Giày dép và sản phẩm da: Năm 1998, Mỹ nhập khẩu gần 14 tỷ USD giày dép các loại, và trong năm 2001 nhập trên 22 tỷ USD mặt hàng này. Trong khi đó năm 1998 Mỹ nhập khẩu từ Việt Nam mặt hàng này với giá trị 114,92 triệu USD, năm 2000 là 124,5 triệu USD, và năm 2001 là 114,230 triệu USD đứng thứ 14 trong số các nước nhập khẩu mặt hàng này của Mỹ. Mặc dù kim ngạch này rất nhỏ so với nhập hàng năm mặt hàng giày dép của Mỹ, thế nhưng đây là mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn trong số các mặt hàng mà Mỹ nhập khẩu của Việt Nam và chỉ đứng sau nhóm hàng thuỷ hải sản và cà phê, chè, gia vị. Cũng giống như mặt hàng dệt may, các mặt hàng giày dép mà Mỹ nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là do các công ty của Mỹ đặt gia công các công ty giày dép của Việt Nam để tận dụng giá nhân công rẻ. Ngoài ra, hiện nay trên thị trường Mỹ đang đầy rẫy các mặt hàng giày dép của Trung Quốc, Thái Lan, Malaxia, vì thế mặc dù Việt Nam tương đối có thế mạnh đối với mặt hàng này thế nhưng một thực tế là nhu cầu của Mỹ về mặt hàng giày dép của Việt Nam không thực sự cao. Nếu Việt Nam không tăng cường các biện pháp tiếp thị, đẩy mạnh công tác thiết kế, tạo lập nhãn hiệu của riêng mình thì ngành giày gia Việt Nam khó có thể tăng trưởng mạnh trên thị trường Mỹ, cho dù Việt Nam được hưởng Quy chế Tối huệ quốc.
97 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách nhập khẩu của Mỹ và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào năng lực cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam.
Mỹ là nước nhập khẩu thuỷ hải sản lớn thứ 2 thế giới, sau Nhật Bản. Mặt hàng nhập khẩu chính của Mỹ là tôm các loại trong khi đây cũng là mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam trong ngành hàng thuỷ sản. Hàng năm, Mỹ nhập khẩu một lượng tôm đông lạnh trị giá khoảng hơn 2,5 tỷ USD từ các nước châu á, vì thế, đây là thị trường vô cùng rộng lớn và đầy triển vọng đối với ngành nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản Việt Nam.
Đối với Việt Nam thuận lợi xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản sang thị trường Mỹ là rất đáng kể:
Tiềm năng thuỷ sản của Việt Nam còn rất lớn, trong hai năm 2000 và 2001 Việt Nam đã đạt được thành tựu tương đối lớn trong hầu hết các lĩnh vực phát triển thủy sản: đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, tìm kiếm thị trường.
Thông qua hình thức liên doanh và tự đầu tư cơ sở chế biến thuỷ sản cao cấp của Việt Nam được cải thiện đáng kể.
Hơn 60 doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng tiêu chuẩn HACCP có đủ điều kiện và vệ sinh được Mỹ phê duyệt cho phép xuất khẩu hải sản vào Mỹ qua các công ty nhập khẩu của Mỹ.
Với việc Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực thuế nhập khẩu thuỷ sản vào Mỹ đánh vào hàng có xuất xứ từ Việt Nam sẽ giảm, cho phép Việt Nam đa dạng hoá các mặt hàng thuỷ sản đưa vào Mỹ, đặc biệt các mặt hàng chế biến cao cấp có giá trị cao (hiện tại chủ yếu Việt Nam xuất khẩu thuỷ sản dưới dạng thô vào Mỹ).
Tuy nhiên cùng với những thuận lợi trên thì Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn trên thị trường Mỹ:
Tính cạnh tranh của thị trường thuỷ sản nước Mỹ rất cao: Hàng hoá Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh với hàng thuỷ sản của các nước Thái lan, ấn Độ, Bangladesh... chẳng những canh tranh về chất lượng, giá cả mà còn về phương thức thanh toán. Ví dụ hàng thuỷ sản Việt Nam thường xuất khẩu theo điều kiện FOB, thời hạn thanh toán: trả tiển ngay, trong khi các đối thủ cạnh tranh của ta chào giá CFR thời hạn trả tiền 30-60 ngày kể từ khi cấp vận đơn.
Thuỷ sản chế biến của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chưa nhiều, chủ yếu mới xuất khẩu dưới dạng sơ chế cho nên trị giá xuất khẩu thấp. Nguyên nhân là do các nhà thuỷ sản Việt Nam chưa hiểu hết được nhu cầu của thị trường Mỹ, chưa có sự hợp tác đầu tư với người Mỹ vào công nghệ chế biến thuỷ sản ở Việt Nam như Việt Nam đã làm với Nhật Bản.
Mỹ có những quy định rất khắt khe chẳng những đối với chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, mà còn có các quy định về bảo vệ môi trường sinh thái, đây cũng được coi như các rào cản kỹ thuật làm hạn chế khả năng xuất khẩu thủy sản.
Nắm bắt thông tin về thị trường Mỹ còn ít, các doanh nghiệp chưa chủ động nghiên cứu để tiệp cận với thị trường này.
Với những thuận lợi và khó khăn như đã phân tích ở trên, dự báo, Việt Nam có thể xuất khẩu xấp xỉ 1 tỷ USD hải sản vào Mỹ năm 2010, tăng hơn 4 lần so với năm 2000 và tăng 3 lần so với năm 2001.
2.3. Dệt may và dày dép.
Đây sẽ là nhóm mặt hàng được hưởng nhiều thuận lợi nhất từ Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ. Trước khi Hiệp định có hiệu lực thì nhóm hàng này phải chịu mức thuế non-MFN khá cao, thường là gấp 3 - 5 lần so với mức thuế MFN, thậm chí có thể tới 10 lần. Chẳng hạn, mức thuế đối với quần áo thể thao và trượt tuyết là 90%, tuy nhiên mức thuế này sẽ giảm xuống còn 8,5% khi Hiệp định có hiệu lực. Tuy vậy, Việt Nam cũng đã cạnh tranh khá tốt để không ngừng nâng cao kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng này sang thị trường Mỹ trong những năm qua.
Theo thống kê, hàng năm Mỹ đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc. Như vậy, khả năng tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này là rất lớn. Theo tình hình hiện tại, dự đoán sau khi được hưởng MFN Việt Nam có thể xuất khẩu ngay vào Mỹ và kim ngạch có thể đạt 1 tỷ USD ngay từ năm đầu nếu các doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị tốt. Nếu giữ được thị trường này cho hàng dệt may thì khả năng thâm nhập thị trường Mỹ từ nay cho đến năm 2010 có thể đạt trên 1,5 tỷ USD.
2.4. Dầu khí.
Mỹ là nước có kỹ thuật về khai thác cũng như lọc dầu tiên tiến nhất trên thế giới nhưng cũng là nước nhập khẩu dầu khí lớn nhất thế giới. Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô vào Mỹ năm 1998 và giá trị xuất khẩu năm 1999 là 83,8 triệu USD, năm 2000 là 90,7 triệu USD và năm 2001 là 225,2 triệu USD. Những con số trên cho thấy một triển vọng rất tốt cho ngành dầu khí Việt Nam đối với thị trường tiềm năng Mỹ.
Năm tập đoàn công nghiệp dầu mỏ hàng đầu thế giới hiện nay là SHELL và BP (Anh), ESSON và MOBIL (Mỹ), ELT-EQUITANIE (Pháp) đều đang có mặt tại Việt Nam và làm ăn rất thành đạt đã chứng tỏ phần nào sức mạnh về tiềm năng sản xuất và xuất khẩu dầu thô của Việt Nam rất lớn nên đã thu hút được các công ty hàng đầu thế giới. Chắc chắn rằng, trong một vài năm tới Mỹ sẽ nằm trong số các bạn hàng lớn về dầu thô, bởi vì, đó là một trong số những dự án nghiên cứu của các công ty Mỹ tại Việt Nam khi thị trường nội địa không tiêu dùng hết.
Với việc Hiệp định thương mại song phương vừa qua được Quốc hội hai nước phê duyệt và có hiệu lực thì khả năng xuất khẩu dầu khí mà chủ yếu là dầu thô của Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng lên đáng kể.
Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Mỹ
1. Giải pháp ở tầm vĩ mô
1.1. Đàm phán để gia nhập WTO
Sau khi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực, quan hệ thương mại bình thường giữa hai nước sẽ được thiết lập. Việt Nam gần như chắc chắn được hưởng chế độ MFN. Song, để được hưởng chế độ MFN chắc chắn và lâu dài thì chỉ có Hiệp định thương mại Việt - Mỹ thôi thì chưa đủ.
Thứ nhất, Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ chỉ có giá trị tạm thời. Theo Điều 8, khoản 1 của Hiệp định thương mại song phương quy định: “Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày mà các bên trao đổi, thông báo cho nhau rằng mỗi bên đã hoàn tất các thủ tục pháp lý cần thiết để đưa Hiệp định có hiệu lực và có hiệu lực trong thời hạn 3 năm” và “Hiệp định này được gia hạn tiếp tục 3 năm một nếu một trong hai bên không có ý định chấm dứt Hiệp định”. Như vậy, thời hạn của Hiệp định không dài và sau 3 năm phải xem xét lại một lần.
Thứ hai, để được hưởng chế độ MFN, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ chỉ là một trong hai điều kiện mà điều kiện kia là việc Quốc hội Mỹ hàng năm xem xét việc miễn trừ áp dụng điều khoản Jackson-Vanick.
Vậy, Việt Nam chưa chắc chắn được hưởng chế độ MFN lâu dài, ổn định. Để được hưởng chế độ MFN vĩnh viễn, không phải phụ thuộc vào kết quả những cuộc bỏ phiếu hàng năm của Quốc hội Mỹ dành miễn trừ áp dụng điều khoản Jackson-Vanick cho Việt Nam hay việc xem xét 3 năm một lần để tiếp tục Hiệp định hay không thì Việt Nam cần gia nhập WTO. Theo nguyên tắc của WTO, các nước thành viên phải dành đối xử chế độ MFN vô điều kiện cho các nước thành viên khác.
Tất nhiên, tham gia vào đàm phán đa biên gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ là khó khăn hơn đối với Việt Nam, vì tại Giơneve sẽ có nhiều nước tham gia đàm phán hơn, yêu cầu sẽ đa dạng hơn và đòi hỏi sẽ cao hơn. Các yêu cầu ở đây không còn là những nguyên tắc chung nữa mà là những vấn đề cụ thể trong các chính sách thương mại của Việt Nam như chính sách thuế, phi thuế trong thương mại hàng hoá; hải quan trong thương mại dịch vụ, vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ, chính sách đầu tư và các chính sách đối với các xí nghiệp quốc doanh, quyền kinh doanh ở Việt Nam kể cả quyền xuất nhập khẩu. Việt Nam sẽ phải chấp nhận một “sân chơi” bình đẳng, không được sử dụng bất cứ một hàng rào thuế quan cũng như hàng rào phi thuế quan nào để bảo hộ sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng có nhiều phần giống chuẩn mực của WTO, trừ một số vấn đề song phương. Thực hiện hiệp định song phương giữa hai nước là bước quan trọng để Việt Nam mở rộng các chính sách hội nhập, làm quen với các quy định về tự do hoá thương mại. Do đó, Việt Nam sẽ có bước tập duyệt trước khi gia nhập WTO.
Như vậy, nhiệm vụ của Việt Nam bây giờ là phải đẩy nhanh lộ trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì đương nhiên sẽ được hưởng chế độ MFN của các nước thành viên WTO, trong đó có Mỹ. Nhờ đó, Việt Nam sẽ trở nên chủ động hơn trong việc được hưởng chế độ MFN của Mỹ, tức là không phải cứ 3 năm thì phải đàm phán lại để được hưởng chế độ này.
Hơn nữa, nếu tham gia được vào hệ thống thương mại quốc tế rộng lớn, chúng ta có cơ hội đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nhanh bằng việc phát huy “nội lực” về: lao động, tài nguyên thiên nhiên, cũng như tận dụng được những thành tựu về khoa học công nghệ, về vốn của các nước đang phát triển để nâng cao hiệu quả kinh tế, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
1.2. Đàm phán để được hưởng GSP của Mỹ
Đối với chế độ GSP của Mỹ dành cho các nước đang phát triển, đến nay Việt Nam vẫn chưa được hưởng. Song, điều 3, khoản 8 Hiệp định thương mại Việt - Mỹ quy định: Chính phủ Mỹ sẽ xem xét khả năng dành cho Việt Nam chế độ ưu đãi GSP. Tuy nhiên, có một khó khăn đối với Việt Nam để được hưởng chế độ này là quy định ở phần 502B của Luật thương mại Mỹ năm 1974. Theo đó, Tổng thống không được phép cho một loạt nước được hưởng chế độ GSP của Mỹ, trong đó có Việt Nam. Do vậy, để được hưởng chế độ GSP của Mỹ thì Việt Nam cần đấu tranh mạnh mẽ, yêu cầu Mỹ bãi bỏ áp dụng quy định trong phần 502B này, đưa Việt Nam sang nhóm nước đã chuyển sang nền kinh tế thị trường và không còn là “kẻ thù” của Mỹ nữa.
1.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phổ biến về thị trường Mỹ, về chính sách xuất nhập khẩu của Mỹ và Hiệp định Thương mại Việt Nam -Mỹ.
Chúng ta biết rằng thị trường Mỹ là một thị trường khó tính và mức độ cạnh tranh rất cao do đó để xâm nhập vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu rất nhiều luật và quy định về thương mại của Mỹ. Các doanh nghiệp phải nắm được những quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán giữa mình và các thương nhân Mỹ trong Luật Thương mại của Mỹ cùng những điểm khác biệt so với Luật Thương mại Việt Nam. Mặt khác, luật và các quy định về thuế và hải quan của Mỹ như Danh bạ thuế thống nhất, Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập, cơ sở tính thuế hải quan hay những quy định về xuất xứ hàng hóa có tác động trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi xuất khẩu sang Mỹ. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể thành công trên thị trường nếu không nghiên cứu hệ thống hàng rào phi thuế quan với những quy định chi tiết về danh mục hàng hóa hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu, những quy định về vệ sinh dịch tễ đối với hàng hóa nhập khẩu hay Luật chống phá giá, Luật thuế bù trừ của Mỹ.
Với một hệ thống luật và quy định phức tạp như vậy và một thực tế rằng ngoài luật toàn liên bang thì đối với các bang khác nhau ở Mỹ lại có hệ thống luật hay quy định khác nhau, do đó các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu do đó rất cần sự giúp đỡ từ phía Nhà nước. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực này, Nhà nước cần tổ chức các khóa đào tạo, các lớp tập huấn hay hội nghị, hội thảo về hệ thống pháp luật thương mại của Mỹ nhằm nâng cao hiểu biết của các doanh nghiệp về khía cạnh pháp lý trong kinh doanh với Mỹ. Đồng thời, Nhà nước cần khuyến khích các cơ quan, các Bộ, các ban ngành liên quan, các cá nhân xuất bản và lưu hành những ấn phẩm hay băng, đĩa về vấn đề này dưới dạng sách hay những bài viết trên báo, tạp chí hay đĩa hình nhằm tạo nguồn thông tin phong phú và chính xác cho các doanh nghiệp Việt Nam tham khảo. Mặt khác, Nhà nước cũng có thể hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua việc cung cấp một số địa chỉ tư vấn pháp luật đáng tin cậy cho các doanh nghiệp.
Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và các cơ quan quản lý nói chung phải có sự hiểu biết nhất định về thị trường Mỹ, về đặc điểm của pháp luật cũng như chính sách của Mỹ đối với việc quản lý nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào Mỹ. Việc này không còn là công việc của doanh nghiệp nữa, mà hiện nay nó đã là công việc quan trọng của Nhà nước, có ý nghĩa quyết định để giúp doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập thị trường Mỹ. Trên cơ sở đó Nhà nước nên:
- Cho tuyên truyền, bằng nhiều kênh thông tin đại chúng, bằng nhiều hình thức về thị trường Mỹ, về pháp luật, về chính sách nhập khẩu của Mỹ cũng như về tiêu chuẩn chất lượng và thị hiếu người tiêu dùng Mỹ.
- Thành lập Quỹ hỗ trợ xúc tiến để tìm hiểu thị trường Mỹ và cử các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng thâm nhập thị trường Mỹ đi khảo sát bằng nguồn kinh phí hỗ trợ của Nhà nước.
- Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tự bỏ kinh phí để tiếp cận, khảo sát thực tế thị trường Mỹ, xây dựng các văn phòng, chi nhánh tại Mỹ để thường xuyên có những thông tin cập nhật về những biến động trên thị trường.
1.4. Tiếp tục có chính sách hỗ trợ thương mại mạnh mẽ hơn nữa đối với việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ
Trong 5 năm đầu, kể từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực, cần có một số chính sách đặc biệt để hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, như:
- Hỗ trợ và bảo vệ thu nhập ổn định cho người nông dân để họ yên tâm sản xuất hàng nông nghiệp và các sản phẩm nông nghiệp.
- Đầu tư công nghệ cho việc sản xuất và chế biến sản phẩm nông nghiệp, hải sản, v.v...
Đây là những hàng hoá thuộc thế mạnh của Việt Nam mà những người Mỹ rất ưa chuộng. Để có chính sách hợp lý, Chính phủ cần cho thành lập các quỹ như Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nông sản, Quỹ tín dụng hàng hoá nông nghiệp, đồng thời xây dựng các chương trình hỗ trợ và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu mặt hàng thuộc hải sản và sản phẩm nông nghiệp, xây dựng chương trình hỗ trợ đặc biệt đối với một số mặt hàng nông nghiệp như ngô, sắn, v.v. để qua đó có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng này về vốn cũng như bảo đảm cho các hoạt động xuất khẩu.
- Thực hiện hỗ trợ đầu vào, bảo đảm hiệu quả lâu dài, ưu tiên các mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước. Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế xuất khẩu các mặt hàng khuyến khích xuất khẩu (nông sản thực phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ, dệt may, dày dép) vào tất cả các thị trường được vay vốn tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu.
1.5. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng đạt hiệu quả cao hơn
- Từng bước hạn chế dần, tiến tới xoá bỏ tình trạng độc quyền trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp.
- Cải tiến hệ thống các thủ tục để tạo thuận lợi cho sản xuất hàng xuất khẩu và công tác xuất khẩu. Để thực hiện được điều này trước hết cần thực thi luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, xoá bỏ các quy tắc theo kiểu “phép vua thua lệ làng”, giảm các thủ tục hành chính rườm rà, minh bạch hoá hệ thống giấy phép. Bên cạnh đó cần đơn giản hoá các thủ tục nhập khẩu đầu vào để sản xuất hàng xuất khẩu như máy móc, nguyên vật liệu; cần có những cải tiến thích hợp trong khai báo hải quan và kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu để tránh hiện tượng tiêu cực và tiết kiệm thời gian.
- Điều hành linh hoạt lãi suất, tỷ giá hối đoái theo hướng vừa có lợi cho xuất khẩu, vừa bảo đảm ổn định kinh tế.
- Tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế không trái với Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường, v.v...
- Cần có sự phân bổ rõ giữa vai trò của Nhà nước, chức năng của các cơ quan quản lý với nhiệm vụ của các doanh nghiệp trong công tác quản lý xuất khẩu.
- Tăng cường hoạt động của Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu và khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro. Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu nên tránh hoạt động theo phương thức trợ cấp, mà nên nên hoạt động theo hướng hỗ trợ các doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu hàng hóa nhưng không có điều kiện tiếp cận vốn ngân hàng do không có tài sản thế chấp. Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu có thể đứng ra bảo lãnh các khoản vay hoặc cung cấp các khoản tín dụng để doanh nghiệp có thể bán hàng trả chậm cho nước ngoài. Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu phải hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, cùng chia sẻ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với ngân hàng. Ngoài Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu ra các hiệp hội ngành hàng cũng nên tự thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro riêng cho ngành hàng của mình, nhất là trong những ngành quan trọng, có khối lượng xuất khẩu lớn.
- Cần có chính sách đề bạt, chính sách lương thoả đáng đối với những cán bộ có năng lực về nghiệp vụ, chuyên môn cũng như về ngoại ngữ trong quá trình thực hiện chức trách quản lý hoạt động xuất khẩu.
1.6. Tích cực hỗ trợ hơn nữa về thông tin thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp
Mỹ là thị trường hoàn toàn mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu thông tin về thị trường Mỹ cũng như thực hiện các hoạt động xúc tiến bán sản phẩm. Vì vậy, Nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vấn đề này.
Thông qua Thương vụ của Việt Nam tại Mỹ, Bộ Thương mại phải thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Mỹ cho các doanh nghiệp. Đồng thời, với những thông tin về thị trường như nhu cầu, đặc điểm, tính chất của hàng hóa, những thay đổi trên thị trường Mỹ đối với các sản phẩm của Việt Nam, v.v... Bộ Thương mại và Thương vụ Việt Nam tại Mỹ cần xây dựng một chiến lược tổng thể về thị trường để giúp các doanh nghiệp trong việc định hướng sản xuất và xây dựng chiến lược xuất khẩu cho riêng mình. Các doanh nghiệp sẽ biết được mặt hàng nào nên sản xuất và với chất lượng ra sao, với mức giá là bao nhiêu, đối thủ cạnh tranh trên thị trường cũng như phương thức cạnh tranh của các đối thủ trên thị trường Mỹ.
Về công tác xúc tiến bán sản phẩm, ngày 6/7/2000, Nhà nước đã thành lập Cục Xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực thông tin và tiếp thị. Chức năng của Cục Xúc tiến thương mại là phổ biến thông tin và tổ chức, xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược thâm nhập thị trường đã được hoạch định, Cục Xúc tiến có nhiệm vụ xây dựng lộ trình hành động cụ thể để giúp các doanh nghiệp đưa hàng hóa Việt Nam ra thị trường nước ngoài.
Đảm bảo kênh thông tin thông suốt, thường xuyên, nhiều chiều giữa các Bộ ngành và các doanh nghiệp, giữa các bộ phận thương vụ với các cơ quan trong nước, giữa các sở và các bộ. Đồng thời phải nâng cao chất lượng sản phẩm thông tin của Bộ thương mại theo hướng tập trung hơn vào các ngành chủ yếu, tăng thêm liều lượng và chất lượng thông tin dự báo.
Nếu như công tác thông tin là để hiểu thị trường thì công tác xúc tiến thương mại là để giành thị trường. Nhà nước cần soạn thảo và hoàn thiện văn bản pháp quy về xúc tiến thương mại, hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp tiến hành công việc xúc tiến thương mại; đồng thời quản lý, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước như hội chợ, triển lãm,... hỗ trợ tổ chức cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường và bạn hàng Mỹ.
1.7. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tạo ra sự phù hợp với những quy định của luật pháp Mỹ và Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ
Hiệp định Thương mại Việt Nam-Mỹ có rất nhiều quy định đặc thù và cùng với tính hiệu lực pháp lý, Hiệp định sẽ tạo nên rất nhiều điểm khác biệt so với những quy định của luật pháp trong nước. Đó là, những khác biệt nằm trong các quy định của Hiệp định về chính sách thuế, về các khoản lệ phí liên quan đến xuất nhập khẩu, về cạnh tranh, về thương mại nhà nước, về giải quyết tranh chấp, v.v. Bên cạnh đó, thị trường Mỹ là thị trường đòi hỏi phải có sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về chất lượng hàng hoá, xuất xứ, về giá cả và về thị hiếu khách hàng. Để thực hiện những qui định trong hiệp định cũng như khai thác thuận lợi sau khi Hiệp định Thương mại có hiệu lực nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam sang Mỹ, trước mắt, cần tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Để làm được điều này, cần thực hiện ngay các công việc sau đây:
- Sửa đổi Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 cho phù hợp với tình hình mới, hoàn thiện Quy chế thương nhân và bổ sung các quy định về chính sách quản lý xuất khẩu rõ ràng, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển xuất khẩu của Đảng, cũng như phù hợp với Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ.
- Tiếp tục rà soát lại hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng của Việt Nam nhằm loại bỏ những văn bản (luật hoặc dưới luật) đã lỗi thời, bất cập và không mang lại hiệu quả. Cụ thể là những văn bản quy phạm pháp luật ở cấp địa phương và cấp trung ương đang tạo ra những rào cản đối với việc thực thi Hiệp định thương mại. Làm được điều này cũng chính là đẩy nhanh tiến trình Việt Nam gia nhập WTO.
- Cần nhanh chóng bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện theo hướng tháo gỡ các rào cản về thương mại trong thuế quan và phi thuế quan, các rào cản khác trong các lĩnh vực thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ theo lộ trình đã được cam kết trong hiệp định. Việc tháo gỡ này cần được triển khai để đáp ứng yêu cầu thực thi những quy định trọng tâm của Hiệp định: đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc và tạo điều kiện cho kinh doanh, tạo ra sàn pháp lý bình đẳng cho các đối tượng tham gia vào sân chơi chung của nền kinh tế.
- Khẩn trương soạn thảo và ban hành luật cạnh tranh và chống độc quyền nhằm tạo sự cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài nói chung và thị trường Mỹ nói riêng
- Ban hành mới và sửa đổi các luật thuế xuất khẩu, phù hợp với lịch trình cắt giảm thuế đối với hàng hoá theo quy định của Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, cụ thể là phải tích cực hơn nữa trong việc xây dựng, thảo luận và thông qua Pháp lệnh về Đối xử Tối huệ quốc và Đối xử Quốc gia vì đây là những nghĩa vụ cơ bản mà phía Việt Nam phải làm và phải làm ngay khi Hiệp định Thương mại song phương có hiệu lực.
- áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng hàng hoá: mặc dù không yêu cầu khắt khe về chất lượng hàng hoá như thị trường EU, nhưng pháp luật Mỹ lại rất bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nên Nhà nước cần quan tâm đến việc áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng hàng hoá. Mặt khác, thực hiện chế độ này còn để nâng cao chất lượng của hàng hoá, do đó nâng giá bán, uy tín và tạo ra sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam. Đặc biệt đối với một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như thuỷ sản, dệt may, đồ điện, điện tử, thực phẩm chế biến. Đối với hàng hoá tiêu dùng thì càng cần phải áp dụng chế độ này một cách bắt buộc và chặt chẽ. Đây cũng là chìa khoá để doanh nghiệp Việt Nam vượt rào về các quy định vệ sinh dịch tễ của Mỹ đối với hàng nhập khẩu.
2. Giải pháp ở tầm vi mô
2.1. Tích cực hơn, chủ động hơn, sáng tạo hơn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với các doanh nghiệp của nước khác ở thị trường Mỹ
Để làm được điều này, bản thân các doanh nghiệp cần nhận thức rằng: chưa bao giờ các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội như sau khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải ngay lập tức chuẩn bị cho mình một loạt các điều kiện cần thiết để có thể thâm nhập vào thị trường Mỹ. Trước hết, mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải:
- Nâng cao hơn nữa trình độ quản lý doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp xuất khẩu), nâng cao chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu (đối với doanh nghiệp sản xuất) bằng cách xây dựng các kế hoạch hành động của mình như đào tạo tích cực hơn nữa trình độ hiểu biết về chuyên môn, về nghiệp vụ và ngoại ngữ của các công nhân cũng như cán bộ quản lý, đầu tư hơn nữa vào hệ thống công nghệ máy móc, quy trình sản xuất hiện đại, v.v...
- Khảo sát, nghiên cứu thị trường Mỹ từ nhiều góc độ, bằng nhiều phương pháp để xây dựng chiến lược sản xuất và chiến lược xuất khẩu, chiến lược tiếp thị quảng cáo, đồng thời cũng phải nắm vững hệ thống luật pháp, chính sách xuất nhập khẩu của Mỹ.
- Có chính sách đối với việc tìm kiếm nguồn hàng để có thể chiếm lĩnh thị trường Mỹ, tìm hiểu rõ đối tác thương mại Mỹ.
- Xây dựng và giữ vững thị trường mục tiêu nhằm từng bước giữ được sự tín nhiệm của khách hàng trên thị trường Mỹ, củng cố và tiến tới chiếm lĩnh thị phần nhất định.
- Ngoài những nguồn đầu tư trong nước, cần phải thu hút và tận dụng một cách tối đa các nguồn vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hoặc là vốn viện trợ chính thức (ODA) vào việc sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao nhằm tạo những sản phẩm có chất lượng tốt và đồng đều, có sức cạnh tranh trên thị trường và phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người dân Mỹ.
2.2. Đẩy mạnh công tác tiếp thị của các doanh nghiệp ở thị trường Mỹ
Các doanh nghiệp Việt Nam có thể thực hiện nhiều phương pháp hoạt động tiếp thị trực tiếp khác nhau chẳng hạn như thông qua hội chợ triển lãm, tiếp thị qua mạng hay đặt văn phòng đại diện tại Mỹ.
Nếu thực hiện hoạt động tiếp thị trực tiếp, doanh nghiệp Việt Nam nên:
Tham khảo ý kiến của Hiệp hội ngành hàng, của Tham tán thương mại Việt Nam tại Mỹ, của các khách hàng quen trước khi qua Mỹ, và có thể tham khảo các tổ chức thông tin khác.
Tổ chức chu đáo cho các chuyến đi như lập lịch trình cho chuyến đi, chuẩn bị catalogue giới thiệu sản phẩm, thông qua người quen để tìm Việt kiều trợ giúp phiên dịch, kế hoạch tiếp xúc với đối tác phải rất cụ thể chi tiết, v.v...
Nếu các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các hoạt động tiếp thị vào thị trường Mỹ qua hội chợ triển lãm:
Hàng năm tại Mỹ tổ chức hàng trăm cuộc triển lãm lớn nhỏ, do đó nếu có sự tài trợ của Nhà nước thì các doanh nghiệp cố gắng tham gia để tìm kiếm các đối tác thương mại Mỹ cũng như tìm kiếm các hợp đồng xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, để tham gia triển lãm có hiệu quả các doanh nghiệp Việt Nam nên:
Gởi Fax hoặc Email cho các khách hàng ở Mỹ về sự tham gia hội chợ của công ty
Thiết kế sẵn gian hàng tại Việt Nam sao cho gây ấn tượng và dự trù được chi phí và nhân sự tham gia.
Chuẩn bị hàng hoá vừa để trưng bày, vừa để làm quà tặng, vừa để bán hàng trực tiếp
Nên cử lãnh đạo có năng lực tham gia hội chợ vì có thể có nhiều hợp đồng được ký trong quá trình tổ chức triển lãm.
Nếu tiếp thị qua mạng Internet thì các doanh nghiệp cần xây dựng địa chỉ Email của doanh nghiệp, xây dựng trang Web ấn tượng và khoa học.
Đối với các doanh nghiệp hay các tổng công ty lớn thì có thể đặt văn phòng đại diện tại Mỹ tìm kiếm đối tác khách hàng, theo dõi tình hình tổ chức thực hiện các hợp đồng và các hoạt động xuất khẩu sang Mỹ, phối hợp tổ chức tiếp thị tại thị trường Mỹ.v.v...
2.3. Chủ động tiếp cận công nghệ thông qua việc tích cực sử dụng có hiệu quả hơn hệ thống Internet
Thương mại điện tử tuy mới xuất hiện và đang ở dạng tiềm năng nhưng đang phát triển rất nhanh và tiềm năng cũng rất lớn. Thương mại điện tử có nhiều điểm ưu việt và thực sự là một công cụ mới cho chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Trước hết, người bán và người mua được nối trực tiếp với nhau và không có hạn chế về không gian và thời gian, cho nên các doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả của quá trình nghiên cứu thị trường. Nhờ có thương mại điện tử mà các doanh nghiệp xuất khẩu giảm được chi phí quảng cáo, chi phí vận chuyển đặc biệt là đối với hàng hóa là các ấn phẩm điện tử, giảm các loại chi phí khác như chi phí giao dịch. Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam phải có thời gian dài mới có thể tham gia xuất khẩu hàng hóa thông qua mạng Internet, nhưng ngay từ bây giờ các doanh nghiệp Việt Nam phải nhận thức được xu thế của phương thức kinh doanh hiện đại này và chuẩn bị đầy đủ về vốn, ngoại ngữ cũng như các yếu tố về kỹ thuật công nghệ thông tin để sẵn sàng hòa nhập và đưa vào ứng dụng khi có thể.
3. Giải pháp đối với một số mặt hàng cụ thể
3.1. Hàng dệt may
a1). Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm
Nâng cao chất lượng và thực hiện đa dạng hóa sản phẩm thông qua việc nâng cao tay nghề công nhân, có chính sách ưu đãi để giữ công nhân giỏi. Tiếp tục đầu tư để đổi mới trang thiết bị, máy móc hiện đại. Tạo những thương hiệu sản phẩm có uy tín, chú ý đến chất liệu làm ra sản phẩm may phù hợp với thị hiếu cũng như thẩm mỹ của người tiêu dùng Mỹ, đầu tư thoả đáng vào công nghệ bao bì cho sản phẩm dệt may. Thiết kế bao bì phải phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế (ghi rõ bằng tiếng Anh xuất xứ, có ghi mã vạch) và bao bì phải đảm bảo gọn gàng để giảm chi phí nâng cao chất lượng bao bì. Chú ý đến tính độc đáo của sản phẩm thông qua việc sử dụng chất liệu thổ cẩm, sản phẩm thêu tay, đan ren, v.v... đồng thời chú ý đến chất liệu làm ra sản phẩm may phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng Mỹ.
a2). Nâng cao tính cạnh tranh về giá cho sản phẩm may
Vì hàng may Việt Nam chưa có thương hiệu có tiếng trên thế giới nên việc tiếp tục duy trì chính sách định giá thấp để thoả mãn thị trường bình dân của Mỹ. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp Việt Nam cần:
Có chính sách khuyến khích nâng cao năng suất lao động để giảm chi phí nhân công trên một đơn vị sản phẩm
Xây dựng tiêu chuẩn quản trị ISO 9000 trong các xí nghiệp may và hợp lý hoá quy trình sản xuất góp phần giảm được sản phẩm hỏng.
Liên kết với các hãng nước ngoài để sử dụng thương hiệu sản phẩm của họ, điều này cho phép định giá sản phẩm cao nhưng vẫn mang tính cạnh tranh so với giá của các hãng gốc sản xuất.
Tìm kiếm nguyên liệu trong nước, kể cả nguyên liệu từ các nước từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI và doanh nghiệp KCX để giảm giá thành sản phẩm.
a3). Đảm bảo thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đúng thời hạn quy định
Đơn hàng nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ thường có giá trị lớn nên các doanh nghiệp của Việt Nam phải có lượng hàng lớn để kịp thời cung ứng thực hiện hợp đồng. Số lượng hàng lớn mà thời gian cung ứng lại ngắn nên bản thân từng doanh nghiệp Việt Nam hiện nay khó lòng đảm đương nổi. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải sớm xem xét khả năng hợp tác với nhau, cùng đầu tư trang thiết bị chuyên dùng một cách đồng bộ để có thể sản xuất những lô hàng có tiêu chuẩn giống nhau nhằm thực hiện đơn hàng lớn từ nước bạn.
Đồng thời, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cần tích cực tăng cường hoạt động hơn nữa, từng bước góp phần khắc phục những điểm yếu hiện nay của ngành dệt may. Mặt khác, là đại diện cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, Hiệp hội cần tích cực tham gia hoạt động với các tổ chức quốc tế và khu vực liên quan đến lĩnh vực dệt may như Hiệp hội Dệt May ASEAN, Diễn đàn ngành Dệt May vùng Châu á Thái Bình Dương để trao đổi thông tin về thị trường, về nhu cầu thị hiếu, chính sách và truyền đạt những kiến nghị của ngành dệt may trong nước đối với khu vực và quốc tế nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may trong quá trình kinh doanh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường Mỹ nói riêng.
a4). Các biện pháp đưa nhanh sản phẩm may thâm nhập thị trường Mỹ.
Theo quy định của Luật Thương mại Mỹ, Hiệp định song phương về hàng Dệt may giữa Mỹ với nước xuất khầu như sau: Mức hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ sẽ được xác định trên cơ sở trị giá hoặc khối lượng hàng dệt đã đưa vào thị trường Mỹ ở thời điểm đàm phán.
Thường thì khi khối lượng hàng dệt đưa vào Mỹ đạt 100.000 tá sản phẩm thì Hải quan của Mỹ bắt đầu theo dõi và khi khối lượng này tăng lên đến 200.000 tá sản phẩm thì phía Mỹ chính thức đề nghị đàm phán để xác định hạn ngạch nhập khẩu. Vì vậy ngành dệt may Việt Nam phải cố gắng xâm nhập thị trường Mỹ càng nhanh càng tốt ngay trong một vài năm đầu Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực. Trên có sở đó để đẩy mạnh được xuất khẩu hàng may các doanh nghiệp Việt Nam cần:
Trong thời gian đầu vẫn duy trì gia công bán và phân phối qua trung gian để đưa hàng vào Mỹ.
Nhận gia công cho các công ty của Hàn quốc, Đài Loan, Hông Kông để qua học đưa hàng vào thị trường Mỹ.
Nhận gia công cho các hãng may lớn ở Mỹ.
Xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường trung gian để sau đó các doanh nghiệp nước này đưa sản phẩm vào thị trường Mỹ.
Xuất khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp Mỹ: Khác với thị trường EU và Nhật Bản, các doanh nghiệp Mỹ ít sử dụng phương thức đặt hàng gia công may sản phẩm, mà họ thường áp dụng phương thức mua đứt bán đoạn. Nên vấn đề ở đây là doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải:
Tìm kiếm khách hàng Mỹ, đẩy mạnh hoạt động Marketing.
Đầu tư vào công nghệ thiết kế thời trang, tạo ra những sản phẩm may có mẫu mã phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng Mỹ.
Đăng ký nhãn hiệu bản quyền từng bước tạo lập thương hiệu có uy tín.
Cải thiện môi trường đầu tư để khuyến khích đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành sản xuất nguyên liệu phục vụ may xuất khẩu và xuất khẩu sản phẩm may sang thị trường Mỹ.
Nhà nước cần có một cơ chế tài chính hỗ trợ sự phát triển của ngành dệt may, vì xuất khẩu trực tiếp cần nhiều vốn hơn rất nhiều so với xuất khẩu gia công.
Tạo lập mối quan hệ công chúng: các doanh nghiệp lớn của Việt Nam có thể tạo lập thông qua mối quan hệ tốt đẹp đã có với các hãng may và tập đoàn quốc tế nổi tiếng để giới thiệu với công chúng Mỹ về sản phẩm may mặc Việt Nam. Ngoài ra có thể tạo liên kết với thương nhân Việt kiều Mỹ để tạo lập từng bước quan hệ với thị trường Mỹ.
Thiết lập các đại lý bán hàng ở Mỹ: Các doanh nghiệp Việt Nam cần tìm các đại lý có uy tín và có chế độ hoa hồng thoả đáng để khuyến khích bán hàng ở đại lý. Trên thị trường Mỹ, cộng đồng người Việt, kể cả người Việt gốc Hoa ở Mỹ là những kênh quan trọng giới thiệu hàng hoá Việt Nam. Do vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý thâm nhập thị trường Mỹ trước hết thông qua các khu chợ, siêu thị và chợ nơi có cộng đồng người Việt sinh sống.
a5). Hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp ngành may
Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may vốn có quy mô vừa và nhỏ, nguồn vốn còn hạn hẹp dưới các hình thức khác nhau như tổ chức các đoàn thương mại qua lại nhau, các chuyến đi khảo sát thị trường, xây dựng các trang web, tham quan triển lãm hội chợ, v.v... Ngoài ra nhà nước nên thành lập trung tâm thương mại, siêu thị thời trang dệt may hoặc trung tâm kinh tế may để cung cấp những thông tin về cơ hội gia công, mua bán hàng may ở các khu vực thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ; cung cấp những mẫu mốt thời trang cho các doanh nghiệp; môi giới thuê mướn mua bán máy móc, trang thiết bị ngành may; tư vấn kỹ thuật, thủ tục hải quan, v.v... cho các doanh nghiệp ngành may.
3.2. Hàng thuỷ sản
Mặc dù được hưởng mức thuế phi MFN chênh lệch không lớn so với mức thuế MFN và luôn là một trong những mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam sang Mỹ (có kim ngạch lớn nhất năm 2000 với 242,9 triệu USD), xuất khẩu thủy sản Việt Nam vẫn chưa tận dụng hết lợi thế của mình. Ngay cả khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, thì xuất khẩu thủy sản cũng khó phát huy hết tiềm năng nếu ngành thủy sản không thực hiện những biện pháp thiết thực, mà cụ thể là:
Thứ nhất, cần phải tăng cường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý việc đánh bắt cá xa bờ và nuôi trồng thủy sản để một mặt đảm bảo đủ nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, mặt khác đa dạng hóa chủng loại sản phẩm thủy sản xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Trước tình hình nguồn tài nguyên ven bờ đã cạn kiệt do khai thác quá công suất trong thời gian qua cho nên chủ trương tăng sản lượng khai thác đánh bắt xa bờ là một biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề nguyên liệu cho chế biến thủy sản xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để lựa chọn những loại thủy sản mới đưa và xuất khẩu. Bên cạnh đánh bắt xa bờ, một lợi thế so sánh khác của Việt Nam để tham gia thương mại quốc tế thời gian tới là đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, để có thể giải quyết được những vấn đề liên quan đến vốn, diện tích, kỹ thuật nuôi trồng như giống, thức ăn và những ràng buộc về môi trường sinh thái ngành thủy sản chắc chắn rất cần tới sự trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, giá hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhìn chung là vẫn thấp, chỉ bằng 70% mức giá cùng loại của Thái Lan và Indonesia nhưng vẫn không cạnh tranh được với hàng từ các nước xuất khẩu khác. Sở dĩ như vậy là do kỹ thuật chế biến hàng thủy sản Việt Nam còn hạn chế. Để khắc phục điểm bất lợi này, cần phải tăng cường hợp tác kinh tế - kỹ thuật với nước ngoài trong việc chế biến hàng thủy sản xuất khẩu.
Việc gia nhập Hiệp hội Nghề cá các nước Đông Nam á cũng như gia nhập các tổ chức khu vực và thế giới AFTA, APEC sẽ mở ra cho Việt Nam những cơ hội vô cùng to lớn để tranh thủ nguồn vốn đầu tư, đổi mới công nghệ đánh bắt, chế biến và nuôi trồng thủy sản, cũng như học hỏi những kinh nghiệm trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật của các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Philippines, là những nước chế biến thủy sản khá tiên tiến và có sản phẩm thủy sản đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
Thứ ba, song song với việc phấn đấu giảm giá thành sản phẩm để có ưu thế trong cạnh tranh quốc tế thì vấn đề đảm bảo về mặt chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thực phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam nói chung, và hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ nói riêng. Tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point - Phân tích các nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu) là yêu cầu bắt buộc đối với hàng thủy sản Việt Nam khi xuất sang thị trường Mỹ. Để chiếm lĩnh thị trường Mỹ, thì không còn cách nào khác ngoài việc các doanh nghiệp sản xuất chế biến hàng thủy sản Việt Nam phải tranh thủ sự trợ giúp về mặt kỹ thuật, tài chính của Nhà nước và quốc tế để đạt chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP.
Thứ tư, Bộ Thuỷ sản nên mở trang Web nhằm: giới thiệu tiềm năng thuỷ sản Việt Nam; phổ biến giới thiệu giống; nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản; giới thiệu thị trường trong đó giới thiệu về thị trường Mỹ như nhu cầu thị hiếu, khách hàng, quy định kỹ thuật với thuỷ sản nhập khẩu, thuế nhập khẩu đối với từng loại thuỷ sản, v.v…
Cuối cùng, do thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược sang thị trường Mỹ cho nên để giúp các doanh nghiệp sản xuất và chế biến thủy sản xuất khẩu đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Mỹ, Nhà nước cần tăng cường các biện pháp khuyến khích xuất khẩu thủy sản. Chẳng hạn, có chính sách hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật cho các doanh nghiệp Việt Nam như tài trợ xuất khẩu thủy sản và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu thủy sản, quỹ tín dụng, v.v...
3.3. Mặt hàng giày dép
Với việc Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực thì nhiều loại giày dép nhập khẩu từ Việt Nam có mức thuế giảm và do đó khả năng cạnh tranh hàng Việt Nam sẽ cao hơn.
Có thể nói rằng trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu giày dép của Việt Nam đã thành công trên thị trường thế giới và có những thương hiệu nổi tiếng trong khu vực như: Biti’s, Bita’s, Vinagiày…những mặt hàng này đã bắt đầu thâm nhập được vào thị trường Mỹ ở một mức độ nhất định nào đó. Đồng thời nhiều hãng giày nổi tiếng thế giới như Reebok, Adidas, Nike… đang hoạt động tại Việt Nam thu hút hàng vạn công nhân, và đây chính là cơ sở và là cơ hội để đưa hàng hoá vào Mỹ bằng chính sách đa dạng hóa sản phẩm.
Tuy nhiên một vài yếu kém lộ rõ trong ngành công nghiệp giày dép của Việt Nam. Cụ thể là nguyên liệu giày dép hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam không thể tự sản xuất được nguyên liệu dày dép do đó làm cho giá thành giày dép của Việt Nam cao và nếu Mỹ dành cho Việt Nam hưởng chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP) thì giày dép Việt Nam khó được hưởng vì không đạt tiêu chuẩn về xuất xứ. Bên cạnh đó đa số giày dép đưa vào thị trường Mỹ hiện nay đều qua các nhà phân phối nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, vì vậy mặc dù xuất khẩu mặt hàng này là một trong những mặt hàng có giá trị lớn nhất trong số sản phẩm đưa vào Mỹ nhưng các công ty giày Việt Nam chưa biết nhiều về thị trường Mỹ. Một khó khăn nữa đối với các công ty giày của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ là các mặt hàng của các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh với các sản phẩm của Trung Quốc chiếm đến gần 50% thị phần giày dép của Mỹ. Ngoài ra, các xí nghiệp xuất khẩu giày dép của Trung Quốc cũng gần như chiếm tuyệt đối thị trường giày dép của các tầng lớp dân cư có mức thu nhập trung bình và thấp của nước Mỹ trước Việt Nam 10 năm.
Trước những khó khăn thách thức cũng như những thuận lợi do Hiệp định Thương mại song phương mang lại đối với mặt hàng giày dép của Việt Nam, Việt Nam cần phải có:
a1). Giải pháp nâng cao tính cạnh tranh về chất lượng
Hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ và trang thiết bị hiện đại để sản xuất những mặt hàng phù hợp với thị hiếu người dân Mỹ.
Có những chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất giày dép xuất khẩu sang thị trường Mỹ nói riêng và thị trường thế giới nói chung.
Củng cố và phát triển những thương hiệu giày dép có uy tín trên thị trường quốc tế, đặc biệt là trên thị trường Mỹ.
Đầu tư thoả đáng vào công việc thiết kế thời trang giày dép.
a2). Giải pháp nâng cao tính cạnh tranh về giá
Xây dựng chiến lược đầu tư và hỗ trợ đầu tư vào công nghệ thuộc da và sản xuất da giả để chủ động nguồn nguyên liệu và giảm chi phí sản xuất, không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Nâng cao tay nghề công nhân, nâng cao năng suất lao động.
Khuyến khích xây dựng tiêu chuẩn ISO 9000 ở các xí nghiệp có sản xuất giày dép.
Chủ động xuất khẩu trực tiếp vào thị trường Mỹ không thông qua các nhà phân phối nước ngoài sẽ góp phần làm giảm chi phí, hơn nữa tạo được uy tín trên thị trường Mỹ đối với những mặt hàng xuất khẩu trực tiếp.
3.4. Hàng nông sản
Tuy ngành hàng nông sản đã có một số mặt hàng được thị trường Mỹ chấp nhận, song, hiện nay vẫn còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác và phát huy chưa tương xứng với lợi thế vốn có. Nhiều loại sản phẩm nông nghiệp chưa được khai thác đưa vào xuất khẩu như các sản phẩm thịt gia cầm, một số loại hoa quả nhiệt đới (chuối, quả có múi...). Những sản phẩm đã được khai thác xuất khẩu như cà phê, cao su, chè và gia vị thì hầu hết là ở dạng thô (chiếm tới 70 - 80%), do đó không có lợi thế trong cạnh tranh. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là:
- Cơ sở hạ tầng yếu, thiếu sự đồng bộ của các yếu tố sản xuất (điện, nước, kỹ thuật) tại các vùng tập trung chuyên canh sản xuất hàng nông sản.
- Công nghệ sau thu hoạch còn rất nhiều bất cập mà cụ thể là máy móc và thiết bị sản xuất còn sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu chế biến tiêu hao nhiều nguyên liệu trong khi đó chất lượng lại thấp, không đảm bảo.
- Tổ chức hệ thống kinh doanh xuất khẩu còn yếu kém, không hiệu quả, lưu thông chồng chéo, tranh mua, tranh bán, gây tổn hại đến lợi ích chung trong kinh doanh xuất khẩu cũng như lợi ích người sản xuất.
- Hệ thống thông tin yếu kém, hiểu biết về thị trường Mỹ còn hạn chế, khả năng tiếp thị sản phẩm dưới nhiều hình thức của các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa hiệu quả.
Trên cơ sở đó, để tăng cường khả năng xuất khẩu của ngành nông sản sang thị trường Mỹ, cần phải thực hiện những biện pháp sau đây:
Đầu tư vốn và kỹ thuật để phát triển và mở rộng nguồn hàng nông sản xuất khẩu: mục tiêu của chiến lược này chủ yếu là nhằm khai thác hết tiềm năng của sản xuất nông nghiệp Việt Nam và tạo ra các cơ sở nguồn hàng nông sản xuất khẩu không chỉ có quy mô lớn mà còn phong phú về chủng loại sản phẩm.
Tăng cường năng lực chế biến để nâng cao giá trị hàng xuất khẩu: song song với việc tăng cường vốn đầu tư để nâng cấp hệ thống máy móc thiết bị nghệ tiên tiến, thì trong giải pháp này cần phải chú ý tới việc xây dựng một chương trình đồng bộ dành cho các sản phẩm trọng điểm dựa trên cơ sở đa dạng hóa sản phẩm để chọn ra các sản phẩm có ưu thế xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Hỗ trợ và khuyến khích xây dựng các tiêu chuẩn GMP, ISO, v.v... trong sản xuất và chế biến hàng nông sản, đồng thời hỗ trợ nắm bắt thông tin qua các Hiệp hội ngành hàng, qua các trung tâm phát triển ngoại thương của tỉnh, thành phố, qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, nắm bắt thông tin về ngành hàng từ nước Mỹ qua mạng Internet.
Đẩy mạnh công tác tiếp thị ở thị trường Mỹ: thông qua Cục Xúc tiến Thương mại thuộc Bộ thương mại hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường Mỹ; mỗi Bộ ngành của Chính phủ xây dựng trang Web tiếp thị sản phẩm chủ lực của Việt Nam trên mạng Internet; nâng cao vai trò đại diện thương mại Việt Nam tại Mỹ trong tiếp thị, tìm kiếm đối tác, thông tin đại chúng... giúp các doanh nghiệp Việt Nam thành lập văn phòng đại diện hoặc thực hiện chức năng văn phòng đại diện cho các công ty Việt Nam; tham gia hội chợ triển lãm, v.v...
Kết luận
Từ chiến tranh, hận thù sang đối thoại và là đối tác của nhau trong nhiều lĩnh vực, khoa học công nghệ, ngân hàng tài chính, văn hoá du lịch, thương mại, v.v... quan hệ Việt Nam và Mỹ đã có những bước chuyển biến cực kỳ khởi sắc, đặc biệt kể từ khi Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam ngày 3/2/1994. Với chính sách mở nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư từ phía Việt Nam và thiện chí hợp tác từ phía Mỹ, hai quốc gia đã từng là kẻ thù của nhau trong quá khứ thì nay đã xích lại gần nhau hơn trong xu thế hội nhập toàn cầu. Từ mức quan hệ thương mại gần như là con số không đến năm 2001, kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt con số trên 1 tỷ USD. Mặc dù kim ngạch này chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước những cũng đã phản ánh được nỗ lực từ hai phía mong muốn khép lại quá khứ và tiến tới một tương lai hợp tác toàn diện sâu sắc.
Từng được xếp vào nhóm nước kẻ thù của Mỹ, Việt Nam với vô vàn khó khăn trong việc xuất khẩu hàng hoá của mình sang thị trường lớn nhất thế giới thì nay đã được xem như một đối tác thương mại tiềm năng của Mỹ. Hiệp định Thương mại song phương Việt – Mỹ đã được Quốc hội hai nước thông qua mở ra một quan hệ mới trong lĩnh vực thương mại giữa hai nước. Hơn bao giờ hết Việt Nam đang đứng trước những cơ hội lớn và cũng đang phải đối mặt với muôn vàn thách thức. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm vững chính sách xuất nhập khẩu của Mỹ, những quy định cụ thể trong từng giai đoạn, từng lĩnh vực để xây dựng cho mình một chiến lược xuất nhập khẩu thành công vượt qua được mọi khó khăn thách thức, trở ngại góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng phát triển và giàu mạnh.
TàI liệu tham khảo
Thông tấn xã Việt Nam:
- “Quan hệ thương mại Việt - Mỹ”, ngày 11/5/2001.
- “Thế kỷ Mỹ”, ngày 10/6/2001.
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ ngày 13/7/2000.
Nguyễn Đình Lương “Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ dưới tác động của Hiệp định Thương mại song phương”, tạp chí Quốc tế, số 11/2000.
Vũ Khoan “Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ”, tạp chí Cộng sản, số 15/2000.
Tuyên bố của Tổng thống Bill Clinton về việc bình thường hoá quan hệ của Hoa Kỳ với Việt Nam. Báo Nhân Dân số 234/1995.
Báo cáo của Bộ Thương mại về tình hình thực hiện kế hoạch năm 2000 và phương hướng, mục tiêu kế hoạch thương mại năm 2001.
Xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ – Một số khía cạnh pháp lý cần quan tâm khi giao kết hợp đồng – Bản tin câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp số 1-2002-Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Chương trình tư vấn cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ – Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam, PGS - TS. Nguyễn Thị Mơ.
Tác động của Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ đến ngành nông nghiệp Việt Nam – Kinh tế đối ngoại- Đặng Kim Sơn và Phạm Quang Diệu
Hội nhập quốc tế trong thương mại và đầu tư. Nội dung cam kết về đầu tư trong Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ – TS. Đinh Văn Ân – Q.Viện trưởng Viện nghiên cứu và Quản lý Kinh tế Trung Ương
Những điều cần biết khi xuất khẩu vào Thị trường Mỹ- Bộ Thương mại
Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ – PGS.TS. Võ Thanh Thu,
KS. Nguyễn Cương và GVC. Nguyễn Thị My.
14. Buying fromVietnam –Ngo Van Thuan - Cục xúc tiến thương mại (Bộ thương mại).
15. Xuất khẩu vào thị trường Mỹ – Bộ tài chính- Tổng cục Hải quan (Hướng dẫn chi tiết về thương mại và thủ tục Hải quan cho hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ).
16. Các trang web:
Mục lục
Lời mở đầu
Chương I: chính sách nhập khẩu của Mỹ của Mỹ đối với Việt nam
I. Một số quy định trong chính sách nhập khẩu của Mỹ 1
Khát quát về luật thương mại Mỹ 1
1.1. Mối quan hệ giữa luật liên bang và luật các bang của Mỹ trong hoạt động ngoại thương 1
1.2. Luật điều tiết hoạt động xuất khẩu 2
1.2.1. Các luật hỗ trợ xuất khẩu và triển khai hiệp định thương mại 2
1.2.2. Kiểm soát xuất khẩu 3
1.3. Luật điều tiết hoạt động nhập khẩu 3
1.3.1. Hạn chế nhập khẩu 3
1.3.2. Quyền hạn chế hàng dệt và nông sản 4
1.3.3. Các tiêu chuẩn sản phẩm 5
Một số quy định trong chính sách nhập khẩu của Mỹ 5
2.1. Quy chế Tối huệ quốc (MFN) của Mỹ 5
Hàng rào thuế quan của Mỹ 5
Danh bạ thuế quan thống nhất (HTS) 5
Định giá hải quan 6
Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) 10
Hoàn thuế nhập khẩu 13
Thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ giá 14
Hàng rào phi thuế quan của Mỹ 17
Hạn ngạch nhập khẩu 17
Hạn chế nhập khẩu vì an ninh quốc gia và cán cân thanh toán quốc gia 19
Hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ 20
Quy định về nguồn gốc xuất xứ 20
Quy định về ký mã hiệu 21
Quy định về nhãn mác thương mại 22
Quy định về quyền sở hữu trí tuệ 23
Chính sách nhập khẩu của Mỹ đối với Việt Nam và vấn đề đặt ra đối với việt nam .... 24
1. Nhập khẩu của Mỹ từ Việt Nam trong thời kỳ cấm vận 24
2. Chính sách nhập khẩu của Mỹ đối với Việt Nam 26
3. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ 31
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Mỹ
Nhu cầu nhập khẩu hàng hoá Việt Nam của Mỹ 35
1. Một vài nét về thị trường Mỹ 35
2. Vai trò của Việt Nam trong chính sách nhập khẩu của Mỹ 37
Nhu cầu một số mặt hàng Mỹ nhập khẩu từ Việt nam 38
Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ 42
1. Tình hình chung 42
2. Thực trạng xuất khẩu đối với một số mặt hàng cụ thể 44
iii. Đánh giá 58
Chương III: Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Mỹ
I. Triển vọng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ 64
Triển vọng xuất khẩu do Hiệp định thương mại Việt- Mỹ mang lại 64
Triển vọng xuất khẩu đối với một số mặt hàng cụ thể 65
Cà phê 65
Thuỷ hải sản 67
Dệt may và giày dép 68
Dầu khí 69
II. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Mỹ 70
Giải pháp ở tầm vĩ mô 70
Giải pháp ở tầm vi mô 78
Giải pháp đối với một số mặt hàng cụ thể 81
Kết luận 90
TàI liệu tham khảo 91
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0428.doc