Đề tài Chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương và cách điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng nhà nước Việt Nam từ 2005 đến nay

MỤC LỤCBẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC 2 LỜI NÓI ĐẦU 5 CHƯƠNG I CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHTW 7 1. Khái niệm, phân loại chính sách tiền tệ (CSTT) 7 1.1 Khái niệm 7 1.2 Các loại CSTT 7 2. Mục tiêu của CSTT 7 2.1.Ổn định giá cả hay kiểm soát lạm phát 8 2.2.Ổn định tỷ giá hối đoái 9 2.3. Ổn định lãi suất 9 2.4. Ổn định thị trường tài chính 9 2.5. Tăng trưởng kinh tế 9 2.6. Giảm tỷ lệ thất nghiệp 10 3. Công cụ của CSTT 12 3.1. Các công cụ gián tiếp 12 3.1.1. Nghiệp vụ thị trường mở (Open market operations) 12 3.1.2. Chính sách tái chiết khấu (Discount policy) 15 3.1.3. Dự trữ bắt buộc (Reserve requirements) 18 3.1.4. Chính sách tỷ giá hối đoái (Exchange rate policy) 20 3.2 Các công cụ trực tiếp 21 3.2.1. Hạn mức tín dụng 22 3.2.2. Khung lãi suất 22 3.2.3. Biên độ dao động của tỷ giá mua bán ngoại tệ 23 3.2.4. Chính sách quản lý ngoại hối 23 4. Cách điều hành CSTT của NHTW 24 4.1. Ảnh hưởng của cung ứng tiền đến nền kinh tế 24 4.2 Các điều hành chính sách tiền tệ của NHTW 26 4.2.1. Thay đổi lãi suất chiết khấu 26 4.2.2. Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc 27 4.2.3. Tiến hành các nghiệp vụ thị trường mở 27 CHƯƠNG II CÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA NHNN 28 VIỆT NAM TỪ 2005 ĐẾN NAY 28 2.1 Những vấn đề cơ bản về tỷ giá hối đoái 28 2.1.1 Tỷ giá hối đoái 28 2.1.2 Các loại tỷ giá 29 2.1.3 Tác động của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế 31 2.1.4 Các yếu tố tác động đến tỷ giá 35 2.1.5 Các chế độ tỷ giá 39 2.2 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam từ 2005 đến nay 41 2.2.1 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2005 41 2.2.2 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2006 42 2.2.3 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2007 43 2.2.4 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2008 44 2.2.5 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2009 45 2.2.6 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2010 46 2.2.7 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam đầu năm 2011 47 2.3. Kiến nghị và giải pháp 48 KẾT LUẬN 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO 55

docChia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương và cách điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng nhà nước Việt Nam từ 2005 đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá, nhưng NHTW không cam kết duy trì một tỷ giá cốđịnh hay biên độ dao động nào xung quanh tỷ giá trung tâm. Nói cách khác, NHTW thực hiện các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ để điều tiết thị trường ngoại hối, song can thiệp của NHTW không nhằm mục đích để cốđịnh tỷ giá như đối với chế độ tỷ giá cố định. 3.2 Các công cụ trực tiếp Công cụ trực tiếp là các công cụ tác động thẳng vào mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ (hay tác dụng thẳng vào khối lượng tiền cung ứng và lãi suất). Các công cụ này bao gồm: 3.2.1. Hạn mức tín dụng Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng phải tuân thủ khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợđược qui định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của từng ngân hàng (cơ cấu khách hàng, mức rủi ro), định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ các đối tượng chính sách và nó phải nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Công cụ này được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ. Ví dụ trong trường hợp lạm phát cao, hạn mức tín dụng được sử dụng nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lãi suất hay NHTW không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTG thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu linh hoạt và đôi khi đi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trung gian. 3.2.2. Khung lãi suất Với những nước mà tín dụng ngân hàng là nguồn tín dụng chủ yếu của đất nước, việc qui định giới hạn dao động của các mức lãi suất của ngân hàng bằng cách định ra một khung lãi suất sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới mức lãi suất thị trường. Khung lãi suất bao gồm mức lãi suất trần (là mức lãi suất tối đa mà các ngân hàng được phép ấn định khi đi vay hoặc cho vay) và lãi suất sàn (là mức lãi suất tối thiểu mà các ngân hàng được phép ấn định khi cho vay hoặc đi vay). Thông thường NHTW sẽ qui định mức lãi suất trần đối với lãi suất cho vay và mức lãi suất sàn với lãi suất đi vay của các ngân hàng. Thực tế áp dụng ở hầu hết các nước đều cho thấy đây là một công cụ cứng nhắc, dễ gây tác động xấu tới hoạt động tiết kiệm và đầu tư. Vì vậy, nó thường chỉđược sử dụng trong điều kiện sựổn định kinh tế vĩ mô chưa được thiết lập, hay các yếu tố thị trường chưa phát triển hoàn chỉnh. 3.2.3. Biên độ dao động của tỷ giá mua bán ngoại tệ Đây cũng là một công cụ mang tính chất hành chính, qui định mức tỷ giá tối đa và tối thiểu mà các ngân hàng được phép áp dụng khi kinh doanh ngoại hối. Do tính chất cứng nhắc của công cụ nên bên cạnh khả năng tác động trực tiếp tới mức tỷ giá trên thị trường nó cũng gây ra nhiều phản ứng tiêu cực của thị trường, có thể dẫn tới những biến động không mong muốn về tỷ giá hối đoái. Công cụ này chỉ nên dùng trong những trường hợp khẩncấp và trong thời gian ngắn, khi mà NHTW không thể sử dụng các biện pháp mang tính thị trường như mua bán ngoại tệ do dự trữ quốc gia về ngoại hối không đủ để can thiệp. 3.2.4. Chính sách quản lý ngoại hối Ngoại hối là khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trịđ ược dùng để cất trữ hoặc thanh toán giữa các quốc gia như: ngoại tệ, các phương tiện thanh toán quốc tế ghi bằng ngoại tệ (hối phiếu, lệnh phiếu, séc v.v...), các chứng khoán ghi bằng ngoại tệ (cổ phiếu, trái phiếu do nước ngoài phát hành), vàng, bạc, kim cương, đá quí .... Mục đích của chính sách quản lý ngoại hối là nhằm kiểm soát chặt chẽ việc chuyển ngoại hối ra bên ngoài nước, thu hút nhiều ngoại hối vào trong nước, quản lý nghiêm ngặt các loại ngoại hối dự trữ như vàng, các ngoại tệ mạnh. Tuỳ từng quốc gia mà cơ chế quản lý ngoại hối thay đổi khác nhau. Những nước có nguồn ngoại hối dồi dào như Mỹ, Nhật, Anh, Đức... thực hiện chính sách tự do ngoại hối, cho phép các luồng ngoại hối được tự do vào ra quốc gia với số lượng không hạn chế. Trong khi hầu hết các nước đang phát triển do dự trữ ngoại hối có hạn nên phải áp dụng chính sách quản chế ngoại hối nghiêm ngặt để đảm bảo nguồn cung ngoại hối cho nhu cầu của đất nước. 4. Cách điều hành CSTT của NHTW Mọi hoạt động của ngân hàng trung ương đều ảnh hưởng mật thiết đến cung ứng tiền trong nền kinh tế. Cung ứng tiền thay đổi làm biến động giá cả, sản lượng quốc gia, do đó một cách gián tiếp mọi họat động ngân hàng ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế. 4.1. Ảnh hưởng của cung ứng tiền đến nền kinh tế    Sự khác biệt trong chính sách cung ứng tiền là khoảng cách giữa chính sách cung ứng nới lỏng và chính sách cung ứng thắt chặt. Giả sử vào thời điểm ta nghiên cứu, đường cung ứng tiền tương ứng của ngân hàng là LS0 ứng với nhu cầu tiền trong nền kinh tế là LD. Nền kinh tế đạt bình quân tạm thời trên thị trường tiền tệ tại điểm bình quân E0 cho biết: với mức bình quân ấy lượng cung ứng tiền là L0 và lãi suất là R0. Bây giờ, cho rằng ngân hàng trung ương quyết định thắt chặt cung ứng tiền để hạn chế lạm phát (LS0 tới LS1) trong khi LD vẫn không thay đổi. Chính điều này đã làm cho lãi suất tăng vọt từ R0 đến R1. E0 di chuyển đến E1. Lúc này tiền sẽ khan hiếm hơn (do lượng cung giảm). Tiền khan hiếm thì giá trị của đồng tiền sẽ tăng theo do đó lạm phát sẽ giảm. Ngược lại, giả sử sau một khoảng thời gian chống lạm phát với cái giá là sự suy thoái (tiền khan hiếm, lãi suất cao bên cạnh đó sự thắt chặt tiền tệ của ngân hàng khiến doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn vay), ngân hàng trung ương bắt đầu chuyển sang cung ứng tiền nới lỏng. Tổng cung tiền tệ tăng từ LS1 lên LS2, cắt LD tại E2, lúc này lượng tiền tệ tăng lên L2 và lãi suất giảm xuống còn R2. Lúc này thì nền kinh tế phải đối mặt với thách thức mới là lạm phát có thể gia tăng (do có quá nhiều tiền trong lưu thông). Vì thế cho nên mỗi lần áp dụng mức lãi suất hay lượng cung ứng tiền ngân hàng trung ương phải đắn đo suy nghĩ những tác hại thiệt hơn cho mỗi chính sách tiền tệ.  Chính sách cung ứng tiền nới lỏng làm cho tiền tệ trở nên dồi dào hơn. Điều này kích thích tiêu dùng cho cuộc sống và cho đầu tư nhiều hơn. Sự gia tăng tiêu dùng và đầu tư làm sản xuất liên tục được mở rộng, tuyển mộ thêm công nhân, giảm thất nghiệp và gia tăng thu nhập quốc dân. Nền kinh tế tăng trưởng với giá cả tăng cao hơn trước. Chính sách cung ứng tiền thắt chặt làm cho chi phí để có tiền cao hơn và tiền trở nên khan hiếm. Sản xuất thiếu vốn, người mua thiếu tiền buộc phải cắt giảm chi tiêu và đầu tư, điều này dẫn đến tổng cầu giảm và giá cả hạ. Cái giá phải trả là sản xuất bị thu hẹp, thất nghiệp tăng, thu nhập quốc dân giảm và nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Do đó cung ứng tiền là sức mạnh đầy quyền lực của ngân hành trung ương. Khi ngân hàng trung ương điều tiết cung ứng tiền tức là nó bắt đầu tiến hành điều tiết nền kinh tế. 4.2 Các điều hành chính sách tiền tệ của NHTW Về ổn định kinh tế vĩ mô, nguyên lý hoạt động chung của chính sách tiền tệ là ngân hàng trung ương sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ. Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khẩu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở. Thay đổi lãi suất chiết khấu Lãi suất chiết khấu, hay còn gọi là lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà NHTW đánh vào các khoản tiền cho các ngân hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất thường của các ngân hàng này. Quy định lãi suất chiết khấu là một trong những công cụ của  chính sách tiền tệ nhằm điều tiết lượng cung tiền. Các ngân hàng thương mại phải tính toán tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và họ có một tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi an toàn tối thiểu. Tỷ lệ này ngoài quy định của NHNN về tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng thương mại và dự trữ của NHTM thường lớn hơn dự trữ bắt buộc. Khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt thực tế của ngân hàng thương mại giảm xuống đến gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ phải cân nhắc việc có tiếp tục cho vay hay không vì buộc phải tính toán giữa số tiền thu được từ việc cho vay với các chi phí liên quan trong trường hợp khách hàng có nhu cầu tiền mặt cao bất thường: Nếu lãi suất chiết khấu bằng hoặc thấp hơn lãi suất thị trường thì ngân hàng thương mại sẽ tiếp tục cho vay đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ NHNN mà không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào. Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng thương mại không thể để cho tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm xuống đến mức tối thiểu cho phép, thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải vay tiền từ NHNN với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường khi phát sinh nhu cầu tiền mặt bất thường từ phía khách hàng. NHTW có thể thay đổi lãi suất mà mình cho các ngân hàng vay, thông qua đó điều chỉnh lượng tiền cơ sở. Khi lượng tiền cơ sở thay đổi, thì lượng cung tiền cũng thay đổi theo. khi lãi suất chiết khấu tăng sẽ làm cho lượng tiền mà các ngân hàng thu được từ việc NHTW chiết khấu các chứng từ có giá giảm xuống, khả năng cho vay của các ngân hàng giảm sút làm tổng cung tiền giảm Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc NHTW thường quy định các ngân hàng phải gửi một phần tài sản tại chỗ mình. Khi cần triển khai chính sách tiền tệ, cơ quan hữu trách về tiền tệ có thể thay đổi quy định về mức gửi tài sản đó. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ NHNN để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Nếu mức gửi tăng lên như khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thì lượng tiền mà các ngân hàng còn nắm giữ sẽ giảm đi. Do đó, tiền cơ sở giảm đi,và lượng cung tiền trên thị trường cũng giảm đi. Công cụ mang tính chất hành chính này ngày nay ít được sử dụng ở các nền kinh tế thị trường phát triển. Tiến hành các nghiệp vụ thị trường mở NHTW khi mua vào các loại công trái và giấy tờ có giá khác của Nhà nước đã làm tăng lượng tiền cơ sở. Hoặc khi bán ra các giấy tờ có giá đó sẽ làm giảm lượng tiền cơ sở. NHTW có thể điều chỉnh được lượng cung tiền. Khi ngân hàng trung ương đem chứng khoán ra thị trường mở để bán nó thu tiền hay séc về, cho nên: Giảm lượng cung tiền mặt trong lưu thông từ đó giảm khả năng cho vay của các ngân hàng trung gian. Khi ngân hàng trung gian mua chứng khoán của ngân hàng trung ương thì dự trữ tiền của nó sẽ giảm xuống và khả năng cung ứng tiền của nó bị thắt chặt. Lượng chứng khoán tăng lên, chứng khoán trở nên thừa và giá của nó sẽ giảm xuống, lãi suất của nó sẽ tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng lên buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để tránh tình trạng người dân rút tiền ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất ngân hàng tăng làm lượng tiền cung ứng giảm và do đó tiền trở nên khan hiếm, do đó tỉ giá và giá cả hàng hóa giảm xuống. Và ngược lại khi ngân hàng trung ương ra thị trường mở để mua chứng khoán. Như vậy khi ngân hàng trung ương thực hiện nghiệp vụ bán, nó thắt chặt cung ứng tiền, tăng lãi suất, giảm tỉ giá và giá cả hạ xuống và ngược lại khi thực hiện nghiệp vụ mua. CHƯƠNG II CÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA NHNN VIỆT NAM TỪ 2005 ĐẾN NAY 2.1 Những vấn đề cơ bản về tỷ giá hối đoái 2.1.1 Tỷ giá hối đoái Hầu hết mỗi quốc gia hay một nhóm quốc gia liên kết (như liên minh Châu Âu) đều có đồng tiền riêng của mình. Việt nam có tiền đồng (VNĐ) Trung quốc có Nhân dân tệ (CNY), Mỹ có Dollar (USD). Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, các nhóm nước với nhau mà trước hết là quan hệ mua bán trao đổi đầu tư dẫn đến việc cần có sự trao đổi đồng tiền của các nước khác nhau với nhau, đông tiền này đổi lấy đồng tiền kia, từ đó ta có thể nói rằng: tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằng tiền tệ của một nước khác. Thông thường, thuật ngữ "Tỷ giá hối đoái" được ngầm hiểu là số lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ, tuy nhiên ở Mỹ và Anh được sử dụng theo nghĩa ngược lại: số lượng đơn vị ngoại tệ cần thiết để mua một đồng USD hoặc đồng bảng Anh; ví dụ: ở Mỹ 0,8 xu/USD. 2.1.2 Các loại tỷ giá Có rất nhiều loại tỷ giá khác nhau tùy thuộc vào từng tiêu thức phân loại khác nhau. Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái bao gồm - Tỷ giá chính thức :Là một loại tỷ giá do ngân hàng trung ương của mỗi nước công bố. Tỷ giá hối đoái này được công bố hàng ngày vào đầu giờ làm việc của ngân hàng trung ương. Dựa vào tỷ giá này các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, có kỳ hạn, hoán đổi. Ở một số nước như Pháp tỷ giá hối đoái chính thức được ấn định thông qua nhiều giao dịch vào thời điểm xác định trong ngày. - Tỷ giá kinh doanh: Là tỷ giá dùng để kinh doanh mua bán ngoại tệ. Tỷ giá này do các ngân hàng thương mại hay các tổ chức tín dụng đưa ra. Cơ sở xác định tỷ giá này là tỷ giá chính thức do ngân hàng trung ương công bố xem xét đến các yếu tố liên quan trực tiếp đến kinh doanh như: quan hệ cung cầu ngoại tệ, tỷ suất lợi nhuận, tâm lý của người giao dịch đối với ngoại tệ cần mua hoặc bán. Tỷ giá kinh doanh bao gồm tỷ giá mua, tỷ giá bán. - Tỷ giá chợ đen: Tỷ giá được hình thành bên ngoài thị trường ngoại tệ chính thức. Căn cứ vào tiêu thức thời điểm thanh toán -Tỷ giá giao nhận ngay là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ được thực hiện ngay trong ngày hôm đó hoặc một vài ngày sau. Loại tỷ giá này do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận nhưng phải đảm bảo trong biểu độ do Ngân hàng nhà nước quy định. Việc thanh toán giữa các bên phải được thực hiện trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo sau ngày cam kết mua bán. - Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn là tỷ giá giao dịch do tổ chức tín dụng yết giá hoặc do hai bên tham gia giao dịch tự tính toán và thỏa thuận với nhau nhưng phải đảm bảo trong biên độ quy định về tỷ giá kỳ hạn hiện hành của ngân hàng nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng.Thường là giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ được thực hiện theo hợp đồng (1,3,6 tháng…) - Tỷ giá mở cửa: Tỷ giá mua bán ngoại tệ của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày. - Tỷ giá đóng cửa: Tỷ giá mua bán ngoại tệ của hợp đồng ký kết cuối cùng trong ngày. Căn cứ vào tiêu thức giá trị của tỷ giá: Tỷ giá được chia thành tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực. - Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá được yết và có thể trao đổi giữa hai đồng tiền mà không đề cập đến tương quan sức mua giữa chúng. - Tỷ giá thực là tỷ giá đã được điều chỉnh theo sự thay đổi trong tương quan giá cả của nước có đồng tiền yết giá và giá cả hàng hóa của nước có đồng tiền định giá. Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được phân thành hai loại: - Tỷ giá điện hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Đây là tỷ giá cơ sở để xác định các loại tỷ giá khác. - Tỷ giá thư hối là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư. Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra làm 5 loại - Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ - Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu trả tiền ngay bằng ngoại tệ. - Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn bằng ngoại tệ. - Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng. - Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối được thanh toán bằng tiền mặt. 2.1.3 Tác động của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế Tỷ giá hối đoái giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế của một quốc gia cũng như các quan hệ quốc tế thông qua việc phản ánh tương quan giá trị đồng tiền của các nước khác nhau. Vì là một loại giá đặc biệt, giá của đồng tiền nên tác động của nó đến các mặt khác nhau của đời sống kinh tế xã hội trên phạm vi rất rộng. Nó có thể làm tăng, giảm, mở rộng hay thu hẹp các hoạt động kinh tế đối ngoại, trước hết là các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ. Qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh tế đối nội như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tính cân bằng hay bội thu, bội chi của cán cân thanh toán quốc tế, tính thay đổi hay ổn định của chỉ số lạm phát, sức mua đối nội, đối ngoại của đồng tiền quốc gia. Tuỳ vào tính hợp lý hay không hợp lý của hệ thống tỷ giá mà hiệu ứng tác động của nó đến đời sống xã hội là tích cực, lành mạnh hay là tiêu cực và suy yếu. è Tác động của tỷ giá hối đoái tới hoạt động xuất nhập khẩu Diễn biến tăng, giảm của tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu thông qua giá cả. Khi tỷ giá hối đoái thay đổi kéo theo sự thay đổi của giá hàng xuất nhập khẩu và khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Dưới đây là khái quát về ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái tăng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Đối với hoạt động xuất khẩu, trong trường hợp các điều kiện khác được giữ nguyên, khi tỷ giá hối đoái tăng, có nghĩa là số đơn vị tiền tệ trong nước đổi lấy một đơn vị ngoại tệ tăng (còn gọi là đồng tiền nội tệ mất giá). Tỷ giá tăng có lợi cho xuất khẩu, vì giá xuất khẩu của hàng hoá và dịch vụ của nước đó sẽ giảm đi tương đối ở nước ngoài (với giả định giá cả hàng hoá, dịch vụ đó ở trong nước không đổi), do đó sẽ góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu của nước đó. Cũng vậy, tỷ giá hối đoái tăng sẽ kích thích xuất khẩu vì các nhà xuất khẩu nội địa được hưởng lợi thông qua chênh lệch tỷ giá hối đoái (khi họ vẫn giữ nguyên giá hàng xuất khẩu tính theo ngoại tệ). Ví dụ: Tỷ giá hối đoái giữa USD và VND là USD/VND = 15.000 Giả sử một hàng hoá A xuất khẩu sang Mỹ với giá 1 USD, hay đổi ra nội tệ là 15.000 VND. Khi đó nếu tỷ giá hối đoái tăng lên 1 USD = 16.000 thì với mức giá nội tệ không đổi là 15.000 VND, hàng hoá đó xuất khẩu sang Mỹ sẽ chỉ có giá: 15.000/16.000 ~ 0,9375 USD – rẻ hơn so với mức giá thị trường thông thường là 1 USD. Giá cả hàng hoá giảm làm tăng khả năng cạnh tranh về giá so với các hàng hoá tương tự ở thị trường Mỹ. Kết quả là các doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam có thể tăng doanh số bán hàng xuất khẩu của mình ở thị trường nước ngoài. Nếu vẫn bán với mức giá thị trường quốc tế thì với mỗi đơn vị hàng hoá A doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thu thêm một khoản lợi nhuận là 1.000 VND. Đối với hoạt động nhập khẩu thì ngược lại. Khi tỷ giá hối đoái tăng, giá cả hàng hoá nhập khẩu vào thị trường nội địa trở nên đắt tương đối. Kết quả là hoạt động nhập khẩu bị hạn chế vì lợi nhuận của các doanh nghiệp nhập khẩu giảm: họ mua hàng từ thị trường nước ngoài với giá không đổi và phải bán hàng nhập khẩu trong nước với giá rẻ hơn (với giả thiết là mức giá nhập khẩu không thay đổi). Dựa trên cơ chế ảnh hưởng này của tỷ giá hối đoái các nước thường áp dụng chính sách phá giá hối đoái để thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế việc nhập khẩu những mặt hàng không thuộc diện khuyến khích của Nhà nước. Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái tăng cao cũng ảnh hưởng lớn tới hoạt động nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy phải tuỳ thuộc vào chiến lược kinh tế của quốc gia trong từng giai đoạn mà áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm, tức là đồng nội tệ lên giá so với ngoại tệ, thì giá hàng hoá nội địa tính ra ngoại tệ sẽ trở nên đắt hơn, do đó các nhà xuất khẩu sẽ gặp khó khăn khi tiêu thụ sản phẩm trên thị trường thế giới. Hiệu quả kinh tế đạt được trong thời kỳ này bị giảm sút bởi sự thu hẹp của các ngành xuất khẩu. Mặt khác, do giá cả hàng hoá nhập khẩu tính bằng đồng nội tệ trở nên rẻ hơn trên thị trường nội địa, nhập khẩu sẽ được khuyến khích, mở rộng cạnh tranh với hàng hoá được sản xuất trong nước. Tình hình này có xu hướng làm cho cán cân thương mại bị thiếu hụt mà khi nhu cầu về ngoại tệ để nhập khẩu vượt quá thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu đem lại. Sản xuất trong nước có khả năng bị thu hẹp, nhất là các ngành sản xuất hàng xuất khẩu và sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu. Nạn thất nghiệp sẽ gia tăng cùng với xu hướng suy giảm sản lượng trong nước. Như vậy cả trạng thái cân đối bên trong và cân đối bên ngoài của nền kinh tế sẽ trở nên xấu đi. è Tác động của tỷ giá hối đoái đối với đầu tư và tín dụng quốc tế Đầu tư quốc tế Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): tỷ giá hối đoái tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư hoặc góp vốn liên doanh tính theo đồng tiền của nước nhận đầu tư. Bên cạnh đó, tỷ giá còn tác động tới khoản lợi nhuận chuyển ra nước ngoài của nhà đầu tư và quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Vì vậy, những biến động của tỷ giá hối đoái ít nhiều có ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của phía đối tác nước ngoài. Đối với hoạt động đầu tư gián tiếp: Đây là loại hình đầu tư vào lĩnh vực mua bán, kinh doanh các loại chứng khoán có giá... Khi tỷ giá hối đoái thay đổi, nó sẽ tác động lên giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường. Chẳng hạn, khi tỷ giá hối đoái tăng lên, các nhà đầu tư sẽ “đổ dồn” vào mua các loại chứng khoán niêm yết bằng đồng tiền lên giá đó để những biến động về tỷ giá ít ảnh hưởng tới quyền lợi của họ. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái của một đồng tiền giảm tức là đồng tiền này mất giá so với ngoại tệ, các chủ đầu tư sẽ “bán tháo” các chứng khoán niêm yết bằng đồng tiền xuống giá để mua các loại chứng khoán đang có giá trên thị trường hoặc chuyển sang hình thức đầu tư khác. Và nếu điều này xảy ra thì tác động tiêu cực của nó tới nền kinh tế sẽ là không nhỏ, đặc biệt ở những nước có thị trường chứng khoán phát triển. Tín dụng quốc tế Tín dụng quốc tế có thể hiểu là việc chuyển quyền sử dụng vốn của chủ thể nước này sang cho chủ thể nước khác nhằm mục đích kinh doanh theo nguyên tắc hoàn trả, có kỳ hạn và được đền bù. Trong tín dụng quốc tế, những biến động của tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng tới cả phía người cho vay và người đi vay. Đối với người nước ngoài cho vay bằng ngoại tệ, tỷ giá hối đoái giảm sẽ làm giảm giá trị khoản tiền cho vay và tiền lãi thu về so với mức đáng lẽ họ được hưởng nếu tỷ giá không biến động như vậy. Ngược lại, khi tỷ giá tăng lên người cho vay sẽ được lợi từ sự gia tăng của giá trị khoản vốn cho vay và tiền lãi thực tế thu được. Đối với người đi vay, khi tỷ giá của ngoại tệ (đồng tiền được vay) tăng lên thì giá trị khoản nợ và tiền lãi (tính ra đồng nội tệ) phải trả đương nhiên tăng theo. Trong trường hợp này, họ thường có xu hướng muốn chuyển các tài khoản của họ ở ngân hàng sang tài khoản ngoại tệ lên giá đó để bảo toàn lượng tiền có được trước những biến động tiếp theo của tỷ giá. Nếu điều này xảy ra thì cầu ngoại tệ sẽ tăng lên - đẩy tỷ giá tiếp tục lên cao. Như vậy, những biến động của tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế đất nước. Và với tư cách là một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của Chính phủ, tỷ giá hối đoái có vai trò đặc biệt trong việc thực hiện các mục tiêu sau đây: Thứ nhất: Ổn định giá trị đồng tiền, nâng cao uy tín của đồng tiền quốc gia và bảo đảm vấn đề chủ quyền tiền tệ. Thứ hai: Khuyến khích xuất khẩu, trên cơ sở đó tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, giảm dần thâm hụt cán cân thương mại, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Thứ ba: Hạn chế nhập khẩu để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Thứ tư: Tạo môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn; góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2.1.4 Các yếu tố tác động đến tỷ giá P Quan hệ cung – cầu về ngoại hối trên thị trường Cung và cầu ngoại hối trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và nhạy bén đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung và cầu trên thị trường ngoại hối có thể gồm: - Tình hình dư thừa hay thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa thì có thể dẫn đến khả năng cung ngoại hối lớn hơn cầu ngoại hối. Ngược lại, thì cầu ngoại hối lớn hơn cung ngoại hối. - Thu nhập thực tế (tức mức độ tăng GNP thực tế) tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu, do đó làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán hàng nhập khẩu tăng lên. - Những nhu cầu ngoại hối bất thường tăng lên do thiên tai, hạn hán, bão lụt, mất mùa, chiến tranh v.v.. cũng như do nạn buôn lậu hàng nhập khẩu gây ra. 0 Q P S D1 D2 E A 11.200,00 USD/VND 10.000,00 Lượng USD Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến tỷ giá hối đoái - OQ = Lượng USD - OP = Tỷ giá USD/VND - D1D1 = Đường cầu 1 - SS = Đường cung ổn định - D2D2 =Đường cầu 2 tăng lên do kinh tế tăng trưởng - E = Giao điểm đường cung và cầu trong điều kiện kinh tế phát triển bình thường với tỷ giá USD/VND = 10.000,00 - A = Giao điểm đường cầu tăng lên với đường cung như cũ cho tỷ giá USD/VND tăng lên = 11.200,00 Q P 0 D S1 S2 A E 10.000,00 11.200,00 USD/VND Lượng USD Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến tỷ giá hối đoái - S1S1 = Đường cung 1 - S2S2 = Đường cung 2 giảm đi do kinh tế bị suy thoái - DD = Đường cầu ổn định - E = Giao điểm đường cung và cầu trong điều kiện kinh tế phát triển bình thường - A = Giao điểm đường cung giảm với đường cầu như cũ cho tỷ giá USD/VND tăng lên = 11.200,00. P Mức chênh lệch lãi suất */ Khi lãi suất tăng Lãi suất là giá cả của tiền. Lãi suất cao, tiền lên giá (tức tỷ giá có thể giảm), ngược lại, lãi suất giảm, tiền xuống giá (tỷ giá có thể tăng). Mức lãi suất cao là công cụ can thiệp của chính phủ để chống lạm phát trong nền kinh tế nội địa. Chính sách lãi suất cao ở chừng mực nhất định còn có tác dụng thu hút các luồng vốn tư bản nước ngoài chảy vào trong nước, trực tiếp hỗ trợ sự lên giá của đồng bản tệ. Đồng tiền lên giá tạo cho giá cả hàng hoá nhập khẩu trở nên rẻ hơn, trong khi đó làm tăng chi phí sản xuất hàng hoá nội địa, tức làm giảm sức cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước. Điều này dẫn đến thu hẹp sản xuất trong nước và kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế. */ Khi lãi suất giảm Quá trình diễn ra theo hướng ngược lại với trường hợp lãi suất tăng. PMức chênh lệch lạm phát Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian. Lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của hàng hoá của một nước với hàng hoá cùng loại hoặc tương tự của nước khác và là một nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến tỷ giá. */ Trường hợp lạm phát chỉ xảy ra ở một nước. Đồng tiền của nước có lạm phát bị giảm giá với tỷ lệ tương ứng tỷ lệ lạm phát, lượng tiền được trao đổi sẽ được tăng tương đương tỷ lệ lạm phát. Điều đó có nghĩa là một đồng ngoại tệ thu về từ xuất khẩu được chuyển ra nhiều đồng nội tệ hơn, đồng ngoại tệ lên giá, đồng nội tệ giảm giá. Vậy lạm phát ở một nước làm đồng tiền nước này giảm giá với tỷ lệ tương đương tỷ lệ lạm phát. Ví dụ: Trước khi lạm phát giá gạo là 2000đ/kg, sau khi lạm phát 20%, mặt bằng giá tăng 20%, giá gạo tăng là 2400đ/kg; giả sử giá gạo ở Mỹ là 1 USD/1kg thì xuất khẩu trước khi lạm phát là 1 USD = 2000 VND. Sau khi lạm phát nhà xuất khẩu Việt Nam phải thu mua 2.400 VND=1 USD, giá trị VND giảm tương đương tỷ lệ lạm phát. */ Trường hợp lạm phát xảy ra đồng thời ở cả hai nước. Lạm phát ở cả hai nước và lạm phát chỉ ở một nước có ảnh hưởng khác nhau đến tỷ giá và được thể hiện ở chỗ: Trong trường hợp lạm phát ở cả hai nước ta phải đề cập đến việc tăng giá hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu quy tính bằng USD. Giả sử tỷ lệ lạm phát ở Mỹ cũng là 20%, do lạm phát nên giá gạo tính bằng USD cũng tăng 20% tức là 1,20 USD/kg. Vì giá gạo của Việt Nam và Mỹ cùng tăng một tỷ lệ trong cùng một thời gian nên làm cho tỷ giá không thay đổi; 1,2 USD = 2.400 VND = 1kg, do đó 1 USD = 2000 VND. Vậy có thể nói rằng khi cả hai nước đồng thời cùng bị lạm phát, với mức lạm phát tương đương nhau, thì tỷ giá được giữ nguyên không thay đổi. Đây là điểm khác biệt so với trường hợp lạm phát chỉ xảy ra ở một nước và ta có thể kết luận một cách tổng quát như sau: đồng tiền của một nước sẽ giảm giá nếu tỷ lệ lạm phát của nước này cao hơn so với các nước khác, và tỷ lệ giảm giá là tương đương với phần chênh lệch lạm phát giữa hai nước. Tuy nhiên, kết luận này chỉ đúng khi các nhân tố khác có ảnh hưởng đến tỷ giá là không thay đổi. 2.1.5 Các chế độ tỷ giá ính-sách-tỷ-giá-hối-đoái-ở-việt-nam Hiện nay, trên thế giới và đang tồn tại nhiều loại chế độ tỷ giá hối đoái biến tướng từ hai hình thức cơ bản là cố định và thả nổi. Trong thế giới mà sự phụ thuộc lẫn nhau càng tăng, việc lựa chọn một chế độ ngoại hối phù hợp với bối cảnh quốc tế, điều kiện cụ thể từng bước và đáp ứng điều chỉnh kinh tế vĩ mô, nhất là với các nước đang thực hiện chuyển đổi cơ chế thực sự là vấn đề nan giải. PTỷ giá hối đoái cố định bản vị vàng Theo chế độ bản vị vàng,tỷ giá hối đoái được qui định căn cứ vào hàm lượng vàng của các đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại, khi thương mại quốc tế tăng lên cùng với hoạt động đầu cơ, chế độ bản vị vàng này không đáp ứng được nhu cầu phát triển và các nước thôi áp dụng từ năm 1971. PTỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp Loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại các nước Xã hội chủ nghĩa thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp thường chênh lệch nhiều lần so với tỷ giá hối đoái thị trường, không có vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô đối với xuất nhập khẩu, loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại Việt Nam trước năm 1989. PTỷ giá hối đoái thả nổi tự do Theo chế độ tỷ giá hối đoái này, mức tỷ giá hối đoái được quyết định hoàn toàn bởi các lực lượng cung cấp cầu về ngoại tệ. Trong hệ thống này chính phủ giữ thái độ thụ động, để cho thị trường ngoại tệ đánh giá giá trị của ngoại tệ - loại tỷ giá hối đoái này ít được áp dụng vì các thị trường tiền tệ thường không hoàn hảo và do vậy luôn cần có vai trò can thiệp của nhà nước. PTỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết Theo chế độ này, chính phủ không cam kết duy trì một tỷ lệ cố định với ngoại tệ, mà thả nổi đồng tiền của mình và có biện pháp can thiệp mỗi khi thị trường trở nên (mất trật tự) , hoặc khi tỷ giá hối đoái đi chệch xa mức thích hợp. Loại tỷ giá hối đoái này hiện đang được áp dụng tại các nước Tư Bản Chủ Nghĩa, nơi mà lạm phát đạt thấp, các thị trường phát triển ở trình độ cao. PTỷ giá hối đoái ổn định có điều tiết Theo chế độ này, chính phủ không để ngoại tệ trôi nổi tự do, mà can thiệp vào thị trường ngoại tệ bằng cách mua bán ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá qui định. Sau mỗi thời gian nhất định, mức tỷ giá hối đoái lại được điều chỉnh cho phù hợp và duy trì ổn định. * Luận cứ lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái Sự quản lý tối ưu của tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế của các nhà hoạch định chính sách, vào nguồn gốc của các cơn sốc đối với nền kinh tế và đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế đang xét. Vì vậy các giả thiết khác nhau về nhân tố đó có thể dẫn đến sự thay đổi về mức độ tối ưu của chế độ tỷ giá hối đoái. * Các yêu cầu khi lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái: Một số tiêu chuẩn quy định tỷ giá phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc lên nền kinh tế cũng như đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế. Tuy vậy trong thực tế khó mà áp dụng đó cho các trường hợp cụ thể. Các khó khăn đó không những lên quan đến các vấn đề thực tiễn, sự nhận biết nguồn gốc các cơn sốc và các đặc trưng cơ cấu mà còn liên quan đến mâu thuẫn tiềm tàng giữa các mục tiêu chính sách khác nhau. Tiêu chuẩn để lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp còn phụ thuộc vào các mục tiêu chính sách do chính phủ đặt ra. 2.2 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam từ 2005 đến nay Cơ chế điều tiết tỷ giá ở Việt Nam hiện nay là cơ chế thả nổi có điều tiết. Theo đó, hàng ngày NHNN công bố tỷ giá giao dịnh bình quân trên thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng của đồng Việt Nam với đồng đô la Mỹ .Tỷ giá này được xác định trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng của ngày giao dịnh gần nhất trước đó. Như vậy, NHNN đã không chủ quan trực tiếp ấn định mà chỉ thông báo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng mà tỷ giá này là do cung cầu trên thị trường liên ngân hàng quyết định. Trên cơ sở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, các NHTM xác định tỷ giá kinh doanh theo nguyên tắc: Tỷ giá kinh doanh= tỷ giá bình quân liên ngân hàng *( 1+ biên độ giao dịch) Ở đây yếu tố thả nổi trong tỷ giá kinh doanh là tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Yếu tố điều tiết bao gồm: _ Tỷ giá chỉ được biến động trong biên giới hạn biên độ giao dịch, mà biên độ này được NHNN quy định. _ Tỷ giá cố định trong suốt một ngày giao dịch _ NHNN vẫn sử dụng hệ thống các công cụ trực tiếp và gián tiếp để tác động lên tỷ giá như trực tiếp mua vào bán ra trên thị trường ngoại hối, tăng giảm lãi suất…. 2.2.1 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2005 Trong năm 2005 , tỷ giá giữa VND so với một số loại ngoại tệ mạnh có sự biến động khác nhau, tăng so với USD và giảm so với các loại ngoại tệ mạnh khác. Nếu dựa trên số liệu về tỷ giá bán ra của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt nam tại hai thời điểm: ngày 5/1/2005 và ngày 26/12/2005 thì tỷ giá VND/USD có mức tăng là 0.76%. Tỷ giá VND/USD tương đối ổn định, chỉ tăng gần 0.8% trong cả năm 2005 là do các nguyên nhân sau: _ Một là, cơ chế quản lí ngoại hối dần được thông thoáng hơn, các giao dịch vãng lai được tự do hóa hơn; cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, NHNN cho phép các NHTM tiến hành thí điểm quyền chọn đô la Mỹ và tiền đồng trong điều kiện được tự do thỏa thuận phí quyền chọn. _Hai là, cán cân thanh toán quốc tế và cán cân vốn năm 2005 của VN tiếp tục thặng dư, cán cân vãng lai giảm thâm hụt. 2.2.2 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2006 Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đối với nước ta, sự kiện này có một ý nghĩa đặc biệt. Đây là kết quả của quá trình đổi mới nhằm mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Gia nhập WTO với những cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế. Trước những cơ hội và thách thức đó, lựa chọn những bước đi đúng đắn và phù hợp trong cơ chế điều hành tỷ giá là điều trăn trở của các nhà hoạch định chính sách. NHNN tiếp tục thực thi lộ trình linh hoạt tỷ giá: bỏ biên độ giao dịch đô la Mỹ tiền mặt, cho thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ theo giá thỏa thuận (tháng 7/2006). Những bước đi này có dụng ý để thị trường tự điều chỉnh tỷ giá thả chừng nào mà Việt Nam chưa thể áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Tỷ giá mua bán USD: chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức ngày càng được thu hẹp và đến thời điểm 25/12/2006 ở mức 25đ/USD. 2.2.3 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2007 Đầu năm 2007, đã có những biến động lớn trong chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước thể hiện ở những nội dung sau: - Nới rộng biên độ tỷ giá: Ngày 02/01/2007, NHNN đã nới rộng biên độ tỷ giá ngoại tệ từ + 0,25% lên +0,5% so với tỷ giá liên ngân hàng. Việc điều chỉnh này được cho là mở đường cho sự giảm giá của VND so với USD. - Trong ngày 2 và 3 tháng 01 năm 2007, NHNN đã mua ngoại tệ của các NHTM với số lượng nhiều hơn nhằm giảm bớt tình trạng thừa USD rên thị trường. Ước tính trong 2 ngày, NHNN đã mua vào trên 140 triệu USD. Biểu đồ: Tỷ giá VND/ USD bình quân trên thị trường liên ngân hàng từ 26/12/2006 đến 4/1/2007 Biểu đồ 11: Tỷ giá VND/USD do ngân hàng thương mại (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam) cung cấp Ngày 24/12/2007, NHNN tiếp tục nới rộng biên độ tỷ giá từ 0.5% lên 0.75% nhằm tăng khả năng thanh khoản cho thị trường và tăng cường sự linh hoạt của tỷ giá trong bối cảnh nguồn vốn đổ vào Việt Nam càng lớn, tạo điều kiện cho dòng vốn ra vào nhịp nhàng hơn. Theo NHNN, việc mở rộng biên độ lần này nằm trong chủ trương nhằm tạo điều kiện để nền kinh tế VN thích nghi hơn với mức độ mở của, hội nhập nền kinh tế thế giới. 2.2.4 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2008 Năm 2008, kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu sụt giảm đáng kể do tác động lan truyền của khủng hoảng cho vay bất động sản dưới chuẩn của Mỹ. Biến động của các luồng vốn đầu tư, đặc biệt là luồng vốn gián tiếp đã ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ và tỷ giá. Trong năm, luồng vốn đầu tư gián tiếp liên tục biến động, khiến cho cung cầu ngoại tệ mất cân đối. Luồng vốn này gia tăng đáng kể trong ba tháng đầu năm, gây áp lực tăng giá VND. Sau đó lại có dấu hiệu đảo chiều làm tăng cầu ngoại tệ khi tình hình thế giới tiếp tục khó khăn, kinh tế trong nước đối mặt với lạm phát, nhập siêu tăng cao. Để đối phó với những diễn biến khó lường đó, NHNN đã điều hành tỷ giá linh hoạt nhằm giúp cho các tổ chức kinh tế và tổ chức tín dụng thích ứng tốt hơn với các biến động trên thị trường thế giới: Ngày 7/3/2008 NHNN nới rộng biên độ tỷ giá lên 1% Ngày 26/6/2008, biên độ dao động tỷ giá được điều chỉnh lên mức 2% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng Tăng cường bán ngoại tệ cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Từ 7/11/2008 biền độ tỷ giá giao dịch được mở rộng từ mức 2% lên 3% 2.2.5 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2009 Năm 2009, tỷ giá USD/VND tăng mạnh, nhập siêu cao, lạm phát đứng trước áp lực tăng trở lại, khan hiếm cục bộ USD, giá vàng sốt nóng, lãi suất liên ngân hàng lên kịch trần… Trước tình hình bất ổn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, tháng 3 NHNN đã điều chỉnh biên độ giao dịch từ 3% lên 5%. Tiếp đến, ngày 26/11/2009 tỷ giá bình quân liên ngân hàng được điều chỉnh lên mốc 17961 đồng, tăng thêm 5,44% so với hôm trước. Đồng thời biên độ tỷ giá giảm từ 5% xuống còn 3%. Tính chung cả việc tăng tỷ giá liên ngân hàng và giảm biên độ, đưa trần tỷ giá kinh doanh tại các ngân hàng thương mại lên 18500 đồng. Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên thị trường tự do vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của NHNN. Vì khó nới biên độ tỷ giá lên cao hơn nữa, NHNN sử dụng phương án kết hối ngoại tệ. Theo đó, NHNN sẽ yêu cầu một vài tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho ngân hàng. Diễn biến tỷ giá USD/VNĐ 2008-2009 2.2.6 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam năm 2010 Ngày 10/02/2010, NHNN quyết định tỷ giá giữa VND và USD liên ngân hàng. Theo đó, tỷ giá bình quân liên ngân hàng điều chỉnh từ 17941 lên 18544 VND/USD, tăng khoảng 3,3% Ngày 17/8/2010, nhằm góp phần kiềm chế nhập siêu NHNN tiếp tục điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 18544 lên 18932, tăng 2%. Việc điều chỉnh này có mặt tích cực, nó đã đưa tỷ giá USD của ngân hàng về gần hơn mức giao dịch của thị trường tự do. Tuy nhiên trên thục tế song song với việc điều chỉnh tỷ giá USD của các ngân hàng, giá USD trên thị trường tụ do cũng tăng cao tương ứng. Mặc dù điều chỉnh giá mua USD lên mức rất cao, các ngân hàng vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc thu mua đồng tiền này. Thời gian Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Bán 1/9/09 17,825.00 17,825.00 17,825.00 1/10/09 17,842.00 17,842.00 17,842.00 1/11/09 17,862.00 17,862.00 17,862.00 1/12/09 18,482.00 18,482.00 18,492.00 1/1/10 18,465.00 18,465.00 18,479.00 1/2/10 18,469.00 18,469.00 18,479.00 1/3/10 19,050.00 19,050.00 19,100.00 10/4/10 19,000.00 19,000.00 19,080.00 20/4/10 18,960.00 18,960.00 19,020.00 Tỷ giá hối đoái các tháng từ 12/2009 đến 4/2010 (ngân hàng Công Thương Việt Nam) 2.2.7 Cách điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam đầu năm 2011 Sáng 11/02/2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam công bố quyết định tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD với VND, từ 18.932 VND lên 20.693 VND (tăng 9,3%), đồng thời thu hẹp biên độ áp dụng cho tỷ giá của các ngân hàng thương mại từ +/-3% xuống còn +/-1%. Đây là lần thứ tư Chính phủ Việt Nam công bố giảm giá VND trong vòng 15 tháng gần đây nhằm đối phó với tình trạng thâm hụt thương mại và thu hẹp khoảng cách chênh lệch về tỷ giá giao dịch đồng USD giữa thị trường chính thức và thị trường “chợ đen”, chính yếu tố này đã và đang làm cho tình trạng lạm phát phi mã của Việt Nam tăng cao nhất trong vòng hai năm qua. Nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm chênh lệch giữa tỷ giá giao dịch liên ngân hàng và tỷ giá thị trường tự do là chính sách điều hành vĩ mô đúng đắn của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Theo nhiều chuyên gia kinh tế nước ngoài, động thái này mang ý nghĩa tích cực, vì nó sẽ làm giảm bớt những áp lực đối với dự trữ ngoại hối của Việt Nam, hỗ trợ tích cực cho lĩnh vực xuất khẩu và làm giảm áp lực đối với cán cân thương mại. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tỏ ý hoan nghênh và coi đây là một nỗ lực để thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá “chợ đen”. Song, sự phản ứng của một số cơ quan truyền thông Đông Nam Á cho thấy, họ lo ngại VND tiếp tục phá giá. "Báo Bưu điện Băng Cốc" dẫn lời của Chủ tịch danh dự Hội các hãng xuất khẩu gạo Thái Lan cho rằng: "Nếu VND tiếp tục giảm giá, thì trong vài năm tới Việt Nam sẽ có thể thay thế Thái Lan trở thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới". Tạp chí Cộng sản điện tử :Chính sách tỉ giá của Việt Nam: Từ góc nhìn của các chuyên gia tài chính nước ngoài Thứ ba, 14:35 | 01/03/2011 IMF và City Group ngày 12-2-2011 cũng cảnh báo rằng: việc Việt Nam hạ thấp tỷ giá hối đoái có thể gây phản ứng liên hoàn ở châu Á và biện pháp tốt nhất để ngăn chặn lạm phát là nâng lãi suất. Thực tế, mặt bằng lãi suất quá thấp mới là nguyên nhân khiến lạm phát của Việt Nam khó kiểm soát, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần nâng mạnh lãi suất để tương xứng với sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái vừa qua. Cơ quan bình xét quốc tế có uy tín là Standard&Poor’s Rating Services cho rằng: nếu Việt Nam chỉ dựa vào việc thay đổi tỷ giá sẽ khó có thể phá đi mối hoài nghi của thị trường trước việc VND sẽ tiếp tục bị mất giá. Báo cáo của Ngân hàng Credit Suisse - một trong những ngân hàng đầu tư uy tín nhất có trụ sở tại Thụy Sỹ cho rằng việc phá giá VND có lợi cho xuất khẩu của VN, nhưng đồng thời cũng tạo sức ép đối với các nước lân cận, thậm chí có thể dẫn đến làn sóng đồng loạt phá giá của các đồng tiền châu Á khác. 2.3. Kiến nghị và giải pháp 2.3.1 Đánh giá chung : P Từ năm 2005-2007 NHNN vẫn tiếp tục duy trì chính sách ổn định tỷ gía Trong 3 năm tỷ giá USD/VND chỉ tăng chưa đến 3%(từ 15.750 vào 6/1/2005 lên 16.113 vào 15/12/2008). NHNN có 2 lần điều chỉnh biên độ giao động tỷ giá vào: 31/12/2006: từ ±0,25% lên ±0,50% 24/12/2007: từ ±0,50% lên 0,75% P Năm 2008-2011 chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, thị trường ngoại hối của Việt Nam đầy biến động, tỷ giá USD/VND tăng mạnh. Nguyên nhân là do Tình trạng nhập siêu trong năm 2008-2009 tác động tăng cầu ngoại tệ, khiến tỷ giá USD/VND tăng. Lạm phát, tốc độ tăng trưởng tín dụng tạo áp lực tăng tỷ giá USD/VND Gói hỗ trợ lãi suất 4% bằng VND, khiến các doanh nghiệp tìm mọi cách vay VND mua ngoại tệ để trả nợ trước hạn vốn vay ngoại tệ cho ngân hàng. Do đó, gây áp lực về ngoại tệ đối với các ngân hàng cũng như đẩy tỷ giá tự do có xu hướng tăng lên, tạo ra sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá giao dịch trong ngân hàng và tỷ giá giao dịch ngoài thị trường tự do. Tình trạng đầu cơ ngoại tệ cũng là nguyên nhân khiến tỷ giá USD/VND tăng. Để giảm sức nóng trên thị trường ngoại hối, duy trì chính sách tỷ giá linh hoạt, ổn định, NHNN đã có nhiều quyết định điều chỉnh tỷ giá: -Điều chỉnh biên độ tỷ giá: Mốc thời gian Điều chỉnh biên độ tỷ giá 7/3/2008 +/- 0.75% à +/-1% 26/6/2008 +/- 1% à +/-2% 7/11/2008 +/-2% à +/-3% 24/3/2009 +/-3% à +/-5% 26/11/2009 +/-5% à +/-3% 11/2/2011 +/-3% à +/-1% -Điều chỉnh Tỷ giá liên ngân hàng Mốc thời gian Tỷ giá bình quân liên ngân hàng 25/12/2008 16.494 à 16.989 (tăng 3%) 26/11/2009 17.034 à 17.961 (tăng 5.4%) 10/2/2010 17.941 à 18544 (tăng 3.3%) 17/8/2010 18544 à 18932 (tăng 2%) Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên thị trường không chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của Ngân hàng Nhà nước, VND vẫn bị đánh giá cao so với giá trị thực, gây khó khăn cho DN xuất khẩu. è Ưu điểm - Ổn định tỷ giá, góp phần hạn chế tốc độ tăng tỷ giá - Giá cả ngoại tệ từng bước được gắn với cung cầu ngoại tệ trên thị trường - Từng bước nâng cao vị thế của VND - Có nhiều chuyển biến về mặt chính sách theo hướng tỷ giá ngày càng linh hoạt - Sử dụng rổ tiền tệ làm nền tảng cho chính sách tỷ giá èHạn chế Việc định giá VND cao so với USD trong một thời gian dài đã góp phần làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đồng thời khuyến khích nhập khẩu, giảm dự trữ ngoại hối. Điều này được chứng minh bằng một thực tế là PNhập siêu của Việt Nam tăng nhanh liên tục trong mấy năm trở lại đây, từ 2,8 tỷ USD trong năm 2006 lên 8,2 tỷ USD năm 2007 và 17,5 tỷ USD trong năm 2008 PThâm hụt thương mại của Việt Nam trong năm 2009 vào khoảng 12 USD. PNhập siêu tăng nhanh trở lại trong khi các nguồn thu ngoại tệ chính như xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, kiều hối và du lịch đều giảm sút mạnh so với năm 2008; và cùng với việc doanh nghiệp và người dân chuyển sang nắm USD và vàng đã làm cho cán cân thanh toán của Việt Nam thâm hụt nặng. PDự trữ ngoại hối của Việt Nam giảm một cách tương ứng (từ khoảng 23 tỷ USD vào cuối năm 2008 xuống còn hơn 17 tỷ USD vào quý 3/2009), mặt khác khiến áp lực giảm giá VND tiếp tục được duy trì. èNguyên nhân: -Chưa xây dựng được mục tiêu điều hành tỷ giá trong dài hạn, các quyết định điều chỉnh tỷ giá đều mang tính đối phó với biến động thị trường. -Hệ thống thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối phát triển không kịp với nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. -Quy định quản lý ngoại hối còn nhiều bất cập, chế tài xử phạt không nghiêm. 2.3.1 Kiến nghị Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội tệ và cân bằng ngoại tệ . ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung,cầu trên thị trường xuất nhập khẩu, kích thích XK, hạn chế NK, cải thiện cán cân thanh toán và tăng dự trữ ngoại tệ Từng bước nâng cao vị thế VND, tạo điều kiện để VND trở thành đồng tiền chuyển đổi Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đôla hoá Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước. Chính sách tỷ giá hối đoái phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. 2.3.3 Giải pháp Thường xuyên phân tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong nước để đề ra được chính sách TGHĐ phù hợp cho từng giai đoạn Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối Hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh TGHĐ Việt Nam Thực hiện chính sách đa ngoại tệ Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả cao Xem phá giá nhỏ như là một biện pháp kích thích xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại Vận dụng dự báo tỷ giá để phòng ngừa và hạn chế rủi ro Nhanh chóng thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro Chính sách tiền tệ trong năm 2011 (năm thử lửa) của Việt Nam Ngày 1/3. NHNN đã tổ chức họp báo công bố Chỉ thị số 01/CT-NHNN, nhằ 11/NQ-CP của Chính phủ. Theo đó NHNN trọng tâm của NHNN trong năm nay là phải góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá, cung vốn kịp thời cho sản xuất thiết yếu và giữ vững thanh khoản cả hệ thống. NHNN đã quyết định tăng mức tiền mặt ra lưu thông và chuyển tiến đến những khu vực có nhu cầu lớn. Vấn đề thứ hai là ổn định tỷ giá. Để ổn định tỷ giá, NHNN đã có hai bước đi quan trọng. Một là điều chỉnh tỷ gía v chính thức sát với giá thị trường. Động thái này vừa thỏa mãn nhu cầu thị trường, vừa bảo toàn được quỹ dự trữ ngoại hối vốn đang mỏng dần. Hai là, thực hiện kết hối một phần đối với tất cả tập đoàn, tổng công ty. Vấn đề thứ ba là góp phần kiềm chế lạm phát. Để phục vụ mục tiêu này, Ngân hàng Nhà nước đã cắt giảm 3% chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, duy trì  20% thay vì 23% như đề xuất ban đầu với Chính phủ. Khi tỷ giá điều chỉnh tăng lên 7,18%, các tổ chức tín dụng đã quy đổi ngoại tệ sang VND theo tỷ giá mới và làm cho một bộ phận tín dụng tăng lên, kéo theo tăng tín dụng cả hệ thống. Bộ phận này chiếm khoảng 1,5% tăng trưởng dư nợ toàn hệ thống. quan điểm của Ngân hàng Nhà nước cho rằng, cần phải giảm bớt mức tăng tín dụng ngay từ đầu năm mới hoàn thành được chỉ tiêu. KẾT LUẬN Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương có vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế, ngăn chặn suy giảm và chồng lạm phát. NHTW đã sử dụng những công cụ của chính sách tiền tệ để thực hiện những mục tiêu trên. Trong giai đoạn 2005 cho đến nay, kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, phải kể đến những biến động của tỉ giá hối đoái, đặc biệt là tỉ giá giữa USD và Việt Nam đồng. Những biến động này đã tác động lớn đối với kinh tế nước ta đòi hỏi chính phủ, cơ quan quản lí trực tiếp là ngân hàng nhà nước Việt Nam có cách thức điều hành hợp lí. Qua đề tài này nhóm chúng tôi đã giới thiệu các chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương và những công cụ của nó cũng như cách thức điều hành tỉ giá hối đoái của ngân hàng nhà nước Việt Nam như là một công cụ để điều tiết nền kinh tế. Cách điều hành này đã tác động đến tỉ giá hối đoái, từ đó rút ra những điểm tích cực và những mặt còn hạn chế của cách điều hành trên, tìm ra những giải pháp khả thi để ổn định thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối được ổn định sẽ tạo điều kiện ổn định nền kinh tế vĩ mô, giảm tỉ lệ lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Các nguyên lý tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính (Trần Viết Hoàng- Cung Trần Việt_NXB Thống kê 2009) Bài giảng môn lý thuyết tài chính-tiền tệ (Ths.Phan Anh Tuấn) Tạp chí Cộng sản điện tử: Chính sách tỉ giá của Việt Nam: Từ góc nhìn của các chuyên gia tài chính ngày 01/03/2011 ính_sách_lưu_thông_tiền_tệ ính-sách-tỷ-giá-hối-đoái-ở-việt-nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK09504Nhom 5Chinh sach tien te va dieu hanh ty gia.doc
Tài liệu liên quan