CH*ƯƠNG I . NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÃI SUẤT
1.1.1 Khái niệm
1.1.2 Đặc điểm
1.2 CÁC LOẠI LÃI SUẤT TÍN DỤNG.
1.2.1 Nhóm lãi suất chịu tác động của quan hệ cung – cầu vốn
1.2.2 Nhóm lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố được sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT
1.3.1 Lạm phát kỳ vọng
1.3.2 Đầu tư
1.3.3 Thuế thu nhập
1.3.4 Ngân sách của chính phủ
1.3.5 Các yếu tó khác của đời sống xã hội
1.4 VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
1.4.1 Vai trò Vĩ mô:
1.4.2 Vai trò vi mô
1.5 MỘT SỐ CHÍNH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.5.1 Chính sách lãi suất cố định
1.5.2 Chính sách lãi suất trần
1.5.3 Chính sách tự do hoá lãi suất
1.5.4 Chính sách lãi suất ưu đãi
CH*ƯƠNG II. PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI TĂNG TRƯỞNG CỦA NÓ TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NƯỚC TA QUA MỘT SỐ GIAI ĐOẠN
2.1 GIAI ĐOẠN ĐẦU ĐỔI MỚI ( NĂM 1986 ĐẾN 1990)
2.1.1 Thực trạng và tình hình quản lý lãi suất giai đoạn này
2.1.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
2.2 CƠ CHẾ LÃI SUẤT TÍN DỤNG GIAI ĐOẠN TỪ 1991 ĐẾN 1995
2.2.1 Diễn biến quản lý lãi suất thời kỳ này
2.2.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
2.3 CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT GIAI ĐOẠN TỪ 1996 ĐẾN 2000
2.3.1 Thực trạng chính sách lãi suất giai đoạn này chưa cho phép tự do hóa hoàn toàn mà có sự điều tiết của Nhà nước.
2.3.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
2.4 GIAI ĐOẠN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CÓ NHIỀU ĐỔI MỚI THEO HƯỚNG TỰ DO HOÁ (NĂM 2000- ĐẾN NAY)
2.4.1 Tình hình quản lý lãi suất giai đoạn này
2.4.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế:
CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.1. HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BẰNG VNĐ
3.2 NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC CÔNG CỤ LS
3.3. KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI VN
CH*ƯƠNG I . NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÃI SUẤT
1.1.1 Khái niệm
Từ xa xưa, khi quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá bắt đầu phát triển thì “lãi suất” bắt đầu hình thành. Lãi suất tín dụng là một phạm trù kinh tế tổng hợp mang tính lịch sử, nó có liên quan chặt chẽ đến một số phạm trù kinh tế khác, và đóng vai trò như* một đòn bẩy kinh tế cực kỳ nhạy bén. Quan trọng hơn cả, lãi suất là công cụ điều hành nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Lãi suất là một trong những vấn đề đư*ợc quan tâm nhiều nhất trong các vấn đề kinh tế.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về lãi suất, theo Sammuelson “Lãi suất là giá
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2023 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bản mới. Qua đó làm thay đổi đầu tư tại mọi mức lãi suất và làm thay đổi đến cầu về vốn vay. Nhu cầu vay vốn tăng lên, đường cầu về vốn vay dịch chuyển sang bên phải và làm cho lãi suất tăng lên. Ngược lại, các chính sách của chính phủ làm kìm hãm đầu tư sẽ là nhân tố làm giảm lãi suất.
1.3.3 Thuế thu nhập
Thuế thu nhập luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa. Thông thường người ta quan tâm nhiều đến lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Nên khi thuế thu nhập tăng lên, nó làm giảm đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia chứng khoán. Nghĩa là khi thuế thu nhập tăng, phần tiết kiệm của các cá nhân và tổ chức sẽ giảm đi, do đó lượng tiền cho vay trên thị trường sẽ giảm đi. Qua đó làm giảm cung về vốn vay, đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái, lãi suất tăng lên. Ngược lại, khi thuế thu nhập giảm đi sẽ là nhân tố làm giảm lãi suất
1.3.4 Ngân sách của chính phủ
Ta biết rằng :
Tiết kiệm quốc dân = Tiết kiệm tư nhân + Tiết kiệm Chính phủ.
Khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn thu nhập từ thuế, tình trạng thâm hụt ngân sách làm giảm tiết kiệm quốc dân, cung về vốn vay giảm, đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái và làm tăng lãi suất cân bằng. Bên cạnh đó, Chính phủ bội chi ngân sách như vậy sẽ tác động đến tâm lý dân chúng về sự gia tăng của lạm phát và nó sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất.
1.3.5 Các yếu tó khác của đời sống xã hội
Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất trên thị trường còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố về đời sống xã hội khác như: sự đa dạng của các công cụ tài chính, sự thay đổi trong cơ cấu chứng khoán, sự phát triển của các thể chế tài chính trung gian, hiệu suất sử dụng vốn trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong công nghệ và sự phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế, và cả các biến động về kinh tế, chính trị,... cũng ít nhiều ảnh hưởng đến lãi suất.
1.4 VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
Lãi suất là một trong những biến số được quan tâm chặt chẽ nhất trong nền kinh tế,bởi lãi suất không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của mỗi chúng ta mà còn là một chỉ số đo lường sức khỏe của nền kinh tế. Có thể khái quát vai trò của lãi suất qua 2 nội dung là vai trò vĩ mô và vai trò vi mô:
1.4.1 Vai trò Vĩ mô:
Đối với Ngân hàng Nhà nước thì lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Sự biến động của lãi suất trong quá trình điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế như đầu tư,tiêu dùng ,tiết kiệm,tỷ giá…qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có thể tiến hành bất cứ việc gì nếu họ muốn trong khuôn khổ pháp luật,miễn là họ có phương tiện thanh toán.Vì vậy bằng cách kiểm soát giá bán và mua quyền sử dụng tiền tức lãi suất, Ngân hàng Nhà nước ở bất kì quốc gia nào cũng có thể chi phối dược sự tăng trưởng nền kinh tế. Bằng cách tăng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể làm yếu đi khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại và do đó thực hiện chính sách tiền tệ, giảm bớt khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng. Cũng như vậy, bằng cách sử dụng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Hoặc muốn kìm hãm tốc độ phát triển hay đẩy mạnh phát triển một ngành nào đó,Ngân hàng Nhà nước có thể tăng hoặc giảm lãi suất cho vay để thu hẹp hay mở rộng đầu tư ở ngành này.
Bên cạnh vai trò hướng dẫn điều hành nền kinh tế, lãi suất tín dụng còn đóng vai trò tích cực trong kìm chế lạm phát. Tháng 3 năm 1989, Việt Nam chủ trương áp dụng chế độ siêu lãi suất tiền gửi đã nhanh chóng đem lại kết quả là chặn đứng lạm phát: từ 7% trong tháng 1; 9,2% trong tháng 2 đã giảm xuống 4,5% trong tháng 3; 3,5% trong tháng 4 và tiếp tục giảm trong những tháng sau. Điều này khẳng định sức mạnh của công cụ lãi suất trong điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô dù có gây nên hiệu ứng tiêu cực đến hoạt động kinh tế. Từ năm 1989 đến nay, chính sách lãi suất luôn được sử dụng để điều chỉnh nền kinh tế ở Việt Nam. Sau khi đã kiềm chế và giữ được lạm phát ở mức độ ổn định, Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện hạ thấp dần khung lãi suất để khuyến khích hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh,khôi phục kinh tế.
Có thể nói chính sách lãi suất là một bộ phận của chính sách tiền tệ của nhà nước nhằm điều hòa lưu thông tiền tệ, kích thích, điều tiết và hướng dẫn sản suất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Lãi suất cho vay được sử dụng để mở rộng cung ứng tiền tệ, thu hẹp đầu tư và kiềm chế lạm phát.
Thực hiện vai trò đòn bẩy kinh tế, lãi suất sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu kinh tế ở những giai đoạn khác nhau. Những ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung ứng tín dụng và thanh toán là công cụ của nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vào các loại sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với các nước chậm phát triển muốn có những bước nhảy vọt để đi ngay vào công nghệ hiện đại trong thời đại hiện nay. Như vậy, có thể coi lãi suất là công cụ trực tiếp của chính sác tiền tệ. Nó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Một sự điều chỉnh trong cơ chế điều hành lãi suất sẽ tác động đến lượng tiền trong lưu thông, đặc biệt là lượng tiền cung ứng của các ngân hàng vào lưu thông vì lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh của các ngân hàng.Việc mở rộng khung lãi suất, hoặc tăng trần lãi suất đối với cơ chế điều hành lãi suất cũ hoặc tăng lãi suất cơ bản trong cơ chế điều hành lãi suất mới đều có tác dụng làm tăng lượng tiền trong lưu thông và ngược lại.
Một tác động khác của lãi suất đó là ảnh hưởng của nó tới đầu tư,tiết kiệm. Có nhiều ý kiến khác nhau về tác động của lãi suất đến sự hình thành tiết kiệm, nhưng hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng mức lãi suất có tác động đến quy mô tiết kiệm của nhân dân. Nếu lãi suất thực tế càng cao thì số tiền gửi vào ngân hàng càng lớn.Việc này sẽ tác động đến quy mô mua sắm tài sản của nhân dân. Khi lãi suất dương,nó sẽ kích thích người dân gửi tiết kiệm tại ngân hàng vì nó có khả năng sinh lời cao và an toàn hơn việc tích trữ tài sản, nhờ đó nguồn vốn nói chung của ngân hàng tăng lên và khối lượng tiền tệ phục vụ cho nền kinh tế quốc dân cũng tăng lên, ảnh hưởng của lãi suất thực tế dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiết kiệm tài chính.
Tóm lại, lãi suất tác có tác động đến nhiều mặt đến nền kinh tế, đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Một chính sách lãi suất hợp lý sẽ vừa là điều kiện thu hút các khoản vốn nhàn rỗi, vừa để thúc đẩy đầu tư trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
1.4.2 Vai trò vi mô
Lãi suất là yếu tố thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp, bù đắp chi phí và đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng: Doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng phải hoàn trả đúng kì hạn cả vốn lẫn lãi.Vì vậy, muốn đảm bảo có nguồn vốn trả nợ, doanh nghiệp phải quan tâm thực sự đến kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Nếu hoàn trả nợ không đúng kì hạn, lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất đúng hạn (bằng 1,5 lần lãi suất đúng hạn) điều này thúc đẩy các doanh nghiệp phải cố gắng kinh doanh tốt, đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn. Hoạt động tài chính của ngân hàng kinh doanh và tổ chức tín dụng là huy động vốn để cho vay. Khi huy động vốn, ngân hàng phải trả lãi cho người gửi, khi cho vay sẽ thu lãi của người vay. Ngân hàng phải tính toán mức lãi suất cho vay và đi vay hợp lý để bù đắp các khoản chi phí nghiệp vụ và có lợi nhuận cho mình.
Mặt khác, lãi suất chính là công cụ để cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng.Thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ khống chế “trần” tối đa về lãi suất cho vay và mức độ chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay nhằm đảm bảo các lợi ích cho người gửi, người vay và ngân hàng kinh doanh có khả năng bù đắp chi phí và một phần rủi ro nếu có. Trong kinh tế thị trường, do yêu cầu của quy luật cạnh tranh, mọi thành phần kinh tế đều có sự cạnh tranh quyết liệt vì sản phẩm tiêu thụ, giá bán, phương thức phục vụ, dịch vụ bán hàng…. Đứng vững được trong quá trình cạnh tranh đó là điều khồng đơn giản. Với phương châm “đi vay để cho vay”, hoạt động huy động và sử dụng vốn của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy, các ngân hàng thương mại đều phải đổi mới phương thức phục vụ và huy động vốn để huy động được vốn tối đa đồng thời cũng phải đẩy mạnh cho vay. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng khác cũng cần phấn đấu hạ thấp chi phí, tạo cơ sở hạ thấp lãi suất”đầu ra” để thu hut được nhiều khách hàng đến mở tài khoản và vay vốn.
1.5 MỘT SỐ CHÍNH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.5.1 Chính sách lãi suất cố định
Lãi suất cố định là lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước khống chế NHTM cả về lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Khi đó sẽ không có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, không thúc đẩy tăng trưởng. Chính phủ hoàn toàn có thể kiểm soát được lãi suất, bảo vệ được nhiều doanh nghiệp nhà nước.
1.5.2 Chính sách lãi suất trần
Chính sách lãi suất trần là chính sách chỉ ấn định lãi suất cho vay tối đa. Khuyến khích huy động vốn, khả năng kiểm soát của chính phủ tốt hơn. Chính phủ ấn định một mức lãi suất và áp đặt cho toàn bộ các ngân hàng, chính sách lãi suất này được ấn định cho toàn bộ nền kinh tế.
1.5.3 Chính sách tự do hoá lãi suất
Chính sách tự do hóa lãi suất là chính sách mà chính phủ sẽ can thiệp khi mức lãi suất vượt quá mức lãi suất chung.Lãi suất tăng giảm hoàn toàn do những biến đổi trong cung và cầu về vốn vay trên thị trường.Tuy nhiên, nó chỉ thực hiện được trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo. ở Việt Nam hiện nay, chúng ta đang sử dụng chính sách lãi suất thoả thuận
Các Tổ chức tín dụng được thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại, thay thế cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng VND. Xét về dài hạn, việc xóa bỏ “trần” lãi súat cho vay khiến các TCTD có thể mở rộng mạng lưới để huy động, cho vay với lãi suất phù hợp cung – cầu của thị trường. đặc biệt đối với những người sản xuất và tổ chức kinh tế ở khu vực nông thôn. Nhất là trong bối cảnh mà tăng trưởng tín dụng đang nhanh hơn nhiều so với tăng trưởng huy động vốn. Theo NHNN, cơ chế lãi suất mới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường. Nói đúng hơn, là xoá bỏ dần những “dị biệt” của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhằm tiến tới hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế.
1.5.4 Chính sách lãi suất ưu đãi
Chính sách lãi suất ưu đai là chính sách dành cho một số đối tượng đặc biệt như người nghèo, gia đình chính sách...với lãi suất thấp. Việc thực hiện chính sách này làm người đi vay không hoặc ít chú ý đến hiệu quả dẫn đến việc dùng vốn đổ vào những dự án không mấy hiệu quả.Điều đó không giúp tăng trưởng vốn và phần lớn chính sách này lấy từ Ngân sách nhà nước.Các đối tượng được vay vốn với lãi suất ưu đãi thường là những hộ nghèo,các khu vực ở vùng sâu vùng xa, hải đảo, miền núi... Việc vay vốn với lãi suất ưu đãi tuy tạo điều kiện cho người vay, nhưng lại hạn chế phát triển thị trường vốn vay. ( à Giai phap ???)
CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI TĂNG TRƯỞNG CỦA NÓ TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NƯỚC TA QUA MỘT SỐ GIAI ĐOẠN
2.1 GIAI ĐOẠN ĐẦU ĐỔI MỚI ( NĂM 1986 ĐẾN 1991)
2.1.1 Thực trạng và tình hình quản lý lãi suất giai đoạn này
Chúng ta hãy nhìn nhận lại sự ra đời của Ngân hàng từ trước năm 1986, trong thời kỳ này chỉ có sự hoạt động duy nhất của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam hay Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Ngân hàng Quốc gia ra đời thực hiện nhiệm vụ chủ yếu cung cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế quốc doanh và hợp tác xã theo sự chỉ đạo trực tiếp của Nhà nước. Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ phân bổ Ngân sách Nhà nước chủ yếu là cho các doanh nghiệp Quốc doanh, chưa có khái niệm kinh doanh và chủ động theo nguyên tắc thị trường. Tóm lại, Nhà nước chưa quan tâm đến công cụ lãi suất mà áp đặt trong quản lý. Vai trò công cụ lãi suất trong giai đoạn này là không có.
Từ 1986, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Do những nguyên nhân như chiến tranh kéo dài tàn phá để lại những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế, sai lầm trong cơ chế điều hành nền kinh kế theo tập trung bao cấp. Xét trên khía cạnh tài chính, giai đoạn này hệ thống tài chính không phát triển do chưa nhìn nhận được vai trò của chính sách lãi suất theo tín hiệu thị trường dẫn đến nền kinh tế đã trì trệ lại càng trì trệ hơn. Nhận thấy tình hình trên, ĐH Đảng 6 tháng 12-1986 quyết định đổi mới nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, trong đó đổi mới quản lý đối với hoạt động Ngân hàng.
Nhìn chung, hoạt động của Ngân hàng vẫn nằm trong sự quản lý chặt chẽ của NN về cung cấp tín dụng cho tổ chức kinh tế Quốc doanh và hợp tác xã. Tuy nhiên, với nhiệm vụ cấp phát, quản lý vốn kiến thiết cơ bản thuộc Ngân sách cho các dự án, cho vay với mức lãi suất do Nhà nước quản lý chặt chẽ đã có tác động đến việc nâng cao trách nhiệm cho các ngành trong việc sử dụng nguồn vốn có hiệu quả.
Cũng trong giai đoạn này, lạm phát rất cao do những sai lầm trong cải cách giá - lương – tiền. Đỉnh điểm là năm 1986, chỉ số lạm phát lên tới 774.7%, sản xuất đình trệ nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Việc tăng lãi suất không đáng kể với mức lạm phát quá cao lúc bấy giờ. Thời kỳ lãi suất thực âm kéo dài từ 1986-1989, có thể nói trước 1989 do chưa áp dụng triệt để chính sách lãi suất theo cơ chế thị trường, cùng với mức lạm phát phi mã khiến cho lãi suất thực tế ở mức âm.
Trước tình hình trên, đến năm 1988, cùng với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng Việt Nam bắt đầu chuyển đổi từ hệ thống Ngân hàng 1 cấp sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp bao gồm có 4 Ngân hàng quốc doanh. Lãi suất tiền gửi và cho vay của các Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước quy định, mức lãi suất được áp dụng khác nhau tùy theo các đối tượng. Bên cạnh đó, Chính phủ áp dụng chính sách lãi suất mới nâng dần mức lãi suất lên theo kịp chỉ số lạm phát, đối phó với tình hình lạm phát cao lúc bấy giờ. Tuy nhiên, mức lãi suất huy động thực tế vẫn âm, thể hiện năm 1982, lãi suất huy động là 1.5%/ năm kỳ hạn 3 tháng với mức lạm phát 7.95%/ năm dẫn đến lãi suất thực âm 5.45%/ năm.
2.1.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
Trong giai đoạn đầu đổi mới, nền kinh tế nhìn chung đang trong tình trạng khủng hoảng, sản xuất còn trì trệ, đời sống nhân dân còn khó khăn. Ngoài nguyên nhân, do chiến tranh, cấm vận, tình hình trên còn do những sai lầm trong cơ chế quản lý còn non trẻ của Nhà nước ta. Sớm nhận thức được sai lầm, Đảng và Nhà nước đã có những điều chỉnh đáng kể.
Xét trên khía cạnh chính sách tiền tệ nói chung và chính sách lãi suất nói riêng cũng có những bước đổi mới lớn. Nhìn chung, trong giai đoạn này, Chính phủ duy trì chính sách lãi suất cố định. Tuy đây là chính sách chưa mang tính chất tự do hoạt động theo tín hiệu thị trường nhưng với nền kinh tế còn nhiều yếu kém thì nó đã đem lại hiệu quả nhất định. Việc Ngân hàng Nhà nước chỉ định mức lãi suất có tác dụng ổn định thị trường vốn, bảo hộ những nhiều ngành kinh tế còn non yếu mới ra đời trong thời kỳ này.
Việc nâng mức lãi suất huy động được thực hiện nhưng chưa theo kịp được lạm phát, mức lãi suất thực âm còn kéo dài từ những trước năm 1986 cho đến đầu năm 1992. Tuy nhiên, chính sách này cũng đã có ảnh hưởng tới đời sống nhân dân trước tình hình lạm phát lúc bấy giờ. Nhờ tăng lãi suất mà việc huy động vốn trở nên có hiệu quả hơn, lạm phát từng bước được đẩy lùi. Cũng trong thời gian này, hoạt động huy động vốn diễn ra hết sức sôi động làm cho lãi suất tăng nhanh, các quỹ tín dụng đua nhau mọc lên nhưng do thiếu sự kiểm soát nghiêm ngặt nên nhanh chóng đổ bể. Đến năm 1990, nhiều quỹ tín dụng huy động vốn với lãi suất cao đồng loạt đổ bể, hậu quả đánh mất lòng tin của dân chúng.
2.2 CƠ CHẾ LÃI SUẤT TÍN DỤNG THỜI KỲ TỪ 1992 ĐẾN 1995
2.2.1 Diễn biến quản lý lãi suất thời kỳ này
Đại hội Đảng VII tháng 6/1991 đã đề ra chiến lược: ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 đồng thời đề ra phương hướng cho kế hoạch 5 năm 1991 - 1995. Khó khăn lớn lúc này là nền kinh tế vẫn bị bao vây, cấm vận trong bối cảnh các nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô (cũ) rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Song thuận lợi lúc này là đổi mới đã phát huy tác dụng, các cơ sở kinh tế thích nghi dần với cơ chế quản lý mới.
Tháng 6/1992 được coi là mốc quan trọng đánh dấu một bước chuyển quan trọng nhất về chất trong cơ chế lãi suất tín dụng. NHNN đã chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương và được quản lý theo khung lãi suất. Những điểm cơ bản của chính sách lãi suất mới là như sau:
Một là, NHNN quy định khung lãi suất của NHTM đối với nền kinh tế (lãi suất tối thiểu đối với tiền gửi và lãi suất tối đa đối với tiền cho vay).
Hai là, lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân, chấm dứt sự bao cấp về vốn qua kênh tín dụng ngân hàng.
Ba là, đối với lãi suất ngoại tệ, NHNN quy định lãi suất cho vay tối đa bằng ngoại tệ. Lãi suất huy động bằng ngoại tệ do các NHTM quyết định trên cơ sở lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế và cung - cầu vốn ngoại tệ trong nước.
Từ thág 6/1992 đến cuối năm 1993, NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho phù hợp với chỉ số lạm phát và hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Lãi suất cho vay tối đa bằng ngoại tệ được điều chỉnh tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm, phù hợp với lãi suất trên thị trường quốc tế. Kết quả là vốn huy động hàng năm tăng hơn 20%, tín dụng đối với nền kinh tế tăng gần 50%.
Trong 2 năm 1994 - 1995, cơ chế lãi suất tiếp tục được điều chỉnh theo hướng thích ứng với cơ chế thị trường, phù hợp với quan hệ cung - cầu vốn, đồng thời hạn chế sự can thiệp trực tiếp của NHN vào hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHNN chỉ khống chế mức lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể do tổ chức tín dụng ấn định. Cho phép các tổ chức tín dụng điều chỉnh lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế lên gần sát với mức lãi suất tiền gửi dân cư. Tăng lãi suất cho vay trung và dài hạn lên 1,7%/tháng.
Lãi suất ngoại tệ được điều chỉnh 3 lần từ 7,5%/năm lên 9,5%/năm phù hợp với sự biến động của lãi suất thị trường quốc tế.
Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng được thể hiện ở bảng sau:
Diễn biến lãi suất cho vay và tiền gửi bình quân các năm
Đơn vị: %/ tháng
Lãi suất/thời điểm
1986 -1990
1991
1992
1993
1994
1995
Cho vay bình quân tháng
4,3
2,5
2,5
1,8
1,6
1,7
Tiền gửi bình quân tháng
6,0
2,9
1,9
1,4
1,3
1,4
Chênh lệch
- 1,7
- 0,4
0,6
0,4
0,3
0,3
Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế, NHNN.
2.2.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
a) Như vậy, điểm nổi bật của cơ chế điều hành lãi suất tín dụng thời kỳ 1992 - 1995 so với thời kỳ trước 1992 có thể được nhìn nhận dưới các mặt sau:
- Cơ chế lãi suất thực dương, lãi suất cho vay bình quân lớn hơn lãi suất tiền gửi, lãi suất tiền gửi lớn hơn tỷ lệ lạm phát. NHNN chỉ quy định khung lãi suất tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng linh hoạt hơn. Mặt khác, NHNN còn cho phép các TCTD huy động và cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các dự án có hiệu quả, chủ yếu là đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ nông dân. Đây là bước khởi đầu đánh dấu tiến trình tự do hoá lãi suất trong các lần điều chỉnh cơ chế lãi suất sau này.
- Xoá bỏ quy định lãi suất phân biệt giữa các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế, đưa lãi suất biến động tiến sát với lãi suất thị trường phù hợp với quan hệ cung - cầu về vốn; rút ngắn khoảng cách chênh lệch bất hợp lý giữa lãi suất cho vay ngắn hạn với lãi suất cho vay trung và dài hạn, giữa lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại tệ.
- Bỏ bao cấp qua lãi suất, thúc đẩy các TCTD chuyển sang hạch toán kinh doanh, hạn chế việc ngân sách phải cấp bù lỗ lãi suất cho ngân hàng, đồng thời giúp các doanh nghiệp có cơ sở xác định thực chất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
b) Tuy nhiên, cơ chế lãi suất tín dụng thời kỳ này cũng bộc lộ những tồn tại chủ yếu sau:
- Quá trình điều hành cơ chế lãi suất còn thiếu linh hoạt, chưa điều chỉnh kịp thời khung lãi suất để phù hợp với tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Tăng trưởng kinh tế thời kỳ này bình quân hơn 8%, lạm phát được kiềm chế ở mức 2 con số, riêng năm 1993 ở mức 1 con số nhưng lãi suất vẫn giữ nguyên ở mức quá cao.
- Lãi suất cho vay còn cao so với hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều này được dễ ràng nhận thấy khi tỷ suất lợi nhuận bình quân của các ngành Công - Nông nghiệp và Dịch vụ từ 1992 - 1995 chỉ ở mức 5,15 - 12%, trong khi lãi suất cho vay bình quân ở mức 12 - 21%/năm.
- Lãi suất cho vay trung và dài hạn còn thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, TCTD không mạnh dạn mở rộng cho vay trung và dài hạn do lo rủi ro. Điều này không phù hợp với cơ chế thị trường.
- Lãi suất đồng Việt Nam và ngoại tệ còn khoảng cách chênh lệch khá lớn. Điều này gây bất lợi đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vì họ phải vay đồng Việt Nam với mức lãi suất cao trong khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ thấp, xuất hiện tình trạng vay vốn ngoại tệ lòng vòng giữa các doanh nghiệp, NHTM với nhau để hưởng chênh lệch lãi suất, đẩy cầu ngoại tệ tăng cao.
- Bên cạnh cơ chế khung lãi suất là cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận bằng nguồn vốn huy động kỳ phiếu, trái phiếu của NHTM. Do vậy, nhiều TCTD, nhất là các NHTMCP cho vay bằng các nguồn vốn khác cũng áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận, do đó đẩy mặt bằng lãi suất lên cao vượt quá khung lãi suất cho vay quy định của NHNN.
2.3 CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT THỜI KỲ TỪ 1996 ĐẾN 2000
2.3.1 Thực trạng chính sách lãi suất thời kỳ này
Trong giai đoạn này, Ngân Hàng Nhà Nước đã đưa ra nhiều quyết định quan trọng về lãi suất , nhằm từng bước tự do hóa lãi suất theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn đóng vai trò rất quan trọng. Chính sách lãi suất trần và chính sách lãi suất sàn từng bước được đổi mới để thích ứng với sự phát triển kinh tế .
Năm 1996 , chính sách lãi suất có sự thay đổi lớn, mức lãi suất đã được hạ xuống còn 2,1% -1,75%/tháng, kèm theo quy định mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi tối đa không được quá 0,35%.
Năm 1997-1998, Ngân Hàng Nhà nước đã không xiết chặt kiểm soát lãi suất mà lại có vẻ nới lỏng chính sách lãi suất, trần lãi suất được nâng lên, các Ngân hàng Thương mại có thể tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn và quy định giới hạn chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi ở mức 0,35%/tháng. Giảm lãi suất cho vay bình quân tối thiểu là 0,35%/tháng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thực hiện chủ trương của Quốc hội, theo chỉ đạo của Chính phủ ngày 28/12/1997 Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước đã kí quyết định số 381/QĐ-NH1về việc điều chỉnh lãi suất tín dụng với nội dung bắt đầu được thực hiện từ ngày 1/1/1998 , theo đó quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn là 1,75%/tháng và trần lãi suất cho vay trung và dài hạn là 1.7%/tháng, lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại quy định trên cơ sở chênh lệch lãi suất huy động bình quân và lãi suất cho vay bình quân không quá 0,35%/tháng .
Quyết định này đạt được một bước tiến quan trọng về quản lý lãi suất, giao quyền chủ động cho các ngân hàng thương mại trong việc điều hành lãi suất theo tín hiệu của thị trường, theo quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường , hoàn cảnh riêng của từng ngân hàng thương mại, từng khu vực kinh tế . Qua việc thực hiện quyết định số 381/QĐ-NH, hầu hết các Ngân hàng Thương mại đã thực hiện tốt trần lãi suất cho vay là 1,75%/tháng, nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng tiếp tục tăng lên, đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế . Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy một điều rằng, nguồn vốn của các ngân hang thương mại tăng mạnh, chủ yếu là gia tăng nguồn vốn ngắn hạn và dẫn đến một hiện tượng là một số ngân hàng thương mại quốc doanh thừa vốn nhắn hạn trong khi vốn trung và dài hạn lại bị thiếu một cách nghiêm trọng .
Năm 1998, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ba lần điều chỉnh giảm mức lãi suất trần. Quyết định số191/QĐ-NH1 ban hành ngày 15/7/1998 theo đó trần lãi suất cho vay ngắn hạn giảm xuống còn 1,6%/tháng , trung dài hạn xuống 1,65%/tháng .
Quyết định số 225/QĐ-NH1 ban hành ngày27/8/1998 hạ trần lãi suất cho vay ngắn hạn xuống còn 1,5%/tháng , trung dài hạn 1,55%/tháng .
Quyết định số 266/QĐ-NH1 ban hành ngày 27/9/1998 giảm trần lãi suất cho vay ngắn hạn xuống 1,25%/tháng , trung dài hạn là 1,35%/tháng .
Như vậy, chúng ta thấy trần lãi suất cho vay ngắn hạn của các tổ chúc tín dụng không ngừng điều chỉnh giảm cùng với sự giảm xuống của tỉ lệ lạm phát lãi suất cho vay trung dài hạn giảm nhưng tăng trưởng đối với lãi suất ngắn hạn, điều này là hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và nguyên lý chung . Các quyết định đảm bảo được cả ba lợi ích : lợi ích của nền kinh tế quốc dân nói chung, của người gửi tiền và các tổ chức tín dụng . Đặc biệt, đáng chú ý là lần đầu tiên việc quy định chênh lệch lãi suất đã thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ, thay vì quy định từng lãi suất cụ thể đối với từng nguồn cụ thể như trước đây, Ngân hàng Nhà nước chỉ khống chế chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân , các tổ chức tín dụng được tự chủ ấn định các mức lãi suất huy động cụ thể . Chính sách này đã khuyến khích hoạt động tín dụng phát triển tăng trưởng kinh tế cao , tạo việc làm và kiềm chế lạm phát ở mức thấp.
Cho đến tháng 1 năm 2000 Ngân hàng Nhà nước có thêm hai lần điều chỉnh lãi suất đó là:
- Quyết định số 179/QĐ-NH ban hành ngày 28/5/1999 hạ trần lãi suất xuống 1,00%/tháng , trung dài hạn là 1,10%/tháng .
- Quyết định số 39/QĐ-NH1 ban hành ngày 17/1/2000 tăng dần lãi suất cho vay ngắn hạn lên 1,2%/tháng, trung và dài hạn là 1,25%/tháng .
Cùng với Quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước còn quy định các mức lãi suất ưu đãi cho vay phục vụ người nghèo (0,8%/tháng) cho vay với các tổ chức kinh tế và dân cư thuộc vùng núi cao 0,5 0,6%/tháng, cho vay học sinh, sinh viên 0,7%/tháng, lãi suất nợ quá hạn 150% mức lãi suất trần cho vay cùng loại. Quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ tối đa của các tổ chức kinh tế tại các tổ chức tín dụng không kỳ hạn là 1,5%/năm, kỳ hạn 6 tháng 4%/năm, kỳ hạn trên 6 tháng là 3,5%/năm .
Mặt khác, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, nên nền kinh tế tăng trưởng thấp. Nhưng về chính sách lãi suất chưa áp dụng hoàn toàn theo cơ chế thị trường nên lãi suất Việt Nam đồng vẫn cao hơn nhiều so với tỷ lệ lạm phát . Năm 2000 do có thiểu phát nên lãi suất đã được điều chỉnh giảm chút ít, nhưng xem xét lãi suất thực dương thì lại không phải giảm mà tăng lên. Tỷ lệ lãi suất dương chia cho tỷ lệ lạm phát năm 1996 là 120%, năm 1997 là 175%, năm 1998 là 11,6% ,năm 1999 là 5350% và năm 2000 thì quá cao trên 6000%. Điều này lý giải vì sao giai đoạn này thiểu phát.
2.3.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
a) Những mặt tích cực
- Đảm bảo sự phù hợp , ổn định giữa lãi suất huy động và chỉ số lạm phát, giữa lãi suất đầu ra với lãi suất huy động. Do đó, lãi suất thực dương đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền .
- Trần lãi suất cho vay tối đa liên tục được điều chỉnh giảm kết hợp với từng bước nới lỏng các điều kiện vay vốn (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, công chứng…) nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, hiệu quả kinh tế và nền kinh tế tăng trưởng cao, Đồng thời, lãi suất thấp phù hợp hơn với tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chính sách lãi suất kết hợp với nhiều biện pháp, nhằm tăng nhanh khối lượng vốn huy động và cho vay, để tạo ra khối lượng vốn cho đầu tư phát triển kinh tế,xã hội
- Điều chỉnh các mức lãi suất ưu đãi phù hợp để ưu tiên phát triển kinh tế những vùng khó khăn như: vùng núi, hải đảo, tầng lớp khó khăn như nông dân, học sinh đi học
- Chính sách lãi suất tiếp tục được điêù chỉnh theo hướng tự do hoá, quyền chủ động các Ngân hàng Thương mại ngày càng được nới lỏng, Nhà nước giảm dần sự can thiệp quá sâu tạo điều kiện ban đầu cho việc lãi suất được hình thành theo quy luật cung cầu trên thị trường.
b) Những mặt hạn chế
- Lãi suất thực thường xuyên biến đổi do lạm phát thay đổi thường xuyên, Nhưng lãi suất huy động lại không được điêù chỉnh kịp thời. Do đó, thu nhập thực tế của người gửi tiền bấp bênh, không ổn định
- Chính sách lãi suất vẫn còn mang tính chính sách xã hội, nên ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại, chưa xem xét đến mức độ rủi ro của các tổ chức tín dụng khi gặp phải trong hoạt động kinh doanh tiền tệ
- Trong suốt thời gian dài vẫn tồn tại chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ và gây khó khăn trong việc thu hút vốn ngoại tệ từ lưu thông về , tạo trục trặc cho những người vay vốn ngoại tệ từ ngân hàng .
2.4 GIAI ĐOẠN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CÓ NHIỀU ĐỔI MỚI THEO HƯỚNG TỰ DO HOÁ (NĂM 2000- ĐẾN NAY)
2.4.1 Tình hình quản lý lãi suất giai đoạn này
Trước năm 2000, Ngân hàng Nhà nước ấn định mức giá trần cho vay như đã nêu trên. Thời điểm năm 1999, khi Ngân hàng Nhà nước giảm mức lãi suất trần xuống cho phù hợp với tình hình lạm phát, các Ngân hàng thương mại không điều chỉnh kịp dẫn đến việc lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trần lãi suất. Trước tình hình đó tháng 8 năm 2000, Ngân hàng Nhà nước thay thế trần lãi suất bằng một cơ chế mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do Nhà nước công bố. Các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng biên độ 0.3%/ tháng đối với vốn ngắn hạn và 0.5%/ tháng đối với vốn trung và dài hạn. Về bản chất, cơ chế lãi suất cơ bản không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, lãi suất cơ bản cộng biên độ cao hơn trần lãi suất cũ rất nhiều, đây là cơ sở cho các ngân hàng thực hiện việc thoả thuận lãi suất với khách hàng để ấn định mức lãi suất cho ngân hàng mình. Trên thực tế, lãi suất cho vay của các ngân hàng luôn cao hơn mức lãi suất cơ bản nhưng biến động theo lãi suất cơ bản. Thể hiện năm 2000 và năm 2001, khi Ngân hàng Nhà nước giảm mức lãi suất cơ bản thì lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại có xu hướng giảm theo. Cũng trong thời gian này lãi suất tiền gửi tăng lên, chính sự cạnh tranh của các ngân hàng đã giảm sự chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
Tới tháng 11 năm 2001, lãi suất cho vay ngoại tệ được tự do hoá, cho phép người đi vay có thể thương lượng lãi suất với ngân hàng nội địa cũng như các ngân hàng nước ngoài. Đến tháng 6 năm 2002, lãi suất đồng Việt Nam cũng được tự do hoá, ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng. Ngay khi áp dụng chính sách lãi suất mới này, các ngân hàng tăng lãi suất huy động và mức lãi suất cho vay cũng nhích dần lên. Thời điểm này, lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước chỉ mang tính chất tham khảo. Nguyên tắc điều hành lãi suất của ngân hàng là lãi suất do thị trường quyết định. Ngân hàng Nhà nước chỉ có tác động nhất định hạn chế để thị trường không có biến động đột biến.
Năm 2004, tình hình Thế giới có nhiều biến động, giá thành nguyên vật liệu tăng mạnh tạo ra chi phí đẩy làm cho giá cả tăng nhanh, lạm phát gia tăng. Lãi suất tăng không theo kịp lạm phát, đồng tiền mất giá, làm cho lạm phát càng gia tăng. Đến 6 tháng đầu năm 2005, chỉ số giá tăng so năm 2004 là 8.6%, như vậy đã làm cho lãi suất thực tế trong 2 năm này ở mức âm. Lạm phát cao ở nhiều nước, Cục dự trữ liên bang Mỹ tăng lãi suất lên cao cũng trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình lãi suất ở Việt Nam.
Năm
Lãi suất cho vay (%/năm)
Lạm phát (%/năm)
Lãi suất cho vay thực tế (%/năm)
Tỷ lệ LSCVTT/TP (%)
2001
9.0
0.8
8.2
1052.0
2002
9.2
4.0
5.2
130.0
2003
9.6
3.0
6.6
220.0
2004
10.0
9.5
0.5
5.2
Tình hình lãi suất cho vay qua các năm 2001-2004
Năm
Lãi suất huy động (%/năm)
Lạm phát (%/năm)
Lãi suất huy động thực tế (%/năm)
Tỷ lệ LSHĐTT/TP (%)
2001
5.4
0.8
4.6
575.0
2002
6.0
4.0
3.0
50.0
2003
6.2
3.0
3.2
106.6
2004
6.2
9.5
-3.3
-34.74
Tình hình lãi suất huy động qua các năm 2001-2004
Trước tình hình năm 2004-2005 có nhiều diễn biến, giá cả tăng, nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế cũng tăng, Ngân hàng nhà nước không tăng mức lãi suất, chủ trương giữ ổn định cả lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, chính sách được áp dụng để kìm chế lạm phát hện này đó là mức dự trữ bắt buộc.
Loại lói suất
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
Lói suất cơ bản
0,65%/tháng (7,8%/năm)
1426/QĐ-NHNN ngày 30/9/2005
01/10/2005
Lói suất tái cấp vốn
6,00%/năm
316/QĐ-NHNN ngày 25/3/2005
01/04/2005
Lói suất chiết khấu
4,00%/năm
316/QĐ-NHNN ngày 25/3/2005
01/04/2005
Mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nước áp dụng với các Ngân hàng thương mại
______________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________Tho____________________________________________________________________________________________________________________________
2.4.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế:
Sau khi thực hiện tự do hoá lãi suất, do sự cạnh tranh của các ngân hàng, đã đẩy mức lãi suất cho vay và huy động của các ngân hàng tăng dần lên. Dẫn đến mức lãi suất thực tế trong 3 năm 2001-2003 khá cao. Trên thực tế cho thấy lãi suất giờ đây đã phản ánh đúng hơn cung cầu trên thị trường vốn vay, các ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường và sẽ đẩy mạnh cải cách để tăng cường khả năng cạnh tranh. Ngoài ra, lãi suất cơ bản chỉ mang tính chất tham khảo, các ngân hàng sẽ có thể đưa ra lãi suất khác nhau tuỳ theo mức rủi ro của khách hàng và chi phí cho vay. Như vậy, các hộ kinh doanh nhỏ hay nông dân không bị loại ra ngoài như trước đây, góp phần thúc đẩy sản xuất nhỏ nhưng lại đóng vai trò khá lớn trong sự phát triển của cả nền kinh tế. Lãi suất cho vay được tự do hoá đã có tác động tích cực làm cho hệ thống tín dụng ngân hàng sôi động hẳn lên dưới sự cạnh tranh của các ngân hàng. Các ngân hàng phải nâng cao khả năng thẩm định dự án, quyết định mức lãi suất, cạnh tranh thu hút vốn vay, tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả khi chênh lệch cho vay và huy động giảm xuống. Hoạt động của các ngân hàng góp phần hướng hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng tích cực hơn nhờ việc thẩm định cung cấp vốn cho các dự án có hiệu quả. Ngoài ra, đây là bước đi đúng của toàn bộ hệ thống tín dụng ngân hàng trong quá trình hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, cũng do sự cạnh tranh mở rộng quy mô ngân hàng dẫn đến việc đẩy lãi suất lên cao, làm cho lãi suất không ổn định. Việc tăng lãi suất huy động khuyến khích nhân dân gửi tiền vào nhưng cũng làm cho lãi suất cho vay tăng lên, chi phí đề năng lên doanh nghiệp khiền cho các doanh nghiệp trì hoãn vay vốn mở rộng sản xuất như vậy gây tác động xấu đến nền kinh tế. Hiện nay, một vấn đề đặt ra đó là lãi suất VND cao hơn lãi suất USD, tỷ giá ổn định khiến cho nhiều doanh nghiệp chuyển sang vay bằng USD. Nhưng, nguy cơ tiềm ẩn đó là khi có sự biến động mạnh về tỷ giá sẽ gây rủi ro cho các doanh nghiệp.
Hiện nay, Ngân hàng nhà nước chỉ sử dụng lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất trên thị trường mở kết hợp công cụ khác để điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản chỉ mang tính chất tham khảo. Lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn chưa phản ánh hết lãi suất thị trường, chỉ thể hiện diễn biến ngắn hạn. Đây là khoản vay khi ngân hàng thiếu hụt thanh khoản thì nó mới phát huy tác dụng. Như vậy, tình hình tăng lãi suất từ năm 2001-2003 không thể hiện sự khan hiếm vốn của thị trường, các công cụ nêu trên của Ngân hàng nhà nước là chưa phát huy được tác dụng ngăn làn sóng tăng lãi suất của các ngân hàng, nó có tác động mạnh tới tăng trưởng nền kinh tế.
Năm 2004-2005, tình hình có diễn biến khác lạm phát là tình trạng chung đối với toàn bộ thế giới. Các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất do sức ép của việc FED tăng lãi suất đồng ngoại tệ. Trái với tình hình trên, Ngân hàng nhà nước chủ trương giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, mặc dù về mặt nào đó lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu có tác động nhất định đến cung cầu trên thị trường. Công cụ tác động chỉ là dự trữ bắt buộc. Đây là bứơc đi được xem là thận trọng của Ngân hàng nhà nước đạt được mục tiêu tăng trưởng lại không ảnh hưởng đến chính sách kích cầu của Chính phủ.
CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI.
Trong nền kinh tế hiện đại, tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế là vấn đề mang tính chiến lược và là xu thế phát triển tất yếu, trong đó tự do hoá lãi suất đóng vai trò là hạt nhân và làm cho các nguồn tài chính lưu thông trong suốt, từ đó góp phần làm thúc đẩy kinh tế-tài chính Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay. Tuy nhiên quá trình tự do hoá lãi suất (TDHLS) ở nước ta phải được xem xét kĩ lưỡng và tiến hành một cách thận trọng trong khi vẫn tiếp tục kết hợp với những giải pháp nhằm hoàn thiện dần môi trường tự do hoá lãi suất.
Thứ nhất, việc tự do hoá lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ đã được tiến hành tuy nhiên vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, các quy định khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của khách hàng tại các tổ chức tín dụng - một rào cản đối với quá trình TDHLS - đã được bãi bỏ, tuy nhiên môi trường pháp lí cho việc tự do hoá LS ngoại tệ vẫn còn chồng chéo, chưa được nới lỏng, chưa thật sự thu hút người gửi tiền và người đi vay.
Thứ hai, trên thị trường nội tệ LS cho vay bằng đồng VN không còn bị khống chế song vẫn chưa được tự do hoá. Do vậy cần hình thành và hoàn thiện cơ chế điều hành LS trên thị trường tiền tệ song song với việc thực hiện nhiều giải pháp nhằm phát triển thị trường tiền tệ, đồng thời tiếp tục nâng cao hiệu quả của các công cụ LS thông qua lựa chọn LS định hướng phù hợp với mức độ phát triển của thị trưòng tiền tệ.
Việc hoàn thiện cơ chế LS trên thị trường tiền tệ và nâng cao hiệu quả của các công cụ LS phải được tiến hành theo hướng tác động nhanh, mạnh đến thị trường tiền tệ trong những thời điểm cần thiết hay những giai đoạn diễn biến bất lợi cho hoạt động tiền tệ đảm bảo điều tiết được thị trường tiền tệ.
3.1. HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BẰNG VNĐ
3.1.1 Hoàn thiện cơ chế điều hành LS trên thị trường tiền tệ
Nhà nước cần nghiên cứu sửa đổi quy định về cơ chế tài chính đối với các tổ chức tín dụng đồng thời tiến hành đồng bộ các biện pháp đồng bộ.
Ở tầm vĩ mô:
- Chính sách lương, thưởng cần tiến hành theo phương thức phân cấp thu thập thay vì bảo đảm tính bình quân như hiện nay nhằm thúc đẩy sự sáng tạo, nhiệt tình của các nhân viên cũng như lãnh đạo các NHTMQD.
- Thay đổi quy định về cơ chế tài chính tạo điều kiện cho các ngân hàng được chủ động trong tài chính là động lực để các ngân hàng hoạt động lành mạnh, phát triển, tránh được tình trạng chảy máu các cán bộ giỏi về chuyên môn vững vàng trong điều hành hoạt động kinh doanh tiền tệ.
- Sớm ban hành các văn bản đánh giá lại giá trị TSCĐ hiện có tại các ngân hàng, từ đó xác định được chính xác số vốn nhà nước tham gia vào các NHTMQD.
- Các NHTMQD cần nhanh chóng cơ cấu lại nợ, vay ngân hàng: xử lý dứt điểm các khoản nợ khó đòi; tiến hành tách hẳn hoạt động cho vay chính sách sang cho NH chính sách nhằm thực hiện xóa bỏ các hình thức cho vay ưu đãi trong hệ thống NHTM.
- Hoàn chỉnh đề án và tiến hành cổ phần hoá từng bước các NHTM cho phép các ngân hàng này phát hành cổ phiếu mới nhưng nhà nước vẫn là cổ đông lớn của ngân hàng.
Những giải pháp trên sẽ tạo điều kiện cho các NHTM phát huy hết năng lực, chủ động điều hành mọi mặt, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện tốt cho tiến trình tự do hoá lãi suất và hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
ở tầm vi mô, các NHTM phải tìm cách tăng cường khả năng cạnh tranh thông qua việc nâng cao chất lượng phục vụ và phát triển dịch vụ ngân hàng kết hợp với những biện pháp tiếp thị. Bên cạnh đó, các NH này cần thực hiện tốt công tác cân đối tín dụng vừa huy động vốn hiệu quả và sử dụng vốn hợp lý nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng tốt.
Cụ thể có thể tiến hành như sau:
- Điều hành LS phải đảm bảo tính thống nhất trong toàn hệ thống từng ngân hàng.
- TCTD cần thành lập bộ phận chuyên theo dõi, nghiên cứu về LS
- TCTD cần xác định LS điều hoà vốn nội bộ và tự chủ trong việc đưa ra biên độ dao động hợp lý so với LS trên TTLNH.
3.1.2 Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ
- NHNN cần thực hiện các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành LS thoả thuận
- Cần phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở của thị trường tiền tệ và NHNN phải làm tốt vai trò là người mua bán cuối cùng khi tiến hành can thiệp vào thị trường này.
- Để tăng cường phạm vi, hiệu quả điều tiết thị trường tiền tệ của NHNN, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế cần đẩy mạnh quá trình chuyển đổi, điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ và của thị trường tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp.
3.2 NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC CÔNG CỤ LS
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều cách xác định mức lãi suất điều hành của thị trường tiền tệ: ở Mĩ, FED sử dụng LS dịnh hướng liên ngân hàng và LS chiết khấu; ECB sử dụng LS tái cấp vốn, LS cho vay qua đêm và LS tiền gửi qua đêm; BOJ ( Nhật Bản) sử dụng lãi suất chiết khấu và lãi suất qua đêm; trong khi đó xu thế sử dụng LS liên ngân hàng đang dần trở nên phổ biến ở các quốc gia đang phát triển.Thị trường liên ngân hàng(TTLNH) có thể hiểu là thị trường vốn “bán buôn” giữa các ngân hàng. Chính vì vậy LS trên TTLNH luôn là một biến số nhay cảm và phản ánh đầy đủ nhất sự biến động của thị trường, nó được coi là lãi suất tham chiếu và đo lường sự biến động của TTLNH nói riêng và thị trường tiền tệ nói chung. Do đó, chúng tôi cũng tán thành với ý kiến đưa LS trên TTLNH trở thành loại LS điều hành trên thị trường tiền tệ VN.
Hiện nay, thị trường liên ngân hàng hình thành lãi suất dựa trên cơ sở LS thoả thuận ( lãi suất cho vay dựa trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng đối với khách hàng).
Giải pháp chung: cần nâng cao hiệu quả hoạt động TTLNH đảm bảo LS thị trường này là cơ sở để ngân hàng trung ương xác định LS điều hành VNĐ (LS VNBOR)
Cụ thể:
- Nên chọn ra một số ngân hàng có uy tín và dựa trên lãi suất chào của các ngân hàng trên thị trường làm cơ sở để xác định mức LS giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng. LS bình quân này sẽ được công bố hàng ngày để các TCTD tham khảo.
- NHNN cần xây dựng một đề án lãi suất trên cơ sở LS liên ngân hàng và các tỷ lệ LS khác.
Bên cạnh đó, các loại lãi suất khác cũng cần phải được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với xu thế phát triển trong thời gian tới nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các công cụ lãi suất này.
LS tín phiếu kho bạc
NHNN cần kết hợp với Bộ Tài Chính tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc, mỗi lần đấu thầu giá trị của tín phiếu phải phù hợp với nhu cầu thực tế của ngân sách. LS tín phiếu kho bạc phải nhỏ hơn LS tái chiết khấu của NHNN thì chính sách tiền tệ mới có thể phát huy tác dụng.
LS tái chiết khấu
LSTCK phụ thuộc vào chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng tín dụng trong từng thời kì. Việc xác định và điều chỉnh LS tái chiết khấu phải vừa tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động kinh doanh nhưng đồng thời không ảnh hưởng đến việc điều hoà và quản lý khối lượng tiền tệ trong lưu thông.
Do đó để đảm bảo công cụ tái chiết khấu phát huy tác dụng trong việc điều hành LS trên thị trường cần tạo lập môi trường pháp lý cho sự lưu thông các chứng từ có giá.
NHNN cần ban hành các văn bản pháp lý, từng bước nghiên cứu và hoàn thiện luật thương phiếu để tạo điều kiện cho loại hình dịch vụ mới này phát triển. Luật hối phiếu sắp ra đời sẽ giúp cho các NH hạn chế rủi ro thông qua nghiệp vụ cho vay chiết khấu hối phiếu. Từ đó, NHNN thực hiện được vai trò của mình thông qua công cụ tái chiết khấu và thị trường có cơ sở vững chắc để giao dịch.
LS trên thị trường mở (TTM)
Nếu công cụ LS tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHNN-nó phụ thuộc vào nhu cầu xin “ tái cấp vốn” của các NHTM thì nghiệp vụ TTM là công cụ chủ động của NHNN. Để LS trên TTM trở thành một trong những công cụ chủ yếu của việc điều hành chính sách tiền tệ và trở thành lãi suất mang tính chất định hướng cần:
Bổ sung và đa dạng hoá các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường, đa dạng hoá thời gian giao dịch, tập trung phát triển các loại hàng hoá và giấy tờ có giá ngắn hạn cho TTM.
Phát triển hoạt động thông tin thị trường, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng các công nghệ thông tin hiện đại trong quá trình thu thập, phân tích và xử lý thông tin,; nâng cao khả năng phân tích và dự báo tình hình thị trường để có biện pháp tác động điều tiết tốt, phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường tiền tệ.
Tổ chức tốt hệ thống thông tin giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng; từng bước nâng cao chất lượng của việc thu thập và dự báo thông tin về vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, đảm bảo cung cấp kịp thời về NHNN để làm cơ sở đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời, chính xác và đem lại hiệu quả tốt nhất.
Ngoài ra việc nghiên cứu để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt cũng rất cần thiết, điều này tác động đến vốn dự trữ của ngân hàng, từ đó tác động đến khối lượng tín dụng trong nền kinh tế, đến LS thị trường.
Cụ thể:
+ Tiếp tục đẩy nhanh việc hoàn thiện luật thương phiếu để luật này hoạt động đạt hiệu quả cao.
+ Luật thanh toán sec cần được ban hành cụ thể, chặt chẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó đảm bảo nguồn cung ứng tín dụng dồi dào cho xã hội.
3.3. KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI VN
Hàn Quốc: Nền kinh tế Hàn Quốc được đánh giá như là một con hổ của châu á, tuy nhiên quá trình TDHLS ở Hàn Quốc cũng diễn ra hết sức phức tạp và đã để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc đối với các nước khác khi tiến hành TDHLS. Chính phủ HQ có ý định tự do hoá tài chính năm 1965 nhưng đến năm 1972 phải quay lại chính sách dồn nén tài chính. Đến năm 1988 trong bối cảnh nền KT có nhiều thuận lợi, tốc độ tăng trưởng đạt mức cao, lạm phát thấp, thặng dư cán cân thanh toán ở mức 24,3 tỷ USD HQ đã tiến hành tự do hoá LS cho vay và LS huy động dài hạn,... Tuy nhiên chính sách tự do hoá LS đã bị thất bại. Kết quả là sau đó chính phủ HQ phải quay trở lại với việc kiểm soát LS.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ thất bại ở HQ là:
+ Tiến hành tự do hoá LS cần phải được tiến hành một cách thận trọng theo nhiều giai đoạn cụ thể.
+ Cần giảm nhẹ xu hướng tăng LS sau khi tiến hành tự do hoá LS.
+ Chính sách tự do hoá LS cần phải được xem xét một cách cẩn trọng thay đổi trong các yếu tố kinh tế vĩ mô như biến động giá và chu kì kinh tế.
Rút kinh nghiệm từ những thất bại năm 1988, từ năm 1991 đến năm 1997 chính phủ HQ đã tiếp tục thực hiện tự do hoá LS với những bước đi thận trọng hơn.
GĐ1:(thực hiện từ 10/1991) với việc tự do hoá LS cho vay ngắn hạn, chiết khấu thương phiếu, tự do hoá các khoản tiền gửi, tiền gửi ngắn hạn có mệnh giá cao, chứng chỉ tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm có kì hạn >3năm.
GĐ2:(từ 12/1993) tự do hoá LS cho vay (trừ các khoản vay được tài trợ bởi chính phủ và NHTƯ), tự do hoá LS huy động tiền gửi có kì hạn >2năm, tự do hoá LS trái phiếu chính phủ.
GĐ3:(từ 6/1994 đến 12/1995) tự do hoá hoàn toàn LS cho vay, tự do hoá hoàn toàn LS huy động, thời gian đáo hạn tối thiểu của các giấy tờ có giá trên thị trường như chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu được rút từ 90 ngày xuống còn 30 ngày đồng thời mệnh gia tối thiểu cũng được giảm bớt.
GĐ4:(từ 7/1995-giai đoạn cuối cùng của tự do hoá LS) dỡ bỏ hoàn toàn thời gian đáo hạn và mệnh giá tối thiểu của các giấy tờ có giá trên thị trường như chứng chỉ tiền gửi và thương phiếu.
Bên cạnh đó, một số nước tiến hành tự do hoá LS trong một thời gian rất ngắn như Chilê, Achentina, Uruguay, Philippines, trong khi một số nước khác lại tiến hành một cách thận trọng như Inđônêxia...
Chính từ bài học kinh nghiệm ở một số nước đi trước, đối với VN để phát huy được những mặt tích cực và hạn chế những ảnh hưỏng tiêu cực trong quá trình tự do hoá LS chúng ta cần quan tâm đến những mặt sau:
Một là, thực hiện chính sách tự do hoá LS một cách thận trọng. Thực tế ở mỗi quốc gia cho thấy mỗi nước tự xây dựng cho mình một lộ trình riêng sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cụ thể.
Hai là, ổn định kinh tế vĩ mô là yếu tố quyết định đến thành công của quá trình tự do hoá LS. Lí thuyết và thực tế ở nhiều quốc gia cho thấy chính sách tự do hoá LS sẽ là rất mạo hiểm và khó thành công trong điều kiện nền kinh tế bất ổn vì khi đó tỷ lệ lãi thực cao hơn trong điều kiện tự do hoá LS có thể dẫn đến lại sự phân phối thu nhập giữa người cho vay và người đi vay.
Ba là, xây dựng một cơ chế quản lí và giám sát ngân hàng, hoạt động tín dụng có hiệu quả. Điều này sẽ góp phần hạn chế được những rủi ro cho hệ thống ngân hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Bốn là, xây dựng môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng. Việc quản lí tập trung trong ngành ngân hàng có thể là nguyên nhân dẫn đến thất bại trong quá trình tự do hoá LS. Kinh nghiệm ở VN và nhiều nước trên thế giới trong những năm đã qua đã cho thấy hầu hết những khoản nợ khó đòi đều xuất phát từ việc không minh bạch trong hoạt động cung cấp tín dụng của các ngân hàng, can thiệp của chính phủ vào các khoản vay, tính không hiệu quả của hoạt động ngân hàng.. Để khắc phục vấn đề này chính phủ cần nhanh chóng thực thi việc cổ phần hóa các ngân hàng quốc doanh, mở rộng hơn nữa thị trường bảo hiểm, dỡ bỏ các rào cản bảo hộ...
www.TCDN45C.net.tf
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 03 Ebook.VCU Chnh sch li su7845t amp t7887c 2737897ng c7911a namp2.doc