Đề tài Chính sách tiền tệ đối với việc điều tiết nền kinh tế thị trường và những hạn chế, thành công

- Tăng cường cho vay, đáp ứng nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh, đồng thời đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay. Để thực hiện điều này, Nhà nước cần điều chỉnh các chính sách để tạo lập được môi trường hấp dẫn đầu tư, tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp, đẩy nhanh việc giải quyết nợ giai đoạn 2 và công nợ phát sinh trong thời gian gần đây làm lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, xác lập điều kiện để vay vốn theo quy định của pháp luật, mặt khác đổi mới cơ chế cho vay, tăng cường tính chủ động và chịu trách nhiệm cá nhân tổ chức trong hoạt động tín dụng. - Để quản lý chính sách tiền tệ có hiệu quả hơn, NHNN cần sớm xác định và công bố lãi suất cơ bản trong từng thời kỳ theo quy định của luật NHNN Việt Nam thay cho việc quy định trần lãi suất cho vay hiện nay. Việc quy định lãi suất cho vay ngoại tệ phải căn cứ vào quan hệ cung cầu trên thị trường, có tính đến việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát và mối quan hệ giữa lãi suất cho vay bằng ngoại tệ với lãi suất cho vay bằng nội tệ. Tập trung mọi biện pháp để giảm chi phí hoạt động Ngân hàng, xác lập điều kiện để tiếp tục giảm lãi suất cho vay. Mặt khác, để mở rộng quy mô cho vay từ nguồn vốn huy động nhất là nguồn vốn ngoại tệ hiện nay, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đối với các tổ chức cá nhân vay ngoại tệ để đầu tư trong điều kiện tỷ giá hối đoái có sự điều chỉnh tăng. - Đặc biệt cần quan tâm nâng cao chất lượng tín dụng, đáp ứng được sự phát triển kinh tế trong nước , tạo điều kiện thuận lợi theo kịp các nước trên thế giới. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng đòi hỏi phải thực hiện tổng hợp, đồng bộ nhiều giải pháp cả tầm vĩ mô lẫn vi mô để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp cũng như của tổng thể nền kinh tế đưa vào hoạt động thị trường vốn ( thị trường chứng khoán ) có hiệu quả trên cơ sở pháp lý ban đầu ( Nghị định Chính phủ ) .

doc22 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1819 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ đối với việc điều tiết nền kinh tế thị trường và những hạn chế, thành công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Phần I : Tổng quan về chính sách tiền tệ. I . Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ. 1. Chính sách tiền tệ là gì ? 2 . Mục tiêu của chính sách tiền tệ . 2.1 . Mục tiêu ổn định giá cả. 2.2 . Tăng trưởng kinh tế . 2.3 . Đảm bảo công ăn việc làm, giảm thất nghiệp . 2.4 . Mối quan hệ giữa các mục tiêu . II . Chính sách tiền tệ với việc điều tiết nền kinh tế thị trường . 1 . Vai trò của Ngân hàng Trung ương . 2 . Chính sách tiền tệ với những mục tiêu của nền kinh tế . 2.1 . Công cụ lãi suất . a . Mức lãi suất . b . Cơ cấu lãi suất và chênh lệch lãi suất . 2.2 . Công cụ khối lượng . Phần II : Chính sách tiền tệ Việt Nam hiện nay, hạn chế và thành công . I . Những hạn chế chính sách tiền tệ . II . Những thành công chính sách tiền tệ . Phần III : Một số kiến nghị về chính sách tiền tệ . Lời nói đầu Sau 15 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt được những tăng trưởng đáng kể. Để có được sự tăng trưởng đó phải kể đến nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong đó ta không thể không kể đến chính sách tiền tệ. Được sự chỉ đạo, giám sát và tổ chức thực hiện đúng đắn của Ngân hàng Nhà nước ( NHNN ). Chính sách tiền tệ đã góp phần thực hiện mục tiêu về kinh tế - chính trị - xã hội mà Nhà nước đặt ra . Với nội dung rộng lớn đã đòi hỏi người nghiên cứu phảI hiểu biết sâu sắc nó trên nhiều khía cạnh cả lý thuyết lẫn thực tiễn. Với những kiến thức đã học, những tài liệu tham khảo và đặc biệt được sự hướng dẫn giúp đỡ của giáo viên trong bộ môn Tiền tệ thị trường vốn nên em quyết định chọn đề tài này . Đề tài trọng tâm là : “ Chính sách tiền tệ đối với việc điều tiết nền kinh tế thị trường và những hạn chế - thành công “ . Với khả năng có hạn em chỉ xin đóng góp một phần rất nhỏ bé vào việc nghiên cứu chính sách tiền tệ . Là sinh viên mới tập nghiên cứu nên kiến thức còn hạn chế. Do đó trong quá trình nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được thầy cô giúp đỡ để đề tài được hoàn chỉnh . Em xin chân thành cảm ơn ! Phần I : Tổng quan về chính sách tiền tệ . = = = = = = = = = I . Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ : 1 . Chính sách tiền tệ là gì ? Chính sách tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tăng trưởng và sự phát triển nền kinh tế của một đất nước. Bởi thế mà nhiều nước đã xem chính sách tiền tệ là một trong những chính sách vĩ mô quan trọng. Thông qua việc xây dựng và thực hiện tốt chính sách này để đạt được các mục tiêu kinh tế đất nước tạo điều kiện tiền đề cho đất nước vững bước trong những năm đầu của thế kỷ 21. Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTƯ thông qua các công cụ của mình để thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu về giá cả, sản lượng và công ăn việc làm . Khi NHTƯ thay đổi chính sách tiền tệ nó sẽ tác động đến các nhân tố và cơ chế lan truyền trước hết là cung ứng lãi suất- sản lượng - thu nhập - nhu cầu. Để hiểu rõ vấn đề này ta đi nghiên cứu ví dụ sau : Khi nền kinh tế ở trạng thái cân bằng, NHTƯ can thiệp trên thị trường mở hoặc mua ngoại tệ để phá giá đồng nội tệ nhằm mục đích mở rộng xuất khẩu. Trong khi nhu cầu tiền chưa có gì thay đổi, lãi suất ngay lập tức giảm xuống từ i1 tới i2 làm đầu tư tăng. Khi đầu tư tăng lên do tổng cầu( AD) tăng( vì đầu tư là một trong những nhân tố của tổng cầu) từ AD1 đến AD2. Sản lượng tăng từ Q1 đến Q2 với sự tăng lên của mức giá chung từ P1 đến P2. Điều đó được mô tả bằng mô hình dưới đây : LS P AD1 P1---AD2----------- i1--------- i2------------------ P2 ----------- Cung ứng tiền Q1 Q2 Q Như vậy chỉ bằng việc thay đổi lượng tiền cung ứng của NHTƯ đã tác động ảnh hưởng đến giá cả sản lượng và công ăn việc làm. Tóm lạI, thông qua việc điều tiết lượng tiền cung ứng các nhà quản lý có thể tác động gián tiếp đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô và nhu cầu tiền tệ từ đó hoàn toàn tạo ra sự chủ động trong việc điều tiết về tiền tệ của NHTƯ . 2 . Mục tiêu của chính sách tiền tệ : Mục tiêu cơ bản quan trọng nó là tiền đề để thực hiện các mục tiêu khác, là ổn định giá trị tiền tệ. Các mục tiêu chính của các chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các quốc gia . 2.1 . Mục tiêu ổn định giá cả : ổn định giá cả là mục tiêu cơ bản hàng đầu của chính sách tiền tệ và là mục tiêu dài hạn. Vậy ổn định giá trị tiền tệ là ổn định sức mua của tiền tệ. Để đo lường được mục tiêu này NHTƯ phải đảm bảo ổn định trên cả hai phương diện : ổn định giá trị đối nội của tiền. Chỉ tiêu này được lượng hoá bằng chỉ tiêu lạm phát tiền tệ ; ở phương diện thứ hai là ổn định giá trị đối ngoại được lượng hoá bằng mức biến động tỷ giá. Cụ thể là khi tỷ giá biến động ( có thể là tỷ giá tăng hoặc giảm ) : - Khi tỷ giá tăng ( tức là đồng bản tệ mất giá) , điều này nó sẽ kích thích xuất khẩu, còn nhập khẩu bị hạn chế. Tình trạng này xảy ra trong điều kiện lạm phát tiền tệ thấp, sự biến động không qua lớn. Khi tỷ giá tăng qua cao bản tệ mất uy tín dẫn đến mọi quan hệ ngoại thương kém và các quan hệ kinh tế thế giới khác . - Khi tỷ giá giảm ( tức là đồng bản tệ tăng giá ) , hoạt động xuất nhập khẩu bị giảm ( vì giá xuất khẩu tăng không kích thích xuất khẩu ) . Như vậy, trong từng điều kiện, hoàn cảnh khác nhau các quốc gia muốn thực hiện các mục tiêu khác nhau và coi đây là một trong các mục tiêu của chính sách tiền tệ mà NHTƯ phải kiểm soát. Đối với lạm phát : Khi nền kinh tế có lạm phát kể cả lạm phát cân bằng có dự đoán trước vẫn gây ra hậu quả nhất định và nó làm tăng “chi phí mòn giày” và “chi phí thực đơn”, điều đó gây chi phí cho xã hội hay lạm phát không được dự kiến trước làm cho thông tin bị bóp méo, uy tín bị ảnh hưởng, cạnh tranh giữa các quốc gia bị ảnh hưởng, đầu tư bị thay đổi, tâm lý và các vấn đề xã hội của công chúng bị đảo lộn . Như vậy hậu quả mà lạm phát để lại là rất lớn và ảnh hưởng xấu đối với nền kinh tế. Khi lạm phát xảy ra NHTƯ cần phải thắt chặt việc cung ứng tiền tệ. Đặc biệt khi có sự biến động về tỷ giá thì NHTƯ mua ngoại tệ từ đó làm cho cung ứng tiền tệ bị biến động. NHTƯ sẽ bán ngoại tệ hoặc mua ngoại tệ. ở Việt Nam thì chỉ số lạm phát có sự thay đổi : Năm 1998 là 9,2% - năm 1999 là 0,1% - năm 2000 là -0,6% 2.2 . Tăng trưởng kinh tế : Mục tiêu ổn định giá cả sẽ không có ý nghĩa nếu không đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Bởi vậy mục tiêu ổn định giá cả là mục tiêu số một của chính sách tiền tệ thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số hai của chính sách tiền tệ. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế là phải đảm bảo cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế. Đó là tỷ lệ tăng trưởng có được khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cùng thời kỳ có nghĩa là năm sau phải cao hơn năm trước . Với bất cứ một chính sách kinh tế vĩ mô nào đều theo đuổi một mục tiêu quan trọng đó là một nền kinh tế phồn vinh với một tốc độ tăng trưởng ổn định. Đây là nền tảng cho mọi sự ổn định, bởi vì nền kinh tế tăng trưởng sẽ đảm bảo các chính sách xã hội được thoả mãn, là căn cứ để ổn định tiền tệ trong nước. Cải thiện cán cân thanh toán, khẳng định được vị trí trên thị trường quốc tế về mặt kinh tế. Về chất lượng phải đảm bảo một cơ cấu kinh tế hợp lý, khả năng cạnh tranh cao thu hút được đầu tư nước ngoài, huy động được nhiều nguồnvốn. 2.3 . Đảm bảo công ăn việc làm, giảm thất ngiệp : Đảm bảo công ăn việc làm có mối quan hệ mật thiết với mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Điều đó được biểu hiện cụ thể là : Khi nền kinh tế có tỷ lệ thất nghiệp cao ảnh hưởng đến mọi mặt của nền kinh tế, làm cho uy tín và vị trí của nền kinh tế bị đảo lộn gây ra chi phí cho ngân sách. Đây là mầm mống làm phát sinh tệ nạn xã hội, xã hội xuất hiện nhiều tiêu cực. Chính vì lẽ đó phảI đặt nền kinh tế ở mức toàn dụng nhưng điều đó không có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp bằng không. Ngoài ra việc cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cũng được coi là mục tiêu của chính sách tiền tệ , do đó mỗi quốc gia cần xác định được tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên một cách chính xác để đạt được mục tiêu trên. Từ đó đặt ra một vấn đề nổi cộm đó là phấn đấu một nền kinh tế tăng trưởng và khi đã đạt được mục tiêu này thì sẽ đạt được mục tiêu giảm thất nghiệp. Nhưng tuỳ thuộc vào thực trạng, đặc điểm và đặc thù phát triển kinh tế của mỗi nước mà tập trung vào các mục tiêu cụ thể khác nhau trong các mục tiêu của chính sách tiền tệ . 2.4 . Mối quan hệ giữa các mục tiêu : Có thể nói rằng ba mục tiêu trên có mối quan hệ vừa có tính thống nhất vừa có tính mâu thuẫn. Chính đặc điểm nổi bật này mà tuỳ vào mục tiêu đất nước của từng thời kỳ mà vận dụng một cách linh hoạt và đạt mục tiêu nào là quan trọng nhất, mục tiêu nào là mục tiêu chủ yếu , mục tiêu nào là mục tiêu thứ yếu . Tính mâu thuẫn và thống nhất được thể hiện rõ như sau : - Tính mâu thuẫn : trong ngắn hạn có sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ . Để hiểu rõ điều này, chúng ta hãy nghiên cứu qua lý thuyết “tứ giác ma thuật” : Tăng trưởng kinh tế Thất nghiệp Bội chi cán cân thanh toán quốc tế Lạm phát - Tính thống nhất : Về mặt dài hạn, ba mục tiêu sẽ không mâu thuẫn. Điều đó được thể hiện qua đường cong Philip, lúc này đường cong Philip trở nên thẳng đứng : Lạm phát Thất nghiệp Khi NHTƯ tăng khối lượng cung ứng tiền tệ để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đồng thời điều này làm lạm phát có xu hướng tăng, thất nghiệp giảm và bội chi cán cân thanh toán quốc tế giảm . Kinh tế tăng trưởng Bội chi cán Cân thanh toán Thất nghiệp giảm Quốc tế Lạm phát tăng Như vậy muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì phải hi sinh mục tiêu lạm phát. Hay để đạt được ba mục tiêu : Tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp, bội chi cán cân thanh toán quốc tế giảm thì lạm phát lại tăng . Do đó trong ngắn hạn NHTƯ không thể đạt được tất cả các mục tiêu. Tuy nhiên có nhiều quốc gia coi mục tiêu ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu quan trọng và dài hạn. Chính sách tiền tệ nhiều khi cũng phải hy sinh mục tiêu này để đạt đươc mục tiêu khác . II . Chính sách tiền tệ với việc điều tiết kinh tế thị trường : Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế của nước ta theo định hướng XHCN trong thời gian qua đã thu được nhiều thắng lợi. Với mục tiêu đưa đất nước ta từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo điều kiện và tiền đề cho những bước phát triển kinh tế sau này. Đảng và Nhà nước đã soạn thảo chiến lược phát triển kinh tế trong những năm đầu thế kỷ 21. Một trong hnững cơ quan được giao trách nhiệm quan trọng ấy là NHNN Việt Nam - với chính sách tiền tệ. Việc nghiên cứu và đánh giá chính sách tiền tệ là vô cùng quan trọng, đó là điều kiện để đạt được mục tiêu đặt ra. Điều đầu tiên là ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm . 1 . Vai trò của Ngân hàng Trung ương : Nhiệm vụ chính của NHTƯ trong nền kinh tế tiền tệ là đảm bảo sự khan hiếm đúng mức của đồng nội tệ nhằm bảo vệ sự ổn định giá cả và tỷ giá hối đoái cần thiết cho quá trình kinh tế. Trong hệ thống ngân hàng hai cấp, NHTƯ với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, sẽ thực hiện việc đIũu tiết tín dụng và qua đó điều tiết những điều kiện của sản xuất bằng chi phí tín dụng đầu tư, tức là điều kiện tái cấp vốn của mình, mà lâu nay việc này, NHTƯ có hai loại công cụ chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết khối lượng và công cụ điều tiết lãi suất. Trong nền kinh tế tiền tệ, người ta sử dụng chính sách chiết khấu và chính sách lân-bát để điều tiết lãi suất. NHTƯ quy định tỷ lệ lãi suất này khi ngân hàng nhận hối phiếu để tái chiết khấu và nhận chứng khoán làm thế chấp. Tỷ lệ lãi suất chiết khấu và nhận chứng khoán làm thế chấp. Tỷ lệ lãi suất chiết khấu và lãi suất Lân-bát sẽ cùng nhau quyết định “ lãi suất NHTƯ “ chính sách khối lượng được thể hiện trong khuôn khổ của chính sách thị trường mở. Đó là việc NHTƯ mua hoặc bán chứng khoán, để qua đó tác động trực tiếp vào khối lượng tiền tệ. Mới nhìn người ta tưởng có thể phân biệt một cách rõ ràng giữa 2 công cụ này của chính sách tiền tệ, nhưng thực chất không phải như vậy. Vì, việc điều tiết lãi suất cùng có tác động tới khối lượng tức lãi suất tăng sẽ giảm nhu cầu tiền tệ, cũng như khi áp dụng chính sách về khối lượng cùng tạo ra một tỷ lệ lãi suất nhất định trên thị trường tiền tệ và tín dụng. Đó chính là mối quan hệ hữa cơ giữa khối lượng và giá đặc trưng do nền kinh tế thị trường. Trong mối quan hệ này thì trường hợp thứ nhất giá tác động vào khối lượng , trưòng hợp thứ hai khối lượng tác động vào giá. Khi điều tiết hai công cụ chính sách tiền tệ trên, NHTƯ không bao giờ sử dụng một khối lưọng vật chất là hàng hoá sản xuất và tiêu dùng nào, để làm định hướng cho các quyết định về chính sách tiền tệ của mình. Giá trị hàng hoá vật chất được xác định trên thị trường và giá trị hàng hoá được thị trường xác định. Nguyên tắc tính theo tổng sản phẩm quốc nội của quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF) bằng cách phân biệt chính sách khối lượng đã đưọc định hướng như trên có những tác động về giá phát sinh. Khi nhu cầu tín dụng được ấn định thì việc đưa ra một khối lượngtiền trung ương nào đó sẽ tạo ra một lãi suất tín dụng nhất định. Sự chỉ dẫn của IMF chỉ là một sự hỗ trợ định hướng đã bị đơn giản hóa và khônh được phép nhầm lẫn với một sự cần bằng tiền - hàng. Nhưng những dao động hàng ngày và thời vụ của nhu cầu tiền tệ, những cơn sốt từ bên ngoài và nhiều yếu tố khác đòi hỏi phải có một chính sách linh hoạt, cụ thể cùng khi thay đổi tương ứng trong việc cung ứng tiền tệ. Khi nhu cầu tiền tệ vượt ra ngoài hành lang đã quyết định cho việc gia tăng khối lượng tiền tệ thì NHTƯ vẫn phải đáp ứng, nhưng với lãi suất cao hơn nhằm tác động một cách trung hạn vào sự đẩy lùi việc bùng nổ khối lượng tiền tệ. Việc công khai hoá mục đích gia tăng khối lượng tiền tệ cùng với thực tế theo đuổi việc thực thi mục đích này đã tạo được lòng tin vào khả năng dự đoán của chính sách tiền tệ nhưng đồng thời vẫn đảm bảo được tính linh hoạt cần thiết của chính sách tiền tệ. Tiền dề quan trọng ở đây là phải có những công cụ điều tiết gián tiếp khối lượng tiền tệ, đó là công cụ lãi suất. Khả năng biến đổi lãi suất NHTƯ không chỉ đảm bảo được giới hạn ngân hàng của kinh tế vĩ mô bằng việc duy trì sự khan hiếm của tiền tệ mà còn đảm bảo tính linh hoạt cần thiết cho việc cung ứng tiền tệ cho hệ thống ngân hàng thương mại. Chừng nào đồng nội tệ với chức năng là phương tiện cất giữ giá trị còn yếu kếm thì tỷ lệ tiền mặt vẫn còn cao; tiền NHTƯ không quay trở về các ngân hàng thương mại dưới hình thức các khoản tiền gửi và như vâỵ hệ số tạo tiền sẽ nhỏ đi. Nếu lúc này, NHTƯ không tăng lãi suất của mình mà lại tiếp tục cung ứng tiền ngân hàng trung ương với giá rẻ cho các ngân hàng thương mại, thì quá trình huỷ tiền tệ sẽ tiếp diễn. Trong đại đa số những nước đang phát triển, cũng như tại Việt Nam, thông thường chỉ có khoản tiền gửi tương đối ngắn hạn, còn phần lớn là tiền NHTƯ. Cơ cấu khối lượng tiền như vậy cho hệ thống Ngân hàng kém phát triển, ít dành được lòng tin của khách hàng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ khối lượng quan trọng nhất của NHTƯ và hệ số tiền mặt ấn định, NHTƯ có thể giới hạn khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại thông qua việc ấn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc . Khối lượng dự trữ bắt buộc giữ tại ngân hàng trung ương không được tính lãi là một tổn phí đối với các ngân hàng thương mại, vì bất kỳ một khối lượng tiền NHTƯ nào trong khu vực các ngân hàng thương mại đều có nguồn gốc dã vay nợ tại NHTƯ và đều phải trả lãi. Việc dự trữ bắt buộc này làm tăng khả năng điều tiết của NHTƯ và đều phảI trả lãi. Việc dự trữ bắt buộc này làm tăng khả năng điều tiết của NHTƯ đối với các ngân hàng thương mại. Một chức năng quan trọng khác của NHTƯ là chức năng “ người cho vay cuối cùng”. NHTƯ phải luôn luôn và trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong thời kỳ khủng hoảng đều có khả năng cấp vốn cho các ngân hàng thương mại để ngăn chặn sự sụp đổ của hệ thống NH thương mại. Phương tiện điều tiết thích hợp nhất của NHTƯ không phải là việc quy định hạn mức khối lượng, mà là việc thay đổi tỷ lệ lãi suất tái cấp vốn ngắn hạn do hệ thống NH thương mại thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu nhưng với lãi suất phát triển. Hay nói cách khác, các công cụ lãi suất của NHTƯ càng phát triển bao nhiêu thì công cụ dự trữ bắt buộc càng ít quan trọng bấy nhiêu. Ngược lại, chừng nào trong nền kinh tế chưa có thị trường chứng khoán nghiệp vụ hối phiếu cũng như các công cụ kỹ thuật tài chính, tức là những công cụ có thể phản ứng nhanh trước sự biến động của lãi suất thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc vẫn còn là công cụ quan trọng của NHTƯ. Việc NHTƯ công bố sẵn sàng tạo khả năng tái cấp vốn do các NHTM trong bất kỳ hoàn cảnh nào sẽ là tín hiệu cho khách hàng biết rằng: về cơ bản các NHTM luôn có khả năng thanh toán. Nhưng cũng không được hiểu sai chức năng cuả NHTƯ là người cho vay cuối cùng, mà các NHTM lạI không quan tâm để có một chính sách kinh doanh nghiêm túc, vì dẫu sao NHTƯ chỉ hỗ trợ trong trường hợp khủng hoảng. Chức năng “ người cho vay cuối cùng” chỉ phục vụ sự việc duy trì tính co dãn cần thiết của việc cung ứng tiền tệ do toàn bộ ngân hàng chứ không phải cho từng NH riêng lẻ thông qua hoạt động giám sát tín dụng là điều không thể thiếu được. Là ngân hàng của các ngân hàng, NHTƯ luôn là chủ nợ của hệ thống ngân hàng. Đây là một vấn đề dễ bị nhầm lẫn. Tiền đi vào chu trình kinh tế bằng con đường các NHTM chuyển các hối phiếu và trái khoán lên NHTƯ và bị triết khấu mất phần lãi suất phải trả cho phần được vay, qua đó trở thành người nợ của NHTƯ. Với vị trí chủ nợ NHTƯ có thể điều tiết việc mở rộng khối lượng tiền tệ. Chính vì lý do đó, các NHTM không bao giờ được phép gửi tiền có lãi tại NHTƯ , vì điều đó sẽ chôn vùi vị trí chủ nợ của ngân hàng trung ương. Nếu các NH gửi tiền tại NHTƯ thì đó chỉ thuần tuý là việc dự trữ có lãi. Nếu NHTƯ trở thành người nợ của hệ thống NHTM thì khi đó họ không còn khả năng tác động trực tiếp vào sự gia tăng khối lượng tiền tệ bằng chính sách tiền tệ của mình, vì bất cứ lúc nào NHTM cũng có thể rút tiền gửi họ. Tương tự như vậy, một vấn đề chủ đạo đối với khả năng điều tiết của NHTƯ là việc NHTƯ chỉ được phép cho các NHTM vay ngắn hạn. Đây là điều cần thiết , vì chỉ có như vậy NHTƯ mới có thể phản ứng nhanh trước những rối loạn có thể xảy ra trong hệ thống tiền tệ bằng việc thay đổi chi phí tái cấp vốn. Chỉ có các NHTM mới được phép cấp tín dụng dài hạn. Để làm được điều này, các NHTM phải huy động động nguồn tiền gửi dài hạn của các chủ đầu tư. Nhưng các chủ đầu tư chỉ sắn sàng gửi tiền dài hạn nếu những rủi ro mất giá tiền gửi của họ được giảm một cách tối đa trên cơ sở giá và tỷ giá hối đoái ổn định và qua đó họ thu được khoản lãi thực tế dương. Nếu một khi NHTƯ có những khoản nợ phải đòi hỏi dài hạn thì khác nào họ tự chôn vùi tiềm năng điều tiết của họ và thúc đẩy sự bất ổn định trong khu vực tiền tệ. Và chính sự điều tiết này làm mất đi các điều kiện có thể huy động tiền gửi dài hạn của các chủ đầu tư. Do vậy, tiền đề đối với một hệ thống ngân hàng hai cấp có hiệu lực là việc thiết lập một cơ chế cạnh tranh giữa các ngân hàng, tức là hoạt động cạnh tranh trong việc huy động tiền gửi. 2 . Chính sách tiền tệ với những mục tiêu của nền kinh tế : 2.1 . Công cụ lãi suất : Các đề án chính sách kinh tế dựa trên ý tưởng cho rằng có thể đạt được các mục tiêu kinh tế tổng thể bên cạnh mục tiêu ổn định bằng cách tác động vào mức lãi suất hoặc vào cơ cấu lãi suất. Điều đó hoàn toàn độc lập với việc : bằng cách can thiệp vào những điều kiện hoạt động của hệ thống ngân hàng hai cấp, người ta cần theo đuổi được các mục đích cơ cấu, thị trường lao động, mục đích công nghiệp, mục đích phân phối hay mục đích chính sách phát triển. a . Mức lãi suất : Nhiều đề án chính sách kinh tế dựa vào sự thay đổi tỷ lệ chiết khấu, tức là tỷ lệ lãi suất phải cấp vốn cho các NHTM của NHTƯ, đều có chung ý tưởng cơ bản cho rằng có thể khuyến khích đầu tư bằng việc hạ thấp tỷ lệ chiết khấu qua việc NHTƯ không thể tự do quy định tỷ lệ chiết khấu, vì NHTƯ phảI bảo vệ sự ổn định của mức giá cả và tỷ giá hối đoái danh nghĩa và khả năng hoạt động của đồng nội tệ. Muốn vậy NHTƯ phảI lựa chọn một tỷ lệ lãi suất sao cho có thể khuyến khích các chủ đầu tư sẵn sàng giữ tài sản của mình bằng đồng nội tệ . Nếu các chủ đầu tư không sẵn sàng gửi tiền dài hạn bằng đồng nội tệ vào hệ thống NHTM thì tỷ lệ lãi suất hiện thời đang thấp hơn mức lãi suất cân bằng. Một khi các NHTM chỉ huy động được ít hoặc không huy động được tiền gửi dài hạn thì họ sẽ chỉ có thể cấp được một khối lượng tín dụng dài hạn ít cho các doanh nghiệp, tuy họ vẫn có khả năng chuyển đổi dài hạn. Thực ra trong việc cấp tín dụng, các NHTM không chỉ dựa vào tiền gửi, vì họ có thể được tái cấp vốn bằng cách vay nợ NHTƯ. Nhưng số tiền gửi quá ít thì cũng không thể cân đối lại được bằng cách vay NHTƯ. Về nguyên tắc, NHTƯ chỉ được phép cấp tín dụng ngắn hạn vì tín dụng dài hạn sẽ hạn chế khả năng can thiệp của NHTƯ. Giả sử NHTƯ vẫn cứ cấp tín dụng dài hạn thì điều đó sẽ làm giảm sự nhiệt tình gửi tiền dài hạn của các chủ đầu tư vì nguy cơ mất giá tài sản tiền tệ do lạm phát sinh ra từ khả năng can thiệp yếu đi của NHTƯ. Khi tiền gửi dài hạn và hệ thống ngân hàng quá ít, nhưng người ta lại không muốn để sản xuất mà trước đó thường đã ứng trước vốn bằng đồng nội tệ bị đình trệ hoàn toàn, chỉ còn cách cuối cùng là Nhà nước phải cấp tín dụng dài hạn cho các doanh nghiệp. Nhà nước chỉ có thể cấp khoản tín dụng này bằng cách hạn chế các khoản chi ngân sách hoặc gia tăng thâm hụt ngân sách. Trong trường hợp thứ nhất thì việc đầu tư sé không mang lại kết quả chung một cách tích cực, vì tổng các khoản chi ngân sách không thay đổi. Nếu Nhà nước tăng thuế nhằm mục đích cấp tín dụng cho các doanh nghiệp thì kết quả cũng tương tự. Ngược lại., nếu Nhà nước thanh toán các khoản chi bổ sung này bằng việc vay tín dụng của NHTƯ thì điều đó sẽ để lại hậu quả tiêu cực cho việc ổn định mức giá. Nếu Nhà nước phát hành công trái thì mức lãi suất sẽ tăng, mà điều này sẽ làm giảm mọi hoạt động đầu tư của tư nhân . Như vậy, việc tìm cách khuyến khích đầu tư thông qua việc quy định mức lãi suất thấp hơn mức cân bằng coi như bị thất bại. Một chính sách như vậy không gia tăng được hoạt động đầu tư mà chỉ dẫn đến tình trạng lạm phát và mất giá . b . Cơ cấu lãi suất và chênh lệch lãi suất : Trong khi các chính sách kinh tế tập trung vào việc giảm lãi suất để theo đuổi các mục tiêu của chính sách thị trường lao động và chính sách phát triển thì những đề xuất để Nhà nước điều tiết cơ cấu lãi suất và chênh lệch lãi suất lại nhằm vào các mục tiêu của chính sách cơ cấu, chính sách khu vực và chính sách công nghiệp. ở đây, cơ cấu lãi suất thực chất là mối quan hệ giưã tỷ lệ lãi suất ngắn hạn và dài hạn, trong khi đó chênh lệch lãi suất thể hiện mối tương quan giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Vấn đề về việc tác động của chính sách kinh tế vào cơ cấu lãi suất và chênh lệch lãi suất liên quan đến hai điều kiện cơ bản trong khả năng hoạt động của hệ thống ngân hàng hai cấp như sau : - Đó là các NHTM là các doanh nghiệp kinh doanh theo lợi nhuận, nên họ cần phải có chênh lệch lãi suất dương giữa tỷ lệ lãi suất cho vay và tỷ lệ lãi suất tái cấp vốn. Nếu do những qui định pháp lý mà khoản chênh lệch lãi suất này bị âm thì các NHTM kinh doanh lỗ vốn . - Do đó , để tránh sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng vì tác động của chêng lệch lãi suất âm làm mất lòng tin vào đồng nội tệ và việc sẵn sàng gửi tiền dài hạn, cần phải có biện pháp bù đắp những thiệt hại phát sinh từ chênh lệch lãi suất âm. Việc chi phí cho những thiệt hại thông qua quá trình tiền tệ hoá hay gia tăng khoản nợ của Nhà nước, như đã nói ở phần trên, trong mọi trường hợp đều dẫn đến hậu quả tiêu cực. Việc đó sẽ làm tăng mức giá hoặc lãi suất. Nếu một khi những thiệt hại xảy ra, thì cách dùng ngân sách Nhà nước để bù đắp vẫn là một hình thức ít có hại nhất . Những điều đã nói ở trên không có nghĩa là Nhà nước để mặc cho NHTM tự qui định về chênh lệch lãi suất trong mọi trường hợp. Trong điều kiện hệ thống NHTM không có điều kiện cạnh tranh thì việc quyết định giá tối đa mang tính pháp lý về mức chênh lệch lãi suất lại rất có ý nghĩa . Để đảm bảo hoạt động cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng thì phải đảm bảo cho các NHTM được hưởng các điều kiện tái cấp vốn như nhau. Việc Nhà nước trích thu lợi nhuận của NHTM chỉ nên thực hiện bằng luật thuế, chứ không nên điều tiết bằng cách phân biệt những điều kiện thí cấp vốn. Việc phân biệt tỷ lệ tái suất cho vay và huy động theo ngành , khu vực và lãnh thổ cũng như việc phân biệt tỷ lệ chiết khấu theo từng ngân hàng là không thích hợp với một hệ thống ngân hàng có hiệu lực. Tỷ lệ lãi suất tiền gửi chỉ nên phân biệt theo thời hạn của khoản tiền gửi. Bất kỳ một sự phân biệt lãi suất huy động nào khác cũng sẽ làm vô hiệu hoá mọi cố gắng thu hút tiền gửi để kinh doanh kiếm lợi của các NHTM, do đó các NHTM cần chú ý tới các điểm sau : Thứ nhất là khi phân tích những khả năng tái cấp vốn, các ngân hàng cần phải so sánh giữa chi phí huy động tiền gửi với chi phí vay nợ NHTƯ để tìm ra hình thức tái cấp vốn có lợi nhất cho việc cấp tín dụng của họ. Khi tính chi phí huy động tiền gửi thì phải tính cả tỷ lệ lãi suất phải trả lần chi phí phát sinh của tỷ lệ dự trữ bắt buộc . Thứ hai là khi đối cấp chiếu các phương thức thì cấp vốn với nhau, các ngân hàng cần chú ý tới khả năng chuyển đổi thời hạn khác nhauvì điều này có ý nghĩa quyết định với việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp. Cạnh tranh trong khu vực ngân hàng có nghĩa : Các NHTM cạnh tranh với nhau trong việc thu hút tiền gửi, vì nhận tiền gửi sẽ quyết định khả năng mở rộng thị trường của họ. Nhưng tổng lượng tiền gửi và cơ cấu thời hạn của nó lại do NHTƯ quyết định thông qua việc đảm baỏ sự ổn định của đồng nội tệ: trong khi đó , việc cạnh tranh giữa các NHTM với nhau sẽ quyết định việc phân chi tổng lượng tiền gửi trên trong nội bộ khu vực ngân hàng. Ví dụ một ngân hàng do vị trí lãnh thổ thuận lợi có thể huy động được nhiều tiền gửi nhưng theo quyết định thì phải trả lãi cao hơn lãi suất trung bình của các ngân hành cạnh tranh khác, điều đó sẽ gây bất lợi cho ngân hàng này trong cạnh tranh . Việc phân biệt tỷ lệ lãi suất tín dụng, chừng nào sự phân biệt này không bị ràng buộc vào hạn mức tín dụng, sẽ dần tới việc từ chối cấp tín dụng ở các khu vực dược hưởng lãi suất theo qui định. Việc từ chối cấp tín dụng này sẽ chỉ có thể xảy ra, nếu trong khu vực được ưu đãi lãi suất thấp này chứng minh được hệ số an toàn của việc trả nợ gốc và lãi cao hơn so với những người vay tín dụng tiềm năng khác. Nhưng điều này luôn khó đạt được vì hệ số an toàn cao luôn đòi hỏi lợi nhuận và đạt được của những người vay tín dụng cũng khồn phải cao, những khu vực như vậy lại không cần đến sự can thiệp bằng chính sách kinh tế để cấp tín dụng cho các dự án đầu tư. Mà hoàn toàn ngược lại, Nhà nước phải can thiệp vào khu vực kinh tế mà ở đó theo sự đánh giá của Nhà nước, việc cấp tín dụng theo điều kiện kiện của thị trường đã được một một khố lượng tín dụng quá nhỏ. Về cơ bản, nhược điểm của việc phân biệt lãi suất là nó làm mất đi chức năng phân bổ của một tỷ lệ lãi suất. Việc tìm cách xoá bỏ cơ chế chọn lọc của tỷ lệ lãi suất do các NHTM xác định trong hoạt động giao lưu với ngân hàng và điều này bắt buộc Nhà nước phải tiếp tục can thiệp dưới hình thức quy định hạn mức tín dụng. 2.2 . Công cụ khối lượng : Việc quy định hạn mức tín dụng theo ngành địa phương và khu vực kinh tế sẽ xoá bỏ khả năng của các NHTM trong việc tự quyết định cấp tín dụng theo hệ số an toàn dự tính của việc hoàn trả tín dụng. Khi các NHTM không còn có thể tự quyết định cấp tín dụng theo hệ số an toàn của việc hoàn trả tín dụng thì có nhiều khả năng là tỷ trọng của những khoản nợ khó đòi trong tổng khối lượng cho vay sẽ tăng. Trong khi đó các doanh nghiệp có khả năng thanh toán được lãi suất thì lãi không được nhận tín dụng để triển khai các dự án đầu tư của họ. Thông thường những điều kiện như vậy sẽ xuất hiện thị trường không chính thức ( thường gọi là thị trường chợ đen hoặc thị trường bất hợp pháp ). Trên thị trường này, tất cả các doanh nghiệp có khả năng trả lãi suất cao hơn lãi suất chính thức để có thể vay được. Do không có khả năng tái cấp vốn cho NHTƯ cho nên cả lãi suất cho vay lẫn lãi suất huy động trên thị trưòng chợ đen thường cao hơn lãi suất trong hệ thống ngân hàng chính thức. Điều này sẽ khuyến khích người gửi tiền rút tiền gửi họ ra khỏi hệ thống ngân hàng chính thức. Việc giảm khối lượng tiền gửi và việc tăng thoát thoát tín dụng trong hệ thống ngân hàng chính thức sẽ dẫn đến những tổn thất cho ngân hàng buộc Nhà nước hoặc NHTƯ phải bù đắp hoặc ngăn chặn sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. Hậu quả của nó sẽ tương tự trường hợp Nhà nước hoặc NHTƯ dảm nhiệm cho vay dài hạn đó là lạm phát và mất giá đồng nội tệ. Việc mất ổn định trong hệ thống ngân hàng cũng như việc giảm chất lượng đồng nội tệ sẽ đi liền với việc phân bổ sai nguồn tài nguyên. Sức lao động và tư liệu lao động lại được phân bổ cho các ngành linh tế không có khả năng thanh toán cả gốc lẫn lãi. Các ngành được hỗ trợ lại tiêu tốn nguồn tài nguyên lớn hơn nhiều so với khoản họ có thể nhận được từ hệ thống ngân hàng không bị chính sách áp đặt. Những ngành kinh tế được sự hỗ trợ của chính sách tín dụng ưu đãi đó phần phần lớn chỉ có thể tồn tại khi họ tiếp tục nhận được khoản viện trợ của Nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa là nếu quy định lãi suất và hạn mức tín dụng thì sẽ phát sinh ngay khủng hoảng cơ cấu. Có thể khắc phục được vấn đề trên nếu Nhà nước thay việc tạo cấp lãi suất cũng như nguồn cấp nhận không có khả năng thanh toán gốc và lãi tín dụng bằng các hình thức trợ cấp khác. Nếu không muốn làm cách này gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự ổn định của đồng nội tệ, thì các khoản trợ cấp này phải được thực hiện bằng nguồn ngân sách không bị thâm hụt. Tuy nhiên dù khi trợ cấp mà vẫn dự được cân bằng ngân sách thì biện pháp đó cũng không làm thay đổi được việc phân bổ nguồn lực , tài nguyên. Khi quy định hạn mức tín dụng có kết hợp với việc ấn định lãi suất hoặc chính sách phân biệt lãi suất theo qui định pháp lý thì có nhiều khả năng làm cho tỷ lệ lãi suất trung bình sẽ thấp hơn tỷ lệ lãi suất cân bằng. Nếu không phải như vậy thì đã không dẫn đến sự can thiệp của Nhà nước. Điều này sẽ dẫn đến một loạt hậu quả giống như đã trình bày trong trường hợp quy định hạn mức tín dụng. Những can thiệp này sẽ mâu thuẫn sâu sắc với yêu cầu phải tách biệt những nhiệm vụ của Nhà nước và của NHTƯ không chỉ là một nguyên tắc hành chính hay một sự quy ước theo tiến trình lịch sử, mà là sự cần thiết có tính hệ thống cho mọi nền kinh tế thị trường . Ngay trong quá trình chuyển đổi Nhà nước không nên và không thể chỉ có sự giới hạn chức năng của mình trong việc tạo ra những điều kiện pháp lý và tổ chức cho nền kinh tế thị trường. Điều then chốt là Nhà nước cần dùng ngân sách để tài trợ cho các chính sách về thị trưòng lao động, vì cơ cấu về địa phương, về công nghiệp và chính sách phân phối . Phần II : chính sách tiền tệ việt nam - Những hạn chế và thành công ============= Nhưng năm gần đây các nước châu á rơi vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Mặc dầu cũng bị ảnh hưởng ít nhiều song Việt Nam vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng hàng năm. Điều đó chứng tỏ đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong đó không thể không kể đến vai trò của NHTƯ với tư cách là xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ. Thu được nhiều thành công đặc biệt giảm được tỷ lệ lạm phát ổn định giá trị đồng nội tệ. Tuy vậy, quá trình tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế . I . Những hạn chế : Thứ nhất là NHNN với tư cách là người độc quyền phát hành tiền Đồng nhưng lại không phát hành kịp nhu cầu của xã hội. Điều này đe doạ khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại. Đây không chỉ là việc các NHNN từ bỏ chức năng là người cho vay cuối cùng mà họ không có khả năng sử dụng thị trường tiền tệ và tín dụng đảm bảo việc cung ứng tiền cho nền kinh tế quốc dân. Khó khăn ở đây do việc chưa có hình thức tổ chức hoạt động thích hợp của các ngân hàng . Thứ hai là NHNN trong quá trình thực hiện chính sách lãi suất chưa linh hoạt. Khi được tách ra các ngân hàng trên phải thừa kế các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh vay trong thời gian vẫn trực thuộc NHNN. Nhưng thực chất một phần được cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh không có khả năng thu hồi.Việc trả lãi đã và đang không thực hiện được. Trong khi đó các NHTM vẫn phải trả ít nhất một phần lãi cho khoản nợ của họ tại NHNN. Mặt khác NHNN quy định một mức tối đa cho tỷ lệ lãi suất cho vay và huy động mà chênh lệch lãi suất lại quá nhỏ so với rủi ro không thu hồi dược nợ, nên NHTM không có khả năng tăng lãi suất tín dụng để bù đắp thiệt hại từ các khoản nợ khó đòi. Các NHTM không thể sử dụng khoản tiền gửi có lãi bị thu gửi tại NHTƯ cho chính sách hạn chế tiền mặt. Những lãi suất tiền gửi này lại thấp hơn lãi suất vay nợ của NHTM tại NHNN. Trong thời gian qua, các quy định lãi suất được áp dụng cho tổng khối lượng đã có, chứ không chỉ đánh vào khối lượng tín dụng . Thứ ba là, ngày 25/2/1999, NHNN đã có quyết định số 64 và 65/1999/QĐ - NHNN vè việc công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của đồng Việt Nam đối với đồng đô-la Mỹ thay cho việc công bố tỷ giá chính thức và cho phép các tổ chức tín dụng kinh doanh ngoại tệ, cho phép xác định tỷ giá giao dịch tối đa không quá 0,1% so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Quyết định này đã thu hẹp đáng kể khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch của các NHTM tạo điều kiện để các NHTM kinh doanh ngoại tệ theo tỷ giá linh hoạt hơn phù hợp sự biến động của quan hệ cung cầu Đô-la trên thị trường. Thứ tư là sự gia tăng của các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đẫ góp phần làm tăng trưởng phương tiện thanh toán: cả năm 1999 tăng 19 - 20%. Tổng vốn huy động tăng 25% nhưng tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng chỉ tăng 14% so với năm 1999. Mức tăng trưởng tín dụng chỉ bằng nửa nguồn vốn huy động nghĩa là tiền chảy vào ngân hàng gấp nhiều lần so với khối lượng tiền đưa ra lưu thông không có lợi trong điều kiện kinh tế hiện nay. Năm 1999 có hiện tượng các doanh nghiệp thiếu vốn, còn ngân hàng thì ứ đọng vốn. Nguyên nhân là do những bất cập chưa được giải quyết về thể lệ cho vay, cơ cấu cho vay chưa hợp lý, tỷ lệ không dùng tiền mặt lại giảm sút, tình hình kinh tế xã hội năm vừa qua gặp nhiều biến động khiến các doanh nghiệp e ngại đầu tư . Thứ năm là nợ quá hạn ngày càng tăng, đáng quan tâm là chất lượng tín dụng ở một số đơn vị, một số dự án luôn quá thấp, một số đơn vị bình quân lãi suất đầu vào cao dang phải chịu đựng rủi ro lãi suất. Điều này chứng minh vấn đề điều hành lãi suất của chúng ta chưa nhanh nhạy, bám sát thị trường, nhận thức về tính kinh doanh của chúng ta còn chậm. Nguyên nhân còn mang nặng tính tự cung tự cấp, chưa biến hoá với tình hình thị trường. Hiện nay lãi suất bình quân đầu vào toàn quốc từ 0,85% trở lên chiếm tới 35% tổng nguồn vốn. Đây là nguy cơ rủi ro lãi suất rất lớn, đòi hỏi chúng ta cần phải xử lý. Bên cạnh những hạn chế, cấp bách kể trên, còn một số hạn chế mà chúng ta còn đối mặt, đó là : - Việc xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá. Đó là việc tăng nhẹ trần lãi suất cho vay bằng VND sẽ gây thêm khó khăn sản xuất kinh doanh trong nước nhất là nền kinh tế đang ở trong suy thoái. Mặt khác lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng tuy có giảm từ 1 - 1,5%/năm nhưng tỷ giá hối đoái điều chỉnh tăng 10% ( theo tỷ giá chính thức ) tăng 13% ( theo tỷ giá giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ) năm 1998 làm cho việc gửi ngoại tệ tăng 37,3% và chiếm 37% tổng lượng tiền gửi tiết kiệm. Hơn nữa, lãi suất tiền vay và ngoại tệ của các doanh nghiệp muốn tăng sản xuất kinh doanh, dẫn đến nền kinh tế thiếu vốn, ngân hàng có vốn bằng ngoại tệ không cho vay được và phải giữ ở nước ngoài. - Mặc dù chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp để tăng cường quản lý, kiểm soát hoạt động ngân hàng, xử lý nợ quá hạn nhưng chất lượng tín dụng vẫn còn thấp. Việc nâng cao chất lượng tín dụng là rất quan trọng liên quan đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng . II . Những thành công: Trong bối cảnh chung của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng năm 1999 - 2000 ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong đó đáng chú ý là do tình hình kinh tế trì trệ, thiên tai xảy ra nghiêm trọng, hoạt động kinh doanh của NHTM và các tổ chức tín dụng gặp khó khăn... Tuy nhiên dưới sự chỉ đạo thực hiện dúng đắn đường lối chính sách tiền tệ do NHTƯ đặt ra đã thu dược những kết quả quan trọng góp phần thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế . Xét về mục tiêu chính sách tiền tệ ổn định, NHTƯ đã cùng các ngành thành công trong việc giảm tỷ lệ lạm phát liên tục từ 5,8% năm 1998 xuống còn 0,6% năm 2000. Đồng thời , NHNN đã áp dụng nhiều biện pháp: trong năm 1999, trần lãi suất cho vay do NHNN ổn định dược giảm 5 lần liên tiếp, một mặt giúp hạ mức lãi suất cho vay được 20 - 30% so với trước đây nhằm khai thống "đầu ra" cho hoạt động tín dụng. Mặt khác giảm lãi suất huy động tiền gửi và tiết kiệm giúp thoá gỡ khó khăn trong kinh doanh của các NHTM. NHNN còn gián tiếp tác động giảm lãi suất chung bằng cách gia tăng lượng tiền cung ứng nhằm vào mục tiêu mang tính tình huống. Nhiều biện pháp được ráo riết thực thi đã tháo gỡ được nhiều ách tắc trong việc cấp tín dụng nói chung. NHNN tăng mức cho vay trực tiếp hỗ trợ nguồn vốn, hạ mức dự trữ bắt buộc phổ biến từ mức 10% xuống còn 5% và 3% . Để giảm chi phí đầu vào cho các NHTM tăng cưòng mua ngoại tệ bơm mạnh vào lưu thông. Mức cung ứng tiền gia tăng đã góp phần ngăn chặn, giảm sút giá cả ở một số hàng hoá. Đặc biệt là giá thu mua lương thực ( tính đến tháng 11/1999 trở lại đây 1,7%). Theo đó giảm sút mức chỉ số giá cả chung( CPI ) đã chậm lại chậm từ cuối quý II và chấm dứt được vào tháng 11/1999 . Những năm gần đây, đặc biệt là năm 1999 - 2000, NHTƯ thực hiện chính sách tiền tệ có kiểm soát chặt chẽ, kết hợp các giải pháp vĩ mô đã kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua của đồng Việt Nam. áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt tạo điều kiện giảm lãi suất để đẩy mạnh huy động vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế, điều đó nâng cao trách nhiệm, tính chủ động và năng kực thẩm định của các tổ chức tín dụng. Trong khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã tác động đến kinh tế của nhiều nước. Chẳng hạn năm 1998, nền kinh tế tăng trưởng âm như Inđônêxia : 18,4% ; Malaixia : 5,8% ; Thái Lan : 8,5% ... Tuy vậy nền kinh tế nước ta vẫn tăng trưởng là : 5,83% ( tuy có chậm lại so với những năm trước ) . Tỷ giá hối đoái điều chỉnh ở mức cho phép ... khẳng định việc hoạch định và điều chỉnh các chính sách vĩ mô trong đó có chính sách tiền tệ là hợp lý, có nhiều chuyển biến tích cực, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đề ra. Với những thành công đáng kể, chính sách tiền tệ với sự đóng góp nỗ lực, phấn đấu toàn ngành chính vì vậy mà công tác ngân hàng những năn qua đã đạt được những kết quả sau : - Điều hành cung ứng tiền: năm 1999 và đầu năm 2000, việc điều hành cung ứng tiền đã đảm bảo tính linh hoạt, phù hợp với diễn biến tiền tệ và các mục tiêu. Mức cung ứng tiền đạt 100% kế hoạch chính phủ phê duyệt cho các mục tiêu ngoại tệ tăng khối lượng cho quỹ dự trữ ngoại tệ của Nhà nước đáp ứng nhu cầu thanh toán cho các NHTM và thực hiện mục tiêu chủ định của chính phủ - Công cụ lãi suất : Năm 1999 do tổng cung lớn hơn tổng cầu đẫn đến kinh tế tăng trưỏng chậm. NHNN đã điều hành cơ chế lãi suất theo cơ chế lãi suất trần và được điều chỉnh linh hoạt bám sát thị trường, cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ giảm tồn lãi suất cho vay đối với nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu chủ đạo của chính phủ về các giải pháp kích cầu. Năm 1999, NHNN năm lần giảm trần lãi suất cho vay từ mức 1,25%/tháng đối với cho vay trung dài hạn là 1,2%/tháng đối với ngắn hạn xuống còn một mức thống nhất là 0,85%/tháng đối với khu vực đô thị là 1%/tháng dối với khu vực nông thôn. Lãi suất huy động vốn bằng ngoại tệ của các pháp nhân cũng được điều chỉnh giảm từ 3 - 3,5% xuống còn 2,5- 3%/năm nhằm thúc đẩy doanh ngiệp đầu tư sản xuất đồng cũng phù hợp với việc giảm trần lãi suất VND. Lãi suất cho vay đối với các đối tượng ưu tiên của quỹ tín dụng đào tạo đối với học sinh, sinh viên cũng được giảm từ 0,7% xuống còn 0,6%/tháng , cho vay đối với hộ nghèo giảm từ 0,8% xuống còn 0,7%/tháng. - Công cụ tái cấp vốn : NHNN điều chỉnh rất linh hoạt công cụ tái cấp vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế. Sau 4 lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ mức 1,1 %/tháng tại thời điểm đầu năm 1999 cho đến nay chỉ còn 0,5%/tháng. Cho đến 16/8/2001, giảm xuống 0,4 %/tháng và lãi suất tái chiết khấu giảm từ 0,45% xuống còn 0,35%/tháng đồng thời NHNN giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng VND từ 5% xuống còn 3% ( riêng Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn hạ từ 3% xuống còn 2% ). - Dự trữ bắt buộc : NHNN đưa ra ngay sau khi pháp lệnh ra đời là thời kỳ đầu ở Việt Nam thực hiện kỳ duy trì dự trữ bắt buộc là 15 ngày, tiền dự trữ bắt buộc phải duy trì thường xuyên trên tài khoản riêng ( tài khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc tại NHNN) tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% trong đó 70% gửi tại NHNN và 30% là tiền mặt tồn tại quỹ NHTM cho đến nay. NHNN hai lần điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng từ mức 7% xuống còn 5% ( các NHTM, quỹ tín dụng trung ương, quỹ tín dụng khu vực là 1% ) . Riêng Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn do phải tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp phát triển nông thôn nên tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm xuống mức 3%. - Nghiệp vụ thị trường mở : Nhằm chuyển hướng điều hành tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp năm 1999, NHNN đã gấp rút chuẩn bị xác điều kiện về pháp lý cũng như công cụ cho huy động thị trường mở để đưa ra thị trường mở và hoạt động trong thời gian tới NHNN phải ban hành một số khung pháp lý cho thị trường hoạt động như : Đối tượng nào được tham gia thi trường, các quy định về bảo lưu chứng khoán, các hình thức thanh toán .. . Những vấn đề này được xem xét và trong thời gian không xa thì NHNN sẽ tổ chức tốt nghiệp vụ thị trường mở . - Về điều hành tỷ giá : Nhìn chung, năm 1999 - 2000 tỷ giá luôn ổn định và cơ bản phù hợp với cung cầu thị trường và mục tiêu quản lý. NHNN giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng sôi động hơn năm trước. Nhu cầu ngoại tệ cho sản xuất kinh doanh cơ bản được đáp ứng đầy đủ. NHNN đã mua được một số lượng ngoại tệ để tăng dự trữ Nhà nước và bổ xung ngoại tệ cho kinh doanh. Có thể nói, việc đổi mới cơ chế quản lý giá theo quyết định số 64/1999/QĐ - NHNN ngày 26/2/1999 là một bước đi đúng đắn và phù hợp với nền kinh tế cũng như công tác điều hành chính sách tiền tệ. NHNN đã chấm dứt việc công bố tỷ giá chính thức theo lối hành chính như trước đây, chuyển sang tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường giao dịch liên ngân hàng . phần III : Một số kiến nghị về chính sách tiền tệ = = = = = = = = = = = = = Như chúng ta đã biết, kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó klhăn, liên tiếp bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng, thiên tai tàn phá. Đứng trước tình hình đó, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải có chính sách, chiến lược phát triển kinh tế trong đó chính sách tiền tệ hét sức quan trọng. Xét về thực tế ở Việt Nam, để điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả xin kiến nghị một số vấn đề : - Hiện nay và tương lai gần nên gắn chặt đồng Việt Nam ( VND ) với đồng đôla Mỹ ( USD) vì hiện nay và tương lai gần đồng đô la mỹ vẫn có vị trí quan trọng trên thị trưòng tài chính quốc tế, do đôla Mỹ vẫn là đồng tiền chủ yếu , là cơ sở xác định chính sách tỷ giá của Việt Nam. Đến một thời gian thích hợp việc gắn chặt USD với VND dần dần dược lới lỏng để giảm sự phụ thuộc quá mức vào một đồng tiền và phải xác định tỷ giá theo một nhóm ngoại tệ mạnh. Việc gắn chặt VND vào USD trong thời gian trước mắt còn do trước đây và hiện nay các hợp đồng thương mại của ta có tới 90% được tính toán bằng USD, hơn nữa trên thực tế, đồng đôla Mỹ trong đời sống kinh tế nước ta còn rất mạnh. Những hàng hoá đắt tiền phải nhập bằng USD đều được xác định giá bán bằng USD rồi qui đổi ra VND để thanh toán, thậm chí trong mua bán nội địa còn được thanh toán trực tiếp bằng USD. Đến giai đoạn phát triển mới, đặc biệt bên ngoại thương đã đa dạng hoá và đa phương hoá cao độ thì chuyển sang định giá theo nhóm ngoại tệ mạnh sẽ giảm được rủi ro bấp bênh do biến động tỷ giá gây ra. Đến lúc này cần phải lựa chọn đồng tiền nào, tỷ trọng của nó bao nhiêu là hết sức quan trọng. - Lấy tỷ giá thực làm mốc ( tín hiệu ) để điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa xoay quanh nó. Chỉ có tỷ giá thực mới phản ánh trung thực sức mua của hai đồng tiền so sánh với nhau. Hay nói cách khác việc điều hành tỷ giá danh nghĩa phải xem xét đến tình hình lạm phát của những nước phát hành đem trao đổi. Việc làm này hết sức quan trọng để tránh nguy cơ lạm phát và xác định cơ cấu kinh tế. - Sử dụng tốt các công cụ điều hành tỷ giá. Nắm chắc đặc tính, khả năng và những hạn chế từng công cụ, hiệu ứng của nó với giải pháp tổng thể từ đó có cơ chế phối hợp hiệu qủa hệ thống các công cụ. Vấn đề hiểm soát lạm phát được ưu tiên hàng đầu, vậy nhiệm vụ trước mắt với việc điều chỉnh tỷ giá, ngăn cản, kìm chế xu hướng lên giá bất hợp lý của VND. Xét về lâu dài mục tiêu ngăn cản sự lên giá của VND, kiềm chế lạm phát, giảm vay nợ nước ngoài bằng cáh huy động tối đa nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển giảm thâm hụt ngân sách nhà nước là phù hợp với mục tiêu dài hạn của chiến lược kinh tế phát triển nhanh, bền vững và có hiệu quả. Chính sách tiền tệ nên hướng vào mục tiêu ổn định giá cả, giữ vững sức mua ổn định của đồng Việt Nam. Duy trì lãi suất tín dụng dương : Việc điều chỉnh lãi suất tín dụng thông qua đồng tiền được huy động ở mức hợp lý, tránh tính lãi suát của các đồng tiền chênh lệch nhau quá cao. Điều chỉnh lãi suất trong nước, cần xem xét lãi suất quốc tế, cần đặc biệt chú ý tới lãi suất tín dụng trong khu vực việc việc làm để tránh việc di chuyển vốn bằng đồng tiền này sang đồng tiền khác làm mất cân đối cung cầu một cách quá đáng. - Trong lĩnh vực điều hành tỷ giá ở nước ta còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu nghiêm túc. Để có được định hướng đúng đắn, chỉ dẫn phù hợp cho công tác quản lý, việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong giai đoạn tới cũng như xây dựng một chính sách chiến lược phát triển kinh tế xã hội ổn định ở nước ta và xu thế quốc tế hoá toàn cầu. - Tăng cường cho vay, đáp ứng nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh, đồng thời đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay. Để thực hiện điều này, Nhà nước cần điều chỉnh các chính sách để tạo lập được môi trường hấp dẫn đầu tư, tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp, đẩy nhanh việc giải quyết nợ giai đoạn 2 và công nợ phát sinh trong thời gian gần đây làm lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, xác lập điều kiện để vay vốn theo quy định của pháp luật, mặt khác đổi mới cơ chế cho vay, tăng cường tính chủ động và chịu trách nhiệm cá nhân tổ chức trong hoạt động tín dụng. - Để quản lý chính sách tiền tệ có hiệu quả hơn, NHNN cần sớm xác định và công bố lãi suất cơ bản trong từng thời kỳ theo quy định của luật NHNN Việt Nam thay cho việc quy định trần lãi suất cho vay hiện nay. Việc quy định lãi suất cho vay ngoại tệ phải căn cứ vào quan hệ cung cầu trên thị trường, có tính đến việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát và mối quan hệ giữa lãi suất cho vay bằng ngoại tệ với lãi suất cho vay bằng nội tệ. Tập trung mọi biện pháp để giảm chi phí hoạt động Ngân hàng, xác lập điều kiện để tiếp tục giảm lãi suất cho vay. Mặt khác, để mở rộng quy mô cho vay từ nguồn vốn huy động nhất là nguồn vốn ngoại tệ hiện nay, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đối với các tổ chức cá nhân vay ngoại tệ để đầu tư trong điều kiện tỷ giá hối đoái có sự điều chỉnh tăng. - Đặc biệt cần quan tâm nâng cao chất lượng tín dụng, đáp ứng được sự phát triển kinh tế trong nước , tạo điều kiện thuận lợi theo kịp các nước trên thế giới. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng đòi hỏi phải thực hiện tổng hợp, đồng bộ nhiều giải pháp cả tầm vĩ mô lẫn vi mô để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp cũng như của tổng thể nền kinh tế đưa vào hoạt động thị trường vốn ( thị trường chứng khoán ) có hiệu quả trên cơ sở pháp lý ban đầu ( Nghị định Chính phủ ) . - Khẩn trương ban hành tiếp các văn bản hướng dẫn thi hành luật NHNN và các luật tài chính tín dụng đảm bảo cho hệ thống ngân hàng có hành lang pháp lý đồng bộ để hoạt động có hiệu quả, an toàn và bền vững. Nâng cao năng lực , hiệu quả hoạt động của thanh tra ngân hàng. Tiếp tục đẩy mạnh việc chấn chỉnh, củng cố toàn diện hệ thống ngân hàng đảm bảo an toàn hệ thống và ổn định xã hội, kiện toàn các NHTM quốc doanh,sắp xếp lại các NHTM cổ phần và các quỹ tín dụng nhân dân kém trên cơ sở quy định của pháp luật và đảm bảo tiền gửi của nhân dân. - Cuối cùng, nhanh chóng thực hiện việc Nhà nước hỗ trợ vốn ban đầu, thành lập quỹ bảo lãnh dầu tư và hỗ trợ xuất khẩu để tạo thuận lợi cho mọi doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ nông dân dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn vay và sử dụngvốn một cách an toàn, tiết kiệm và hiệu quả. -o0o- danh mục tài liệu tham khảo =========== 1. Tài liệu giảng dạy môn: Lý thuyết tiền tệ ngân hàng - Học viện ngân hàng 8/2000. 2 . Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - Frederic S.Mishkin - Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật 1995. 3 . Giáo trình thị trường vốn - Trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học Ngân hàng - NXB Mũi Cà Mau 1995. 4 . Giáo trình lý thuyết tiền tệ - Đại học tài chính kế toán. 5 . Tạp chí Ngân hàng Tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng Thời báo kinh tế Việt Nam Thời báo ngân hàng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29628.doc
Tài liệu liên quan