Đề tài Chính sách ruộng đất và phonh trào nông dân thời kỳ nhà Lê từ thế kỷ XV-XVI

I. LỜI NÓI ĐẦU Trong xã hội phong kiến Việt Nam, các nhà nước phong kiến muốn duy trì sự tồn tại và phát triển, họ luôn có những chính sách nhằm củng cố địa vị và quyền lợi đến tối cao. Trong những chính sách đó, chính sách ruộng đất – tư liệu sản xuất của nông dân, được xem là trụ cột, xuyên suốt và quan trọng của nhà nước phong kiến. Với một đất nước có nền kinh tế chủ đạo là nông nghiệp trồng lúa nước thì nông dân là thành phần chiếm đại đa số trong cơ cấu xã hội. Người nông dân chính là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất, lực lượng sản xuất chủ yếu để duy trì sự tồn tại của chính quyền phong kiến, song họ lại không có địa vị trong xã hội, đời sống cực khổ, bị áp bức bóc lột nặng nề: tô thuế, lao dịch Theo C. Mác: “Người nông dân không có điều kiện làm ăn sinh sống mà tô thuế ngày đêm thúc giục, hành hạ họ, trong hoàn cảnh bị chà đạp trong ngu muội, lạc hậu, họ không thể nào nhìn thấy được nguyên nhân của tình trạng đau khổ của mình. Tất nhiên ách tô thuế trở thành nguyên nhân trực tiếp đập vào mắt họ. Vì vậy, yêu cầu bức thiết là thoát khỏi ngay tình trạng đói nghèo để tiếp tục được sống, đấu tranh.” Không chịu nổi cảnh áp bức, bóc lột nặng nề đó người nông dân đã đứng lên đấu tranh. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử, khởi nguồn của nó chủ yếu xuất phát từ chính sách ruộng đất do giai cấp cầm quyền thực hiện. Như đã biết ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của người nông dân thời trung đại, sự nổi dậy của phong trào nông dân phần lớn do vấn đề ruộng đất. Và sự phát triển của phong trào nông dân trong một giai đoạn lịch sử như thế nào, tùy thuộc vào chính sách ruộng đất của nhà nước và tình hình ruộng đất của xã hội đương thời. Vì vậy, giữa chính sách ruộng đất và phong trào nông dân nổi lên một mối quan hệ đặc biệt có tác động qua lại với nhau, tạo nên những đặc trưng, hệ quả xuất phát từ mối quan hệ điển hình này. Để thấy được mối quan hệ xuyên suốt này, ta tìm hiểu “chính sách ruộng đất và phonh trào nông dân thời kỳ nhà Lê từ thế kỷ XV-XVI”, qua đó giúp ta hiểu được mối quan hệ giữa chính sách ruộng đất và phong trào nông dân trong lịch sử phong kiến Việt Nam nói chung, thời kỳ nhà Hậu Lê nói riêng. **** III. KẾT LUẬN Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, cuộc đấu tranh của giai cấp nông dân là một hiện tượng đặc biệt của xã hội, cuộc đấu tranh đó với tính chất thúc đẩy xã hội đi lên, bằng việc kết thúc lịch sử một triều đại. Phong trào nông dân thế kỷ XVI cũng không ngoại lệ, cuộc đấu tranh nhằm chống lại các chính sách ruộng đất khắc nghiệt của nhà nước, đồng thời chống lại chế độ hà khắc của chính quyền phong kiến, chống lại mọi lực lượng phản động kìm hãm sự phát triển của xã hội, của lực lượng sản xuất. Phong trào nông dân diễn ra là sự biểu hiện của mâu thuẫn gay gắt giữa chính sách ruộng đất và nguyện vọng của người nông dân, xã hội cuối triều Lê là sự khủng hoảng của chế độ quân điền. Phong trào nông dân thế kỷ XVI là một nét tiêu biểu về phong trào nông dân Việt Nam nói chung, ở đó người ta thấy sự hình ảnh người nông dân và ruộng đất có quan hệ xiết chặt với nhau, vì thế khi các chế độ ruộng đất có vấn đề, nảy sinh xu hướng tiêu cực, thì tất yếu phong trào nông dân diễn ra. Lấy ví dụ về phong trào nông dân thời kỳ này, giúp ta rút ra được những nét hạn chế cũng như những đóng góp của phong trào nông dân trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam, từ có cách nhìn sâu sắc về phong trào nông dân Việt Nam trong nghiên cứu và học tập lịch sử về: nông dân giai cấp gốc nhất của xã hội với truyền thống lao động cần cù, tinh thần yêu nước, đấu tranh bất khuất, gắn liền từ xưa đến xã hội hiện đại.

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1764 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chính sách ruộng đất và phonh trào nông dân thời kỳ nhà Lê từ thế kỷ XV-XVI, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. LỜI NÓI ĐẦU Trong xã hội phong kiến Việt Nam, các nhà nước phong kiến muốn duy trì sự tồn tại và phát triển, họ luôn có những chính sách nhằm củng cố địa vị và quyền lợi đến tối cao. Trong những chính sách đó, chính sách ruộng đất – tư liệu sản xuất của nông dân, được xem là trụ cột, xuyên suốt và quan trọng của nhà nước phong kiến. Với một đất nước có nền kinh tế chủ đạo là nông nghiệp trồng lúa nước thì nông dân là thành phần chiếm đại đa số trong cơ cấu xã hội. Người nông dân chính là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất, lực lượng sản xuất chủ yếu để duy trì sự tồn tại của chính quyền phong kiến, song họ lại không có địa vị trong xã hội, đời sống cực khổ, bị áp bức bóc lột nặng nề: tô thuế, lao dịch…Theo C. Mác: “Người nông dân không có điều kiện làm ăn sinh sống mà tô thuế ngày đêm thúc giục, hành hạ họ, trong hoàn cảnh bị chà đạp trong ngu muội, lạc hậu, họ không thể nào nhìn thấy được nguyên nhân của tình trạng đau khổ của mình. Tất nhiên ách tô thuế trở thành nguyên nhân trực tiếp đập vào mắt họ. Vì vậy, yêu cầu bức thiết là thoát khỏi ngay tình trạng đói nghèo để tiếp tục được sống, đấu tranh.” Không chịu nổi cảnh áp bức, bóc lột nặng nề đó người nông dân đã đứng lên đấu tranh. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử, khởi nguồn của nó chủ yếu xuất phát từ chính sách ruộng đất do giai cấp cầm quyền thực hiện. Như đã biết ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của người nông dân thời trung đại, sự nổi dậy của phong trào nông dân phần lớn do vấn đề ruộng đất. Và sự phát triển của phong trào nông dân trong một giai đoạn lịch sử như thế nào, tùy thuộc vào chính sách ruộng đất của nhà nước và tình hình ruộng đất của xã hội đương thời. Vì vậy, giữa chính sách ruộng đất và phong trào nông dân nổi lên một mối quan hệ đặc biệt có tác động qua lại với nhau, tạo nên những đặc trưng, hệ quả xuất phát từ mối quan hệ điển hình này. Để thấy được mối quan hệ xuyên suốt này, ta tìm hiểu “chính sách ruộng đất và phonh trào nông dân thời kỳ nhà Lê từ thế kỷ XV-XVI”, qua đó giúp ta hiểu được mối quan hệ giữa chính sách ruộng đất và phong trào nông dân trong lịch sử phong kiến Việt Nam nói chung, thời kỳ nhà Hậu Lê nói riêng. II. MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH SÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ PHONG TRÀO NÔNG DÂN THỜI KỲ NHÀ LÊ, THẾ KỶ XV-XVI 1. Chính sách ruộng đất và phong trào nông dân thế kỷ XV Sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng trước quân Minh xâm lược, đất nước trở lại thanh bình. Gắn liền với nền độc lập vừa giành được là sự xác lập của nhà nước Lê sơ, và sự chấm dứt thời kỳ phong kiến hóa, đưa đất nước vào thời kỳ phong kiến hoàn chỉnh, tạo cơ sở cho sự phát triển đến đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam. Sự phát triển đỉnh cao của chế độ phong kiến Lê sơ gắn liền với các chính sách về ruộng đất của nhà nước, một trong những sách quan trọng của nhà nước phong kiến. Sự đóng góp tích cực hay hạn chế của các chính sách về ruộng đất đối với đa số nhân dân dương thời, nó thể hiện sự ổn định hay bất mãn là nguyên nhân sâu sa dẫn đến phong trào nông dân. Do sự suy vong vào cuối thời nhà Trần và 20 năm thống trị tàn bạo của phong kiến nhà Minh, nền kinh tế của đất nước bị tàn phá, đình trệ, tiêu điều. Sau khi cuộc chiến tranh giải phóng đất nước giành thắng lợi, nhà Lê, đứng đầu là vua Lê Thái Tổ, đã cùng với nhân dân hợp sức khôi phục sản xuất, hàn gắn vết thương chiến tranh, đưa nền kinh tế phát triển sang một giai đoạn mới Đó là một nhiệm vụ lịch sử trọng yếu của thời Lê sơ – thời kỳ khôi phục kinh tế nông nghiệp. Để khôi phục lại nền kinh tế, nhà Lê đặc biệt quan tâm đến vấn đề ruộng đất, vì giải quyết được tình hình ruộng đất thì mới có thể khôi phục lại nền kinh tế nông nghiệp. Trong những năm đầu sau khi giành đươc độc lập, chẳng những nền kinh tế bị tàn phá nghiêm trọng, mà vấn đề ruộng đất, vấn đề nhân lực cho nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn (do hiện tượng phiêu tán của nhân dân). Thiếu ruộng đất để sản xuất la do: ruộng đất của nhân dân bỏ hoang; sự chấp chiếm, cướp đoạt ruộng đất của quan lại, cường hào, tướng lĩnh, địa chủ, làm cho ruộng đất thiếu sản xuất nghiêm trọng. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, nhân dân đã cùng với nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu giành thắng lợi. Nguyện vọng của nhân dân và các chiến sĩ khi hòa bình lập lại là có ruộng đất sản xuất, làm ăn sinh sống. Vì vậy, để đáp ứng lại nguyện vọng của nhân dân, cũng như giải quyết tình hình nền nông nghiệp trước mắt, nhà Lê đã nhanh chóng chấn chỉnh và đưa ra các chính sách cấp thiết về vấn đề ruộng đất. Có thể thấy nét tiêu biểu trong chính sách ruộng đất của nhà Lê, đó là việc ban hành chế độ lộc điền - phép quân điền năm 1477, thời Hồng Đức. Chế độ lộc điền và phép quân điền là nét đặc trưng của nhà nước phong kiến đỉnh cao thời Lê sơ, đưa chế độ phong kiến Việt Nam tập quyền cao độ. Chế độ lộc điền thời Lê thay thế thái ấp điền trang thời Lý - Trần, nó không tạo điều kiện cho yếu tố cát cứ phát triển. Một số ruộng thế nghiệp của lộc điền có xu hướng trở thành những ruộng tư, người được cấp trở thành quan liêu - địa chủ. Lộc điền là chế độ ruộng ban cấp cho các công thần, quan lại, quý tộc : Vua Lê phong thưởng cho công thần tổng cộng 221 người. Ngoài tước hiệu, mỗi người được từ 300 - 500 mẫu ( thực tế nhiều người lên đến 1000 mẫu). Đến Lê Thánh Tông ban hành chế độ lộc điền, quy định mỗi chức tước được cấp một số lượng ruộng nhất định. \ Về chính sách "quân điền" bắt đầu từ thời Lê Thái Tổ. Sau khi kháng chiến thắng lợi, tình hình ruộng đất xáo trộn, nhà vua đã có ý định chia ruộng công cho nhân dân, qua lời phủ dụ : "chiên sĩ thì nghèo, du sĩ thì giàu, người chiến sĩ phải chiến đấu thì không có tấc đất để ở, kẻ du thực vô ích cho nước thì lại có ruộng đất quá nhiều... Do đó, không có người tận tâm với nước mà chỉ lo việc phú quý. Phép quân điền được thực hiện hoàn chỉnh dưới thời Lê Thánh Tông. Theo đó, ruộng đất công làng xã cứ 6 năm một lần được phân phối lại, dưới sự chỉ đạo của Nhà nước. Quỹ đất theo đơn vị làng xã, có thể điều chỉnh chút ít giữa các xã lân cận. Đối tượng được chia ruộng kể từ các quan tam phẩm (nếu chưa có hoặc có ít lộc điền) được chia 11 phần tới các loại cô nhi, quả phụ được 3 phần. Người cày ruộng phải nộp tô cho Nhà nước (các quan tam, tứ phẩm thì được miễn). Loại công điền quân phân này trên danh nghĩa thuộc quyền sở hữu Nhà nước, do làng xã quản lý và các hộ gia đình sử dụng. Chính sách quân điền" thời Lê sơ là một bước trong quá trình phong kiến hóa làng xã, chuyển từ nền kinh tế điền trang quý tộc sang nền kinh tế tiểu nông. Qua đó, Nhà nước đã nắm được làng xã và dân chúng tăng nguồn thu nhập (qua nghĩa vụ tô thuế, lao dịch, binh dịch). Mặt khác, phát triển được sản xuất và ổn định được đời sống nhân dân. Đó là một biện pháp tích cực trong chính sách ruộng đất thời Lê sơ, nhưng sau đã dần dần mất tác đụng do nạn chấp chiếm ruộng đất. Chế độ quân điền của nhà Lê, là một chính sách tiến bộ trong việc giải quyết ruộng đất cho nhân dân sản xuất, ai nấy đều có ruộng: từ hạng cô quả, tàn tật, vợ con những phạm nhân đều được chia ruộng đất để cày cấy sinh sống. Chế độ lộc điền và phép quân điền, cùng với các chế độ ruộng đất khác thời Lê sơ phản ánh xu thế phát triển khách quan về ruộng đất trong lịch sử Việt Nam, hình thành quan hệ sản xuất phong kiến phổ biến địa chủ - tá điền trong xã hội. Cùng với nó, các chính sách ruộng đất đã tạo ra một số giai cấp địa chủ mới: địa chủ xuất thân từ bộ phận nhà nước; từ quan lại, quý tộc và từ nông dân mà ra. Họ là bộ phận chiếm ít trong xã hội nhưng nắm trong tay nhiều tư liệu sản xuất. Đây là bộ phận rất quan trọng, tạo cơ sở cho nhà nước thiết lập quan hệ địa chủ-nông dân, từ đó đưa ra các chính sách phát triển kinh tế mạnh mẽ, tăng tiềm lực cho nhà nước phong kiến tập quyền cao độ. Nhà nước Lê sơ với chính sách ruộng đất tiến bộ đã mang lại nhiều kết quả tốt trong việc khôi phục nền kinh tế nông nghiệp, ổn định đời sống nhân dân. Những chính sách đó ngoài việc chấn chỉnh ruộng đất để sản xuất, mà nhà nước còn quan tâm, chăm lo đê điều, thủy lợi, đặt ra các chức quan Khuyến nông và Hà đê. Ở Nam Định, có nhiều đoạn đê ngăn nước mặn còn mang lên là đê Hồng Đức", cũng như ở Thanh Hoá, nhiều sông đào, được gọi là sông nhà Lê". Để bảo đảm sản xuất, các vua Lê đã cho thi hành chính sách "ngụ binh ư nông", cho quân đội thay phiên về làm ruộng, theo tinh thần tĩnh vi nông. động vi binh". Luật pháp nghiêm cấm việc giết trâu, bò sống để bảo vệ sức kéo. Khi huy động công việc lao dịch, các quan sở tại phải tránh thời vụ, để không làm kinh động sức dân. Những chính sách ruộng đất thời kỳ đầu của nhà Lê, đã góp phần khôi phục nền kinh tế, ổn định đời sống, nhân dân đủ ăn đủ mặc…Có thể thấy đời vua Thái Tổ, Thái Tông nhân dân thường ca ngợi: Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng muốn ăn. Điều đó cho thấy sự ảnh hưởng tích cực của chính sách ruộng đất đối với đời sống nhân dân: nhân dân ai nấy đều có ruộng đất cày cấy, cuộc sống yên ổn, không có loạn lạc chiến tranh. Điều đáng chú ý là nhà nước đã đảm bảo tư liệu sản xuất cho nhân dân, điều đó tạo nên sự ổn định, bình yên trong lòng dân, đưa đến thịnh vượng của nhà nước phong kiến Lê sơ khi không có sự mâu thuẫn và thái độ bất mãn của nhân dân đối với nhà nước. Và tất yếu cho thấy cũng không có bóng dáng của một cuộc nổi dậy nào của nông dân vào thời kỳ đầu của nhà nước Lê sơ. Phong trào nông dân diễn ra khi các chính sách của nhà nước, đặc biệt là các chính sách về ruộng đất tỏ ra đi ngược với yêu cầu và nguyện vọng của đại đa số nông dân. Khi đó nổi lên sự phản kháng mạnh mẽ không thể ngăn cản được. Dưới sự trị vì của các vị vua đầu nhà Lê (nhất là Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông), đã ban hành các chính sách ruộng đất tiến bộ đáp ứng nguyện vọng của nông dân. Đặc biệt là sự chăm lo, quản lý tích cực mọi mặt của đất nước đã tạo nên tình hình kinh tế-xã hội ổn định, phát triển, nhất là cuộc sống của nhân dân được nhà nước khuyến khích quan tâm nhân dân. Vì thế, thời kỳ đầu của nhà nước Lê sơ hầu như không có một cuộc nổi dậy nào của nông dân đứng lên chống lại nhà nước. Qua đó thể hiện sự hài hòa, tương khích giữa chính sách ruộng đất và phong trào nông dân, khi phong trào nông dân không diễn ra cũng cho thấy sự điều hòa thích hợp, không có mâu thuẫn đối kháng nảy sinh trong mối quan hệ đặc biệt này. Đồng thời cũng chứng minh xã hội Đại Việt thời kỳ đầu của nhà nước Lê sơ là một xã hội tương đối ổn định và phát triển, biểu hiện của nó là không có phong trào nông dân xảy ra. 2. Chính sách ruộng đất và phong trào nông dân thế kỷ XVI Nếu như nhà Lê sơ ở thế kỷ XV được coi là giai đoạn phát triển đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam thì sang thế kỷ XVI, chế độ phong kiến bước vào khủng hoảng, suy thoái mất dần vị trí trong lịch sử. Biểu hiện của nó là chính trị khủng hoảng, kinh tế suy thoái. Trong bức tranh chung toàn cảnh ruộng đất, cái chi phối nhất, chi phối chủ yếu đến tình trạng ruộng đất phải kể đến các chính sách về ruộng đất mà Nhà nước phong kiến trung ương ban hành. Với truyền thống Nhà nước tập quyền, các biện pháp cai trị áp dụng, ban hành có ảnh hưởng rất lớn đến bức tranh ruộng đất – vấn đề kéo theo phong trào nông dân. Nhà Lê sau một thời gian dài phát triển và ổn định, từ đầu thế kỷ XVI, nhất là sau khi vua Lê Hiến Tông mất, kinh tế - xã hội khủng hoảng trầm trọng, phong trào nông dân bắt đầu diễn ra chống đối nhà Lê (lúc bấy giờ là Lê Trung Hưng). Bước vào thế kỷ XVI, nhà nước phong kiến của triều Lê không còn thịnh trị như trước, dấu hiệu phong trào nông dân xuấ hiện, cho thấy chính sách ruộng đât thời kỳ này tỏ ra mâu thuẫn với nhân dân, nó xuất phát từ chính sách của giai cấp cầm quyền. Phong trào nông dân bắt đầu xuất hiện đó là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế bị suy thoái, mà biểu hiện của nó là sự khủng hoảng của chế độ quân điền. Có thể thấy tình hình ruộng đất và chính sách của nhà nước như sau: Đến thế kỷ XVI, chính sách quân điền thời Lê đã mất ý nghĩa tích cực của nó là chia đều cho nhân dân, quan lại, địa chủ xâm chiếm ruộng đất của dân, cướp đoạt ruộng đất của dân: "Kỷ năm Đoan Khánh hoạn quan dự chính, họ ngoại chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỷ cương rối loạn; nông tang mất nghiệp, phong tục ngày hư, thực là đáng thương vậy"; "quan lại tham nhũng chiếm ruộng đất". Tuy nhiên chính sách của nhà nước phần nào cũng có tác dụng nhất định đối với phát triển kinh tế: "Lệ binh bổ thuế đinh ở bốn trấn đã định xong. Trước đây nhà nước mới bắt đầu khôi phục, thuế khóa vẫn thao như cũ, nên có chỗ nặng chỗ nhẹ không đều. Mới rồi vương sai quan chia đi trong nước, tùy theo tài sản của dân nghèo, ruộng đất tốt xấu mà binh bổ lệ ngạch thuế đinh theo thứ bậc khác nhau. Đến đây đã làm xong, biên rõ lệnh lệ, ban cho quan và dân mỗi bên giữ một bản, để theo đó làm bằng cứ mà thành lệ thường. Cấm quan khuyến nông và quan hà đê được đòi tiền của dân. Bấy giờ người giữ chức ấy không lo khám xét khuyên bảo, chỉ chằm đòi lễ mừng của dân cho nên nghiêm cấm"; "có chỉ truyền rằng phàm người được cấp ruộng công, chỉ được cấy trồng 10 mẫu ruộng ở quê mình, còn thì chiếu thu tiền thuế không được cày quá lạm". Đối với ruộng đất công làng xã thì bị lấn chiếm, làm cho chế độ quân điền bị phá sản. Năm 1510, Lê Tương Dực cho phép các công thần được tìm kiếm những ruộng “ẩn lậu” báo lên triều đình cấp làm ruộng tư. Điều đó đã tạo điều kiện cho quan lại, cường hào cướp ruộng đất của dân, gây nên phản ứng mạnh mẽ trong thôn xóm. “Bấy giờ nhân dân tứ chiếng bị làm phiền vì việc cắt cỏ voi, lại bị người sở quản quấy nhiễu, dân khổ không chịu nổi, nhiều người đi theo đảng ngụy, cướp bóc dân gian” .Sự kiện này chứng tỏ nhân dân bất mãn sâu sách với ách cai trị của chính quyền nên vùng lên khởi nghĩa. Cùng với nền kinh tế suy thoái, nền chính trị của nhà Lê thời kỳ này đang trong tình trạng khủng hoảng. Chính quyền nhà Lê suy yếu trên toàn diện, bắt đầu từ những người đứng đầu nhà nước: từ vua Lê Hiến Tông đến Uy Mục rồi Tương Dực, đều là những vị vua kém tài, kém đức, đêm ngày ăn chơi sa đọa, bỏ bê chính sự, không quan tâm đến đời sông nhân dân. Các vị vua Lê mất hết uy quyền, nhân cơ hội đó bọn công thần, quan lại, quý tộc trong triều thì kết thành bè cánh, nắm hết uy quyền; ở các địa phương ra sức hoành hành, nhũng nhiễu nhân dân “phàm là súc vật, hoa màu của dân đều cướp cả, nhân dân ai có đồ lạ, vật quý thì đánh dấu để lấy” hay” tước đã hết mà lạm thưởng không hết, dân đã cùng mà lạm thu không cùng, phú thuế thu đến tơ tóc mà dùng của như bùn đất”. Ruộng đất bị chấp chiếm, cướp đoạt, dân không có đất sản xuất, đời sống ngày càng khó khăn, trong khi quan lại, cường hào thì tăng cường cướp bóc, thuế khóa thì nặng làm cho đời sống người dân trở nên cơ cực và khó khăn hơn. Đó là những biểu hiện cho thấy chính quyền trung ương ngày càng suy yếu và sa đọa. Trong lúc nhà Lê suy yếu, bọn cường hào, quan lại, địa chủ nổi lên cướp bóc của cải, ruộng đất, hà hiếp nhân dân, khiến cho đời sống nhân dan vô cùng khó khăn: "vì người thừa hành chưa biết thể theo đức ý người trên, chăm làm khắc bạo ngược, đua nhau xa xỉ, coi một huyện thì làm khổ dân một huyện, coi một xã thì làm khổ dân một xã, phàm những việc nhiễu dân, không việc gì là không làm, khiến dân trong nước con trai hoặc có người không có áo, con gái hoặc có người không váy, tiệc hát xướng không còn, lễ cưới xin không đủ, sống nuôi chết đưa không trông được vào đâu, ăn uống chỉ dùng hàng ngày đều thiếu, dân mọn nghèo nàn, cho chí sâu bọ cỏ cây, đều không được thỏa sống". Sự suy yếu của chính quyền trung ương nhà Lê, có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân, nhất là vấn đề về ruộng đất. Uy quyền của nhà Lê suy yếu kéo theo các chính sách của nhà nước không còn thể hiện sức mạnh như trước nữa. Có thể thấy trong các chính sách về ruộng đất, thì chính sách quân điền của nhà Lê đã mất đi tính tích cực của nó, bởi sự chấp chiếm, cướp đoạt ruộng đất (nhất là ruộng đất công) của bọn quan lại, địa chủ. Chính sách quân điền đáp ứng đại đa số nguyện vọng của nhân dân thời kỳ đầu của nhà nước Lê sơ, nhưng khi chế độ này mất đi tính tiến bộ của nó thì đồng nghĩa với việc đi ngược lợi ích của nhân dân, khi đó giữa chính quyền trung ương và nhân dân sẽ nảy sinh những mâu thuẫn, đến lúc không thể điều hòa được thì dẫn đến phong trào đấu tranh của nhân dân. Sự suy thoái về chính trị, cùng với các chính sách của nhà nước đối với nền nông nghiệp, trong đó chế độ ruộng đất ngày càng đi vào bế tắc, thêm vào đó là tình trạng chấp chiếm, cướp đoạt ruộng đất của bọn quan lại, cường hào…đã làm cho nông dân không có ruộng đất để sản xuất, đời sống cơ cực, người dân nhiều nơi phải phiêu tán. Chính trị nhà Lê suy yếu kéo theo kinh tế bị khủng hoảng, các vấn đề xã hội nhà nước cũng không quan tâm đến: nạn đói, dân phiêu tán, hạn hán, bão lụt, thiên tai mất mùa. Từ năm 1512 đến 1519, hạn hán, lũ lụt, nạn đói, chết chóc xảy ra liên miên, đời sống nhân dân hết sức cơ cực: "Đại hạn trong nước đói to"; "Mùa hạ tháng 6, ngày mồng 7, nước to vỡ đê phường An Hoa thông vào hồ Tây"; " Năm ấy trong nước đói to, nhân dân chết đói nằm gối lên nhau"; "Mùa thu tháng 7, ngày mồng 7, trời mưa to sét đánh chết người rất nhiều", "Thiên hạ đói kém thèm rau, quân lính thiếu lương"; "Từ tháng ² đến tháng 4, trì nắng to lúa hỏng gạo đắt"; "Ngày mồng 10, trời mưa nhiều sâu lúa"; "Tháng 8 có sâu lúa"; "Năm ấy động đất 2 lần. Mùa hạ tháng 6 có đại hạn"; "tháng ² đại hạn có sâu lúa, lúa má chết khô". Trên đây là một số nét về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nhà Lê, thời kỳ suy yếu và khủng hoảng của nhà nước phong kiến dưới thời cầm quyền của Lê Trung Hưng. So với thời kỳ đầu – giai đoạn Lê sơ, thì đây là thời kỳ suy thoái, vị trí của nhà Lê mất dần trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Bằng chính sách quân điền triều Lê đã mang lại một thời kỳ phát triển ổn định và phát triển đỉnh cao của nhà nước phong kiến ở thế kỷ XV, sang thế kỷ XVI chính sách quân điền rơi vào khủng hoảng, cùng với nền chính trị suy thoái là dấu hiệu cho thấy vai trò của nhà Lê mất dần trong xã hội phong kiến Việt Nam. Chế độ quân điền khủng hoảng thể hiện chính sách ruộng đất của nhà Lê không đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, ngược lại chính quyền nhà Lê còn ban hành chế độ xã hội khắc nghiệt, quan lại hà hiếp nhân dân…gây nên những phản ứng mạnh mẽ trong lòng nhân dân. Tình hình kinh tế - xã hội vào đầu thế kỷ XVI, rơi vào tình trạng hổn loạn, đời sống nhân dân đói khổ, không chịu nổi cảnh khổ cực, ách bóc lọt hà khắc nặng nề, người nông dân đã nổi dậy đấu tranh. Từ năm 1511, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra rầm rộ khắp nơi và kéo dài mãi tới 1522. Tiêu biểu cho phong trào nông dân thời kỳ này: cuộc khởi nghĩa của Thân Duy Nhạc, Ngô Văn Tổng và Trần Tuân năm 1511; cuộc khởi nghĩa của nông dân Nghệ An năm 1512 do Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Minh Triệt chỉ huy; phong trào nông dân diễn ra 8 năm (1512-1522) ở các địa phương từ Thanh Hóa đến Sơn Tây, Vĩnh Yên, Kinh Bắc, Tuyên Quang; cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo (1516-1521). Ngoài thời gian trên về sau phong trào nông dân tiếp tục nổ ra. Như vậy đầu thế kỷ XVI, phong trào nông đã xuất hiện và diễn ra trên quy mô lớn, rầm rộ. Đó là biểu hiện của sự suy yếu và khủng hoảng của phong kiến nhà Lê bắt đầu từ thế kỷ XVI. Nếu như ở thế kỷ XV không có một phong trào nào của nông dân diễn ra thì đầu thế kỷ XVI phong trào nông dân đã xuất hiện và diễn ra sôi nổi chống đối nhà Lê. Bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó chính sách ruộng đất mà chính quyền nhà Lê ban hành thời kỳ này là nguyên nhân quan trọng làm nổi lên phong trào đấu tranh của nông dân. Mà cụ thể là sự khủng hoảng của chính sách quân điền. Nó là điều kiện, nguyên nhân tất yếu làm nảy sinh phong trào nông dân, bên trong chứa đựng những điều mâu thẫn, đi ngược với lợi ích của nông dân. Thời kỳ đầu của nhà Lê chính sách ruộng đất thể hiện sự tương thích, hài hòa với nguyện vọng của phần lớn nhân dân, điều đó đã tạo nên sự ổn định, phát triển cao của nhà Lê ở thế kỷ XV. Nhưng vào thế kỷ XVI chính sách ruộng đất không còn thể hiện sự ưu việt, tiến bộ như trước nữa, mà ngược lại gây nên nhiều mâu thuẫn, bất mãn trong nhân dân, kết quả là hàng loạt các phong trào nông dân xảy ra chống đối chính quyền nhà Lê. Đó là kết quả tất yếu của chính sách ruộng đất không tiến bộ, đi liền với nó là các phong trào nông dân, hình thức giải quyết và kết thúc vai trò lịch sử của nhà Lê. Như vậy bước vào thế kỷ XVI, phong trào nông dân đã xuất hiện dưới sắc màu phong kiến nhà Lê. Đó là sự biểu hiện không hài hòa giữa chính sách ruộng đất và nguyện vọng của nhân dân, dẫn đến các phong trào nông dân diễn ra chống đối nhà Lê khi xã hội bước vào thế kỷ XVI. 3. Hạn chế phong trào nông dân Giai cấp nông dân là một bộ phận đông đảo trong xã hội Việt Nam nói chung, và xã hội thời trung đại nói riêng, họ là hiện thân của truyền thống lao động sản xuất, của tinh thần đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Trong tiến trình lịch sử dân tộc, giai cấp nông dân luôn nổi lên như một hiện tượng đặc biệt bằng các cuộc nổi dậy, các phong trào đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh chống giai cấp, biến họ thành một giai cấp có một vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong xã hội Việt Nam. Tầm vóc to lớn của người nông dân được ghi nhận bằng các phong trào đấu tranh, ở thế kỷ XVI nói riêng và phong trào nông dân Việt Nam nói chung, luôn xuất hiện các phong trào đấu tranh của nông dân mang những đặc điểm,ý nghĩa khác nhau, song đều mạng những hạn chế. Ta có thể thấy những điểm hạn chế sau đây: Trước hết, Phong trào nông dân chưa đặt ra vấn đề ruộng đất là nhu cầu thiết thân, thường xuyên của người nông dân. Mặc dù khởi nghĩa của người nông dân nổ ra xuất phát từ các chính sách ruộng đất của nhà nước, nguyện vọng tha thiết của họ là có ruộng đất cày cấy, nhưng khi nổi dậy khởi nghĩa thì vấn đề ruộng không được giải quyết triệt để. Ngay cả những cuộc khởi nghĩa điển hình, người cầm đầu khởi nghĩa là những tri thức vẫn chưa nêu lên khẩu hiệu ruộng đất, phong trào cũng không có chủ trương giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân. Do sự ảnh hưởng của phương thức sản xuất phong kiến không tạo nên những điều kiện và tiền đề để giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân và do đó cũng không cho phép nông dân biến yêu cầu ruộng đất thành một khẩu hiệu đấu tranh của họ. Các cuộc đấu tranh của nông dân chủ yếu nhằm lợi ích kinh tế. Đó là: lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo. Khi giai cấp nông dân đứng lên đấu tranh là lúc chính quyền nhà nước phong kiến khủng hoảng và suy vong, do chính sách tô thuế, do thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, đói kém làm cho nông dân lưu vong phiêu tán, khi nổi dậy đấu tranh họ nhằm chống lại chính quyền phong kiến, cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo để giải quyết nhu cầu cấp thiết trước mắt là đói. Như “Năm 1594, người huyện Vĩnh Lại là Lại quận công mưu làm phản, cũng đem binh chúng bản huyện đi theo. Bấy giờ các huyện Hải Dương nhân dân mất mùa to, đói kém đến ăn thịt lẫn nhau, chết đói đến 1/3” . Xuất phát từ những điều kiện và nguyên nhân khác nhau đã làm ảnh hưởng đến tính chất của phong trào nông dân về khẩu hiệu, chủ trương đấu tranh, nhất là đấu tranh vì ruộng đất. Như đã nói trên có thể thấy mục tiêu ruộng đất trong phong trào đấu tranh của nông dân không được giải quyết triệt để, mà chỉ trong chừng mực nào đó đáp ứng nhu cầu tạm thời cho người nông dân. Đó là hạn chế lớn của phong trào nông dân – khi khẩu hiệu đấu tranh của đặt ra là đấu tranh để “có ruộng cày cấy”. Thứ hai, phong trào nông dân không xóa bỏ được mâu thuẫn giai cấp, đó là địa chủ - nông dân. Xã hội phong được thiết lập bởi quan hệ địa – tô, đó là mối quan hệ cố hữu giữa địa chủ và nông dân, ràng buộc to lớn về vấn đề ruộng đất. Trong mối quan hệ đó, người nông dân luôn bị xiết chặt bởi sự áp bức, bóc lột, hà hiếp của giai cấp địa chủ. Trong cảnh cùng cực và không chịu nổi sự áp bức đó người nông dân đã nổi dậy đấu tranh, đó là cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp địa chủ phong kiến. Phong trào đấu tranh của nông dân chống giai cấp địa chủ diễn ra sôi nổi và rầm rộ, khi mâu thuẫn giữa hai giai cấp này mâu thuẫn gay gắt. Phong trào nông dân giành được nhiều thắng lợi to lớn, vào mỗi giai đoạn giai cấp địa chủ gần như lung lay, nhưng chỉ dừng lại một chừng mực nào đó thì chấm dứt. Vì thế, cuộc đấu tranh của nông dân nhằm xóa bỏ giai cấp địa chủ không giành thắng lợi, và tất yếu giai cấp địa chủ còn tồn tại thì mối quan hệ địa – tô vẫn đứng sừng sững trong xã hội và tiếp tục là sợi dây ràng buộc của người nông dân với địa chủ thông qua vấn đề ruộng đất. Việc không xóa bỏ được giai cấp địa chủ, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau: Xã hội phong kiến đặc trưng bởi giai cấp địa chủ và nông dân, thông qua quan hệ địa – tô, sự xiết chặt của mối quan hệ này đã ảnh hưởng lớn đến ý thức hệ đấu tranh của người nông dân. Vì vậy, nó cũng góp phần làm cho cuộc đấu tranh chống giai cấp địa chủ của người nông dân trở nên hạn chế. Sự mở rộng ruông đất và sự thay đổi cải tiến kĩ thuật canh tác làm cho quan hệ sản xuất phong kiến vẫn được duy trì một cách ổn định, mâu thuẫn xã hội chưa thực sự quyết liệt. Sự hạn chế của giai cấp nông dân, dẫn đến thế lực giai cấp thấp, đấu tranh chưa đưa ra nhiệm vụ lật đổ giai cấp địa chủ, hình thức cũng như phương pháp đấu tranh đơn giản, lẻ tẻ; mặt khác nông dân chưa bao giờ lãnh đạo cách mạng. Đó là hai hạn chế lớn của phong trào nông dân trong lịch sử Việt Nam dưới sắc màu xã hội phong kiến. Ngoài ra còn có những hạn chế khác trong phong trào nông dân: Chưa thiết lập được quan hệ mới, mặc dù diễn biến của phong trào có lúc giành thắng lợi toàn diện, nhưng giai cấp nông dân không tranh thủ và tận dụng bỏ lỡ cơ hội để phát triển phong trào, ví như cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo (1516-1521) phát triển mạnh và giành thắng lợi to lớn nhưng chỉ lo xây dựng vương triều dẫn đến thất bại; Phong trào nêu khẩu hiệu: lấy của người giàu chia cho người nghèo. Đây là một khẩu hiệu nhằm chiêu dụ dân chúng. Nhìn chung các cuộc khởi nghĩa tuy không đặt thành những khẩu hiệu rõ rệt nhưng mục đích chủ yếu đều nhằm lợi ích kinh tế. Khẩu hiệu ruộng đất – động lực chính của phong trào nông dân vẫn chưa được đề cập tới. ; Sự ảnh hưởng của ý thức hệ của giai cấp nông dân Việt Nam; Sự thiếu tiến bộ về hình thức, phương pháp cũng như khẩu hiệu, chủ trương đấu tranh của nông dân… 4. Đóng góp của phong trào nông dân đối với sự phát triển của xã hội phong kiến Phong trào nông dân khởi nghĩa là biểu hiện cao nhất của cuộc khủng hoảng chế độ phong kiến nói chung, phong trào đấu tranh thế kỷ XVI của nông dân chống nhà Lê là một biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về chính trị, khủng hoảng về kinh tế. Phong trào nông dân đóng một vị trí, vai trò to lớn trong xã hội, mặt mặt họ là lực lượng sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội, mặt khác là lực lượng đông đảo trong phong trào đấu tranh chống giai cấp, chống ngoại xâm. Vì thế, phong trào nông dân có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển và tiến bộ xã hội, nhất là trong xã hội phong kiến. Có thể thấy một vài nét sau đây nói về vai trò của phong trào nông dân đối với sự phát triển của xã hội phong kiến: Phong trào nông dân khởi nghĩa buộc chính quyền thống trị phải thực hiện một số chính sách, biện pháp nhằm cải thiện cuộc sống cùng cực của nhân dân, nhất là đưa ra các chính sách ruộng đất tiến bộ, để xoa dịu đấu tranh, hoặc cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền. Điển hình cho các biện pháp tiến bộ của nhà nước như phát chuẩn cho dân nghèo, tha bỏ một số loại thuế cho dân dưới thời Trịnh Doanh, Trịnh Sâm…, hoặc chính sách ruộng đất tiến bộ của Trịnh Lệ rất được chú ý. Dưới thời Minh Mạng có chính sách Doanh điền, đẩy mạnh công cuộc khai hoang phục hóa đất đai cho sản xuất. Điều đó nói lên kết quả đạt được của phong trào nông dân. Một số phong trào nông dân tiêu biểu đã phát triển sản xuất, chia ruộng đất cho dân cày. Tiêu biểu như khởi nghĩa của Hoàng Công Chất (1739-1769), Lê Duy Mật (1738-1770), hay Tây Sơn, tại những vùng chiếm đóng, nghĩa quân đã tham gia sản xuất, chia ruộng cho dân cày, tham gia chống xâm lược bên ngoài. Đó là đóng góp xuất phát từ lãnh tụ của những phong trào, những người nhìn thấy được nguyện vọng của nhân dân. Phong trào nông dân góp phần thúc đẩy xã hội đi lên, bằng việc lật đổ triều đại phong kiến đang thống trị nhưng suy thoái, giai đoạn khủng hoảng suy vong. Điển hình như phong trào nông dân Tây Sơn trong quá trình khởi nghĩa đã lật đổ các chính quyền phong kiến thối nát, xây dựng nên một chính quyền phong kiến mới, tiến bộ, thực hiện nhiều chính sách chấn hưng đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục… Phong trào nông dân có ý nghĩa duy trì, làm phát triển truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên cường, bất khuất của người nông dân Việt Nam. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, truyền thống đó được phát huy cao độ trong công cuộc bảo vệ đất nước, giải phóng dân tộc. Đó là các đóng góp của phong trào nông dân đối với sự phát triển của xã hội phong kiến Việt Nam. Bất kỳ một giai đoạn, một thời kỳ lịch sử nào giai cấp nông dân ngọn cờ to lớn trong xã hội, cuộc sống ổn định cho thấy người nông dân không khởi nghĩa và chính quyền nhà nước cũng thịnh vượng và ngược lại. Đồng thời, họ luôn là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. III. KẾT LUẬN Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, cuộc đấu tranh của giai cấp nông dân là một hiện tượng đặc biệt của xã hội, cuộc đấu tranh đó với tính chất thúc đẩy xã hội đi lên, bằng việc kết thúc lịch sử một triều đại. Phong trào nông dân thế kỷ XVI cũng không ngoại lệ, cuộc đấu tranh nhằm chống lại các chính sách ruộng đất khắc nghiệt của nhà nước, đồng thời chống lại chế độ hà khắc của chính quyền phong kiến, chống lại mọi lực lượng phản động kìm hãm sự phát triển của xã hội, của lực lượng sản xuất. Phong trào nông dân diễn ra là sự biểu hiện của mâu thuẫn gay gắt giữa chính sách ruộng đất và nguyện vọng của người nông dân, xã hội cuối triều Lê là sự khủng hoảng của chế độ quân điền. Phong trào nông dân thế kỷ XVI là một nét tiêu biểu về phong trào nông dân Việt Nam nói chung, ở đó người ta thấy sự hình ảnh người nông dân và ruộng đất có quan hệ xiết chặt với nhau, vì thế khi các chế độ ruộng đất có vấn đề, nảy sinh xu hướng tiêu cực, thì tất yếu phong trào nông dân diễn ra. Lấy ví dụ về phong trào nông dân thời kỳ này, giúp ta rút ra được những nét hạn chế cũng như những đóng góp của phong trào nông dân trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam, từ có cách nhìn sâu sắc về phong trào nông dân Việt Nam trong nghiên cứu và học tập lịch sử về: nông dân giai cấp gốc nhất của xã hội với truyền thống lao động cần cù, tinh thần yêu nước, đấu tranh bất khuất, gắn liền từ xưa đến xã hội hiện đại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docmo_quan_he_giua_chinh_sach_ruong_dat_va_phong_trao_nong_dan_the_ky_xv_xvi_8373.doc
Tài liệu liên quan