất huy động VNĐ được duy trì tương đối ổn định từ cuối năm 2007 cho đến tháng 12 năm2008. lãi suất huy động cho kỳ hạn 3 tháng dao động ở mức 7,2%/năm – 17,14%/năm; lãi suất huy động cho kỳ hạn 6 tháng ở mức 7,56%/năm - 17,16%/năm ; lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng ở mức 7,84%/năm – 17,18%/năm. Từ đầu năm 2009, các ngân hàng đã đồng loạt giảm lãi suất để thu hút đầu tư. Lãi suất bình quân huy động vào tháng 6 năm 2009 cho kỳ hạn 3 tháng là 8,1%/năm (giảm khoảng 3%/năm so với năm 2008); 6 tháng là 8.30%/năm (giảm khoảng 2%/năm so với năm 2008); 12 tháng là 8,7%/năm (giảm khoảng 2%/năm so với năm 2008 ). Lãi suất lại tăng cho đến tháng 08/2009, lãi suất huy động cho kỳ hạn 3 tháng là 8,5%/năm; 6 tháng là 8,6%/năm; 12 tháng là 8,7%/năm. Như vậy, tính đến tháng 08/2009, lãi suất huy động VNĐ giảm gấp 2 lần so với năm 2008. Riêng đối với lãi suất huy động USD: áp dụng theo cơ chế lãi suất thả nổi gắn với lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế, chịu tác động ảnh hưởng nhiều bởi các đợt điều chỉnh, thay đổi lãi suất của FED. Đến tháng 05/2009, lãi suất của FED ở mức 2%/năm, tuy nhiên, lãi suất tiền gửi USD ở Việt Nam đang ở mức5 %/năm, thấp hơn 0,25% so với mức lãi suất của trái phiếu chính phủ 1 năm của Mỹ là 5.25%/năm.
Bảng 1. Lãi suất huy động
Chỉ tiêu
T12/ 2007 (%/năm)
T12/2008(%/năm)
T6/2009(%/năm)
VNĐ
USD
VNĐ
USD
VNĐ
USD
Loại kỳ hạn 3 tháng
7.20 - 8.82
4.50 - 5.00
16.90-17.14
5.0-5.5
8-8.2
4.5-5
Loại kỳ hạn 6 tháng
7.56 - 9.12
4.60 - 5.20
16.96-17.16
5.2-5.56
8.2-8.4
4.7-5.4
Loại kỳ hạn 12 tháng
7.84 - 9.45
4.60 - 5.40
16.98-17.18
5.3-5.6
8.5-8.8
4.7-5.5
Nguồn: Báo cáo của NHNN
Tình hình lãi suất cho vay: Từ cuối năm 2007 đến tháng 12/2008, lãi suất cho vay VNĐ ngắn hạn khoảng 15%/năm; trung dài hạn khoảng 16%/năm. Cho đến tháng 06/2009, lãi suất cho vay ngắn hạn, trung dài hạn đều ở mức 10%/năm, giảm gấp 1.55 lần so với năm 2008.
Đối với USD, trong năm 2007 và năm 2008, lãi suất cho vay dao động trong khoảng 6,4%/năm – 8,9%/năm. Đến tháng 06/2009, lãi suất cho vay dao động trong khoảng 4%/năm – 7,5%/năm, giảm gấp 1.5 lần so với năm 2008.
Bảng 2. Lãi suất cho vay
T12/2007(%/năm)
T12/2008 (%/năm)
T6/2009(%/năm)
VNĐ
USD
VNĐ
USD
VNĐ
USD
Cho vay ngắn hạn
10.80 - 13.80
6.4 0 - 7.50
19.5-20.2
8.20-8.90
9.5-10.5
4.5-6
Cho vay trung,dài hạn
12.36 - 15.48
7.00 - 7.80
20-20.5
8.24-8.94
10-10.5
6-7.5
Bảng 3. Mức lãi suất của Ngân hàng Nhà Nước áp dụng đối với các NHTM
Loại lãi suất
2007 (%/năm)
2008 (%/năm)
2009 (%/năm)
Lãi suất cơ bản
8.5
8.5
7
Lãi suất tái cấp vốn
6.5
7.5
7
Lãi suất chiết khấu
4.5
6
5
Trong giai đoạn từ năm 2001-2006, mục tiêu của chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế nên chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ liên tục được mở rộng. Lượng cung tiền mỗi năm tăng 25% trong khi lãi suất và tỷ lệ dự trữ giữ nguyên không đổi. Từ cuối năm 2005 đến 31/12/2007, lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu được duy trì ở mức 8.25%/năm – 6.5%/năm – 4.5%/năm.
Cuối tháng 05/2007, ngân hàng Nhà nước ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/05/2007 về việc kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong đó khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ của tổ chức tín dụng, hạn chót 31/12/2007 phải đảm bảo tỷ lệ này.
Trong tháng 06/2007, ngân hàng Nhà nước đã đưa vào lưu thông 130 ngàn tỷ đồng để mua 8.1 tỷ USD.
Ngày 01/06/2007, ngân hàn Nhà nước đã điều chỉnh tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi đối với cả nội tệ và ngoại tệ: từ 5% lên 10% đối với tiền gửi VND kỳ hạn dưới 12 tháng và từ 2% lên 4% đối với kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng, tăng từ 8% lên 10% đối với tiền gửi ngoại tệ kỳ hạn dưới 12 tháng và từ 2% lên 4% đối với kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng.
Ngày 30/01/2008, ngân hàng Nhà nước thông báo điều chỉnh các lãi suất: lãi suất
cơ bản từ 8.25%/năm tăng lên 8.75% năm; lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%/năm tăng lên 7,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 4,5%/năm tăng lên 6.0%/năm.
Ngày 01/02/2008, tăng dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% đối với VND
và từ 10% lên 11% đối với ngoại tệ, đồng thời mở rộng kỳ hạn tiền gửi phải thực hiện dự trữ bắt buộc từ dưới 24 tháng thành tất cả các kỳ hạn (Quyết định 187/QĐ-NHNN, áp dụng từ 01/02/2008 của ngân hàng Nhà nước).
Ngày 13/02/2008 ngân hàng Nhà nước ra quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu ngân hàng Nhà nước bắt buộc. Theo đó, bắt buộc các tổ chức tín dụng mua tín phiếu bắt buộc với tổng giá trị 20.300 tỷ đồng, lãi suất 7.8%/năm, ngày phát hành 17/03/2008 . Ngày 26/02/2008 thông qua công điện 02/CĐ-NHNN của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại phải điều chỉnh lãi suất huy động vốn không vượt quá 12%/năm; Các ngân hàng thương mại nhà nước tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở và các kênh tái cấp vốn khác của ngân hàng Nhà nước để đảm bảo khả năng thanh toán và hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất tối đa bằng lãi suất nghiệp vụ thị trường mở tại phiên giao dịch gần nhất cộng với 1%/năm.
Ngày 24/04/2008, ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành công văn số 3764/NHNN-CSTT về việc tái cấp vốn dưới hình thức cho vay có bảo đảm. Theo đó, để hỗ trợ khả năng thanh toán cho các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng thương mại có quy mô nhỏ, ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét, quyết định tái cấp vốn dưới hình thức cho vay có bảo đảm một cách kịp thời, trên cơ sở đề nghị của ngân hàng thưương mại, điều kiện cung - cầu vốn thực tế và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, cơ chế tái cấp vốn hiện hành.
Ngày 16/05/2008, ngân hàng Nhà nước thông báo điều chỉnh các lãi suất: lãi suất cơ bản từ 8.75%/năm tăng lên 12% năm; lãi suất tái cấp vốn từ 7,5%/năm tăng lên 13%/năm; lãi suất chiết khấu từ 6%/năm tăng lên 11/năm. Đồng thời, thông qua quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, theo đó các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bằng VNĐ đối với khách hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố để áp dụng trong từng thời kỳ.
Ngày 10/06/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo điều chỉnh các lãi suất: lãi suất cơ bản từ 12%/năm tăng lên 14% năm; lãi suất tái cấp vốn từ 13%/năm tăng lên 15%/năm; lãi suất chiết khấu từ 11%/năm tăng lên 15%/năm.
Ngày 11/06/2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng mạnh từ mức 16.139VND/USD lên 16.461VND/USD, tăng 322VND/USD.
Từ quý II/2008, tiếp tục chuyển khoảng 52 ngàn tỷ đồng tiền gửi của kho bạc tại các ngân hàng quốc doanh về ngân hàng Nhà nước.
Ngày 26/06/2008, điều chỉnh lãi suất tín phiếu bắt buộc, theo đó từ 01/07/2008, lãi suất tín phiếu ngân hàng Nhà nước bằng VND dưới hình thức bắt buộc phát hành ngày 17/03/2008 sẽ tăng từ 7.8%/năm lên 13%/năm, áp dụng đối với thời hạn thanh toán còn lại của tín phiếu (Quyết định 1435/QĐ-NHNN ngày 26/06/2008 của ngân hàng Nhà nước).
Ngày 26/06/2008, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng biên độ từ +-1% lên +-2% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàn áp dụng cho ngày giao dịch do ngân hàng Nhà nước thông báo theo Quyết định 1436/QĐ-NHNN.
Ngày 03/07/2008 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành 6076/NHNN-TTR về việc kiểm tra lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng, theo đó, yêu cầu các tổ chức tín dụng có mức huy động vốn bình quân từ 17.5%/năm trở lên báo cáo phương án kinh doanh phù hợp với mức lãi suất huy động vốn và có biện pháp xử lý kiên quyết phù hợp với các quy định của pháp luật đối với các tổ chức tín dụng có mức lãi suất huy động vốn ở mức cao, không có khả năng bù đắp chi phí kinh doanh.
Ngày 19/08/2008, theo Quyết định số 1849/QĐ-NHNN, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động và lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố. Ngày 29/08/2008, điều chỉnh lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng: điều chỉnh từ 1,2%/năm (theo Quyết định số 923/QĐ-NHNN ngày 20/7/2004) tăng lên 3,6%/năm (Quyết định số 1907/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008). Mục đích của việc tăng mức lãi suất này nhằm hỗ trợ các tổ chức tín dụng có điều kiện giảm lãi suất cho vay, góp phần chia sẻ cùng doanh nghiệp và người vay tác động thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh phát triển.
Ngày 25/09/2008, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định 2133/QĐ-NNNN theo đó mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng được tăng lên 5%; Quyết định 2132/QĐ-NHNN theo đó, sửa đổi Khoản 7 Điều 1 Quyết định 346/QĐ-HNN như sau:”Tín phiếu ngân hàng Nhà nước bắt buộc phát hành ngày 17/03/2008 được cầm cố để vay vốn, chiết khấu tại ngân hàng Nhà nước, được sử dụng làm công cụ cho nghiệp vụ thị trường mở do ngân hàng Nhà nước thực hiện theo quy định hiện hành”.
Ngày 20/11, Ngân hàng Nhà nước đã có các quyết định tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ và được áp dụng từ ngày 21/11. Theo đó, lãi suất cơ bản tiếp tục được cắt giảm thêm 1%, từ 12% xuống còn 11%/năm. Qua đó, mức lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng tối đa chỉ còn 16,5% thay vì 18% như hiện tại
Qua 8 tháng đầu năm 2009, kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt. Do đó, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 5%; tiếp tục giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát và khống chế tăng chỉ số giá tiêu dùng, ngày 26/8/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có Quyết định số 2024/QĐ-NHNN về việc quy định giữ mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam như tháng trước. Theo đó, mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 7% năm. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 01/9/2009, thay thế Quyết định số 1811/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ban hành ngày 30/7/2009.
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Sau khi Việt nam gia nhâp WTO, do sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng đã đẩy lãi suất huy động và lãi suất cho vay lên cao. Dẫn tớ việc lãi suất thực tế trong 3 năm từ năm 2007 đến năm 2009 là khá cao. Trên thực tế cho thấy lãi suất giờ đây đã phản ánh đúng hơn cung cầu trên thị trường vốn vay, các ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường và sẽ đẩy mạnh cải cách để tăng cường khả năng cạnh tranh.
Nói chung, có ba ý kiến khác nhau về cơ chế lãi suất cơ bản.
Ý kiến thứ nhất cho cơ chế mới không có gì khác với trần lãi suất trước đây. Đặc biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người vay vốn nhỏ (như tiểu thương, hộ sản xuất nhỏ và cá nhân) ra khỏi thị trường tài chính chính thức. Lý do là chi phí cho vay đối với các đối tượng này thường lớn nên không thể cho họ vay nếu không áp dụng lãi suất cao.
Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong phạm vi biên độ cho phép (0,3%/tháng đối với vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vay dài hạn) các ngân hàng có thể định mức lãi suất cho mỗi hợp đồng tùy theo mức độ rủi ro, chứ không còn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Cạnh tranh trong hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa, Ngân hàng Nhà nước trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo tình hình lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thế tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất.
Ý kiến thứ ba lại mang tính bi quan trước cơ chế mới. Theo ý kiến này, việc các ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới sẽ chỉ làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn không được lành mạnh giữa hai thực thể này. Đối với các doanh nghiệp nhà nước ngầm hiểu là được chính phủ bảo lãnh, ngân hàng sẽ sẵn sàng cho vay với lãi suất trong khoảng 0,6-0,65%/tháng, trong khi khu vực tư nhân có thể phải trả lãi suất tới 0,75-0,8%/tháng vì các ngân hàng coi việc cho khu vực này vay là rủi ro hơn.
Sự cạnh tranh mở rộng quy mô Ngân hàng đẩy lãi suất lên cao, làm cho lãi suất không ổn định.
Lãi suất cơ bản hiện nay được sử dụng chỉ mang tính chất tham khảo, các công cụ chính của Ngân hàng Nhà nước sử dụng là: lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn… kết hợp với lãi suất thị trường và các công cụ tài chính khác. Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho với các lãi suất khác nhau tùy theo mức độ rủi ro của khách hàng và chi phí cho vay. Các đối tượng vay như hộ kinh doanh nhỏ hay nông dân không còn bị loại ra ngoài cuộc chơi như trước đây.
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động làm thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất thực sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng và giá cả. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương đã rất coi trọng việc điều tiết lãi suất nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là kiềm chế lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế.
Tác động của lãi suất thực đến sản lượng và giá cả
Lý thuyết kinh tế học đã chứng minh, lãi suất thực tác động đến:
a. Chi tiêu dùng và đầu tư: Một sự tăng lãi suất làm giảm sức hấp dẫn trong việc chi tiêu hiện tại hơn là chi tiêu trong tương lai của cá nhân và công ty. Tín dụng trong nước, tổng lượng tiền và cầu thực tế đều giảm (nếu lãi suất giảm sẽ có tác động ngược lại): Khi lãi suất thực tăng lên, đối với hộ gia đình sẽ giảm nhu cầu mua sắm nhà ở hoặc các hàng tiêu dùng lâu bền do chi phí tín dụng để mua các hàng hoá này tăng lên. Cùng với lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi thực cũng tăng lên. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới quyết định tiêu dùng của khu vực hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại và tăng tiết kiệm để cho tiêu dùng trong tương lai. Đối với khu vực doanh nghiệp, sự gia tăng lãi suất làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân hàng phải có tỷ lệ lợi nhuận lớn hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể thực hiện với mức lãi suất cao hơn này có thể giảm hay nói cách khác, đầu tư cố định có thể giảm. Ngoài ra, lãi suất cao cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví dụ như hàng trong kho) và do vậy, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới dạng vốn lưu động.
b. Phân phối lại thu nhập: Lãi suất tăng cao hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người vay tiền sang người gửi tiền. Điều này làm tăng sức chi tiêu của người tiết kiệm, nhưng sự chi tiêu này bị hạn chế bởi mức tiêu dùng cận biên (phần chi tăng thêm cho tiêu dùng trong mỗi giá trị thu nhập tăng thêm), do vậy người tiết kiệm có xu hướng tăng chi tiêu dùng thấp hơn sự hạn chế chi tiêu đầu tư của người đi vay, nhất là khi lãi suất tăng cao vượt tỷ suất lợi nhuận đầu tư và các danh mục đầu tư và dự án, làm thu nhập của người đi vay giảm. Do vậy, dẫn đến tổng chi tiêu giảm, GDP giảm. Mặt khác, đối với các hộ gia đình nắm giữ nhiều cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất tăng sẽ làm giảm giá tài sản tài chính, do đó, giảm thu nhập, từ đó tạo sức ép giảm tiêu dùng của các hộ gia đình.
Tuy nhiên, tác động của lãi suất đến hành vi tiêu dùng và sản xuất của xã hội nhiều hay ít, nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, trong từng quốc gia thì mỗi giai đoạn phát triển của thị trường tài chính thì mức độ tác động của lãi suất cũng khác nhau.
Đối với Việt Nam từ năm 2007-2009, tác động của lãi suất đến tăng trưởng và lạm phát có thể thấy được qua việc xem xét ảnh hưởng của lãi suất trên thị trường tiền tệ Việt Nam đối với hành vi của cá nhân , các doanh nghiệp và hoạt độnng của ngân hàng thương mại từ đó đánh giá ảnh hưởng của lãi suất đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Đối với cá nhân
Quan sát mức lãi suất tiết kiệm thực VND từ năm 2007 - 2009, nhìn chung là có xu hướng giảm từ mức 9,6%/ năm của năm 2007 xuống còn 9,4%/năm của năm 2009 và (năm 2007 và 2008 tăng là 0, 35%/năm) . Nhưng tiêu dùng cũng có xu hướng tăng (tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ đã loại trừ tăng giá đã tăng từ mức mức 15% năm 2007 lên 30,8% năm 2009). Mức độ tiêu dùng qua mức luân chuyển hàng hoá bán lẻ với tăng trưởng GDP thực từ năm 2007 - 2009, phần nào sát với xu hướng (thu nhập tăng thì tăng tiêu dùng). Như vậy có thể sơ bộ thấy rằng, lãi suất thực trong giai đoạn này có tác động cùng chiều đến hành vi tiết kiệm và ngược chiều với tiêu dùng của các cá nhân... Như vậy, nếu như các yếu tố khác không đổi ảnh hưởng của lãi suất đến hành vi của cá nhân là lãi suất thực giảm sẽ khuyến khích tiêu dùng hơn là tiết kiệm.
Đối với doanh nghiệp
Cuộc đua lãi suất huy động trên thị trường tiền tệ vẫn đang quyết liệt. Trong lúc một số ít người có chút tiền tiết kiệm “khấp khởi” vì gỡ gạc được đôi chút trước tốc độ tăng như “vũ bão” của giá cả thì nhiều tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn lại rơi vào cảnh lao đao.
Chưa bao giờ, thị trường tiền tệ lại trở nên “nóng” như những ngày vừa qua, đặc biệt là từ thời điểm trung tuần tháng 2 trở lại đây. Tình trạng căng thẳng nguồn vốn VND đã đẩy các ngân hàng vào cuộc chạy đua lãi suất cực kỳ nóng bỏng.
Mức lãi suất 12,5%/năm đối với kỳ hạn 1 tháng vừa được xác nhận là “kỷ lục” thì chỉ ngay ngày hôm sau, đã có ngân hàng khác tung ra mức lãi suất lên tới 13,2%/năm cùng kỳ hạn. Tương ứng là mức lãi suất của kỳ hạn 3 tháng cũng của ngân hàng này lên tới 13,92%/năm. Và chắc chắn, cuộc đua này sẽ chưa dừng lại.
Diễn biến của thị trường vốn đã khiến cho lãnh đạo nhiều doanh nghiệp như “ngồi trên đống lửa”. Tổng Giám đốc công ty cổ phần Sản xuất và Thương mại Hoàn Dương - đơn vị chuyên sản xuất, kinh doanh mặt hàng nông sản, thực phẩm, thức ăn chăn nuôi... lo lắng bộc bạch, đây là một trong những thời điểm cực kỳ khó khăn với doanh nghiệp khi hàng loạt những tác động bất lợi cùng “cập” đến.
Đó là tình hình thiên tai khắc nghiệt, dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, chi phí đầu vào mọi mặt hàng đang đứng trước nguy cơ tăng giá dây chuyền theo giá xăng dầu và đặc biệt là tình trạng căng thẳng nguồn vốn trên thị trường ngân hàng. Nếu như trước đó, nguồn vốn vay của doanh nghiệp chỉ phải trả lãi từ 9 - 10%/năm thì nay đã lên tới ít nhất từ 12 - 13%/năm. Đương nhiên, chi phí vay cao hơn sẽ dẫn tới chi phí đầu vào của doanh nghiệp cũng tăng lên. “Đáng ngại hơn, việc có những khoản vì nhu cầu bức thiết, chúng tôi vẫn buộc phải vay và chấp nhận lãi suất “cắt cổ” nhưng cũng không được. Không phải chỉ những dự án đầu tư mới phải tạm dừng mà ngay cả hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng ngày của chúng tôi cũng bị ảnh hưởng bởi thiếu vốn. Ngay trong ngày 25-2, chúng tôi đã bị ngân hàng “phanh” lại 4 tỷ đồng tiền hàng” .
Cùng có chung mối quan tâm này, đầu tư xây dựng là một trong những lĩnh vực có nhu cầu vay vốn rất lớn. Mặc dù các nhà hoạch định chính sách đều đưa ra khuyến nghị rằng, doanh nghiệp cần “cơ cấu” lại danh mục đầu tư và cân nhắc để lựa chọn những dự án hiệu quả mới vay vốn nhưng trên thực tế, dự án nào của doanh nghiệp cũng phải đi vay cả. Sau khi biện pháp thắt chặt tín dụng được thực hiện, có đến 3, 4 dự án đang làm hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp đã phải xếp lại. Những dự án đang triển khai, tốc độ thực hiện cũng bị chậm lại. Đây cũng là mối quan tâm, lo lắng của khối doanh nghiệp.
Năm 2008 sẽ là một năm đầy khó khăn của các doanh nghiệp và nền kinh tế! Diễn biến trên thị trường tài chính, tiền tệ; thị trường hàng hóa, giá cả ngày một hiển hiện những nguy cơ này. Tính chung lại, một năm qua, giá dầu DOP chuyên dụng cho sản xuất nhựa đã tăng giá đến 200%, giá nhựa tăng 150% và sẽ còn tiếp tục tăng mạnh do xăng dầu tăng giá. Trong khi đó, giá bán sản phẩm của doanh nghiệp không thể tăng ngay với mức tương ứng.
Lúc này, không chỉ doanh nghiệp thiếu vốn để đầu tư, sản xuất và kinh doanh mà bản thân những đại lý, người chăn nuôi cũng thiếu tiền để nhập hàng. “ việc thắt chặt tín dụng để kiềm chế lạm phát là cần thiết nhưng phải đúng trọng tâm, trọng điểm. Còn với sản xuất, kinh doanh lĩnh vực lương thực, thực phẩm như doanh nghiệp phải được cân nhắc, xem xét bởi đây là một trong những mặt hàng có tốc độ tăng giá cao nhất thời gian qua mà có nguyên nhân là khan hiếm nguồn cung. Và nếu hoạt động sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt... nói chung bị ảnh hưởng, giá lương thực, thực phẩm sẽ còn “nóng” hơn nữa, gây tác động tiêu cực đến giá cả nói chung” .
Một chuyên gia kinh tế cũng nhận định, xét trên một khía cạnh, cuộc đua tăng lãi suất huy động VND sẽ giúp các ngân hàng đẩy nhanh tốc độ huy động vốn, giải quyết tình trạng căng thẳng vốn VND, đồng thời giúp người dân có chút ít tiền tiết kiệm bớt thiệt thòi trong bối cảnh giá tiêu dùng tăng chóng mặt. Nhưng trên thực tế, số người dân có tiền “dư dật” để hưởng lãi từ “siêu lãi suất” không nhiều, còn đại bộ phận dân cư đang phải “thắt lưng buộc bụng”, thậm chí “gồng mình” trước “cơn lốc tăng giá”. Trong khi đó, để kiềm chế lạm phát thì chỉ riêng chính sách thắt chặt tiền tệ chưa đủ và liều lượng của “bài thuốc” này cũng là điều cần tính toán, cân nhắc. Bởi vậy, đây là thời điểm mà các Bộ, ngành như Tài chính, Công thương, ngân hàng Nhà nước... phải hợp lực để ghìm cương giá cả.
Đối với hoạt động ngân hàng thương mại.
Chính sách tăng lãi suất của Ngân hàng Nhà nước là công cụ phục vụ quản lý vĩ mô, điều tiết thị trường, nhưng gánh vác trực tiếp có thể nói là chính là hệ thống các ngân hàng thương mại. Thế nhưng đến giờ, các ngân hàng thương mại đều có câu trả lời chung cho rằng việc tăng lãi suất này không quan trọng, không ảnh hưởng gì nhiều đến mình.
“Không có gì quan trọng, vì ngân hàng thương mại điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của mình phải căn cứ vào tình hình thị trường, chứ không chỉ trên động thái của ngân hàng Nhà nước”
“Với ngân hàng của tôi, không có gì bị ảnh hưởng. Có quan trọng nhưng không đáng kể, và không có gì xáo trộn”Tổng giám đốc một ngân hàng khác cũng trên cùng địa bàn TP.HCM, cho biết.
Một chuyên gia về lĩnh vực tổ chức ngân hàng cho rằng sự thờ ơ của các ngân hàng thương mại là “có lý của nó”. Chuyên gia này cho rằng về nghiệp vụ thị trường mở, ở Việt Nam phát triển không mạnh, nên việc gia tăng lãi suất của ngân hàng Nhà nước sẽ không có tác động trực tiếp nhiều đến hoạt động của các ngân hàng thương mại. Ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại đến ngân hàng Nhà nước chỉ để đổi ngoại tệ, còn hoạt động tín dụng chỉ chiếm một vài phần trăm, không đáng kể. Vì vậy dù ngân hàng Nhà nước có điều chínhh tăng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn, cũng không tác động nhiều đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại .
“Vậy nên, khi ngân hàng Nhà nước không mua USD là thị trường xôn xao ngay, vì các ngân hàng thương mại thu đổi ngoại tệ sẽ bị ảnh hưởng nặng, và thị trường cũng bị tác động mạnh, nhưng thay đổi lãi suất thì chưa chắc” chuyên gia này nói.
Thậm chí, ở Việt Nam có thể còn có hoạt động trái quy luật là khi lãi suất tăng thì hoạt động tín dụng lại tăng. Một trong những nguyên nhân là khối DN tư nhân được cơ hội vay với lãi suất rẻ hơn đi vay ngoài như lâu nay. Điều này có thể ngân hàng Nhà nước chưa tiên liệu tới.
Vậy nên nếu có tình trạng này xảy ra, hiệu quả chống lạm phát từ việc tăng lãi suất sẽ hạn chế, chứ không như đáp số của bài toán đã lập sẵn.Về lý thuyết, một khi lãi suất ngân hàng tăng thì giá chứng khoán giảm.
Động thái của Việt Nam thời điểm này trái ngược lại với động thái của Chính phủ Mỹ vừa qua.
Nếu chính quyền Tổng thống Bush quyết định cứu nền kinh tế bằng việc chi 140 tỷ USD (bằng việc giảm thuế) và liên tục cắt giảm lãi suất đồng USD, điều đó có nghĩa rằng Chính phủ Mỹ đã chấp nhận lạm phát để cứu thị trường chứng khoán trước.
Việt Nam ngược lại, đã chọn chống lạm phát làm mục tiêu. Và như vậy, thị trườnng chứng khoán tạm thời vẫn chưa có giải pháp.
Mặc dù tuần qua TTCK tăng 6 phiên liên tục, song chính từ việc cắt giảm lãi suất của ngân hàng Nhà nước, e rằng việc tăng trưởng này sẽ không giữ được lâu.
Cùng với việc ngân hàng nhà nước quyết định cho các ngân hàng thương mại cho vay cầm cố cổ phiếu với mức tối đa 20% vốn điều lệ là khoản siết lại đã thấy rõ, có thể xu hướng sắp tới thị trường chứng khoán sẽ lại tụt giảm bởi thị trường không còn tiền để mua bán cổ phiếu.
Một biểu hiện dễ thấy nhất là các ngân hàng thương mại đã bắt đầu có dấu hiệu hạn chế giao dịch tiền đồng. Một số người dân phản ảnh, khi đi vay tiền, có một ngân hàng đã không cho vay. Hỏi lý do thì ngân hàng này trả lời loanh quanh khó hiểu hoặc không thỏa đáng. Phó Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cho biết, lý do là ngân hàng không còn tiền đồng, nhưng điều này khó có thể nói với khách hàng.
Các ngân hàng thương mại thờ ơ với quyết định tăng lãi suất của ngân hànng Nhà nước đến mức, đến ngày ngân hàng Nhà nước đưa ra quyết định chính thức, nhiều ngân hàng vẫn tỏ ra gần như không hay biết. Khi TS liên lạc, một số lãnh đạo ngân hàng khá mơ hồ.
Tuy nhiên, ông Phạm Duy Hưng nói rằng, trên thực tế hầu hết các ngân hàng thương mại đều dự báo trước, nhưng thấy không ảnh hưởng gì nhiều, nên không quan tâm lắm đến thời điểm thực hiện.
Ông Hưng cho biết, trước đó vào cuối 2007 đầu 2008 khá nhiều ngân hàng thương mại đã tăng lãi suất huy động, do dự báo trước tình hình.
Đến giờ này, hầu hết các ngân hàng ở TP,HCM như Techcombank, Đông Á, ABBank VP Bank, Seabank, Habubank, EximBank, ACBđã tăng lãi suất… Những ngân hàng chưa tăng lãi suất cũng có các chương trình dự thưởng khuyến mãi lớn.
Phần lớn các ngân hàng nêu lý do là cần vốn phục vụ việc cho vay mua sắm dịp Tết, nhưng nguyên nhân sâu xa không phải như vậy.
Lạm phát cao đang làm khách hàng bị thiệt thòi khi gửi tiết kiệm và ngân hàng phải tăng lãi suất để giữ khách.
Trong bối cảnh tỷ lệ dự trữ tăng lên gấp đôi và nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ đã được ban hành, như sửa đổi Chỉ thị 03, khuyến cáo việc cho vay bất động sản, một phần vốn của các ngân hàng thương mại còn chôn vào ngoại tệ vì ngân hàng Nhaô nước hạn chế mua USD, buộc các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất đầu vào để điều chỉnh cung - cầu.
Rõ ràng, việc tăng lãi suất nằm ngoài ý muốn của ngân hàng thương mại, nhưng một khi Nhà nước không kềm chế nổi lạm phát thì buộc các ngân hàng phải tự giải quyết vấn đề của mình.
Chính vì vậy, các chuyên gia về tổ chức ngân hàng dự đoán, nếu trong thời gian tới nếu tình lạm phát vẫn chưa được ngăn chặn hiệu quả, thì các ngân hàng thương mại có thể vẫn phải tiếp tục tăng lãi suất huy động vốn.
III. GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI.
Trong nền kinh tế hiện đại, tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế là vấn đề mang tính chiến lược và là xu thế phát triển tất yếu, trong đó tự do hoá lãi suất đóng vai trò là hạt nhân và làm cho các nguồn tài chính lưu thông trong suốt, từ đó góp phần làm thúc đẩy kinh tế - tài chính Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay. Tuy nhiên quá trình tự do hoá lãi suất tự do hoá lãi suất ở nước ta phải được xem xét kĩ lưỡng và tiến hành một cách thận trọng trong khi vẫn tiếp tục kết hợp với những giải pháp nhằm hoàn thiện dần môi trường tự do hoá lãi suất.
Thứ nhất, việc tự do hoá lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ đã được tiến hành tuy nhiên vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, các quy định khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của khách hàng tại các TCTD - một rào cản đối với quá trình tự do hoá lãi suất - đã được bãi bỏ, tuy nhiên môi trường pháp lí cho việc tự do hoá lãi suất ngoại tệ vẫn còn chồng chéo, chưa được nới lỏng, chưa thật sự thu hút người gửi tiền và người đi vay.
Thứ hai, trên thị trường nội tệ lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam không còn bị khống chế song vẫn chưa được tự do hoá. Do vậy cần hình thành và hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ song song với việc thực hiện nhiều giải pháp nhằm phát triển thị trường tiền tệ, đồng thời tiếp tục nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất thông qua lựa chọn lãi suất định hướng phù hợp với mức độ phát triển của thị trưòng tiền tệ.
Việc hoàn thiện cơ chế lãi suất trên thị trường tiền tệ và nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất phải được tiến hành theo hướng tác động nhanh, mạnh đến thị trường tiền tệ trong những thời điểm cần thiết hay những giai đoạn diễn biến bất lợi cho hoạt động tiền tệ đảm bảo điều tiết được thị trường tiền tệ.
a. Giải pháp điều hành và kiểm soát lãi suất thị trường tiến tệ.
+. Hoàn thiện cơ chế tự do hoá lãi suất bằng VNĐ
Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ:
Nhà nước cần nghiên cứu sửa đổi quy định về cơ chế tài chính đối với các tổ chức tín dụng đồng thời tiến hành đồng bộ các biện pháp đồng bộ.
Ở tầm vĩ mô:
- Chính sách lương, thưởng cần tiến hành theo phương thức phân cấp thu thập thay vì bảo đảm tính bình quân như hiện nay nhằm thúc đẩy sự sáng tạo, nhiệt tình của các nhân viên cũng như lãnh đạo các Ngân hàng thương mại Quốc doanh.
- Thay đổi quy định về cơ chế tài chính tạo điều kiện cho các ngân hàng được chủ động trong tài chính là động lực để các ngân hàng hoạt động lành mạnh, phát triển, tránh được tình trạng chảy máu các cán bộ giỏi về chuyên môn vững vàng trong điều hành hoạt động kinh doanh tiền tệ.
- Sớm ban hành các văn bản đánh giá lại giá trị tài sản cố định hiện có tại các ngân hàng, từ đó xác định được chính xác số vốn nhà nước tham gia vào các Ngân hàng thương mại Quốc doanh.
- Các Ngân hàng thương mại Quốc doanh cần nhanh chóng cơ cấu lại nợ, vay ngân hàng: xử lý dứt điểm các khoản nợ khó đòi; tiến hành tách hẳn hoạt động cho vay chính sách sang cho Ngân hàng chính sách nhằm thực hiện xóa bỏ các hình thức cho vay ưu đãi trong hệ thống ngân hàng thương mại.
- Hoàn chỉnh đề án và tiến hành cổ phần hoá từng bước các ngân hàng thương mại cho phép các ngân hàng này phát hành cổ phiếu mới nhưng nhà nước vẫn là cổ đông lớn của ngân hàng.
Những giải pháp trên sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng thươnng mại phát huy hết năng lực, chủ động điều hành mọi mặt, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện tốt cho tiến trình tự do hoá lãi suất và hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Ở tầm vi mô, các ngân hàng thương mại phải tìm cách tăng cường khả năng cạnh tranh thông qua việc nâng cao chất lượng phục vụ và phát triển dịch vụ ngân hàng kết hợp với những biện pháp tiếp thị. Bên cạnh đó, các Ngân hàng này cần thực hiện tốt công tác cân đối tín dụng vừa huy động vốn hiệu quả và sử dụng vốn hợp lý nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng tốt.
Cụ thể có thể tiến hành như sau:
- Điều hành lãi suất phải đảm bảo tính thống nhất trong toàn hệ thống từng ngân hàng.
- Tổ chức tín dụng cần thành lập bộ phận chuyên theo dõi, nghiên cứu về lãi suất.
- Tổ chức tín dụng cần xác định lãi suất điều hoà vốn nội bộ và tự chủ trong việc đưa ra biên độ dao động hợp lý so với lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng.
Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ
- NHNN cần thực hiện các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất thoả thuận.
- Cần phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở của thị trường tiền tệ và ngân hàng Nhà nước phải làm tốt vai trò là người mua bán cuối cùng khi tiến hành can thiệp vào thị trường này.
- Để tăng cường phạm vi, hiệu quả điều tiết thị trường tiền tệ của ngân hàng Nhà nước, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế cần đẩy mạnh quá trình chuyển đổi, điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ và của thị trường tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp.
+. Nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất
Đây là giải pháp mang tính trực tiếp nhất và thể hiện một cách rõ rệt nhất qua quá trình thực hiện và hoàn thiện các công cụ lãi suất. Trong đó xác định mức lãi suất điều hành của thị trường là tiêu điểm quan trọng.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều cách xác định mức lãi suất điều hành của thị trường tiền tệ: ở Mĩ, FED sử dụng lãi suất định hướng liên ngân hàng và lãi suất chiết khấu; ECB sử dụng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tiền gửi qua đêm; BOJ ( Nhật Bản) sử dụng lãi suất chiết khấu và lãi suất qua đêm; trong khi đó xu thế sử dụng lãi suất liên ngân hàng đang dần trở nên phổ biến ở các quốc gia đang phát triển.Thị trường liên ngân hàng có thể hiểu là thị trường vốn “bán buôn” giữa các ngân hàng. Chính vì vậy lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng luôn là một biến số nhay cảm và phản ánh đầy đủ nhất sự biến động của thị trường, nó được coi là lãi suất tham chiếu và đo lường sự biến động của thị trường liên Ngân hàng nói riêng và thị trường tiền tệ nói chung. Do đó, chúng tôi cũng tán thành với ý kiến đưa lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng trở thành loại lãi suất điều hành trên thị trường tiền tệ Việt Nam.
Hiện nay, thị trường liên ngân hàng hình thành lãi suất dựa trên cơ sở lãi suất thoả thuận (lãi suất cho vay dựa trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng đối với khách hàng).
Giải pháp chung: cần nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường liên Ngân hàng đảm bảo lãi suất thị trường này là cơ sở để ngân hàng trung ương xác định lãi suất điều hành VNĐ (lãi suất VNBOR)
Cụ thể:
- Nên chọn ra một số ngân hàng có uy tín và dựa trên lãi suất chào của các ngân hàng trên thị trường làm cơ sở để xác định mức lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng. lãi suất bình quân này sẽ được công bố hàng ngày để các tổ chức tín dụng tham khảo.
- NHNN cần xây dựng một đề án lãi suất trên cơ sở lãi suất liên ngân hàng và các tỷ lệ lãi suất khác.
Bên cạnh đó, các loại lãi suất khác cũng cần phải được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với xu thế phát triển trong thời gian tới nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các công cụ lãi suất này.
Lãi suất tín phiếu kho bạc
NHNN cần kết hợp với Bộ Tài Chính tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc, mỗi lần đấu thầu giá trị của tín phiếu phải phù hợp với nhu cầu thực tế của ngân sách. lãi suất tín phiếu kho bạc phải nhỏ hơn lãi suất tái chiết khấu của NHNN thì chính sách tiền tệ mới có thể phát huy tác dụng.
Lãi suất tái chiết khấu
Lãi suất tái chiết khấu phụ thuộc vào chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng tín dụng trong từng thời kì. Việc xác định và điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu phải vừa tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động kinh doanh nhưng đồng thời không ảnh hưởng đến việc điều hoà và quản lý khối lượng tiền tệ trong lưu thông.
Do đó để đảm bảo công cụ tái chiết khấu phát huy tác dụng trong việc điều hành lãi suất trên thị trường cần tạo lập môi trường pháp lý cho sự lưu thông các chứng từ có giá.
Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp lý, từng bước nghiên cứu và hoàn thiện luật thương phiếu để tạo điều kiện cho loại hình dịch vụ mới này phát triển. Luật hối phiếu sắp ra đời sẽ giúp cho các Ngân hàng hạn chế rủi ro thông qua nghiệp vụ cho vay chiết khấu hối phiếu. Từ đó, ngân hàng Nhà nước thực hiện được vai trò của mình thông qua công cụ tái chiết khấu và thị trường có cơ sở vững chắc để giao dịch.
Lãi suất trên thị trường mở
Nếu công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của ngân hàng nhà nước-nó phụ thuộc vào nhu cầu xin “ tái cấp vốn” của các ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng Nhà nước. Để lãi suất trên thị trường mở trở thành một trong những công cụ chủ yếu của việc điều hành chính sách tiền tệ và trở thành lãi suất mang tính chất định hướng cần:
- Bổ sung và đa dạng hoá các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường, đa dạng hoá thời gian giao dịch, tập trung phát triển các loại hàng hoá và giấy tờ có giá ngắn hạn cho thị trường mở.
- Phát triển hoạt động thông tin thị trường, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng các công nghệ thông tin hiện đại trong quá trình thu thập, phân tích và xử lý thông tin,; nâng cao khả năng phân tích và dự báo tình hình thị trường để có biện pháp tác động điều tiết tốt, phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường tiền tệ.
- Tổ chức tốt hệ thống thông tin giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng; từng bước nâng cao chất lượng của việc thu thập và dự báo thông tin về vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, đảm bảo cung cấp kịp thời về ngân hàng Nhà nước để làm cơ sở đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời, chính xác và đem lại hiệu quả tốt nhất.
Ngoài ra việc nghiên cứu để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt cũng rất cần thiết, điều này tác động đến vốn dự trữ của ngân hàng, từ đó tác động đến khối lượng tín dụng trong nền kinh tế, đến lãi suất thị trường.
Cụ thể:
- Tiếp tục đẩy nhanh việc hoàn thiện luật thương phiếu để luật này hoạt động đạt hiệu quả cao.
- Luật thanh toán séc cần được ban hành cụ thể, chặt chẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó đảm bảo nguồn cung ứng tín dụng dồi dào cho xã hội.
b. Giải phápp tạo điều kiện và cơ sở cho việc thực hiện chính sách và cơ chế điều hành lãi suất.
Phần này chủ yếu nêu lên một số các giải pháp chung nhất trong việc đẩy mạnh thực hiện việc cải cách hoá các chính sách lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất cho phù hợp với thực tại nền kinh tế Việt Nam. Các giải pháp chủ yếu là:
- Nâng cao tính độc lập, khả năng hoạt động của ngân hàng Nhà nước; từng bước phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ và ngân hàng Nhà nước trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ; cấu trúc lại ngân hàng Nhà nước theo mô hình quản lý tập trung, hiệu quả, phù hợp với chức năng của ngân hàng Trung ương; củng cố các thiết chế thị trường tiền tệ có quy mô đủ lớn; ban hành các quy định mới về an toàn hệ thống tổ chức tín dụng, kế toán và kiểm toán ngân hàng; xây dựng hệ thống các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế và nợ nước ngoài. Theo đó cần đổi mới hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ; nâng cao khả năng dự báo kinh tế vĩ mô và tiền tệ của ngân hàng nhà nước; hoàn thiện hệ thống thu thập thông tin tiền tệ nội ngành và kết nối với các tổ chức, bộ, ngành khác để mở rộng bảng cân đối tiền tệ của ngân hàng Nhà nước; nâng cao năng lực dự báo và điều hành các công cụ chính sách tiền tệ theo hướng đồng bộ, vận hành trôi chảy cơ chế truyền tải tiền tệ.
- Phát triển thị trường tiền tệ, hiện đại hoá hệ thống thanh toán; đa dạng và chuẩn hoá các công cụ nợ; Phát triển thị trường liên ngân hàng; Phát triển thị trường ngoại hối. Huy động các nguồn vốn, kể cả tài trợ ODA để tiếp tục đầu tư hiện đại hoá hệ thống thanh toán theo phương châm “đi tắt đón đầu”; tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán; cải tiến cơ cấu tổ chức hệ thống thanh toán theo hướng thanh toán tập trung khu vực và xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ toàn quốc; khuyến khích các ngân hàng thương mại mở rộng và kết nối mạng lưới giao dịch thanh toán thẻ và các hình thức hiện đại khác.
Vai trò điều tiết lãi suất của ngân hàng Trung Ương.
Ngân hàng Trung Ương với chức năng bẩm sinh, là cơ quan duy nhất điều tiết được cung tiền của nền kinh tế, chủ động tác động đến lãi suất thị trường, nhằm hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trên thực tế, sự tăng lên của lãi suất chính thức của ngân hàng Trung Ương có thể có ảnh hưởng mạnh đến giảm lạm phát khi sự thay đổi lãi suất chính thức của ngân hàng Trung Ương có tác động nhanh, mạnh đến sự thay đổi lãi suất trong nền kinh tế và tỷ giá hối đoái. Điều này càng đúng hơn trong nền kinh tế có hệ thống tài chính mở và cạnh tranh hơn, khi đó nhiều hợp đồng được ký kết trên cơ sở lãi suất thả nổi hơn là trên cơ cở lãi suất cố định, lúc đó những thay đổi trong lãi suất chính thức càng có ảnh hưởng đến lãi suất khác và tỷ giá. Mặt khác, sự tăng lên của lãi suất ngân hàng Trung Ương có thể có ảnh hưởng nhanh hơn trong việc giảm lạm phát và dẫn đến sản lượng giảm chút ít trong ngắn hạn, khi: Kỳ vọng tiền lương và giá cả nhạy cảm hơn với những thay đổi trong lãi suất chính thức và tiền cung ứng( độ nhạy cảm này sẽ tăng lên nếu chính sách có độ tin cậy); hoặc/và tiền lương nhạy cảm với những thay đổi của sản lượng và việc làm ( sự nhạy cảm này tăng lên khi thị trường lao động linh hoạt); khi tỷ giá là linh hoạt ; và khi giá cả trong nước nhạy cảm với những thay đổi trong tỷ giá (sự nhạy cảm này phụ thuộc vào những thay đổi của giá hàng nhập khẩu theo tỷ giá, theo đó cũng phụ thuộc vào những nhà xuất khẩu nước ngoài không thay đổi lợi nhuận cận biên của họ, và phụ thuộc vào ảnh hưởng của những thay đổi giá nhập khẩu lên giá cả trong nước. Mức độ ảnh hưởng càng lớn khi nhập khẩu chiếm tỷ lệ lớn trong GDP, như đối với những nước nhỏ, mở cửa hơn là những nước lớn mà đóng cửa).
Đối với Việt Nam, thị trường tài chính đang trong giai đoạn phát triển, song mức độ phát triển còn thấp, thị trường còn có sự phân đoạn, vốn luân chuyển chưa thông suốt, giữa các thành viên thị trường thiếu sự gắn kết chặt chẽ, rủi ro đạo đức nhiều... do vậy mà sự phản ứng chính sách còn méo mó, thiếu đồng thuận. Thêm vào đó, năng lực giám sát thị trường tài chính của các cơ quan quản lý còn hạn chế. Cú sốc trên thị trường tiền tệ vào cuối tháng 2/2008 càng minh chứng cho sự yếu kém của các thành viên thị trường. Do vậy việc điều tiết lãi suất thị trường của ngân hàng Nhà nước là rất khó khăn. Mặc dù, ngân hàng nhà nước đã từng bước đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, bước đầu hình thành hành lang dao động cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, trong đó lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần thành lãi suất trần, lãi suất chiết khấu được điều chỉnh làm lãi suất sàn. Cùng với khung lãi suất trên, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được ngân hàng Nhà nước sử dụng để định hướng lãi suất thị trường. Thực tế cho thấy các lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đã được điều hành để phát tín hiệu về quan điểm chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ (thắt chặt hay nới lỏng) thời gian qua có tác động hạn chế đến lãi suất thị trường. Trong thời gian qua, các lãi suất trên chưa thực sự phát huy được vai trò định hướng lãi suất thị trường, mối quan hệ giữa các lãi suất của ngân hàng Nhà nước và lãi suất thị trường còn chưa thực sự gắn kết chặt chẽ. Sự thay đổi các lãi suất của ngân hàng Nhà nước có tác động hiệu ứng hạn chế đến sự thay đổi lãi suất thị trường tiền.
Đối với thị trường tiền tệ phát triển, lãi suất huy động ngắn hạn từ các tổ chức kinh tế và dân cư của các ngân hàng thương mại phải thấp hơn lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, và lãi suất trên thị trường liên ngân hàng xoay quanh mức lãi suất chỉ đạo của ngân hàng Trung Ương.
Việc lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở hiện nay thấp hơn lãi suất huy động và cho vay trên thị trường tiền tệ, nên khi các ngân hàng thiếu vốn đều muốn tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng Nhà nước. Điều này dễ dẫn đến tình trạng lợi dụng các kênh hỗ trợ vốn từ ngân hàng Nhà nước, làm cho ngân hàng Nhà nước xác định tình trạng dư thừa hay thiếu hụt vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại qua hoạt động thị trường mở là khó khăn.
Tuy nhiên, từ tháng 5/2008, ngân hàng Nhà nước đã thay đổi cơ chế điều hành lãi suất lãi suất cơ bản là cơ sở để các ngân hàng thương mại định lãi suất cho vay không quá 150% lãi suất cơ bản theo qui định của Bộ luật dân sự. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất thị trường mở là lãi suất định hướng liên ngân hàng. Với qui định như vậy, trong bối cảnh thị trường như hiện nay, lãi suất cơ bản đã thực sự là lãi suất tham chiếu của các ngân hàng thương mại trong cho vay nền kinh tế, và các mức lãi suất chỉ đạo khác đang đóng vai trò là lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng.
Vấn đề ở đây là để phát huy cao hiệu quả cơ chế lãi suất này trong bối cảnh thị trường hiện nay, thì việc phối kết hợp các công cụ chính sách tiền tệ để bơm ra (hút tiền vào) ở mức độ để đảm bảo không tạo ra sức ép tăng lãi suất (giảm quá lãi suất) so với mức lãi suất mục tiêu. Đồng thời với việc đổi mới này, cần tiếp tục nâng cao năng lực quản trị điều hành của các thành viên thị trường, nâng cao kỷ luật thị trường, tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động của ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại và ngân hàng Nhà nước xác định mức lãi suất chỉ đạo phù hợp với cung, cầu vốn trên thị trường cũng như khả năng chịu đựng được của nền kinh tế.
c. Bài học đối với Việt Nam
Một là, thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất một cách thận trọng. Thực tế ở mỗi quốc gia cho thấy mỗi nước tự xây dựng cho mình một lộ trình riêng sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cụ thể.
Hai là, ổn định kinh tế vĩ mô là yếu tố quyết định đến thành công của quá trình tự do hoá lãi suất. Lí thuyết và thực tế ở nhiều quốc gia cho thấy chính sách tự do hoá lãi suất sẽ là rất mạo hiểm và khó thành công trong điều kiện nền kinh tế bất ổn vì khi đó tỷ lệ lãi thực cao hơn trong điều kiện tự do hoá lãi suất có thể dẫn đến lại sự phân phối thu nhập giữa người cho vay và người đi vay.
Ba là, xây dựng một cơ chế quản lí và giám sát ngân hàng, hoạt động tín dụng có hiệu quả. Điều này sẽ góp phần hạn chế được những rủi ro cho hệ thống ngân hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Bốn là, xây dựng môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng. Việc quản lí tập trung trong ngành ngân hàng có thể là nguyên nhân dẫn đến thất bại trong quá trình tự do hoá lãi suất. Kinh nghiệm ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới trong những năm đã qua đã cho thấy hầu hết những khoản nợ khó đòi đều xuất phát từ việc không minh bạch trong hoạt động cung cấp tín dụng của các ngân hàng, can thiệp của chính phủ vào các khoản vay, tính không hiệu quả của hoạt động ngân hàng.. Để khắc phục vấn đề này chính phủ cần nhanh chóng thực thi việc cổ phần hóa các ngân hàng quốc doanh, mở rộng hơn nữa thị trường bảo hiểm, dỡ bỏ các rào cản bảo hộ.
KẾT LUẬN
Việc phát triển và hoàn thiện chính sách điều hành và xác lập lãi suất ở Việt Nam rõ ràng đang còn đặt ra nhiều vấn đề đáng được lưu ý. Nhất là trong thời kỳ sau kkhi gia nhập WTO, sự thâm nhập của các công ty tài chính, các Ngân hàng lớn trên thế giới trong khi sự yếu kém trên nhiều mặt của thị trường tài chính và công cụ chính sách lãi suất của Việt Nam đã đặt ra không ít những khó khăn thách thức cho nền tài chính Việt Nam. Thông qua một số các biện pháp hợp lý, chúng ta cần đẩy mạnh hợp lý hoá các công cụ và chính sách lãi suất như một công cụ chính yếu trong điều hành toàn bộ thị trường tài chính. Có như vậy mới đảm bảo minh bạch hoá và đủ sức cạnh tranh với các tiềm lực kinh tế từ nước ngoài.
Trong điều kiện quá trình tự do hoá lãi suất vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, chúng ta cần có những bước thay đổi thận trọng trong cả cơ chế điều hành và áp dụng các mức lãi suất thị trường, không nóng vội, chủ quan dễ dẫn đến nguy cơ khủng hoảng, thậm chí đổ vỡ thị trường tài chính trong nước. Do vậy, yếu tố bên trong từ chính các tổ chức tài chính, bộ máy điều hành là cực kỳ quan trọng.
TÀI LIỆ́U THAM KHẢO
1. Giáo trình lý thuyết Tài chính - Tiền tệ -PGS. TS.Nguyễn Hữu Tài - Trường ĐH KTQD – NXB. Thống kê – Hà Nội 2007.
2. Giáo trình Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường tài chính – Frederic S.Mishkin – NXB. Khoa học và kỹ thuật – HN 2001.
3. Kinh tế 2007 – 2008 Việt Nam và Thế giới - Thời báo Kinh tế Việt Nam.
4.Các nguồn khác từ Website: vneconomy.com.vn, vnexpress.net, sbv.gov.vn,saga.com,Apsc.com.vn,mhb.com.vn,sggp.or.vn…
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31312.doc