PHẦN MỞ ĐẦU
Với khoảng thời gian trên dưới mười lăm năm để hình thành và phát triển, thị
trường bất động sản Việt Nam tuy được đánh giá là rất giàu tiềm năng, có nhiều
đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế xã hội nhưng vẫn chưa phát triển toàn
diện, còn nhiều bất ổn, và khá nhạy cảm với những tác động xung quanh như:
biến động trên thị trường chứng khoán, chính sách mới của Nhà nước, dòng vốn
đầu tư nước ngoài, thậm chí ảnh hưởng bởi tin đồn. Thị trường bất động sản
“nóng”, “lạnh” không lường trước được, giá cả bất động sản chưa phản ánh đúng
giá trị thật của nó. Mặc dù Nhà nước cũng đã có nhiều chính sách, đặc biệt là
chính sách tài chính nhằm điều tiết và quản lý thị trường bất động sản sao cho đi
đúng hướng và thật sự trở thành nguồn lực tài chính mạnh cho nền kinh tế, nhưng
các chính sách này vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, quy định còn chồng
chéo lẫn nhau, chưa thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển lành mạnh. Hiện
tại, nạn đầu cơ tích trữ đất đai vẫn gia tăng, thị trường bất động sản phi chính
thức vẫn phát triển mạnh, các nhà đầu tư bất động sản gặp nhiều khó khăn về
vốn, thủ tục hành chính, nhiều quy định pháp lý còn là rào cản để doanh nghiệp
kinh doanh bất động sản phát triển, .Đứng trước thực trạng đó, việc nghiên cứu
và hoàn thiện các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy thị trường bất động sản ở
Việt Nam ngày càng ổn định hơn và phát triển lên cấp độ cao hơn là một công
việc quan trọng và cấp thiết hiện nay.
Đề tài Chính sách tài chính phát triển thị trường bất động sản ở Việt Nam được
tác giả thực hiện với mong muốn đưa ra các giải pháp tốt nhất về chính sách tài
chính để phát triển thị trường bất động sản trên cơ sở phân tích những kết quả đạt
được, những mặt tồn tại của chính sách tài chính đối với thị trường bất động sản
trong thời gian qua và những dự báo cho thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu đề tài được giới hạn trong những quy định về tài chính của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan đến bất động sản và
giao dịch bất động sản đến hết quý 1 năm 2007, với phương pháp nghiên cứu chủ
yếu bao gồm: phương pháp nghiên cứu dữ liệu thứ cấp, phương pháp phân tích
định lượng, định tính, phương pháp tổng hợp, so sánh,
Bố cục của đề tài được phân thành ba chương như sau:
- Chương 1: Thị trường bất động sản và chính sách tài chính phát triiển thị trường
bất động sản. Nội dung chủ yếu của chương này là nhưng cơ sở lý luận chung về
bất động sản, thị trường bất động sản, chính sách tài chính đối với thị trường bất
động sản, kinh nghiệm về chính sách tài chính của một số nước trên thế giới.
- Chương 2: Thực trạng chính sách tài chính phát triển thị trường bất động sản ở
Việt Nam trong thời gian qua. Nội dung chủ yếu của chương này là trình bày sơ
lược các giai đoạn phát triển thị trường bất động sản Việt Nam trong thời gian
qua và phân tích thực trạng chính sách tài chính đối với thị trường bất động sản.
Từ đó, rút ra những kết quả đạt được cũng như những mặt tồn tại.
- Chương 3: Hoàn thiện chính sách tài chính phát triển thị trường bất động sản
Việt Nam. Nội dung chủ yếu của chương này là đưa ra các dự báo về thị trường
bất động sản và các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính phát triển thị trường
bất động sản trong thời gian tới.
Đây là đề tài nghiên cứu mang tính thực tiễn quản lý ở Việt Nam nên tính khả thi
của đề tài có ý nghĩa về mặt kinh tế lẫn ý nghĩa về mặt xã hội. Ý nghĩa về mặt
kinh tế, thị trường bất động sản Việt Nam phát triển ổn định và lành mạnh sẽ góp
phần làm phát triển các thị trường khác của nền kinh tế, từ đó thúc đẩy nền kinh
tế đất nước tăng trưởng hơn nữa. Ý nghĩa về mặt xã hội, thị trường bất động sản
phát triển ổn định và lành mạnh sẽ đem lại lòng tin cho người dân đối với các
chính sách của Nhà nước, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo từ đất đai, đời sống
xã hội của người dân ngày càng được đảm bảo công bằng, ổn định và nâng cao
hơn.
84 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1608 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tài chính phát triển thị trường bất động sản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng không biết phải thu thuế gì trên diện
tích không giấy tờ đó. Khi thị trường sôi động, đất đai không có giấy tờ hợp pháp
lại được tung vào thị trường nhưng không thể giao dịch chính thức được, và thị
trường bất động sản phi chính thức lại tiếp tục nhộn nhịp, tác động xấu đến thị
trường bất động sản mà Nhà nước không thể kiểm soát nổi như trong thời gian
qua.
- Cách tính thuế của hệ thống thuế liên quan bất động sản còn nhiều bất cập như
việc áp thuế suất thuế sử dụng đất nông nghiệp bằng giá thóc và quy giá thóc
thành tiền để thu thuế, vừa phức tạp vừa không hợp lý; thuế nhà đất lại dựa trên
cơ sở thuế nông nghiệp nên cũng kéo theo nhiều hạn chế không phù hợp thực tế;
thuế chuyển quyền sử dụng đất quy định còn nhiều thiếu sót, nhiều đối tượng
phải nộp thuế nhưng lại không phải đóng thuế; việc xác định hạng đất để tính
thuế chưa có cơ sở khoa học thuyết phục.
- Hệ thống thuế chưa thật sự là công cụ góp phần vào việc sử dụng đất có hiệu
quả, chống đầu cơ đất và bình ổn thị trường. Nhìn chung, mức thu thuế còn thấp
so với người có thu nhập khá trở lên nên chưa khuyến khích người dân sử dụng
đất có hiệu quả; Nhà nước chưa có những điều khoản thuế điều tiết thu nhập
trong trường hợp giá tăng do Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng, điều này vừa làm
thất thu thuế vừa không điều tiết được thị trường; Nhà nước vẫn chưa có chính
sách thuế phù hợp làm hạn chế chênh lệch quá lớn (lên đến hàng trăm lần) giữa
số tiền đền bù đất nông nghiệp so với tiền bán đất đó sau khi xây dựng cơ sở hạ
tầng, chuyển mục đích sử dụng đất đó của các nhà kinh doanh bất động sản.
Từ những tồn tại trên của hệ thống thuế, có thể thấy hệ thống thuế nước ta quá
cũ, quá lạc hậu so với chính sách đất đai và sự đổi mới hệ thống thuế quá chậm
chạp nên không có sự đồng bộ với chính sách phát triển đất đai. Vì thế, chính
- 61 -
sách thuế luôn tồn tại những bất cập, không khuyến khích được đầu tư vào bất
động sản, không chống lại quá trình găm giữ đất trong khi người khác rất có nhu
cầu đất để đầu tư, gây lãng phí đất đai, tăng đầu cơ lũng đoạn thị trường, những
biểu hiện “nóng”, “lạnh” thất thường của thị trường bất động sản trong từng giai
đoạn vừa qua đã phần nào chứng minh điều đó, từ đó góp phần không nhỏ làm
giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
2.3.2.2. Chính sách về các khoản thu liên quan đến đất
- Giá đất xác định chưa hợp lý nên làm thất thoát các khoản thu.
- Chính sách các khoản thu liên quan đến đất chưa khuyến khích các nhà đầu tư
cũng như chưa hỗ trợ các nhà đầu tư về vốn bằng cách cho chậm trả tiền sử dụng
đất.
- Cách thức thu các khoản thu còn nhiều bất hợp lý.
2.3.2.3. Chính sách tín dụng ngân hàng
- Nguồn lực tài chính từ thị trường vốn để đầu tư vào bất động sản còn diễn ra rất
chậm chạp làm cho các nhà đầu tư bất động sản mất đi rất nhiều cơ hội.
- Thời hạn tín dụng của thị trường vốn chưa tương xứng với thời hạn đầu tư kinh
doanh bất động sản.
- Ngân hàng Nhà nước vẫn kiểm soát mạnh đối với hoạt động cho vay bất động
sản của hệ thống các tổ chức tín dụng nhưng vẫn chưa có những chính sách tháo
gỡ những vướng mắc về sự thiếu vốn cho các nhà đấu tư dự án bất động sản.
2.3.2.4. Chính sách tài chính hỗ trợ phát triển thị trường bất động sản
- Giá đất theo quy định vẫn thấp hơn giá thực tế nên khó khăn trong công tác đền
bù giải phong mặt bằng, làm thất thu ngân sách Nhà nước.
- Chưa tạo lập được các khu tái định cư trước khi thực hiện thu hồi đất.
- Nhà nước vẫn chưa có nhiều biện pháp hỗ trợ cho nhà đầu tư trong việc đền bù
giải phóng mặt bằng
- Các quy định cho chính sách về nhà ở cho người có thu nhập thấp vẫn phát sinh
những vướng mắc, chưa có nhiều ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp nhiệt
tình tham gia.
- 62 -
Kết luận chương 2: Thị trường bất động sản ở Việt Nam trong thời gian qua
theo đà phát triển của đất nước trong xu hướng hội nhập chung của khu vực và
trên thế giới, đã có những chuyển biến và phát triển không ngừng, góp phần
không nhỏ vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên,
so với các thị trường khác của nền kinh tế thì thị trường bất động sản ở Việt Nam
còn khá mới mẻ nên vẫn còn mang tính tự phát và nhiều bất ổn. Nhằm quản lý và
thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển ổn định và bền vững, Nhà nước cũng
đã ban hành hàng loạt chính sách nhằm điều chỉnh các hoạt động liên quan đến
lĩnh vực này, đặc biệt là chính sách tài chính. Bên cạnh những kết quả khả quan
đạt được, một số chính sách tài chính đối với thị trường bất động sản còn bộc lộ
nhiều thiếu sót và bất cập.
- 63 -
Chương 3
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM
3.1. Dự báo thị trường bất động sản ở Việt Nam thời kỳ hậu WTO
3.1.1. Dự báo
Nhìn vào thực trạng thị trường bất động ở sản nước ta quý 1 năm 2007 đã được
đề cập ở trên, có thể nhận định thị trường bất động sản đã bước sang một giai
đoạn mới, giai đoạn mà nhiều chuyên gia về bất động sản cho rằng đó là giai
đoạn “tan băng”, “nóng dần lên”, “thời cơ vàng”,…của thị trường bất động sản.
Để có được cái nhìn lạc quan như thế, quan điểm chung cho rằng: cùng với tiến
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và sự phát triển nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, thì thị trường bất động sản cũng sẽ không ngừng phát triển,
bên cạnh đó Việt Nam đã thật sự bước vào sân chơi chung của các nước trên thế
giới – WTO, nhiều cơ hội mở ra cho thị trường bất động sản là điều hẳn nhiên.
Những mặt triển vọng cho thị trường bất động sản trong thời gian tới:
- Cầu về hàng hóa bất động sản là cầu thật bởi vì dân số ngày càng tăng, kinh tế
phát triển, tỷ lệ thất nghiệp giảm, thu nhập đầu người tăng do đó cầu có khả năng
thanh toán về nhà ở sẽ tăng. Nhu cầu cấp thiết về việc chỉnh trang, xây dựng mới
các khu đô thị, khu khu dân cư,…cho phù hợp tốc độ phát triển kinh tế đất nước,
đẩy nhanh tiến độ thu hồi đất, giao đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, giải
phóng mặt bằng,...làm tăng cầu về đất cho các dự án. Đầu tư của nước ngoài vào
Việt Nam tăng mạnh trong vòng quý 1/2007 tăng 55% so với cùng kỳ năm trước,
Việt Kiều được phép mua nhà ở Việt Nam, khách du lịch tăng vọt, làm cho nhu
cầu khách sạn, nhà nghỉ, nhà ở, chung cư cao cấp, cao ốc văn phòng, mặt bằng
thương mại sẽ gia tăng.
- Vốn cho thị trường bất động sản ngày càng nhiều đến từ các nguồn trong và
ngoài nước. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài có tiềm
lực đã tiếp hơi mạnh cho thị trường bất động sản, đặc biệt là các dự án lớn, các
- 64 -
dự án đang bị “treo” trước đây do ngân hàng trong nước không đáp ứng nổi
nguồn vốn trung và dài hạn. Sự có mặt của nhà đầu tư đến từ nhiều quốc gia trên
thế giới, đặc biệt là làn sóng đầu tư mạnh mẽ từ các quốc gia châu Á như Hàn
Quốc, Nhật Bản, Singapore,…và xuất hiện ngày càng nhiều quỹ đầu tư chiến
lược đang sẵn sàng với các dự án đầu tư vào lĩnh vực bất động sản.
Bảng 3.1 : Các quỹ đầu tư chiến lược ở Việt Nam
STT Tên quỹ đầu tư Vốn đầu tư (Triệu USD)
01 Dragon Capital 531,00
02 Vina Capital 421,00
03 Vietnam Holdings Asset Management 112,50
04 Korea Investment Trust Management 104,00
05 Vietnam Investment Fund 100,00
06 International Data Group (US) 100,00
07 BankInvest Group (Denmark) 80,00
08 Mekong Capital 68,50
09 Indochina Capital 42,00
10 Korea Investment Trust Management 26,78
11 Christian Philip Kamn 25,00
12 …….
Ngoài ra, nguồn kiều hối chuyển về nước ở mức cao. Bên cạnh tiến trình cổ phần
hóa các doanh nghiệp, thị trường chứng khoán không ngừng phát triển, đây là
kênh huy động vốn dài hạn tốt nhất cho việc đầu tư vào lĩnh vực bất động sản,
thêm vào đó, xu hướng rút vốn đầu tư và chuyển lợi nhuận từ đầu tư chứng khoán
vào bất động sản- một lĩnh vực được cho là an toàn hơn so với đầu tư chứng
khoán.
- Chủ trương của Nhà nước đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước
vào năm 2007-2008, làm cho nguồn thu ngân sách Nhà nước nhiều hơn và Nhà
- 65 -
nước sẽ tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, các công trình phục vụ công cộng, lợi ích quốc
gia thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển mạnh hơn nữa.
- Các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản của Việt Nam đang mạnh dần lên về
vốn nhờ huy động từ kênh thị trường chứng khoán, giảm áp lực lãi suất từ vốn
vay ngân hàng, hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, đủ sức đầu tư vào các công
trình lớn, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
- Luật kinh doanh bất động sản có hiệu lực ngày 01/01/2007 góp phần ổn định thị
trường, chống đầu cơ lũng đoạn thị trường.
- Nhà nước đang từng bước tháo gỡ những vấn đề tồn tại làm rào cản thị trường
bất động sản phát triển như cải cách hành chính trong lĩnh vực bất động sản, xây
dựng các chính sách hỗ trợ thị trường bất động sản phát triển, sẵn sàng tiếp nhận
và nghiên cứu hướng giải quyết các kiến nghị của các nhà kinh doanh bất động
sản.
- Chủ trương đẩy mạnh chính sách nhà ở cho người có thu nhập thấp của Nhà
nước nhằm giải quyết nhu cầu bức bách về nhà ở cho mọi tầng lớp nhân dân, góp
phần ổn định đời sống xã hội. Đến 2010 dân số nước ta được dự báo khoảng 88,3
triệu người, trong đó dân số đô thị khoảng 29,2 triệu người, chiếm tỷ lệ 33% tổng
số dân toàn quốc. Dân số nông thôn khoảng 59,1 triệu người, chiếm 77% tổng số
dân tòan quốc. Theo Quyết định Phê duyệt Ðịnh hướng phát triển nhà ở đến năm
2020 của Thủ tướng Chính phủ, kế hoạch đề ra cho phát triển nhà ở đô thị phấn
đấu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở bình quân đầu người khoảng 15 m2 sàn vào năm
2010 và 20 m2 sàn vào năm 2020, chất lượng nhà ở đạt tiêu chuẩn quốc gia.
Trong đó tập trung chỉ đạo thực hiện phát triển nhà ở theo dự án bằng cách kêu
gọi và đưa ra nhiều chế độ ưu đãi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia thị
trường nhà ở, đặc biệt là nhà ở cho người có thu nhập thấp, nhà tái định cư, nhà ở
xã hội.
Bên cạnh những thuận lợi, thị trường bất động sản vẫn còn không ít những khó
khăn, có thể kể đến là các quy định về nhà đất chưa cụ thể rõ ràng, còn nhiều
chồng chéo giữa các ban ngành có liên quan, thực hiện quy hoạch chưa có sự
đồng bộ tổng thể dẫn đến còn quá nhiều khu quy hoạch “treo” dài hạn gây lãng
phí tài nguyên, và ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống người dân nằm trong khu
- 66 -
quy hoạch,…. Mặc dù vậy, với những cam kết thực hiện sau khi gia nhập WTO,
cùng với những nỗ lực hoàn thiện chính sách trong lĩnh vực đất đai, quyết tâm
tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp kinh doanh bất động sản của Nhà nước, thì
thị trường bất động sản trong tương lai sẽ phát triển mạnh mẽ .
Xu hướng cho thị trường bất động sản trong thời gian tới có thể dự báo như sau:
- Sôi động thị trường cao ốc văn phòng cho thuê, khách sạn, resort, chung cư cao
cấp tại các khu đô thị mới, khu du lịch, nghỉ mát. Theo kết quả khảo sát tháng
1/2006 của công ty VietRees trên 1.294 người về loại hình bất động sản dự định
mua trong thời gian tới, có 36% muốn mua căn hộ, chung cư ở khu đô thị mới.
(2%)
(10%)
(36%)
(20%)
(32%)
Hình 3.1: Kết quả khảo sát loại hình bất động sản dự định mua (N = 1.294)
( Nguồn: VietRees, 2006)
- Đối với các các dự án lớn, nhà đầu tư muốn mua các dự án đã được duyệt hơn
là thuê đất và phát triển dự án từ đầu, các dự án bị “treo” do thiếu vốn trước đây
sẽ khởi động. Đất dành cho phát triển công nghiệp tiếp tục mở rộng. Các khu đất
của các doanh nghiệp sản xuất trong nội thành, khu dân cư cần phải di dời nhưng
thiếu vốn, và các khu đất có vị trí địa lý trọng điểm sẽ được săn lùng.
- Thị trường nhà ở cho người có thu nhập thấp, nhà xã hội sẽ phát triển mạnh.
- Giá nhà ở bình quân trên thị trường bất động sản sẽ giảm bởi vì khi Việt Nam
gia nhập WTO sẽ gia tăng mức độ cạnh tranh, tính minh bạch và giúp cho đồng
vốn lưu chuyển nhanh hơn. Do vậy, trong ba đến bốn năm tới, chắc chắn giá bất
động sản ở Việt Nam nói chung sẽ phải giảm. Một số chuyên gia còn cho rằng, ít
nhất sẽ giảm từ 20- 30% so với hiện nay.
- 67 -
3.1.2. Mục tiêu và quan điểm quản lý thị trường bất động sản Việt Nam
trong thời gian tới
Thị trường bất động sản Việt Nam ngày càng phát triển là một tất yếu theo xu
hướng phát triển chung của nền kinh tế. Nhưng để có sự phát triển đúng hướng
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với trình độ phát triển của
quốc gia ở từng giai đoạn khác nhau, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, thì việc
quản lý phát triển thị trường bất động sản phải phù hợp với tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Thị trường bất động sản Việt Nam còn ở cấp độ phát triển thấp so với các thị
trường khác trong nền kinh tế, và còn nhiều khiếm khuyết, vì thế các chính sách
tài chính đối với thị trường này phải đồng bộ, kịp thời và phù hợp với khả năng
phát triển toàn bộ thị trường. Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế, nên chính sách tài chính phát triển thị trường bất động sản phải
thu hút được mọi nguồn lực đầu tư, không đi ngược lại các cam kết hội nhập.
Mục tiêu phát triển thị trường bất động sản Việt Nam là phát triển một thị trường
lành mạnh, ổn định, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính từ bất
động sản góp phần tăng nguồn vốn cho xã hội đẩy nhanh quá trình phát triển kinh
tế đất nước. Cụ thể:
- Phát triển thị trường bất động sản chính thức lớn mạnh toàn diện, phát huy tối
đa nguồn lực từ bất động sản, tránh lãng phí đất đai, tạo giá trị gia tăng cho bất
động sản.
- Thu hút và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển
hàng hóa bất động sản, phát huy vai trò của bất động sản trong kinh doanh.
- Nhà nước chủ động định hướng, điều tiết và kiểm soát các hoạt động của thị
trường bất động sản nhằm hạn chế hoạt động ngầm trên thị trường phi chính
thức, tình trạng tự phát và đầu cơ bất động sản.
Để góp phần đạt được mục tiêu đó, chính sách tài chính đối với thị trường bất
động sản trong thời gian tới phải đáp ứng yêu cầu: thật sự là công cụ hữu hiệu để
Nhà nước quản lý và kích thích thị trường bất động sản phát triển, không đặt
- 68 -
nặng tăng thu từ bất động sản cho ngân sách Nhà nước vì nguồn thu sẽ tăng từ
các nguồn khác do hoạt động hiệu quả của bất động sản mang lại.
Trong thời gian tới, việc tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính liên quan thị
trường bất động sản cần tuân thủ các quan điểm sau:
- Đối với hệ thống thuế:
Thuế là công cụ quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, nếu hệ thống thuế còn
nhiều bất cập, thiếu sót sẽ gây thất thu thuế, cũng như Nhà nước sẽ không thể
quản lý được đất đai cũng như các hoạt động trên thị trường bất động sản. Do đó,
hệ thống thuế liên quan đến bất động sản phải tiến bộ đồng thời với chính sách
đổi mới đất đai, thực hiện được chức năng quản lý chặt chẽ đất đai và các giao
dịch trên thị trường bất động sản. Hệ thống thuế phải kích thích việc sử dụng đất
đai hợp lý và có hiệu quả, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng và khuyến khích
được tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường bất động sản. Hệ
thống thuế phải thể hiện là công cụ chống các hoạt động đầu cơ, giao dịch bất
hợp pháp, điều tiết cung cầu hàng hóa bất động sản để giữ bình ổn thị trường đặt
trong mối quan hệ với các thị trường khác, đặc biệt là thị trường vốn.
- Đối với chính sách tài chính hỗ trợ phát triển thị trường bất động sản:
Các chính sách tài chính hỗ trợ phát triển thị trường bất động sản phải phù hợp xu
hướng thực tiễn, phối hợp chặt chẽ với các chính sách khác để tháo gỡ được mọi
khó khăn và hỗ trợ thị trường bất động sản phát triển theo đúng hướng công
nghiệp hóa- hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi thu
hút tối đa mọi nguồn lực cho thị trường bất động sản, tăng cường chức năng điều
tiết cung cầu hàng hóa bất động sản góp phần bình ổn giá cả cho thị trường bất
động sản. Cần thống nhất các chính sách đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước
trong việc đầu tư cũng như kinh doanh bất động sản tạo môi trường bình đẳng
cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính phát triển thị
trường bất động sản
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế, phí và lệ phí
3.2.1.1. Áp dụng thuế sử dụng đất
- 69 -
Xây dựng sắc thuế sử dụng đất mới trên cơ sở sáp nhập thuế sử dụng đất nông
nghiệp và thuế nhà đất. Xuất phát từ những tồn tại của thuế sử dụng đất nông
nghiệp và thuế nhà đất nên cần có phương án xây dựng lại một sắc thuế mới thay
thế chung cho cả hai sắc thuế nêu trên. Lý do thay hai sắc thuế trên bằng một sắc
thuế mới được đưa ra là: đối với thuế nhà đất hiện nay Nhà nước mới chỉ thu thuế
đất, tạm thời chưa thu thuế nhà, và cơ sở tính thuế đất lại dựa trên cơ sở tính thuế
sử dụng đất nông nghiệp. Suy cho cùng, cả hai sắc thuế thu theo mục đích sử
dụng đất, một bên là thu thuế sử dụng đất nông nghiệp, một bên là thu thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp. Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được tính như là
bội số của thuế sử dụng đất nông nghiệp theo từng hạng đất đã được xác định.
Ngoài ra, một số địa phương nhận thấy rằng thu thuế sử dụng đất nông nghiệp
không mang lại nhiều lợi ích xã hội, là gánh nặng cho nông dân nên đã kiến nghị
bỏ sắc thuế này. Vì vậy, cần hợp nhất hai sắc thuế sử dụng đất nông nghiệp và
thuế nhà đất thành thuế sử dụng đất với những quy định tiến bộ, hợp lý hơn và
góp phần làm đơn giản hóa hệ thống thuế hiện hành. Từ đó, thuận tiện cho việc
so sánh, phân tích, đánh giá, thiết kế thuế suất phù hợp từng vùng, từng khu vực,
khắc phục sự chênh lệch quá lớn về hiệu quả kinh tế giữa thành thị và nông thôn
tạo sự công bằng và đồng bộ, đảm bảo ổn định nguồn thu cho ngân sách, góp
phần thực hiện các mục tiêu khác của chính sách thuế như bình ổn thị trường,
khuyến khích đầu tư, sử dụng đất hiệu quả và tiết kiệm,…
Thuế sử dụng đất áp dụng cho tất cả các loại đất, mọi cá nhân hay tổ chức sở hữu
quyền sử dụng đất hay không sở hữu quyền sử dụng đất nhưng đang được giao để
sử dụng đất đều là đối tượng thu thuế, trừ những diện tích đất phục vụ mục đích
công cộng, phúc lợi xã hội, an ninh quốc phòng thì không phải nộp thuế. Các yếu
tố vật chất gắn liền trên đất như nhà cửa, công trình kiến trúc, cây trồng,…sẽ
được chuyển qua thuế tài sản.
Cơ sở tính thuế vẫn là diện tích mỗi loại đất, giá đất, và thuế suất.Vì thế, mức
linh động của thuế này nằm ở chỗ giá đất và thuế suất. Do đó, cần phải định giá
đất chính xác và hợp lý. Về thuế suất có thể áp dụng hai phương án là: chỉ nên
quy định một loại thuế suất cho tất cả các loại đất nhằm mục đích đơn giản trong
quản lý và tính thuế bởi vì giá đất đã được xác định theo từng khu vực, hoặc nên
- 70 -
phân thành hai loại thuế suất: một cho đất phục vụ sản suất kinh doanh phi nông
nghiệp, một cho đất ở và đất nông nghiệp nhằm mục đích tăng cường quản lý đất
đai và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Tuy nhiên, cả hai phương án nêu trên về thuế suất cho thuế sử dụng đất đều có
những hạn chế nhất định: Nếu áp dụng một thuế suất, thì mức nào sẽ phù hợp vừa
đảm bảo giảm thu thuế nông nghiệp vừa đảm bảo tổng thu thuế sử dụng đất
không giảm, trong khi đó chính sách giá đất được yêu cầu phải theo sát giá thị
trường. Nếu áp dụng hai thuế suất, thì việc tính thuế càng phức tạp, phải có sự
phân loại đất chính xác đất ở, đất nông nghiệp và đất phục vụ sản suất kinh doanh
phi nông nghiệp, từ đó có thể dẫn đến những vướng mắc và tiêu cực làm thất thu
thuế.
Trong giai đoạn trước mắt, do chính sách giá đất vẫn còn nhiều bất cập. Để thuế
sử dụng đất đi vào thực tiễn đạt hiệu quả nhất định thì chúng ta có thể xem xét
phương án sau cho thuế suất:
- Thuế suất thấp cho đất ở và đất phục vụ nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
Thuế suất cho các lĩnh vực này thấp vì thu nhập trong các lĩnh vực này bình quân
là khá thấp do mùa vụ phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan như thời tiết, thiên
tai,…Thuế suất thấp không đem lại gánh nặng cho người dân, nhưng kích thích
được việc sử dụng đất hợp lý, khuyến khích nông nghiệp phát triển, đóng góp
ngân sách phục vụ quản lý đất đai.
- Thuế suất cao hơn cho đất phục vụ sản suất kinh doanh phi nông, lâm, ngư
nghiệp. Thuế suất cao đối với khu vực sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp giúp
ổn định nguồn thu ngân sách và rút ngắn chênh lệch thu nhập từng vùng trong xã
hội.
Phương án thuế suất này cũng không tránh khỏi sự phức tạp khi triển khai thu
thuế và quản lý thuế nhưng nó cũng mang lại hiệu quả không nhỏ cho chính sách
thuế.
3.2.1.2. Áp dụng thuế tài sản
Kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng cần phải điều tiết nguồn vốn chảy vào thị trường
bất động sản bằng sắc thuế tài sản. Không để nguồn vốn nhàn rỗi trở thành nguồn
vốn đầu cơ vào thị trường bất động sản mà cần khuyến khích hướng vào thị
- 71 -
trường tài chính, thị trường chứng khoán để bơm vốn cho sự phát triển doanh
nghiệp, trong đó có cả doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Cần áp dụng thuế
tài sản đối với những đối tượng sở hữu nhiều nhà đất ở mức độ hợp lý nhằm đảm
bảo cho thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, đồng thời cũng là phương
thức điều tiết đối với những đối tượng có thu nhập cao, làm cho những đối tượng
thu nhập thấp, thu nhập trung bình cảm thấy sự công bằng trong nghĩa vụ nộp
thuế cho mọi đối tượng.
Đánh thuế tài sản theo mức lũy tiến đối với người sở hữu nhiều nhà đất là một
biện pháp nhằm ngăn chặn triệt để việc đầu cơ đất mà nhiều nước khác đã áp
dụng rất thành công. Không chỉ mua, bán đất mới chịu thuế mà bất cứ người nào
sở hữu nhiều đất (kể cả đất ở không sản xuất kinh doanh) cũng phải chịu thuế tài
sản theo mức lũy tiến.
Biện pháp đánh thuế này sẽ rất có lợi, bởi khi thị trường bất động sản có biến
động không lợi cho thị trường vốn và sản xuất kinh doanh thì Chính phủ có thể
điều chỉnh các mức thuế tài sản. Loại thuế này sẽ áp dụng cho sở hữu quyền sử
dụng đất nhằm tránh hiện tượng đầu cơ đất, đồng thời sẽ là một công cụ hữu hiệu
để Chính phủ kiểm soát được giá đất. Qua đó sẽ giúp khắc phục sự khan hiếm đất
giả tạo, các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tìm mặt bằng sản xuất kinh
doanh.
Tuy nhiên, do nước ta đang trong giai đoạn đổi mới nên người dân thật sự chưa
có nhận thức đúng về nghĩa vụ đóng thuế của mình, do đó thuế tài sản bước đầu
sẽ gây nên tâm lý e ngại, tránh né, đời sống người dân sẽ có nhiều xáo trộn, nếu
không nghiên cứu kỹ để đưa ra quy định nhất quán và đồng bộ với các chính sách
tài chính khác thì ảnh hưởng xấu đến toàn xã hội. Cần có mức thuế suất hợp lý
cho sắc thuế này, mức thuế suất phải có phân biệt tài sản nào phục vụ nhu cầu
sống của con người, tài sản nào là phục vụ mục đích đầu cơ dựa vào yếu tố thời
gian nắm giữ tài sản sau khi mua.
Ngoài sắc thuế tài sản, chúng ta cần áp dụng chung thuế khoán cho mọi đối tượng
có giao dịch chuyển nhượng bất động sản :
+ Đó là các sắc thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế chuyển nhượng nhà đất...với
mức thuế suất hợp lý.
- 72 -
+ Để đảm bảo nguyên tắc công bằng cho mọi đối tượng nộp thuế thì các địa
phương cần xây dựng lại các biểu giá cho gần với giá thị trường và lấy biểu giá
này làm căn cứ duy nhất để tính thuế.
3.2.1.3. Tách thuế chuyển mục đích sử dụng đất thành một sắc thuế riêng
Tách thuế chuyển mục đích sử dụng đất ra khỏi thuế chuyển quyền sử dụng đất
để quản lý quỹ đất chặt chẽ hơn, người sử dụng sẽ chủ động trong việc chuyển
mục đích sử dụng đất để nâng cao hiệu quả sử dụng. Thực chất của việc chuyển
mục đích sử dụng đất là tạo ra thu nhập cao hơn trên diện tích sử dụng, vì thế
việc điều tiết một phần thu nhập tăng thêm này là hợp lý và tăng thu cho ngân
sách Nhà nước. Mức thuế suất cho sắc thuế này cũng cần phân thành nhiều mức
ứng với từng khoảng thời gian chuyển mục đích sử dụng (10 năm, 50 năm,
…hoặc vĩnh viễn). Việc chuyển mục đích sử dụng lâu dài và mang lại giá trị lợi
ích lớn từ việc chuyển mục đích sử dụng đó cần được định thuế suất cao hơn việc
chuyển mục đích sử dụng ngắn hạn. Với mức thuế suất thuế chuyển mục đích sử
dụng đất hiện nay là khá cao cần giảm xuống để đáp ứng tình hình phát triển kinh
tế hiện nay. Thực tế cho thấy, quá trình đô thị hóa ở các thành phố lớn diễn ra
nhanh chóng, lĩnh vực công nghiệp ở các khu vực này phát triển mạnh và mang
nhiều hiệu quả hơn so với lĩnh vực nông nghiệp, mật độ dân cư ngày càng tăng,
nhu cầu nhà ở đang là vấn đề bức xúc. Vì thế, cần có chính sách giảm mức thuế
suất cho việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở tại các khu
vực ngoại ô thành phố, để tăng diện tích đất ở cho các khu vực thành thị.
3.2.1.4. Bổ sung và hoàn thiện những quy định của các sắc thuế liên quan đến
bất động sản
- Thuế suất lũy tiến từng phần trong thuế thu nhập bổ sung từ hoạt động chuyển
quyền sử dụng đất cần đặt cao hơn mức thuế suất hiện hành. Thực tế sự chênh
lệch quá lớn giữa giá đất nông nghiệp khi thu hồi so với giá đất đó đã được cải
tạo mới và chuyển mục đích sử dụng, mang lại lợi nhuận siêu ngạch cho nhà đầu
tư. Đối với cá nhân có thu nhập cao từ hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, quyền thuê đất thì cần có văn bản hướng dẫn thu thuế thu nhập không thường
xuyên này một cách cụ thể góp phần hạn chế phân hóa giàu nghèo và giảm thất
thu thuế.
- 73 -
- Cần có quy định thu thuế đối với hành vi chuyển quyền sử dụng đất khi góp
vốn, góp cổ phần bằng quyền sử dụng đất, thừa kế hay chuyển nhượng đất thuê
với từng mức thuế suất phù hợp tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, chống
thất thoát thuế chuyển quyền sử dụng đất, vừa bắt buộc người nắm giữ quyền sử
dụng đất phải cố gắng làm cho đất sinh lợi để thực hiện nghĩa vụ thuế, tạo điều
kiện sử dụng đất có hiệu quả hơn, thúc đẩy thị trường bất động sản sôi động hơn.
- Đối với những bất động sản tăng giá trị do hưởng các lợi ích từ việc đầu tư của
nhà nước như mở đường giao thông trọng điểm, cải tạo môi trường, các công
trình công cộng lớn,…khi phát sinh việc chuyển nhượng các bất động sản này
cần có quy định thu thuế bổ sung cho việc tăng giá trị bất động sản sau khi các
công trình hoàn thành nhằm đảm bảo sự phân bổ lợi ích công bằng trong xã hội
và thu lại một phần chi phí đầu tư cho ngân sách Nhà nước. Việc thu thuế bổ
sung này cũng góp phần ổn định thị trường bất động sản vừa làm cho đất được sử
dụng hiệu quả.
3.2.1.5. Điều chỉnh lệ phí trước bạ
Đối với lệ phí trước bạ cần ấn định bằng một mức cố định thấp như là một loại lệ
phí hành chính bình thường khác nhằm tạo điều kiện và khuyến khích chuyển
nhượng đất đai hợp pháp. Lệ phí 1% trên giá trị đất hiện nay là quá cao bởi vì
ngoài lệ phí trước bạ, người dân khi còn phải đóng thuế chuyển nhượng quyền sử
dụng, thuế thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng nữa, nên tổng số thuế phải
nộp sẽ rất cao, đây chính là một trong những nguyên nhân thúc đẩy hoạt động
ngầm trong mua bán, chuyển nhượng trên thị trường bất động sản trong thời gian
qua.
3.2.2. Điều chỉnh chính sách thu tài chính trong lĩnh vực đất đai
Trở ngại lớn nhất hiện nay làm hạn chế đầu tư và hạn chế việc mua bán chuyển
nhượng là các khoản nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước quá cao và cách tính
chưa hợp lý. Tiền sử dụng đất đã trở thành nỗi lo của doanh nghiệp trong thời gian
qua. Hiện nay đất dự án tại các thành phố lớn có rất nhiều, nhưng đa số ở dạng dang
dở, do đó việc ưu đãi tiền sử dụng đất để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
xây dựng chung cư, nhà ở cao cấp,…đẩy nhanh phát triển đô thị là hết sức cần thiết.
- 74 -
Cần có những quy định cụ thể tháo gỡ các vướng mắc cho các nhà đầu tư. Các quy
định này bao gồm:
- Chỉ thu tiền sử dụng đất đối với phần diện tích đất xây dựng nhà chung cư. Đối với
phần diện tích đất xây dựng các công trình trực tiếp phục vụ cho nhà chung cư sẽ
không thu tiền sử dụng đất hoặc chỉ thu ở mức 30% hoặc 50% giá đất theo quy định.
- Cho khấu trừ tiền bồi thường theo giá thực tế nhà đầu tư đã trả cho dân và được
khấu trừ toàn bộ chi phí bồi thường của dự án.
- Nhà đầu tư có thể lựa chọn phương thức: trả tiền sử dụng đất một lần khi được
Nhà nước giao đất; hoặc trả tiền thuê đất trong thời gian xây dựng, khi bán nhà
hoặc chuyển quyền sử dụng đất (quyền sử dụng đất) thì người mua sẽ nộp tiền sử
dụng đất (áp dụng như đối với các dự án đầu tư nước ngoài).
- Đối với các dự án lớn, đề nghị cho nộp tiền sử dụng đất theo tiến độ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thời gian chậm tối đa 5 năm, và giữ nguyên giá
đã tính thuế như lúc đầu. Việc tính tiền sử dụng đất cho các dự án lớn theo cách
thu toàn bộ diện tích theo giá mặt tiền đường như hiện nay thì không hợp lý. Đối
với các dự án có qui mô lớn từ 20 hecta trở lên chỉ thu tiền sử dụng đất theo giá
mặt tiền đường phần diện tích đất trong phạm vi gần mặt tiền đường, ngoài phạm
vi quy định đó nên thu bằng một tỷ lệ phần trăm thấp hơn giá của mặt tiền đường.
3.2.3. Đổi mới và hoàn thiện chính sách tín dụng ngân hàng liên quan đến thị
trường bất động sản
3.2.3.1. Chính sách huy động vốn tín dụng trung và dài hạn
Nhà nước cần có nhiều chính sách để mở rộng hơn nữa kênh thu hút tín dụng từ
các nguồn nước ngoài để tăng cường tín dụng cho thị trường bất động sản. Đồng
bộ hóa các giải pháp huy động vốn từ thị trường trong nước trên cơ sở đảm bảo
an toàn và hiệu quả tín dụng, đổi mới hệ thống kiểm soát tín dụng phát hiện và xử
lý kịp thời các rủi ro tín dụng. Thực hiện các giải pháp phát triển thị trường tài
chính-tiền tệ, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng huy động nhiều vốn trung và
dài hạn cho thị trường bất động sản.
- 75 -
Đối với hệ thống các ngân hàng, để có nguồn vốn trung, dài hạn dồi dào, rất cần
xây dựng thị trường mua bán nợ. Khi dư nợ đến một tỷ lệ nào đó, sẽ có các tổ
chức tài chính khác mua lại để ngân hàng tiếp tục quay vòng vốn. Có như thế,
ngân hàng mới có khả năng đáp ứng vốn cho thị trường bất động sản.
Tích cực xử lý nợ tồn động để tăng khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho
thị trường bất động sản.
3.2.3.2. Chính sách cho vay
Ngân hàng Nhà nước cần chỉ đạo các tổ chức tín dụng bố trí khối lượng vốn cho
vay hợp lý đối với kinh doanh bất động sản, mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở
mức phù hợp điều kiện phát triển của thị trường bất động sản, đảm bảo cân đối
thời hạn cho vay với thời hạn của nguồn vốn huy động. Bên cạnh đó, tăng cường
khả năng thẩm định và giám sát vốn vay để hoạt động tín dụng trên thị trường bất
động sản hiệu quả và bền vững. Đồng thời khuyến khích các tổ chức tín dụng cải
tiến quy trình và đơn giản hóa thủ tục cho vay đối với bất động sản, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm soát nội bộ về hoạt động tín dụng
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ xấu gia tăng. Đối với dự án có
nhu cầu vay vốn lớn cần có chính sách cho vay đồng tài trợ giữa các tổ chức tín
dụng.
3.2.3.3. Cơ chế thế chấp
Nhà nước cần yêu cầu các tổ chức tín dụng định kỳ đánh giá lại tài sản thế chấp,
theo dõi nguồn thu của khách hàng vay vốn để có biện pháp thu hồi nợ hợp lý,
đồng thời xác định mức trích lập dự phòng cụ thể khi có sự thay đổi giá trị tài sản
đảm bảo.
Cần phải đẩy mạnh hoạt động giao dịch ở thị trường chuyển giao tài sản thế chấp.
Bởi vì hiện nay khi có nhu cầu về vốn, các nhà đầu tư thường dùng bất động sản
để cầm cố và thế chấp. Mặc dù việc cầm cố, thế chấp bất động sản đã có nhiều
cải tiến, tuy nhiên vẫn còn nhiều vướng mắc về thủ tục, từ thủ tục đăng ký giao
dịch bảo đảm, công chứng đến việc xác định giá trị tài sản thế chấp, cầm cố. Bên
cạnh đó, việc phát mãi các tài sản này gặp rất nhiều khó khăn về thủ tục hành
chính. Muốn vậy, cơ sở pháp lý cho việc chuyển giao, phát mãi các tài sản này
phải được sửa đổi, bổ sung theo hướng tạo quyền chủ động trong việc xử lý tài
- 76 -
sản cho các tổ chức tín dụng. Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính, dịch vụ công liên quan đến hoạt động tín dụng, thế
chấp, công chứng, xử lý tài sản thế chấp,…
3.2.4. Giải pháp cho chính sách tài chính hỗ trợ phát triển thị trường bất
động sản
3.2.4.1. Chính sách tái định cư, bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất
Hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải bồi thường đất theo giá
thỏa thuận nên khi gặp vài chủ đất gây khó khăn thì phải tăng giá đến vô hạn nếu
muốn tiến độ dự án theo đúng kế hoạch, vì thế cần thiết có qui định về đổi đất lấy
nền nhà hay giá trần đền bù, không thể vì 10 - 20% đất chưa thu hồi được mà
doanh nghiệp không thể triển khai dự án. Để giảm bớt áp lực vì dự án kéo dài gây
thiệt hại tài chính cho chủ đầu tư, Nhà nước cần tiếp sức cho nhà đầu tư bằng
cách: Tiếp tục cho thực hiện thủ tục thu hồi đất đối với những dự án đã thỏa
thuận được khoảng 80% diện tích đất của dự án, mà phần còn lại nhà đầu tư
không thể thỏa thuận được, Nhà nước thực hiện thủ tục thu hồi đất và nhà đầu tư
sẽ bồi thường theo giá Nhà nước quy định.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải quy định cụ thể hơn thời gian bồi thường giải
phóng mặt bằng phải đúng với kế hoạch đã đề ra, cần có xử phạt hoặc chế tài nếu
chủ đầu tư vi phạm. Để tránh nhiều doanh nghiệp không có thực lực nhưng tranh
giữ đất dự án để đầu cơ hoặc tìm cách bán lại thu lợi nhuận cao, gây lãng phí đất
đai, xáo trộn thị trường.
Nên áp dụng đơn giá khác nhau về việc bồi thường một phần và bồi thường toàn
bộ diện tích đất theo nguyên tắc bị thu hồi càng nhiều đất thì hưởng giá bồi
thường càng cao. Việc này phù hợp với thực tiễn trong điều kiện hiện nay Nhà
nước chưa có chính sách thuế điều chỉnh giá trị đất tăng do hưởng lợi từ sự đầu
tư của Nhà nước. Theo nguyên tắc đó, đối với các công trình mang tính cấp thiết
thì có thể tính bồi thường theo mức tỷ lệ phần trăm (%) đơn giá của trường hợp
bị thu hồi toàn bộ. Ví dụ hộ có diện tích 100m2, bị thu hồi 20m2, đơn giá bồi
thường giải tỏa toàn bộ là 1 triệu đồng/m2 thì giá bồi thường cho trường hợp này
là 1 triệu x 20% = 200.000 đồng/m2.
- 77 -
Công tác bồi thường đất thu hồi đất gặp nhiều khó khăn như hiện nay là do Nhà
nước chưa có giải pháp dài hạn cho việc tạo quỹ đất dành cho xây dựng khu đô
thị mới, khu công nghiệp, khu tái định cư, nhà ở cho người có thu nhập thấp,…
Vì vậy, rất cần xây dựng Trung tâm phát triển quỹ đất chuẩn bị đầu tư. Trung tâm
này sẽ thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng tạo ra quỹ đất và phân
phối đất bằng cách đấu giá cho các mục đích đầu tư một cách hợp lý nhất, tránh
được tình trạng ách tắc giải phóng mặt bằng của các dự án như hiện nay, tạo sự
bình đẳng giữa các nhà đầu tư, dự án thực thi với giá cạnh tranh nhất, tránh được
hiện tượng đầu cơ đất, xóa bỏ tiêu cực trong quá trình giao đất, nguồn thu từ việc
giao đất qua đấu giá sẽ đúng giá trị của đất, và góp phần không nhỏ vào nguồn
thu của ngân sách Nhà nước.
3.2.4.2. Chính sách nhà ở cho người có thu nhập thấp, nhà ở xã hội
Thực hiện chính sách nhà ở cho người có thu nhập thấp, nhà ở xã hội là góp phần
vừa thúc đẩy cầu có khả năng thanh toán vừa tăng cung hàng hóa cho thị trường
bất động sản. Nhà ở cho người có thu nhập thấp phải là nhà ở có giá rẻ nhưng
vẫn phải đảm bảo chất lượng. Nhu cầu nhà cho các đối tượng có thu nhập thấp là
rất lớn, nhưng do hiện Nhà nước ta chưa có chính sách ưu đãi nên chưa thu hút
được các thành phần kinh tế tham gia cùng Nhà nước đầu tư xây dựng, mở rộng
cung hàng hóa cho sản phẩm nhà ở. Do đó, Nhà nước cần phải tiến hành giải
quyết các vấn đề về nhà ở cho người có thu nhập thấp hiện nay:
- Cần ban hành ngay các chính sách ưu đãi về thuế, khuyến khích đầu tư xây
dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp, cũng như các quy định kỹ thuật xây
dựng phải chặt chẽ và hợp lý bảo đảm về chất lượng và số lượng nhà ở. Các giải
pháp cụ thể có thể thực hiện là: Nhà nước có sẵn quỹ đất giao cho nhà đầu tư
theo phương thức thuê đất, người mua căn hộ chung cư có quyền sở hữu kiến trúc
nhưng thuê đất của Nhà nước; miễn tiền sử dụng đất đối với các khu đất do nhà
đầu tư bỏ tiền ra bồi thường; hỗ trợ toàn bộ hạ tầng kỹ thuật cho dự án; miễn thuế
kinh doanh nhà trong một thời gian; cho vay ưu đãi từ Quỹ phát triển nhà hoặc
các nguồn khác với lãi suất thấp, với quỹ đất khan hiếm nên quy định các nhà
đầu tư xây nhiều tầng hơn nữa đối với nhà chung cư cho người có thu nhập thấp,
nhà xã hội.
- 78 -
- Người có thu nhập thấp cần được xác định trên cơ sở bình chọn của cộng đồng
và được phát "Phiếu mua nhà" và ấn định một khoảng thời gian sau mới được
bán (vì được mua với giá có ưu đãi).
- Cần phải ban hành chính sách nhà ở cho thuê. Đây là giải pháp căn cơ và lâu dài
để giải quyết nhà ở cho người có thu nhập thấp.
Bên cạnh đó, thị trường này đang gặp khó khăn lớn về giá đất khiến nhiều sản
phẩm làm ra không có giá bán phù hợp với khả năng của số đông người có nhu
cầu trong xã hội. Giá đất đang ngày một bị “đẩy” lên cao, không phù hợp thu
nhập của người có thu nhập thấp. Để kích cầu thị trường này cần tăng cường
những hình thức hỗ trợ tài chính thiết thực cho người mua nhà. Các ngân hàng
phải có những hình thức tiếp sức mạnh mẽ hơn nữa, cần cho vay với tỷ lệ cao giá
trị căn nhà và không nên buộc người mua phải chứng minh tài chính, bởi vì đối
với người có thu nhập thấp thì khả năng tài chính của họ cũng rất kém.
Giải quyết vấn đề nhà ở cho người thu nhập thấp là trách nhiệm của toàn xã hội.
Cần huy động mọi nguồn lực của xã hội thông qua quá trình xã hội hoá, thu hút
các nguồn vốn khác nhau, xử lý hài hòa các mối quan hệ về lợi ích. Sự hỗ trợ của
Nhà nước về quy hoạch, cơ chế, chính sách đi đôi với hỗ trợ về hạ tầng có vai trò
quyết định. Ðồng thời gắn liền với cơ chế thị trường để hình thành kênh chính
thức về nhà ở cho người thu nhập thấp và đảm bảo công khai, minh bạch trong
bán nhà.
3.2.4.3. Chính sách về các công cụ tài chính hỗ trợ thị trường bất động sản
khác
Trong điều kiện hiện nay, với trình độ phát triển của thị trường bất động sản, vốn
cho thị trường bất động sản là một yếu tố vô cùng quan trọng, đặc biệt là vốn
trung và dài hạn. Cần nhanh chóng triển khai nhiều chính sách về các công cụ tài
chính cho thị trường bất động sản nhằm bảo đảm tài chính cho các doanh nghiệp
đầu tư bất động sản thông qua trái phiếu đô thị, chứng chỉ bất động sản, chứng
chỉ tín thác đầu bất động sản, chứng chỉ tiền gửi cho bất động sản….tiếp tục
hoàn thiện các chính sách khác đồng bộ với việc hình thành các công cụ tài chính
cho thị trường bất động sản. Cụ thể:
- 79 -
- Tiến hành áp dụng mô hình "chứng khoán hóa bất động sản". Trước mắt, cho thí
điểm phát hành Chứng chỉ bất động sản tại một số dự án bất động sản đã đầu tư của
các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản uy tín. Đây là một loại chứng khoán kết
hợp giữa hình thức đầu tư chứng khoán và đầu tư bất động sản được đảm bảo giá trị
bằng bất động sản. Theo mô hình này, chủ đầu tư dự án bất động sản được phép
phát hành rộng rãi chứng chỉ bất động sản, không giới hạn số lượng nhà đầu tư tham
gia. Chứng chỉ bất động sản được tự do chuyển nhượng để tăng tính thanh khoản.
Ngoài ra, trước khi phát hành chứng chỉ bất động sản, các chủ đầu tư phải công bố
bản cáo bạch về tình hình tài chính; nội dung dự án; quyền lợi và trách nhiệm của
các bên tham gia; tiến độ thực hiện dự án và vấn đề bồi thường cho nhà đầu tư khi
dự án chậm tiến độ; rủi ro có thể xảy ra. Đây là cơ sở để công chúng quyết định việc
mua chứng chỉ bất động sản. Bên cạnh đó, ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm giám sát
việc giải ngân theo tiến độ thi công, đảm bảo vốn của nhà đầu tư được sử dụng đúng
mục đích. Khi dự án hoàn tất, toàn bộ bất động sản được đưa ra bán đấu giá. Và các
nhà đầu tư sẽ được chia (từ số tiền thu được) theo tỷ lệ chứng chỉ bất động sản đang
nắm giữ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi cho bất động sản, với loại chứng chỉ này người mua
bất động sản sẽ có được một số quyền lợi khi mua nhà, và các tổ chức tín dụng cũng
thu hút được một lượng vốn nhất định cho thị trường bất động sản.
- Chứng khoán hoá các tài sản cầm cố, thế chấp có nguồn gốc từ bất động sản.
Khi giá trị của các tài sản này được định giá một cách chính xác và được chứng
khoán hoá, thì các tổ chức tín dụng có thể mua và bán một cách dễ dàng. Cứ thế
tạo ra dòng tiền dài hơi để đầu tư vào thị trường bất động sản, đẩy nhanh tốc độ
luân chuyển vốn trong thị trường. Vì vậy, khó khăn về vốn để phát triển thị
trường bất động sản dần dần được khắc phục.
3.3. Các giải pháp bổ trợ chính sách tài chính phát triển thị trường bất động
sản
3.3.1. Luật pháp
Một số chính sách pháp luật về nhà - đất sẽ phải thay đổi cho phù hợp với tiến
trình hội nhập. Đã đến lúc phải tính đến những biện pháp quản lý, những hệ
- 80 -
thống pháp luật, cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Tất cả
những công cụ pháp luật đó sẽ được xây dựng trên nền móng là sự bình đẳng
giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Luật phải đúng, hợp lý và hợp thời.
Đừng để thực thi kéo dài những luật không hợp lý khiến doanh nghiệp và người
dân phải đối phó, phải tránh né, dẫn đến xảy ra bao vụ việc gây khó khăn cho
chính quyền và người dân. Luật lệ tốt phải tạo ra sự tin tưởng, sự hợp tác phát
triển giữa chính quyền và doanh nghiệp - người dân để cùng phát triển.
Chắc chắn muốn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường bất động sản
thì pháp luật về đất đai phải đầy đủ, minh bạch chứ không thể tiếp tục chồng
chéo, quy định này lại phủ định quy định kia.
Tập trung xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai, đề ra các chính sách
liên quan đến đất đai phù hợp nhất, cải cách và tinh giảm thủ tục hành chính pháp
lý để giải quyết nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà, cũng như phê duyệt và triển khai các dự án đầu tư tạo ra nhiều hàng hóa
với đầy đủ tính pháp lý, góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản chính thức
phát triển. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một trong những điều
kiện quan trọng nhất trong việc bình ổn thị trường bất động sản, song do thủ tục
xin cấp sổ đỏ, sổ hồng phức tạp, tốn nhiều thời gian, và phần nào là sự chậm chạp
trong công tác cấp giấy của Nhà nước khiến thị trường bất động sản phi chính
thức vẫn họat động với quy mô lớn. Do vậy, cần phải có hệ thống pháp lý và hình
thành hệ thống các cơ quan chuyên trách quản lý thị trường bất động sản để quản
lý thị trường bất động sản ở Việt Nam.
3.3.2. Cơ chế quản lý
Nhà nước cần phải xem xét và đổi mới sự phân công, phân cấp giữa các cơ quan
mà trong chức năng hoạt động có liên quan đến các bộ phận cấu thành bất động
sản, liên quan đến giao dịch bất động sản. Mỗi cơ quan các cấp của nhà nước
phải thực hiện đúng sự phân công theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
mình, không có sự chồng chéo chức năng, quyền hạn giữa Bộ ngành này với Bộ
ngành khác có liên quan đến bất động sản, gây khó khăn cho doanh nghiệp và
người dân. Hiện tại nhiều cơ quan quản lý đất đai, xây dựng, nhà ở…đang quá tải
trong việc thi hành nhiệm vụ, chức năng của mình. Vì thế, Nhà nước cần có kế
- 81 -
hoạch sớm khắc phúc tình trạng quá tải này, trong đó việc đào tạo cán bộ và trang
bị phương tiện làm việc cho bộ máy quản lý đất đai ngày càng hiệu quả và
chuyên nghiệp, góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển ngày càng
lành mạnh hơn.
Về các hoạt động giao dịch bất động sản trên thị trường, Nhà nước cần thực hiện
quản lý các giao dịch này trên tinh thần: Chính quyền không nên can thiệp quá
sâu vào mối quan hệ dân sự giữa người dân với nhau, giữa doanh nghiệp với
nhau, giữa doanh nghiệp với người dân. Hãy để doanh nghiệp và người dân tự
chịu trách nhiệm trong các giao dịch dân sự theo các quy định của Bộ luật dân sự.
3.3.3. Giải pháp về giá đất
Giá đất là vấn đề được quan tâm và bàn cãi nhiều nhất, bởi vì giá đất là căn cứ
tính thuế liên quan đất đai, hay tiền thuê đất, tiền đền bù đất bị thu hồi,…tức là
nó ảnh hưởng mạnh đến nghĩa vụ và lợi ích kinh tế của các cá nhân, tổ chức
trong mọi hoạt động liên quan đến bất động sản. Việc xác định giá đất nhanh
chóng, chính xác, hợp lý và sát với giá thị trường là yêu cầu vô cùng quan trọng
hiện nay, nhằm xóa bỏ tình trạng lãng phí đất đai, thu hẹp chênh lệch giữa giá
Nhà nước và giá thực tế như trong thời gian qua, góp phần thúc đẩy thị trường
bất động sản phát triển tích cực hơn nữa.
Về dài hạn, để có thể xác định giá đất chính xác và theo sát giá thị trường cần
phải xây dựng một hệ thống thông tin lưu trữ toàn bộ các thông số về đất đai trên
thị trường của từng địa phương, như mức sinh lợi của đất đai do vị trí thuận lợi
kinh doanh, đi lại, nhiều tiện ích,…từ đó làm căn cứ phân chia thành từng loại đất
khác nhau. Hệ thống thông tin này luôn công khai và minh bạch, tất cả mọi người
có thể tham khảo và đối chiếu khi cần. Mọi ý kiến tranh cãi về giá đất ở từng nơi,
cá nhân và tổ chức đều có quyền đệ trình lên lên văn phòng quản lý đất đai của
mỗi địa phương cùng với phương thức tính giá thay thế (nếu có).
Giá từng loại đất có thể được xác định thông qua những giao dịch bất động sản
thực tế, cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án, đấu giá bất động sản.
Từ đó đưa vào hệ thống thông tin lưu trữ giá đất làm cơ sở tham chiếu.
- 82 -
Cán bộ định giá đất và nhân viên làm việc trong các văn phòng quản lý thông tin
lưu trữ đất đai phải được đào tạo kỹ, được học tập nâng cao trình độ chuyên môn
thường xuyên.
Ngân sách để xây dựng hệ thống thông tin lưu trữ về đất đai sẽ rất lớn trong thời
gian đầu, nhưng sau khi hệ thống hoàn chỉnh cùng với những đổi mới trong chính
sách thuế, phí và lệ phí thì hiệu quả kinh tế mà hệ thống này mang lại sẽ không
nhỏ cho thị trường bất động sản nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung.
Về ngắn hạn, trong thời gian trước mắt chờ hệ thống thông tin lưu trữ hoàn chỉnh,
mọi nghĩa vụ và quyền lợi liên quan đến đất đai vẫn phải sử dụng theo khung giá
đất của Nhà nước, nhưng cần đảm bảo cho giá đất có cơ chế tự thích ứng, khi mà
các yếu tố cấu thành giá đất thị trường thay đổi như cơ sở hạ tầng, các tiện ích
xung quanh,…thì giá đất trong khung giá của Nhà nước phải kịp thời thay đổi
theo.
Để khung giá đất của Nhà nước theo sát diễn biến của thị trường đòi hỏi:
- Các cấp quy định khung giá đất từng địa phương cần thu thập đầy đủ thông tin
về đất đai để xác định giá đất chính xác và linh hoạt hơn nữa. Đặc biệt, tại các
thành phố lớn cần quan tâm hơn nữa về việc phân chia đô thị thành nhiều loại rõ
ràng để có thể có giá đất hợp lý và công bằng, như một số vùng ngọai ô trước đây
được phân loại là nơi đất sinh hiệu quả kinh tế thấp, nhưng khi đất nước phát
triển, cở sở hạ tầng ngày càng hiện đại, đời sống thu nhập người dân ngày càng
tăng, tiện ích cuộc sống cao và ngoại ô là xu hướng an cư mới vừa hưởng mức
thuế đất thấp do giá đất thấp, vừa tránh được nạn ô nhiễm môi trường vì vậy Nhà
nước cần có chính sách giá đất hợp lý cho các khu vực như vậy.
- Khi khung giá đất được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hay thành phố trực thuộc
trung ương xây dựng xong cần có sự kiểm tra đánh giá của Bộ tài chính so sánh
với mặt bằng chung của cả nước.
- Việc xác định giá đất cần tách riêng với giá trị các yếu tố vật chất gắn liền trên
đất như công trình, cây lâu năm,….Như vậy mới đảm bảo tính công bằng và
chính xác.
- Khung giá đất cần điều chỉnh kịp thời cùng với sự thay đổi giá trị đất tại khu
vực đó do cơ sở hạ tầng mới, đường giao thông mở rộng,…để đảm bảo các
- 83 -
nguồn thu cho ngân sách Nhà nước cũng như đảm bảo sự công bằng xã hội, bình
ổn thị trường.
Kết luận chương 3: Để thị trường bất động sản Việt Nam ngày càng phát triển
mạnh và bền vững thì việc hoàn thiện chính sách tài chính đối với thị trường này
là một yêu cầu cấp thiết. Nhằm đảm bảo tính khả thi, các giải pháp để hoàn thiện
chính sách tài chính phát triển thị trường bất động sản được đưa ra dựa trên sự
phân tích những mặt đạt được và chưa đạt được của chính sách tài chính trong
thời gian qua, các dự báo thị trường bất động sản trong thời gian tới, mục tiêu và
quan điểm quản lý thị trường bất động sản của Nhà nước. Có bốn nhóm giải pháp
chủ yếu đó là: Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế; điều chỉnh chính sách thu tài
chính đối với đất đai; đổi mới và hoàn thiện chính sách tín dụng ngân hàng liên
quan đến bất động sản; giải pháp về các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường
bất động sản.
- 84 -
KẾT LUẬN
Thị trường bất động sản ở nước ta đang ở giai đoạn khởi đầu của quá trình phát
triển cùng với cơ chế đổi mới nền kinh tế theo quy trình hội nhập kinh tế quốc tế,
các chính sách tài chính điều tiết thị trường này thời gian qua chắc chắn cũng
không tránh khỏi những mặt hạn chế, bất cập với những diễn tiến của thị trường,
đôi khi không thúc đẩy thị trường phát triển theo đúng hướng mà còn làm rào cản
sự phát triển. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài này đã nêu ra những kết quả
đạt được cũng như phân tích những mặt tồn tại của chính sách tài chính đang áp
dụng cho thị trường bất động sản, từ đó cũng đề ra các giải pháp định hướng cho
việc sửa đổi và hoàn thiện các chính sách tài chính phát triển thị trường bất động
sản để đưa thị trường bất động sản ở Việt Nam ngày càng ổn định và bền vững
hơn.
Hiện tại cấp độ phát triển của thị trường bất động sản Việt Nam còn ở mức thấp
so với yêu cầu của sự phát triển, nên trước mắt luận văn kiến nghị Nhà nước tiến
hành thực hiện điều chỉnh và sửa đổi ngay những mặt hạn chế của chính sách tài
chính đối với thị trường bất động sản trong thời gian qua nhằm khai thông sự vận
động của thị trường. Bên cạnh đó, để bổ trợ cho chính sách tài chính phát triển thị
trường bất động sản phát huy tác dụng, thì yêu cầu chính sách giá đất phải sát với
giá thị trường; hệ thống pháp luật phải đồng bộ, rõ ràng, minh bạch; cơ chế quản
lý của Nhà nước không chồng chéo chức năng và nhiệm vụ lẫn nhau gây khó
khăn cho mọi hoạt động liên quan đến bất động sản.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 46822.pdf