Những khoản tài chính được Hiệp định coi là trợ cấp bao gồm: sự đóng góp tài chính của chính phủ; chính phủ có chuyển trực tiếp các khoản vốn cho doanh nghiệp; các khoản thu của chính phủ nhưng được chính phủ bỏ qua; chính phủ cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp không phải là hàng hóa chung như cơ sở hạ tầng, dịch vụ công hoặc chính phủ trực tiếp mua hàng hóa của doanh nghiệp. Tuy nhiên Hiệp định cũng quy định rõ những khoản trợ cấp nào gây tổn hại cho một ngành sản xuất của một thành viên mới là đối tượng điều chỉnh của Hiệp định. Điều 6 của Hiệp định nêu rõ các trường hợp được coi là gây tổn hại nghiêm trọng bao gồm: tổng trợ cấp cho một sản phẩm vượt quá 5% giá trị; trợ cấp để bù lỗ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; trực tiếp xóa nợ hoặc cấp kinh phí để thanh toán nợ cho doanh nghiệp.
Các biện pháp đối kháng chỉ được sử dụng trên cơ sở điều tra khởi tố đối với hành vi trợ cấp và phải phù hợp với Hiệp định về trợ cấp và đối kháng. Điều đặc biệt là Hiệp định cho phép các nước thành viên đang phát triển sử dụng trợ cấp xuất khẩu trong giai đoạn quá độ, nhưng nếu sự trợ cấp đó gây tổn hại nghiêm trọng thì vẫn có thể bị nước nhập khẩu đánh thuế đối kháng.
60 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1792 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n được, bán ở đâu cũng tốt, không quan tâm mặt hàng nào bán ở đâu, số lượng bao nhiêu, bán như thế nào cho hiệu quả.
Thứ bảy, các chính sách đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, thay đổi nhận thức của người dân còn gặp nhiều khó khăn.
Tâm lý của người dân chỉ là thấy lợi trước mắt là họ làm. Thấy cây nào đó, giá tăng là họ trồng; thấy phun thuốc cho năng suất cao thì họ phun. Mặt khác, những tập quán sản xuất lạc hậu tư tưởng sản xuất tiểu nông rất khó thay đổi. Bởi vậy cán bộ khuyến nông vô cùng vất vả mỗi khi muốn người dân thay đổi một cách thức làm ăn mới nào đó. Tiền chi cho công tác đào tạo, chuyển giao kỹ thuật thấp khiến cho số lượng cán bộ khuyến nông vừa thưa, vừa không mặn mà với công việc.
Tóm lại, các chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam phần nào đó đã là cú huých mạnh cho nông sản Việt có mặt trên thị trường thế giới. Tuy thế vẫn thiếu sự dài hơi trong định hướng của nhà nước. Vẫn chưa có “cộng hưởng” trong các chính sách để tạo ra sự đảm bảo cho sự chủ động của chúng ta trước những biến động liên tục của thị trường.
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
3.1. Định hướng hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO:
Khi đã là thành viên WTO tức là chúng ta đã tham gia vào sân chơi thương mại thế giới. Đã chơi thì chúng ta phải chơi theo luật, quy định của WTO. Bởi thế, các công cụ chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của chúng ta cần phù hợp, tương thích với “Hiệp định nông sản phẩm”, “Hiệp định trợ cấp”…
Việt Nam cần vận dụng và phát huy triệt để các trợ cấp được phép. Chính phủ cần tăng cường đầu tư nghiên cứu, khoa học đặc biệt là về các loại cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao và khả năng kháng bệnh. Đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam ra nước ngoài.
Đồng thời cắt giảm các loại trợ cấp theo cam kết, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp.
Xây dựng, tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp phù hợp để vừa đảm bảo an ninh lương thực vừa đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu nông sản.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO:
Thực hiện được định hướng trên Việt Nam cần có những chính sách mang tính dài hơi và đủ mạnh để khắc phục những hạn chế trước đó:
Nhà nước cần xây dựng Chiến lược xuất khẩu nông sản quốc gia đến năm 2020 và Chiến lược phát triển hàng nông sản xuất khẩu từ nay đến năm 2010, tầm nhìn 2020: Thực chất xây dựng Chiến lược xuất khẩu nông sản là xây dựng các chính sách định hướng xuất khẩu nông sản. Chiến lược này bao gồm các chính sách: chính sách thị trường, chính sách mặt hàng, chính sách xúc tiến thương mại hàng nông sản xuất khẩu. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là các chính sách này, nhất là chính sách thị trường nông sản xuất khẩu, phải được xây dựng trước tiên và được lấy làm căn cứ định hướng cho các chính sách khác. Trong đó, chính sách mặt hàng được xây dựng trên cơ sở chính sách thị trường.
Điều cần lưu ý là cũng như Chiến lược xuất khẩu nông sản, Chiến lược phát triển nông sản xuất khẩu cần được xây dựng trước hết trên cơ sở coi trọng định hướng thị trường xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu chứ không phải trên cơ sở coi trọng tiềm năng sản xuất trong nước.
Thành lập một cơ quan tư vấn, nghiên cứu thị trường độc lập, theo dõi thực hiện chính sách: Chức năng của cơ quan này là lập hồ sơ theo dõi những thay đổi chính sách của Nhà nước, kiểm điểm đánh giá tác động của chính sách đối với xuất khẩu nông sản để sớm đưa ra cảnh báo về những mâu thuẫn giữa các văn bản chính sách, hoặc sự không thống nhất giữa chính sách tổng thể và các chính sách cụ thể thực hiện; làm đầu mối tiếp xúc giữa Chính phủ và doanh nghiệp, người sản xuất, thu thập ý kiến của người sản xuất, của người tiêu dùng liên quan đến những thay đổi chính sách xuất khẩu nông sản , phát hiện những vướng mắc, bất cập của các chính sách khi triển khai thực hiện, chuẩn bị và giúp Chính phủ giải quyết những thay đổi chính sách cần thiết…
Nhà nước nên tham khảo kinh nghiệm của một số nước: Theo đó, Nhà nước ban hành một hệ thống thống nhất tiêu chuẩn hàng nông sản xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế, đưa ra dấu chất lượng cấp nhà nước để bảo hành cho những sản phẩm thương hiệu quốc gia có chất lượng cao nhất, đồng thời ban hành luật cấm xuất khẩu những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng đã quy định. Để những biện pháp này được thực thi tốt, Nhà nước nên có chính sách thu hút cho phép các công ty tư nhân đầu tư xây dựng các trung tâm kiểm tra chất lượng nông sản xuất khẩu.
Có nhiều chính sách thu hút vốn từ các nước trên thế giới nhất là các nước phát triển đầu tư vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ các nông sản xuất khẩu: Các doanh nghiệp của Việt Nam có thể liên doanh “tay ba” với doanh nghiệp các nước phát triển như Mỹ, EU. Liên doanh với các doanh nghiệp của EU chúng ta có thể tránh được các tiêu chuẩn khắt khe khi xuất và thị trường này. Khi mà có đối tác Mỹ làm chủ một phần doanh nghiệp của mình, họ sẽ giúp chúng ta không phải vấp phải những biện pháp tự vệ không công bằng.
Cần sử dụng phối hợp nhiều công cụ chính sách để khai thác hết ưu điểm của chúng nhằm khắc phục những hệ quả bất lợi cho xuất khẩu nông sản do chính sách khác gây ra
Gấp rút đào tạo, đào tạo lại, có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ, công nhân viên, chuyên gia tham gia tham mưu, tư vấn cho Nhà nước về chính sách xuất khẩu nông sản…
Phần tiếp theo của bài nghiên cứu này xin phân tích, định hướng cho một số chính sách mang tính then chốt tới hoạt động xuất khẩu nông sản. Nếu thực hiện tốt các chính sách này thì có thể nói các vướng mắc cơ bản của hoạt động xuất khẩu nông sản sẽ được tháo gỡ.
3.2.1. Xác định sản phẩm chiến lược:
Như đã phân tích thì hiện nay chúng ta chỉ bán những gì chúng ta có mà chưa bán những sản phẩm mà thị trường cần trong điều kiện chúng ta có thể đáp ứng. Đã đến lúc chúng ta cần xác định chúng ta có thể cạnh tranh ở những mặt hàng nào để tập trung vốn, nguồn lực và những sản phẩm nào có thể chết ngay trên sân nhà để định hướng cho người dân sản xuất.
Một số sản phẩm được đánh giá là rất ít tính cạnh tranh: mía đường, bông, cây có dầu, sữa bò, gà…Minh chứng cho điều đó, chẳng hạn, giá thành mía nguyên liệu cho 1 tấn đường của ta hiện cao hơn 40% so với Ấn Độ, 48,8% so với Thái Lan và gấp 1,6 lần so với mía nguyên liệu ở Australia. Vậy thử hỏi rằng khi mà thuế đường nhập khẩu giảm mà chúng ta không được phép áp dụng các biện pháp bảo hộ thì bằng cách gì đường của Việt Nam tồn tại ngay cả trong thị trường nội địa chưa nói gì đến xuất khẩu. Hay một con bò ở châu Âu được trợ cấp tới 2,63 USD/ngày hơn cả mức thu nhập bình quân của một người nông dân Việt Nam. Hiện nay vấn đề trợ cấp nông nghiệp của các nước phát triển vẫn chưa được giải quyết trong vòng đàm phán Đôha. Vậy khi thị trường sữa bò mở cửa thì những con bò Việt Nam khó cạnh tranh được những con bò “ăn thịt người” ở châu Âu, Mỹ.
Tuy vậy vẫn có nhiều mặt hàng Việt Nam có tiềm năng mà chưa khai thác hết: trái cây, hoa tươi, rau…Chúng ta biết rằng rau hoa quả là mặt hành nông sản lớn nhất của sân chơi WTO, trị giá gần 103 tỷ USD. Thị trường về lúa gạo, cà phê, cao su nhỏ hơn; mỗi thứ không quá 10 tỷ USD/năm. Các loại nông sản khác như chè, điều và hồ tiêu lại càng nhỏ; trên dưới 3 tỷ USD/năm. Theo số liệu thống kê thì các nông sản xuất khẩu chủ lực của chúng ta lại là lúa gạo, cà phê, cao su. Trong khi đó rau quả thì chỉ xuất khẩu với giá trị khiêm tốn 226 tr USD (năm 2006). Việt Nam rất có tiềm năng về mặt hàng rau quả do khí hậu phong phú có nơi cung cấp được rau, hoa quả ôn đới như Sapa, Đà Lạt, rau quả nhiệt đới ở Đông Nam Bộ…Thế nhưng mãi đến năm 2005 ta vẫn còn sử dụng hơn 7 tr ha đất để trồng lúa. Chỉ có gần 1 tr ha để trồng dừa, cao su, trà, cà phê và 1,4 tr ha trồng trái cây, rau quả và hoa. Đây là sự phát triển không cân đối vì rõ ràng lúa đã trở nên độc canh, chiếm tới 74% diện tích canh tác của cả nước, trong khi trái cây, rau quả và hoa có thị trường xuất khẩu lớn gấp 10 lần thì lại ít phát triển, chỉ chiếm có 15%.( Nguồn Thuonghieunongsan.org.vn)
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt vốn và nguồn lực của chúng ta ít thì vận xác định tập trung sức vào đâu là một bước đi chính xác. Thậm chí gần đây còn có ý kiến bình luận về việc chúng ta hầu như chỉ xuất khẩu gạo cho rằng: “liệu rằng trong điều kiện hội nhập vấn đề an ninh lương thực có cần thiết phải bàn đến”.
3.2.2. Thực hiện chính sách ruộng đất hợp lý trong điều kiện gia nhập WTO:
Để có những cánh đồng đạt 50 tr/ha/năm thậm chí 100 tr/ha/năm, để xuất khẩu với một số lượng hàng lớn, ổn định chúng ta cần có những vùng sản xuất tập trung, trang trại lớn. Để có vùng sản xuất tập trung, trang trại lớn không còn cách nào khác là phải dồn điền đổi thửa.
Thực ra chính sách dồn điền đổi thửa không phải là một chính sách mới tinh. Nó đã được triển khai ở một số nơi. Gần đây khi mà tiến trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ thì nó lại gây được sự quan tâm chú ý của dư luận. Xung quanh chính sách này còn khá nhiều băn khoăn, tranh luận. Thực chất những băn khoăn đó bắt nguồn từ đâu?. Làm gì để tháo gỡ các thắc mắc đó?
Trả lời câu hỏi đó trước hết chúng ta cùng quay lại lịch sử 20 năm trước để cùng xem xét một chính sách cải cách ruộng đất mà tốn không biết bao giấy mực thời đó, đó là chính sách “khoán 10”.
3.2.2.1. Những kinh nghiệm từ chính sách khoán 10:
Chính sách này khởi nguồn từ tỉnh Vĩnh Phúc. Trăn trở với cuộc sống của người nông dân vất vả mà vẫn đói ăn, ông Kim Ngọc –bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phúc lúc đó- đã đưa ra một chính sách rất táo bạo ở thời đó “khoán sản phẩm nông nghiệp”. Khoán sản phẩm trong nông nghiệp có nghĩa là giao đất cho nhân dân, người dân thực sự làm chủ trên mảnh đất của mình.
Thời gian đầu chính sách này được áp dụng dưới hình thức bí mật, thấy được hiệu quả rõ rệt của nó tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành triển khai rộng khắp. Ngay lập tức có những thông tin phản hồi đa chiều. Có nhiều người khen, nhiều nơi áp dụng theo. Song cũng có người nghi ngờ, suy xét thậm chí ông Kim Ngọc còn bị phê bình. “Khoán 10”- 20 năm nay đã trở thành một động lực tạo nên một bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Lao động tập thể có vị trí cực kỳ quan trọng trong khắc phục thiên tai nhưng phương thức sản xuất tập thể theo kiểu “mặt trời lên quá ngọn tre mới ra đồng xếp hàng lao động” thì hiệu quả sẽ thấp bởi không phù hợp quy luật phát triển năng suất lao động khi được phân công hợp lý.
Ngoài ra, nó cũng chẳng phù hợp lòng người khi hưởng thụ thành quả của lao động như nhau trong lúc, lại rất khác nhau về cường độ lẫn chất lượng lao động của từng cá thể. Không hề cường điệu khi nói nếu không có “khoán 10” thì may lắm chúng ta chỉ có thể tự túc được lương thực nói gì đến dư thừa để xuất khẩu.
Rõ ràng khi đất là của mình, người nông dân đã đi theo con đường duy nhất đúng là thâm canh trên cơ sở phát huy cao độ phì nhiêu của một đám đất cụ thể để thu được năng suất cao tính bằng giá trị chứ không câu nệ về những con số tấn, tạ.
Đó chính là tư duy mới của thời “ăn không đủ no, co không đủ ẩm”. Hôm nay, Việt Nam đã ra biển lớn thì tư duy về ruộng đất cũng cần có cái mới. Cái cũ là người dân vẫn làm chủ ruộng đất của mình. Cái mới là gom góp những mảnh ruộng lẻ tẻ theo kiểu mỗi nhà có một ít ruộng tốt, một ít ruộng xấu lại thành một mảnh đất lớn.
3.2.2 .2. Cơ sở của việc thực hiện tích tụ ruộng đất:
Một là, nông sản lưu thông trên thị trường phải là nông sản chiến lược, nhiều nước cần nhưng không sản xuất được hoặc sản xuất được với giá thành cao hơn chúng ta. Loại nông sản chiến lược ấy có thể chung cho cả nước, có thể đặc trưng cho từng vùng sinh thái.
Hai là, nông sản ấy phải có chất lượng cao về giá trị dinh dưỡng, không chứa độc tố như kim loại nặng hoặc tàn sư thuốc bảo vệ thực vật. Gần đây, bổ sung vào khái niệm “chất lượng” còn có thương hiệu đặc trưng như tên vùng sản xuất với những hồ sơ xác nhận đã thực hiện được mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững.
Phải thừa nhận chất lượng nông sản hiện nay ở nước ta còn kém nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển. Minh chứng sinh động về chất lượng không đạt tiêu chuẩn có thể tìm thấy ở những nơi sản xuấ các giống lúa đặc sản do các đối tác nước ngoài đem vào gieo trồng ở nước ta, điển hình là nếp Nhật Bản, gạo Đài Loan, vừng một vỏ tỷ lệ dầu và protein cao.
Ba là, bởi tiềm năng kinh tế của từng hộ nông dân ở nước ta hiện nay còn quá thấp, không đủ điều kiện để đầu tư vào thâm canh đúng với những biện pháp kỹ thuật tối thích nhằm nâng cao năng suất và chất lượng nên thu nhập của người nông dân tăng trưởng còn rất chậm. Hơn thế, khi canh tác trên những diện tích nhỏ, manh mún thì khó có điều kiện để đồng nhất độ phì nhiêu thực tế, đồng nhất về hiệu lực phân bón, chất lượng giống ban đầu cũng như thời vụ gieo trồng và gặt hái.
Bốn là, khác với công nghiệp, sản xuất nông nhgiệp có không gian rộng hơn, lực lượng lao động nhiều hơn, ảnh hưởng của thời tiết lớn hơn trong lúc hiểu biết về kỹ thuạt của nông dân lại không đồng đều nên lơị nhuận thu được cũng rất khác nhau.
Năm là, khi đã có chủ trương đúng và biện phấp kỹ thuật tốt thì vẫn rất cần sự chỉ đạo cụ thể, sát sao, điều chưa thật phổ biến trong hoạt động thực tiễn.
Sáu là, mức độ tiếp nhận thông tin về khoa học và thị trường chưa thực phổ biến kịp thời và rộng rãi trong nông dân đã hạn chế đáng kể khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế cũng như trong nước.
Với những lí do kể trên, thực tiễn đòi hỏi phải đổi mới phương thức quản lý đất đai, thay đổi quyền sử dụng đất nhằm mục tiêu giảm tỷ lệ nông dân trong cơ cấu dân số, đồng thời phát triển nhanh hiệu quả sử dụng đất. Phải chăng con đường tất yếu là tích tụ đất đai với những loại hình khác nhau tùy theo từng vùng, từng đối tượng cây trồng, sinh vật nuôi.
3.2.2.3. Giải pháp đẩy nhanh quá trình dồn điền đổi thửa:
Với ví dụ ở chương 2 ta thấy rõ dồn điền đổi thửa ở Bắc Ninh đã đem về rất nhiều thành công cho sản xuất và xuất khẩu nông sản ở tỉnh. Song không phải địa phương nào cũng làm tốt công tác này. Tỉnh Phú Thọ 6 tháng đầu năm 2006 có 241/274 xã, phường, thị trấn triển khai dồn điền đổi thửa nhưng chỉ có 6% xã hoàn thành kế hoạch.
Tỉnh Quảng Nam sau gần 3 năm thực hiện dồn điền đổi thửa mới có 6/17 huyện triển khai.
Qua nhiều lần tiến hành giao đất, tích tụ đất đai, nông nghiệp nước ta vẫn bị coi là manh mún. Miền Bắc 6 637m2/hộ, miền Nam 10 757 m2/hộ.
Tác dụng của dồn điền đổi thửa đối với nông sản xuất khẩu là không có gì phải bàn cãi. Vậy còn rào cản gì khiến cho công tác này còn chậm?.
Vướng mắc đầu tiên từ phía luật Đất đai. Theo luật ghi rõ đến năm 2013 hết hạn sổ đỏ chia lại đất đai. Thực tế hiện nay lao động nông nghiệp nông thôn dần chuyển sang các loại hình lao động khác, người lao động thường sản xuất ít đi. Thực tâm người dân muốn chuyển nhượng đất đai, tạo điều kiện để tích tụ ruộng đất. Chính vì cơ chế vướng mắc trên sổ đỏ ghi chỉ giao đất đến năm 2013. Bởi vậy, phải làm sao tháo bỏ rào cản này, giao đất cho dân dài hơn thì người mạnh dạn chuyển nhượng và người mạnh dạn mua mới gặp nhau được, mới tích tụ được. Giờ dân cho thuê đât hay nhượng đất, tới đây có được chia lại nữa không, rồi người mua có bị thu hồi không, nói chung người dân, không rõ vấn đề này nên tâm lý rất sợ. Mặc dù có tích tụ được chăng nữa thì tâm lý hoang mang người dân không dám đầu tư dài hơn. Như vậy việc tích tụ ruộng đất cũng không đem lại hiệu quả.
Thời gian gần đây thứ trưởng bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn Đặng Hùng Võ có trả lời trên nông nghiệp Việt Nam là không chia lại năm 2013, nhưng tâm lý của người dân vẫn chưa yên tâm vì không có văn bản nào nói như thế cả.
Một nông dân làm ăn giỏi ở tỉnh Hà Tây có tâm sự. Nhiều năm trước nông có vận động bà con làng xóm và kí hợp đồng với xã thuê khu đất trũng của xã làm ăn không hiệu quả. Nhờ làm ăn giỏi anh biến khu đất trũng đó thành một khu trang trại khép kín thu lãi hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Tuy vậy nếu thu hồi đất vào năm 2013 mà trang trại của anh lúc đó mới thu lãi thực sự thì bỗng dưng anh mất trắng sau bao công sức tiền của bỏ vào. Anh có nói anh dành tới 50% thời gian để vận động bà con và xã để họ không đòi lại đất. Chứng tỏ nếu không có sự đảm bảo từ phía pháp luật thì người nông dân khó có thể đầu tư lớn để có những sản phẩm chất lượng xuất khẩu.
Lại một lẫn nữa Vĩnh Phúc quê hương của ông Kim Ngọc lại là nơi khởi điểm cho tư duy ruộng đất mới. Những tháng vừa qua ở Vĩnh Phúc lại sôi lên chuyện thí điểm không chia lại ruộng đất vào năm 2013. Giải thích cho điều này ông Phùng Quang Hùng – giám đốc sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói: “Chả cứ gì Bắc Ninh, cả miền nam chả ở đâu muốn chia lại. Chia là loạn. Hàng ngàn trang trại sẽ rơi vào phá sản. Nhưng chúng tôi không thí điểm. Chúng tôi vận dụng luật Đất Đai 1993. Trong luật đã ghi rõ sau 20 năm, nếu có nhu cầu thì cứ giao tiếp; mà nhu cầu thì ai lại không có. Nhiều người không nghiên cứu luật kỹ lưỡng, cứ bị cái con số 20 nó trói buộc. Những người bán ruộng đi làm dịch vụ nhưng không ai dám mua vì cứ nghĩ mấy năm nữa chia lại, mua làm gì. Vậy là sự trói buộc tư duy đã trói buộc nhà đầu tư, kìm hãm sản xuất.”
Phải chăng đây là hướng giải quyết cho vướng mắc này.
Năng lực, nhận thức của các cán bộ cơ sở cũng là một vấn đề. Một phần do luật chưa rõ ràng chưa có hướng dẫn cụ thể của cấp trên. Một phần là do công tác dồn điền đổi thửa là một vấn đề không đơn giản mà số cán bộ thực hiện thưa. Do vậy các cán bộ, ban ngành, địa phương vẫn còn lúng túng trong việc giải quyết thắc mắc, hướng dẫn kỹ thuật cụ thể, các phương pháp giúp thực hiện đổi đất cho người dân.
Chẳng hạn, chính sách hạn điền của nhà nước quy định mỗi hộ nông dân không quá 3 ha ruộng. Thực chất 3 ha ở đây là hạn mức nhà nước giao đất cho dân. Một số cán bộ không hiểu lại giải thích cho dân là nhà nước quy định mỗi hộ có không quá 3 ha ruộng đất.
Khắc phục điều này, không còn cách nào khác là tăng cường đội ngũ cán bộ. Mở các lớp tập huấn chuyên môn cho các cán bộ cấp cơ sở này.
Vấn đề tâm lý của người dân cũng là một vấn đề khá nhức nhối, không dễ tháo gỡ. Trên nhiều vùng nông thôn, tư tưởng ruộng tốt, ruộng xấu, gần hay xa vẫn còn ngự trị, ai cũng muốn “hoa thơm mỗi người hưởng một tý”. Thêm vào đó tập quán của người dân, nhất là Đồng bằng sông Hồng là phải gắn liền với mảnh đất của mình không muốn có sự thay đổi mặc dù họ có thể tính được nếu tích tụ ruộng đất họ sẽ làm ra số tiền cao hơn bao nhiêu trên mảnh ruộng manh mún của mình đang làm. Để ruộng nhỏ thì kêu, nhưng ngay đến có ruộng lớn cũng kêu; lãi 2 tr/sào họ không làm, không làm lại kêu không có việc làm. Giải quyết vấn đề này không thể một sớm một chiều. Phải làm từ từ, trước hết tích tụ ruộng đẩt trong một nhóm người, trong môt khu vực nhỏ hoặc trong họ tộc là tốt nhất trên cơ sở đó mới nhân dần ra được.
Ví dụ tiếp theo, về dồn điền đổi thửa là Nông dân Phạm Văn Yết ở phường Vạn Phúc - Hà Đông – Hà Tây, người được mệnh danh là người có nhiều ruộng nhất miền bắc. Mỗi năm ông thu lãi hàng 100 triệu trên cánh đồng lúa bát ngát của mình, nhờ áp dụng máy móc chuyên nghiệp. Có người còn nói cánh đồng trồng lúa của ông là công ty trồng lúa chuyên nghiệp. Song có thông tin là cánh đông của ông sắp thuộc diện quy hoạch của phường thành hợp tác xã dịch vụ. Vậy ta thấy, quy hoạch cũng là một vấn đề.
Quy hoạch không phải bao giờ cũng được công khai mà quy hoạch thường dưới dạng kín. Vậy nếu ruộng đất của người dân thuộc khu vực quy hoạch thì đên bù ra sao. Nếu họ đầu tư trồng cây lâu năm thì cánh tính đền bù như thế nào cho thỏa đáng. Các nhà chức trách, cần chú ý, phân tích kỹ vấn đề này, khi quy hoạch đất đai hay giao đất cho người dân.
Tuy rằng, dồn điền đổi thửa mới chỉ triển khai với tốc độ chậm, quy mô nhỏ lẻ, thế nhưng một số nơi ví dụ như ở Thái Bình đã xuất hiện tiêu cực. Trong quá trình tích tụ đã lộ ra những cái làm cho dân sợ như tích tụ không hiệu quả, đất đai rơi vào tay một số người có tiền để “phù phép” đất. Bức xúc ở đây là phải minh bạch hóa công tác tích tụ ngay từ đầu. Tích tụ cần gắn với quy hoạch lao động cụ thể không chỉ để người dân có tiền có đất, người nông dân mất ruộng không có việc làm.
Tóm lại công tác dồn điền đổi thửa là rất quan trọng, tạo bước đệm để sản xuất nông nghiệp nâng cao giá trị, tạo ra những sản phẩm nông nghiệp có chất lượng, với số lượng lớn có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế; khai thác hết tiềm năng của mỗi địa phương. Nhờ tích tụ ruộng đất mà công tác điều tra để nghiên cứu cũng khoa học hơn, tránh phân vùng quy hoạch một cách tùy tiện, duy ý chí, chọn lựa cơ cấu cây trồng và vật nuôi chính xác hơn, vận dụng khái niệm “độ phì nhiêu thực tế” nhuần nhuyễn hơn.
3.2.2.4 Một số mô hình thí điểm: Đây là những mô hình mang tính giới thiệu để hiện thực hóa các giải pháp ở trên
Loại hình một: dựa trên khả năng điều hành sản xuất giỏi của cán bộ những hợp tác xã còn làm tốt chức năng quy định, trên cơ sở có nhiều xã viên say mê với đồng ruộng, vẫn tự nguyện phấn đấu để trở thành công nhân nông nghiệp qua những cách đào tạo phù hợp.
Loại hình thứ hai: nên thử nghiệm ở những nơi nông dân muốn chuyển sang những nghề khác thì cũng nên để họ được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Cách làm đấy có trong thực tiễn dưới hình thức trang trại tư nhân, cần được đánh giá kịp thời về tất cả các mặt kinh tế và xã hội.
Loại hình thứ ba: cổ phần hóa ruộng đất. Tức là có 100 mảnh ruộng của 100 người cổ phần thành công ty sản xuất nông nghiệp. Chủ đứng ra thuê đất cố định hàng năm trả lãi cho cổ đông. Mô hình này thực tế đã được Trung Quốc áp dụng rất nhiều.
3.2.3. Xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao:
Năng suất, chất lượng nhiều loại nông sản còn thấp. Ngay cả lúa sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năng suất bình quân mỗi năm tăng 2% song chỉ 65% của Trung Quốc. Năng suất chất lượng nhiều mặt hàng khác như chè, mía, rau quả… còn kém xa so với các đổi thủ cạnh tranh.
Công nghệ chế biến kém phát triển, mới chỉ có 60% sản lượng chè, 30% sản lượng mía, 5% sản lượng rau quả, 1% sản lượng thịt hơi, khoảng 30% sản phẩm thủy sản… được chế biến công nghiệp. Chỉ 20% sản phẩm nông sản xuất khẩu là qua chế biến.
Những số liệu sơ bộ trên đã đủ chứng minh là nền nông nghiệp nước ta còn quá thô sơ khó mà cạnh tranh khi mà xuất khẩu.
3.2.3.1 T ính tất yếu của sự phát triển nông nghiệp công nghệ cao:
Trong những năm gần đây với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, nông nghiệp cũng có những bước tiến mới, có tính cạnh tranh cao về chất lượng và giá cả. Bên cạnh các nước tiên tiến như Mỹ, Phần Lan, Anh… nhiều nước ở châu Á cũng chuyển nền nông nghiệp số lượng sang chất lượng, ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ tự động hóa, cơ giới hóa, tin học hóa… để tạo sản phẩm chất lượng cao, an toàn, hiệu quả. Những mô hình nông nghiệp chất lượng cao đã được triển khai thành công tại Trung Quốc, Đài Loan. Đến năm 2000, Trung Quốc đã có 405 khu nông nghiệp công nghệ cao và trên 4000 mô hình nông nghiệp sản xuất ứng dụng công nghệ cao tại các vùng sinh thái khác nhau.
Việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp đã đem lại nhiều thành công: hàng loạt giống cây trồng mới được tạo ra, đặc biệt là các giống kháng sâu bệnh, chịu hạn… Đối với mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, các lĩnh vực công nghệ thường được áp dụng là tạo giống bằng công nghệ nuôi cấy mô, lai tạo giống năng suất cao, chất lượng tốt, kháng bệnh, phù hợp với môi trường; phương pháp canh tác hữu cơ đảm bảo sạch bệnh và an toàn vệ sinh thực phẩm; kỹ thuật trồng cây trong nhà kính từ đơn giản đến hiện đại…
Sự phát triển của các khu nông nghiệp công nghệ cao sẽ tạo ra những sáng tạo khoa học và công nghệ; đào tạo nhân lực cho ngành sản xuất nông nghiệp công nghệ cao mới, tạo điều kiện cho chuyển hóa tri thức thành sản xuất, thành ưu thế thị trường. Phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hình thành tầng lớp công nhân nông nghiệp tác phong công nghiệp và đặc biệt sẽ cho ra đời những sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu có thương hiệu.
3.2.3.2 Các giải pháp phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao:
Có lẽ không nên nói nhiều vì sao để xuất khẩu nông sản phải áp dụng công nghệ cao mà cân phải bàn áp dụng như thế nào cho phù hợp điều kiện nước ta khi đã là thành viên của WTO. Để xây dựng được nhiều khu nông nghiệp công nghệ cao phục vụ cho xuất khẩu chúng ta cần làm những việc sau :
Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn: chuyển mạnh sang sản xuất các mặt hàng có thị trường; tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ; hình thành vùng sản xuất hàng hóa( tích tụ ruộng đât).
Tiếp tục mở rộng và phát triển thị trường.
Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước: phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng (600 xã chưa có đường ô tô, 30% đường huyện, 50% đường xã không đi được trong mùa mưa; thủy lợi chỉ đáp ứng được 80%); Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới quản lý để đảm bảo an toàn về nước.
Hỗ trợ về vốn và bảo hiểm: Nâng cao hiệu quả của các quỹ tín dụng; Thực hiện giao vốn cho phụ nữ; Cho vay gắn liền với việc chuyển giao công nghệ; Ưu tiên nhiều hơn nữa cho lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm xuất khẩu (ở Việt Nam nghiệp vụ này hầu như không có).
Chú trọng phát triển công nghệ sau thu hoạch: nông sản là mặt hàng dễ hư hỏng nên công tác bảo quản, vận tải cũng cần được coi trọng. Công nghệ bảo quản sau thu hoạch của Việt Nam được coi là rất yếu. Tỷ lệ thất thu sau thu hoạch của nông sản Việt Nam cao nhất châu Á, dao động 5-17% thậm chí là 20-30% tùy theo mùa vụ.
Kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trũ, bốc xếp, nhất là hàng tươi sống ở nước ta còn quá kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp còn khá cao. Ví dụ do công suất bốc xếp ở cảng Sài Gòn là 1000 tấn/ngày bằng một nửa ở cảng Băng Cốc nên cảng phí cho một tàu chở gạo 10000 tấn ở Việt Nam là 4000 USD còn Băng Cốc là 2000 USD.
Đổi mới phương thức đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ mới: Công tác chỉ đạo, tổ chức phải gắn với nông dân và doanh nghiệp; công khai và tôn trọng quy hoach; chuyển điều hành, chỉ đạo từ dạng phong trào sang dạng điều hành dự án…
Phần tiếp theo xin phân tích cụ thể một số chính sách.
Trước hết, Chính sách đào tạo, chuyển giao công nghệ. Chúng ta cần hiểu là áp dụng công nghệ cao không có nghĩa là mua cao giống đắt tiền, nhập các dây chuyền chế biến tiền tỷ. Mà công nghệ cao đôi khi chỉ cần xuất phát từ tập quán sản xuất của người dân. Ví dụ, trong công tác thu hoạch theo thói quen bà con Tây Nguyên thường hái cả quả cà phê xanh lẫn chín. Hoạt động này đã làm giảm đi sức cạnh tranh của cà phê Việt khá nhiều. Nó làm cho chất lượng quả cà phê của chúng ta không đồng đều. Hay là người trồng cam ở Tây Bắc khi đến vụ thường bán đổ do không có công nghệ bảo quản.Chỉ cần một khoản tiền nhỏ mua thuốc bảo quản của nhà nước là đã tăng được thời gian tươi của cam. Thêm một ví dụ nữa là người dân khi trồng rau màu phủ một lớp nilông trên ruộng, tiết kiệm được rất nhiều chi phí như tưới nước, diệt cỏ, bón phân. Vấn đề ở đây quy trình sản xuất nông sản an toàn, chất lượng đôi khi không tốn kém mà khó khăn ở khâu thay đổi nhận thức của người nông dân. Dẫu biết rằng thay đổi cách nghĩ của người nông dân là khó song không có nghĩa là không làm được.
Bởi vậy, để chính sách này đạt được hiệu quả cao hơn thì nhà nước cần cung cấp kinh phí nhiều hơn cho việc đào tạo chuyển giao công nghệ. Phương thức chuyển giao cần theo hình thức “cầm tay chỉ việc” hay thực hành thực tế. Đưa nông dân tới các trang trại điển hình, làm ăn hiệu quả để họ có thể tận mắt thấy thành quả và được trao đổi những kinh nghiệm quý báu từ chính chủ trang trại đó.
Đồng thời, chuyển giao công nghệ nhập ngoại cũng cần có chọn lọc. Không phải bao giờ công nghệ cao cũng tốt. Nếu công nghệ cao mà người lao động không làm chủ công nghệ thì sẽ gây lãng phí vốn.
Thứ hai, xin quay trở lai vấn đề đã trình bày ở chương 2 đó là vấn đề đói nguyên liệu của các nhà máy chế biến nông sản:
Theo Cục Chế biến Nông lâm sản và Nghề muối (Bộ NN-PTNT), sau 3 năm thực hiện Chương trình phát triển rau quả, đến nay, hầu hết các nhà máy chế biến vẫn trong tình trạng đói nguyên liệu. Nhà máy cao nhất mới chỉ đạt 60% công suất, cá biệt có nhà máy chỉ đạt 1-2% công suất, tính bình quân tất cả chỉ đạt 20-25% công suất.
Thêm một ví dụ nữa về tình trạng này, số liệu của Cục Chế biến Nông lâm sản và Nghề muối cho thấy, tại Công ty Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, diện tích vùng nguyên liệu dứa hiện có là trên 3.350ha, trong đó có 1.630ha dứa kinh doanh. Sản lượng dứa năm 2003 ước đạt 36.000-38.000 tấn, con số chỉ đủ cho dây chuyền sản xuất dứa đồ hộp (công suất 10.000 tấn sản phẩm/năm). Nếu cả 4 dây chuyền chạy đủ công suất, kể cả dây chuyền nước dứa cô đặc 5.000 tấn/năm, nước quả tự nhiên 1.500 tấn/năm và đông lạnh IQF 1.500 tấn/năm, Đồng Giao sẽ thiếu nguyên liệu trầm trọng. Vụ dứa vừa qua, nhà máy chỉ tự cân đối được gần 60% nhu cầu nguyên liệu.
Ngoài dứa, cà chua nguyên liệu từ lâu cũng không đáp ứng đủ nhu cầu chế biến. 2003 là năm thứ ba liên tiếp, Nhà máy Chế biến Cà chua Hải Phòng ngao ngán vì thiếu cà chua để sản xuất. Hàng loạt biện pháp đã được triển khai để có vùng nguyên liệu, như hỗ trợ giống, ký kết hợp đồng với nông dân... , song, xem ra không đem lại hiệu quả thiết thực do trục trặc về thời tiết,giống , sâu bệnh, cơ chế thu mua. Hậu quả thì ai cũng rõ, vụ đầu tiên (1999-2000), nhà máy chỉ sản xuất được 80 tấn sản phẩm (đạt 2,1% công suất), vụ tiếp (2001-2002) chỉ thu được 1 tấn (đạt 0,03%) và vụ vừa qua 50 tấn (đạt 1,3%). Việc chế biến các loại rau quả khác, như chôm chôm, dưa chuột, ngô bao tử... do đầu ra còn hạn hẹp nên trước mắt, nguồn nguyên liệu vẫn đang ổn.
Qua ví dụ trên ta có thể hiểu phần nào rau quả Việt Nam lại có kim ngạch xuất khẩu khiêm tốn chỉ hơn 200 tr USD trong khi tiềm năng lại vô cùng lớn.
Nguyên nhân nằm ở chỗ nào?.Nh ư chương 2 đ ã ph ân tích v ấn đ ề chính là nằm ở khâu quy hoạch. Chúng ta đã tốn bao nhiêu công sức, biện pháp, chính sách để thu hút vốn, kỹ thuật trong nước cũng như ngoài nước, thế mà đến khâu cuối là sản xuất lại công toi, vô hiệu quả. Mặc dù kỹ thuật tiên tiến đấy nhưng thiếu nguyên liệu có ích gì. Nhà máy cà chua Hải Phòng đầu tư cả triệu đô mà cả năm chỉ hoạt động có một tuần. Chúng ta dễ nhận thấy các dự án này đã quá coi nhẹ phát triển vùng nguyên liệu. Các cán bộ quy hoach, cấp phép có lẽ chỉ thấy có dự án, có kỹ thuật mới là thông qua. Tình trạng thiếu quy hoạch một cách tràn lan này vô cùng lãng phí nguồn lực. Thực tế chúng ta nghèo, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật vậy mà hầu hết các dự án chế biến nông sản xuất khẩu ít ỏi lại hoạt động cầm chừng thiếu hiệu quả.
Cần nhanh chóng tìm hướng đi cho tình trạng “nghèo mà hoang” này.
Khẩn trương tạm dừng các dự án xây dựng nhà máy chế biến nông sản lại. Chỉ cấp phép cho các dự án khi đã xác định rõ được nguồn nguyên liệu ổn định và đáp ứng được công suất của nhà máy.
Đồng thời với các dự án đã triển khai cần thực hiện biện pháp “2 trong 1”. Tức là “người trồng cũng là nhà sản xuất” hay khẩn trương ký bao tiêu sản phẩm của nông dân với điều kiện ta cung cấp vốn người nông dân sản xuất theo kỹ thuật.
3.2.4.Xúc tiến thương mại: Xét một cách tổng quát, xúc tiến xuất khẩu nói chung và xúc tiến xuất khẩu nông sản còn quá nhiều thiếu sót. Chỉ thời gian gần đây khi mà quá trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ cạnh tranh gay gắt nông sản Việt Nam liên tục bị mất thị trường hay không tiếp cận được trực tiếp người tiêu dùng nước ngoài phải qua khâu trung gian nên không chủ động được giá nên Chính phủ và các doanh nghiệp mới bắt đầu tính đến xúc tiến thương mại. Nông sản Việt Nam chủ yếu xuất đi dưới tình trạng không tên tuổi bán buôn qua cửa khẩu (bán sang thị trường Trung Quốc) hay với một tên thương hiệu của nhà bán buôn. Đ ể khắc phục các hạn chế và tăng cường biện pháp xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu nông sản, chúng ta cần phải làm những việc sau:
Cần xây dựng các trung tâm nghiên cứu thị trường ở nước ngoài. Các trung tâm này có nhiệm vụ nghiên cứu nhu cầu, thị trường, luật pháp … của nước đối tác để có thông tin sản xuất cái gì. Thêm vào nữa, các trung tâm này sẽ là cơ quan giao dịch, quảng bá, tìm đối tác làm ăn cho các doanh nghiệp trong nước.
Ngoài ra, các doanh nghiệp trong nước có thể hợp tác làm ăn với các doanh nghiệp nước ngoài. Khi liên doanh chúng ta sẽ không mất nhiều tiền của và thời gian để quảng bá, nghiên cứu thị trường, tìm đối tác nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước có thể học tập kinh nghiệm xúc tiến thương mại từ nước ngoài.
Việt Nam có hệ thống Việt kiều khá đông đảo ở nhiều nước trên thế giới. Những người này chính là những nguồn thông tin quan trọng, tin cậy hữu ích cho các doanh nghiệp trong nước. Nếu những Việt kiều này là các thương gia buôn bán thì chúng ta có thể hợp tác, làm ăn với họ để họ quảng bá, phân phối sản phẩm cho ta.
Chú ý tổ chức,tham gia các hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm. Chúng ta mang hàng ra nước ngoài tham gia hội chợ triển lãm với mục đích chính là giới thiệu quảng bá, tìm kiếm bạn hàng cho sản phẩm. Điều này rất quan trọng vì qua các phương tiện truyền thông khó mà khách hàng nào có thể đặt hàng mà đặc biệt là mặt hàng nông sản. Khách hàng cần trông, nắm bắt thông tin về mặt hàng một cách trực tiếp.Thay vì kiểu tham gia hờ hững:Mỗi lần có hội chợ, Sở bắt đầu đi gom sản phẩm ở các nơi, mang đi bán và giới thiệu. Các đối tác hỏi về sản phẩm như thế nào, có thể cung cấp được bao nhiêu, trong thời gian bao lâu… thì các ông cán bộ Sở không chuyên bán hàng, vậy là tịt mịt. Khi nào về nước làm cái báo cáo thế là xong. Chúng ta cần chuyên nghiệp hoá, tận dụng thật tốt cơ hội này. Các gian hàng cần trang trí hấp dẫn bắt mắt. Những người tham gia hội chợ cần là những người hiểu tình hình sản xuất nhất. Họ mới chính là những người trả lời các câu hỏi của đối tác một cách chính xác nhất.
Các doanh nghiệp cần đầu tư thiết kế bao bì mẫu mã sản phẩm, quan tâm hơn tới việc đăng ký thương hiệu, tên gọi, xuất xứ. Nếu mà so sánh cùng một loại sản phẩm của Việt Nam và Trung Quốc thì điều đầu tiên ta thấy mẫu mã của Trung Quốc vô cùng hấp dẫn và bắt mắt. Bao bì chính là điểm thu hút nhanh chóng nhất đối với khách hàng, bởi chất lượng và giá cả cần có thời gian thẩm định. Rõ ràng nếu 2 sản phẩm cùng giá thì sản phẩm nào bao bì đẹp hơn thì sản phẩm đó thắng. Quay trở lại với vấn đề đăng ký. Một việc rất đơn giản nhưng nếu ta không để ý là đôi khi ta mất nhãn hiệu - một phần rất quan trọng của thương hiệu sản phẩm. Nước ta có rất nhiều nông sản có tên tuổi: xoài cát Hòa Lộc, cam Canh, bưởi Diễn...Các sản phẩm này được thẩm định về mặt giá trị rồi. Khi mà ta đăng ký tên xuất xứ trên thị trường quốc tế tức là sản phẩm này vẫn được giữ nguyên và bảo đảm về pháp luật về tên và đặc tính sản phẩm. Thật tiếc các nông sản ở nước ta đăng ký ở nước ngoài đếm trên đầu ngón tay. Chính vì vậy cà phê Trung Nguyên khi đăng ký thương hiệu ở Mỹ đã có công ty khác đăng ký mất. Hay gạo Nàng Thơm Chợ Đào khi đăng ký ở nước ngoài đã công ty Cao nguyên (Oklahoma- Mỹ) đăng ký rồi. Như vậy là các sản phẩm của chúng ta rất đáng tiếc sẽ không được dùng cái tên mà không phải tiên bạc cũng mua được.
Kết luận
Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản trong thời gian qua có vai trò to lớn trong tạo ra sự tăng trưởng nhanh chóng kim ngạch, số lượng các mặt hàng nông sản xuất khẩu. Song cũng cần có nhiều bất cập trong những chính sách này: thủ tục hành chính, sự chồng chéo, thiếu phối hợp, sự gắn kết của các chính sách…Xuất khẩu nông sản vẫn có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Bởi vậy, việc khắc phục những hạn chế của các chính sách thúc đẩy xuất khẩu có ý nghĩa then chốt cho hoạt động xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, những thay đổi, định hướng này cần đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và đặc biệt là phù hợp với khuôn khổ luật pháp của WTO. Do Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức này
Xin thay cho lời kết bằng việc giới thiệu dự án “Tây Nguyên - vườn địa đàng cà phê thế giới” do cà phê Trung Nguyên và Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắc Lắc xây dựng. Dự án đưa ra một quy trình sản xuất, tiêu thụ cà phê khép kín. Bắt đầu, từ việc đưa công nghệ cao vào sản xuất, đến việc thay đổi tập quán sản xuất của người dân. Từ việc ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho nông dân đến việc xây dựng các kho chứa bảo quản hiện đại quy mô. Từ việc cộng tác với Indonexia trong việc quản lý nguồn cung đến việc đưa cà phê lên sàn giao dịch thông qua thị trường Singapore. Ngoài ra, điểm độc đáo của dự án này còn khai thác văn hóa cà phê của người Tây Nguyên cộng với phong cảnh của cánh đồng cà phê bát ngát làm sản phẩm du lịch.
Ta có thể thấy dự án đã khắc phục được hầu hết những vấn đề mà nông sản xuất khẩu của Việt Nam đang gặp phải. Có thể coi đây là một chính sách, chiến lược thúc đẩy xuất khẩu nông sản táo bạo song không hề phiêu lưu. Với sự trợ giúp thích hợp của Chính phủ và sự quyết tâm của chủ dự án thì cây cà phê sẽ trở về đúng giá trị đích thực của nó.
Nói tóm lại, tất cả những phân tích, đánh giá, định hướng về chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản nêu trên cũng chỉ để trả lời một câu hỏi:
“Làm thế nào để Việt Nam có thể chi phối được thị trường nông sản thế giới”.
Bảng chữ viết tắt:
Chữ viết tắt
Nghĩa tiếng Anh
Nghĩa tiếng Việt
AoA
Agreement on Agriculturer
Hiệp định nông nghiệp
ASEAN
Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
EU
Europeon union
Liên minh châu Âu
GAP
Good Agricultural Practices
Chu trình nông nghiệp an toàn
GMO
Chứng chỉ xác nhận giống cây không thuộc loại cây biến đổi gen
TBT
Technical Barriers to Trade
Hiệp định về rào cản thương mại trong thương mại quốc tế
SCM
Subsidies and Countervailing Measures Agreement
Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng
SPS
Agreement on Sanitary and Phytosanitary Measures
Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
Mục lục
Trang
Lời mở đầu
1. Tính tất yếu của đề tài 1
2. Mục đích của đề tài 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu của đề tài 2
Phần nội dung
Chương 1. Những vấn đề chung về xuất khẩu nông sản
Và kinh nghiệm của các nước
1.1. Tổng quan về chính sách thúc đẩy xuất khẩu 4
1.1.1. Khái niệm và vai trò 4
1.1.1.1. Khái niệm 4
1.1.1.2. Vai trò 4
1.1.2 Nội dung 4
1.2Cơ hội và thách thức cho nông nghiệp nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng 5
1.3 Các quy tắc của WTO về thương mại nông sản phẩm 7
1.3.1 Mở rộng thị trường 8
1.3.2 Cắt bỏ trợ giá sản xuất nông sản phẩm 9
1.4 Các cam kết của Việt Nam 11
1.5 Tác động của những cam kết này đối với xuất khẩu nông sản 12
1.6 Kinh nghiệm của các nước 14
1.7 Bài học đối với Việt Nam 16
Chương 2 Thực trạng chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam
2.1 Về thành công 17
2.1 Những tồn tại và hạn chế trong chính sách xuất khẩu nông sản 21
Chương 3 Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất
khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
3.1 Định hướng hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO 30
3.2 . Các giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO: 30
3.2.1 Xác định sản phẩm chiến lược 32
3.2.2. Thực hiện chính sách ruộng đất hợp lý trong điều kiện gia nhập WTO:33
3.2.2.1. Những kinh nghiệm từ chính sách khoán 10 34
3.2.2 .2. Cơ sở của việc thực hiện tích tụ ruộng đất 35
3.2.2.3. Giải pháp đẩy nhanh quá trình dồn điền đổi thửa: 36
3.2.2.4 Một số mô hình thí điểm: Đây là những mô hình mang tính giới thiệu để hiện thực hóa các giải pháp ở trên 39
3.2.3. Xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao: 40
3.2.3.1 T ính tất yếu của sự phát triển nông nghiệp công nghệ cao 40
3.2.3.2 Các giải pháp phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao 41
3.2.4 Xúc tiến thương mại 44
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
Sách:
1. Xuất nhập khẩu Việt Nam 20 năm đổi mới, Nhà xuất bản Thống kê năm 2005.
2. Việt Nam gia nhập WTO: phân tích thuế quan, ngành và trợ cấp, Nhà xuất bản tài chính tháng 9/2005.
3. Kinh tế nông nghiệp, Nhà xuất bản Thống kê năm 2006.
4. Toàn văn cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Báo, tạp chí:
1. Minh Anh, Nông nghiệp Việt Nam hậu WTO: Hướng đến công nghệ cao, Kinh tế nông thôn, 14/12/2006.
2. Văn Chính, Vĩnh Phúc – quê hương của tư duy kinh tế nông thôn, Báo nông nghiệp 5/1/2007.
3. Huỳnh Thế Du, Trước sức ép của trái cây Trung Quốc: Nông dân châu Âu đòi quyền bảo hộ, Kinh tế nông thôn 26/1/2007.
4. Nguyễn Minh Giang, Giá nông sản xuất khẩu đang tăng: Bước vào WTO suôn sẻ, Kinh tế nông thôn 26/1/2007.
5. Ths Bùi Thị Thanh Hương, Tìm hiểu những giải pháp giải quyết vấn đề: Nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở Trung Quốc hiện nay, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 1/ 2007.
6. Trịnh Ái Hoa, Một số đánh giá về chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam, Tạp chí Ngiên cứu kinh tế số 336- tháng 5/2006.
7. PGS.TS Phạm Vũ Luân, Một số giải pháp phát triển thị trường nông sản và thương mại nông thôn ở nước ta hiện nay, Tạp chí kinh tế phát triển.
8. Dương Thanh , Dồn điền đổi thửa: Bước đệm để sản xuất hàng hóa, Báo Kinh tế nông thôn 8/1/2007.
9. Đào Văn Phùng, Cần đổi mới chuyển giao TBKT trong sản xuất nông nghiệp, Nông nghiệp số 19 ngày25/1/2007.
10. Anh Thơ, Để có thương hiệu nông sản mạnh, Kinh tế nông thôn, 1/1/2007.
11. GS.TS Nguyễn Văn Thường, Mấy vấn đề về cơ sở hình thành chính sách đối với nông nghiệp và nông thôn Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Tạp chí kinh tế phát triển.
12. Vũ Trí Tuệ, Cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, Báo Thương mại số 17/2006.
13. PGS. TS Nguyễn Phú Tự, WTO với vấn đề nông phẩm, tạp chí phát triển kinh tế tháng 12/2006.
14. Vũ Minh Việt, Tích tụ đất đai khó cũng phải làm, Báo Nông nghiệp , 19/1/2007.
Trang web:
www.wto.org
www.moi.gov.vn
www.thuonghieunongsan.org.vn
www.cktqp.gov.vn
www.mofa.gov.vn
www.nhandan.org.vn
www.cpv.org.vn
www.vnn.vn
www.tuoitre.com.vn
Phụ lục
Chương 1. Nh ững v ấn đ ề chung v ề xu ất kh ẩu n ông s ản v à kinh nghi ệm của các n ư ớc
Rào cản phi thuế quan đối với nông sản
Trong khiôn khổ WTO ngoài Hiệp định nông nghiệp, WTO còn đưa ra một số rào cản phi thuế quan đối với các thành viên thông qua cá Hiệp định:
1.1. Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS):
Một số loài động thực vật có khả năng gây nguy hại cho sức khở của con ngời và truyền các loại côn trùng gây bệnh tật. Do vậy các quốc gia trong WTO đã ký kết Hiệp định về cá biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS). Hiệp định này quy định những tiêu chuẩn, nguyên tắc, quy định mà các nước thành viên phải áp dụng nhằm bảo vệ cuộc sống, sức khỏe của con người, động vật và thực vật. Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ yêu cầu các thành viên:
- Các nước thành viên sử dụng SPS như là những tiêu chuẩn, hướng dẫn khuyến nghị quốc tế.
- Tạo điều kiện cho các thành viên và cả đối tác thương mại có cơ hội tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các tiêu chuẩn về kiểm dịch động thực vật.
- Chấp nhận những biện pháp thuộc về SPS của các nước xuất khẩu nếu các tiêu chuẩn này phù hợp với tiêu chuẩn của quốc gia.
-Tích cực tham gia vào các hoạt động của các tổ chức quốc tế về kiểm dịch động thực vật.
Đặc biệt Hiệp định này khuyến khích các nước cần có sự linh hoạt trong việc áp dụng các quy định về kiểm tra vệ sinh dịch tễ có ảnh hưởng đến thương mại quốc tế của các thành viên là các nước đang phát triển.
1.2. Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế (TBT):
Hiệp định về rào cản trong thương mại quốc tế ra đời nhằm thống nhất các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng trong hệ thống thương mại của WYO. Hiệp định cho phép các nước thành viên được sử dụng các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật như: yêu cầu về bao bì, mã hiệu, nhãn hiệu và các thủ tục đánh giá sự phù hợp với cac quy định làm rào cản trong thương mại nhưng không tạo ra sự trở ngại cho thương mại quốc tế.
Hiệp định TBT còn thừa nhận các thành viên có quyền áp dụng những quy định kỹ thuật hoặc những tiêu chuẩn kỹ thuật bắt buộc (gồm cả những tiêu chuẩn về đóng gói và nhãn mác) nhằm bảo đảm chất lượng hàng hóa, bảo vệ sức khỏe, sự an toàn của con người, động thực vật và môi trường hoặc ngăn ngừa các hoạt động gian lận thương mại.
Hiệp định yêu cầu các nước thành viên khi xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật của mình cần tham khảo hoặc sử dụng các tiêu chuẩn của WTO, nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật của WTO và không tạo ra sự phân biệt đối xử trong việc thực thi.
Để tạo điều kiện cho sự hợp chuẩn về tiêu chuẩn kỹ thuật giữa các thành viên, Hiệp định quy định:
- Các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn không được phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp nước ngoài và nhà cung cấp trong nước.
- Việc thu phí cũng phải đối xử công bằng giữa nhà cung cấp nước ngoài và nhà cung cấp nội địa.
- Chọn mẫu điều tra và kiểm tra cũng không được có những quy định gây bất lợi cho nhà cung cấp nước ngoài.
Riêng đối với các nước đang phát triển Hiệp định có một số lưu ý:
Thứ nhất, Hiệp định thừa nhận các nước đang phát triển không phải chấp nhận các tiêu chuẩn quốc tế khi các tiêu chuẩn này không phù hợp với sự phát triển và nhu cầu về tài chính của mình. Họ có thể chấp nhận các quy định, tiêu chuẩn và các phương pháp xét nghiệm với mục đích bảo vệ công nghệ, phương thức sản xuất mang tính bản sứ.
Thứ hai, Hiệp định cho phép những ngoại lệ đặc biệt về giới hạn thời gian đối với các nước đang phát triển còn gặp khó khăn khi thực thi các tiêu chuẩn kỹ thuật của WTO do mức độ phát triển kinh tế, thương mại và công nghệ của các quốc gia nghèo.
Rào cản kỹ thuật là một trong những rào cản thương mại mà các quốc gia đang phát triển rất khó vượt qua do hạn chế về trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Bên cạnh đó các quốc gia đang phát triển không còn con đường nào khác là phải nỗ lực vượt rào của các quốc gia phát triển đặt ra trong sân chơi WTO- sân chơi quốc tế.
1.3. Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM):
Những khoản tài chính được Hiệp định coi là trợ cấp bao gồm: sự đóng góp tài chính của chính phủ; chính phủ có chuyển trực tiếp các khoản vốn cho doanh nghiệp; các khoản thu của chính phủ nhưng được chính phủ bỏ qua; chính phủ cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp không phải là hàng hóa chung như cơ sở hạ tầng, dịch vụ công…hoặc chính phủ trực tiếp mua hàng hóa của doanh nghiệp. Tuy nhiên Hiệp định cũng quy định rõ những khoản trợ cấp nào gây tổn hại cho một ngành sản xuất của một thành viên mới là đối tượng điều chỉnh của Hiệp định. Điều 6 của Hiệp định nêu rõ các trường hợp được coi là gây tổn hại nghiêm trọng bao gồm: tổng trợ cấp cho một sản phẩm vượt quá 5% giá trị; trợ cấp để bù lỗ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; trực tiếp xóa nợ hoặc cấp kinh phí để thanh toán nợ cho doanh nghiệp.
Các biện pháp đối kháng chỉ được sử dụng trên cơ sở điều tra khởi tố đối với hành vi trợ cấp và phải phù hợp với Hiệp định về trợ cấp và đối kháng. Điều đặc biệt là Hiệp định cho phép các nước thành viên đang phát triển sử dụng trợ cấp xuất khẩu trong giai đoạn quá độ, nhưng nếu sự trợ cấp đó gây tổn hại nghiêm trọng thì vẫn có thể bị nước nhập khẩu đánh thuế đối kháng.
Song thực tế trợ cấp nông nghiệp là một vấn đề gay cấn gây nhiều tranh cãi nhất giữa các thành viên do sự khác biệt quá lớn trong trợ cấp nông sản. Đơn cử một số trường hợp ta thấy ở Mỹ một năm trợ cấp của chính phủ khoảng 3 tỷ USD cho 25 000 nông dân trồng bông nhằm ổn định giá bất chấp sự biến đổi của thời tiết khí hậu hay biến động giá trên thị trường thế giới. Với khoản trợ cấp này sản lượng bông của Mỹ trên thị trường thế giới tăng mạnh từ 17% năm 1998 lên tới 42% năm 2003 với mức giá chỉ bằng gần ½ giá cũ. Đây là nguyên nhân dẫn tới hàng loạt các quốc gia trồng bông tại Trung Á và châu Phi lâm vào tình trạng bế tắc. Riêng Việt Nam như đã phân tích thì rõ ràng trồng bông không thể là một sản phẩm xuất khẩu chủ lực mà còn có nguy cơ bị xóa sổ nếu bông nhập khẩu tràn vào trong nước.
Ch ư ơng 2. Thực trạng chính sách thúc đẩy xu ất kh ẩu nông sản của Việt Nam
Khi mà thuế nhập khẩu giảm thì nó cũng phần nào ảnh hưởng tới chiến lược sản xuất xuất khẩu nông sản. Một số mặt hàng phi nông sản giảm làm cho chi phí sản xuất cũng giảm theo. Mặt khác nông sản các nước khác tràn vào làm cho một số nông sản có nguy cơ chết ngay trên sân nhà. Ở đây xin giới thiệu cam kết cắt giảm thuế một số mặt hàng liên quan đến sản xuất, xuất khẩu nông sản:
Bảng1.Thuế nhập khẩu- hàng phi nông sản
Mặt hàng
Thuế suất MFN
Thuế suất khi gia nhập
Thuế xuất cuối cùng
Thời gian thực hiện
Xăng dầu
0-10
39
39
Sắt thép
7,5
17,7
13
5-7
Xi măng
40
40
32
4
Phân hóa học
0-5
6,5
6,4
2
(Nguồn: Biểu cam kết thuế phi nông sản, Toàn văn cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO)
Bảng2.Thuế nhập khẩu hàng nông sản
Mặt hàng
Thuế suất MFN
Thuế suất khi gia nhập
Thuế xuất cuối cùng
Thời gian thực hiện
Thịt bò
20
30
14
5
Thuốc lá, xì gà
100
150
100-135
3-5
Thức ăn gia súc
10
10
7
2
Sữa
20 30
20 30
18 25
2 5
Bánh kẹo
39
34
25
3-5
Bia, rượu
80
65
35
5
Thịt lợn
30
30
15
5
(Nguồn: Biểu cam kết thuế nông sản, Toàn văn cam kết gia nhập WTO của Việt Nam)
Bảng3: Bảng kim ngạch và số lượng xuất khẩu nông sản
giai đoạn 2001-2005
Chú thích: sản lượng (1000 tấn); trị giá (tr USD)
Mặt hàng
2001
2002
2003
2004
2005
Sản lượng
Trị giá
Sản lượng
Trị giá
Sản lượng
Trị giá
Sản lượng
Trị giá
Sản lượng
Trị giá
Gạo
3720,7
623,5
3236,2
726,3
3810,4
719,9
4086,7
950,4
5250
1407,2
Cà phê
931,1
391,2
722,2
321,6
749,4
504,9
974,8
641,0
892
735,5
Hàng cói, mây tre
93,9
107,9
136,1
169,2
180,2
Cao su
308,0
166,0
455
270,9
423,3
377,7
513,3
596,9
587
804,1
Rau quả
344,3
221,2
151,5
178,8
235,5
Hạt tiêu
57
91,2
78
109,7
73,9
104,6
111,9
152,4
104
150,5
Hạt điều
44
151,8
62
210,3
82,3
276,6
805,1
436
199
305
Chè
68
78,1
74
83
58,6
58,4
99,4
95,6
88
99
Lạc nhân
78
38,3
106
51,8
82,4
48,5
44,9
27,1
55,0
22,3
(Nguồn: Xuất nhập khẩu Việt Nam sau 20 năm đổi mới, Nxb Thống kê, 2005)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35854.doc