Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định đã góp phần giải quyết nhiều mặt về xã hội trong đó đặc biệt lưu tâm tới việc làm. Từ trước đến nay lao động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm đa số (70% dân số). Đây là loại hình lao động có tính chất vụ mùa. Cùng với sự phát triển kinh tế là sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Sự phát triển của các ngành công nghiêklpj và dịch vụ tỏng thời gian qua đòi hỏi phải được bổ sung lực lưoựng lao động. Bên cạnh đó là việc mở rộng vốn đầu tư cho mọi thành phần kinh tế cũng cần phải sử dụng số lượng lực lượng lao động lớn hơn. Đây là những yếu tố giúp tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống.
Theo báo cáo thống kê thì những năm gần đây, Việt Nam có tỷ lệ tạo việc làm nhanh hơn việc tăng dân số, vì vậy tỷ lệ thất nghiệp có chiều hướng giảm đi. Ước tính trong thời kỳ 1995 - 1998, Việt Nam đã giải quyết việc làm mới cho khoảng 5,2 triệu người, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm mới cho khảng 1,3 triệu người. Rõ ràng, thông qua việc mở rộng đầu tư tín dụng cho các thành phần kinh tế, tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh và dịch chuyển cơ cấu kinh tế. công ăn việc làm cho người lao động được cải thiện.
20 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 743 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Mở đầu
Nội dung
Chương I: Lý luận chung về chính sách tiền tệ và các công cụ của nó
1. Tổng quan về chính sách tiền tệ
1.2. Chính sách tiền tệ
2. Công cụ chính sách tiền tệ
2.1. Các công cụ trực tiếp
2.2. Các công cụ gián tiếp
Chương II: Chính sách tiền tệ ở Việt Nam
1. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
2. Chính sách tiền tệ và việc sử dụng các công cụ CSTT năm qua ở Việt Nam
2.1. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
2.2. Công cụ lãi suất cho vay chiết khấu
2.3. Công cụ dự trữ bắt buộc
2.4. Công cụ hạn mức tín dụng
2.5. Công cụ lãi suất
3. Vai trò của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô ở Việt Nam
3.1. CSTT với kiểm soát lạm phát
3.2. CSTT với tăng trưởng kinh tế
3.3. CSTT với ổn định việc làm
3.4. Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác
4. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình thực thi CSTT ở Việt Nam những năm qua.
4.1. Về việc sử dụng các công cụ của CSTT
4.2. Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng
4.3. Những tồn tại khác
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ
1. Chuyển đổi công cụ CSTT từ trực tiếp sang gián tiếp
2. Phát triển thị trường tiền tệ
3. Hoàn thiện hệ thống ngân hàng
3.1. Hoàn thiện đối với ngân hàng Trung ương
3.2. Hoàn thiện đối với NHTM
3.3. Hoàn thiện các công cụ của CSTT
4. Các điều kiện khác.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Mở đầu
Cùng với việc chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nhiều chính sách kinh tế mới được ban hành và phát huy tác dụng tích cực đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế. Nhờ đổi mới toàn diện chính sách tiền tệ từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện, bằng việc sử dụng các giải pháp tình thế mạng dạn lúc đầu, đến sử dụng có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ, lạm phát đã được đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp; yêu cầu ổn định tiền tệ bước đầu được thực hiện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta còn gặp nhiều trở ngại trước là sự am hiểu về phương pháp điều hành mới còn nhiều hạn chế trong khi nền kinh tế chuyển đổi còn thiếu những điều kiện để điều hành chính sách tiền tệ theo nghĩa gốc của mỗi công cụ. Vì vậy, việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số và chắc chắn có những bất cập là điều khó tránh khỏi.
Chương 1
Lý luận chung về chính sách tiền tệ và các công cụ của nó
1. Tổng quan về chính sách tiền tệ
1.1. Vai trò của ngân hàng trung ương đối với chính sách tiền tệ
Ngân hàng trung ương có thể ra đời từ sự phát triển và phân hoá hệ thống ngân hàng thương mại kéo dài nhiều thế kịp theo mô hình ngân hàng Anh và các nước châu Âu bằng cách thành lập hoàn toàn mới vào nửa đầu thế kỷ. Song lý do tương đối phổ biến là xuất phát từ yêu cầu can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vục tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Dù với tên gọi khác nhau (NHTW, NHNN, Hệ thống lưu trữ liên bang...), nhưng tất cả chúng đều có chung một tính chất là cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà nước là ngân hàng của các ngân hàng, độc quyền phát hành tiền, thực hiện nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá trị tiền tệ, thiết lập trật tự, bảo đảm sự hoạt động an toàn và ổn định và hiệu quả của toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mỗi đất nước.
Hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là nhiệm vụ trung tâm, là “linh hồn” của NHTW trong lĩnh vực tiền tệ. Điều hành chính sách tiền tệ của NHTW trong nền kinh tế thị trường mang tính chất điều tiết vĩ mô, hướng các tổ chức tín dụng vào thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời vẫn đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHTW thường không can thiệp và không ra lệnh trực tiếp vào các quyết định tác nghiệp của các tổ chức tín dụng mà chủ yếu sử dụng các biện pháp tác động gián tiếp để điều chỉnh môi trường và các điều kiện kinh doanh của các tổ chức tín dụng như: khả năng thanh toán, mặt bằng lãi suất, khối lượng tiền cung ứng, tỷ giá... để thông qua đó đạt tối đa mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Để điều hành chính sách tiền tệ, NHTW phải hình thành và sử dụng hệ thống công cụ của nó. Đặc điểm của các công cụ chính sách tiền tệ là tạo cho NHTW khả năng tác động có hiệu lực đến các yếu tố tiền đề buộc các tổ chức tín dụng phải tự điều chỉnh hoạt động của mình theo hướng chỉ đạo của NHTW nhưng vẫn phải đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh cũng như sự bình đẳng trong môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng.
1.2. Chính sách tiền tệ (CSTT)
1.2.1. Khái niệm và cơ chế thực hiện chính sách tiền tệ
* Khái niệm chính sách tiền tệ
CSTT là một hệ thống những quan điểm, giải pháp, những cách thức mà NHTW thực hiện nhằm tác động tới cung ứng tiền trong nền kinh tế và ảnh hưởng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
CSTT là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTW, thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu về sản lượng, giá cả và công ăn việc làm.
* Cơ chế thực hiện CSTT
Quá trình thực hiện CSTT bao giờ cũng diễn ra theo một cơ chế nhất định. Trong cơ chế này, NHTW sẽ là người thiết kế và điều hành CSTT. Một CSTT của một quốc gia có thể được thực hiện theo hai hướng:
+ CSTT “nới lỏng” là chính sách nhằm tăng thêm khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế làm cho tiền trở nên dồi dào, lãi suất hạ xuống từ đó kích thích tiêu dùng và đầu tư. Kết quả của CSTT “nới lỏng” là sản lượng tăng, nền kinh tế tăng trưởng cao với tỉ lệ thất nghiệp thấp.
+ CSTT “thắt chặt” là chính sách nhằm giảm khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế làm cho tiền tệ trở nên khan hiếm về số lượng, lãi suất bị đẩy lên cao, tổng cầu giảm và do đó giá cả trên thị trường giảm sút, lạm phát bị đẩy lùi.
1.2.2. Mục tiêu của CSTT
Hệ thống chính sách kinh tế (CSKT) vĩ mô là một hệ thống rất đa dạng gồm nhiều CSKT khác nhau tạo thành. Mỗi chính sách có đặc điểm, nội dung và công cụ điều tiết khác nhau nhưng chúng đều có chung một mục đích là tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh, có lợi cho sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế. Trong hệ thống chính sách đó, CSTT giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Nhờ có những ưu điểm mà các CSKT vĩ mô khác không có được cho nên CSTT được coi là công cụ hữu hiệu để điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên là một bộ phận nằm trong hệ thống CSKT vĩ mô, CSTT cũng như các CSKTk vĩ mô khác chỉ có thể phát huy tác dụng một cách đầy đủ khi chúng được kết hợp chặt chẽ với nhau, được thống nhất với nhau cả về mục tiêu cũng như phương pháp tiến hành. Là công cụ vĩ mô của Nhà nước, CSTT phải phục vụ cho việc thực hiện những mục tiêu kinh tế vĩ mô sau:
* Tăng trưởng kinh tế cao.
Bất kỳ CSTT của một quốc gia nào thì mục tiêu cao nhất của nó là sự tăng lên của GDP thực tế. Đó là phần tăng trưởng có được sau khi lấy phần tăng trưởng danh nghĩa trừ đi phần tăng giá trong tăng trưởng cùng thời kỳ. Một nềnkt phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng ổn định là mục tiêu của bầt kỳ một CSKT vĩ mô nào. Bởi lẽ, nền kinh tế có tăng trưởng cao là đồng nghĩa với việc giải quyết các mục tiêu kinh tế khác của CSTT như gỉam thất nghiệp, tăng thu nhập quốc dân.
* ổn định giá cả
Giá cả có tỷ lệ thấp là mục tiêu của mọi nền kinh tế. Khi giá cả lạm phát thấp mức tăng thu nhâplj thực tế của nhân dân sẽ dương, do vậy đời sống người lao động tốt hơn. Nhân dân tin tưởng vào chính quyền và chính sách của Nhà nước. Giá cdả có tỷ lệ lạm phát thấp sẽ đồng thời làm cho lãi suất thực tế dương và lãi suất danh nghiã sẽ thấp hơn, do đó sản xuất sẽ có vốn với chi phí hạ về mặt đài hạn và nền kinh tế sẽ có sức bật đầu tư về lâu dài. Khi giá cả có tỷ lệ lạm phát thấp, hiện tượng đầu cơ sẽ biến mất, giá trị tiền nội địa sẽ được ổn định.
Ngược lại, khi giá cả lạm phát cao, thu nhập người lao động sẽ không tăng kịp với phần tăng giá sẽ làm cho đời sống họ thêm khó khăn, nạn đầu cơ sẽ phát sinh làm cho một số bộ phận giàu lên rất nhanh trong khi đại đa số nhân dân trở nên nghèo hơn. Khoảng cách giàu và nghèo lớn dần và nhân dân mất niền tin vào chính quyền.
ổn định giá cả vì thế là một mục tiêu quan trọng nhất của CSTT.
Việc làm cao cho người lao động làm một mục tiêu kinh tế - xã hội của mọi quốc gia hiện nay. Nếu xã hội có ít công ăn việc làm, tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ dẫn đến hậu quả: lãng phí các nguồn lực, làm giảm sản lượng quốc gia, làm giảm thu nhập trong dân chúng gây khó khăn cho đời sống của họ thậm chí có thể làm tăng các tệ nạn xã hội. Vì vậy việc làm cao là một yêu cầu bức thiết của mọi quốc gia có nền kinh tế phát triển cũng như đang phát triển.
Một chính sách tiền tệ đúng thúc đẩy sản xuất, khuyến khích đầu tư sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống.
* ổn định thị trường tài chính.
Nền tảng tài chính là mục tiêu chủ đạo của CSTT ngoài những mục tiêu nói trên. NHTW phải ổn định hoạt động tài chính của hệ thống tài chính trong nước một cách gián tiếp. Tăng cường hiệu quả cho nó, kể cả thu thập thông tin, hướng dẫn, ngăn ngừa rủi ro cho các tổ chức tài chính trong chiều hướng quản lý hoạt động của nó phù hợp với các mục tiêu của nền kinh tế. Bản thân hệ thống tài chính có những mục tiêu riêng của nó và niều khi những mục tiêu này đối chọi với những mục tiêu chung của nền kinh tế. Vậy vai trò của CSTT là phải hài hoà một cách tối ưu giữa các mục tiêu nói trên để phục vụ tốt nhất cho lợi ích chung mà không làm tổn hại hay hạn chế khả năng phát triển của hệ thống tài chính.
2. Công cụ của CSTT.
Công cụ của CSTT là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất, từ đó mà đạt được các mục tiêu của CSTT.
2.1. Các công cụ trực tiếp.
2.1.1. Lãi suất tiền gửi và cho vay.
NHTW có thể qui định khung lãi suất tiền gửi và cho vay trên thị trường nhưng thông qua cơ chế điều chỉnh cung cầu tiền tệ. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều tiền gưi8r làm tăng nguồn vốn vay., ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Khi muốn tăng khối lượng cho vay, NHTW giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn, khi cần hạn chế đầu tư NHTW sẽ ổn định mức lãi suất cao.
Tuy nhiên biện pháp này làm cho các NHTM mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở Ngân ahngf nhưng lại thiếu vốn đầu tư. Biện pháp này có ưu điểm là giúp Ngana hàng lựa chọn những dự án kinh tế tối ưu để cho vay, nhưng nó cũng làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm. Ngày nay biện pháp này ít được sử dụng ở cdác nước theo cơ chế thị trường bởi trong cơ chế thị trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
2.12. Hạn mức tín dụng.
Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất biện pháp này cho phép NHTW ổn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm đường để đưa nó vào trong nền kinh tế. Khi NHTW xác định hạn mức tín dụng thì canư cứ vào các chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng kinh tế; biến động của chỉ số giá cả; biến động của tỷ giá; tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế;l bộ chi ngân sách. Hạn mức tín dụng sẽ đặc biệt phát huy tác dụng trong nền kinh tế có lạm phát. Song trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng biến đổi không ngừng, biện pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu.
Biện pháp này bộc lộ khá nhiều nhược điểm. nó triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, có tính chất đánh đồng các hoạt động tốt và hoạt động yếu. Trong thực tế, doanh số cho vay hoặc tồn tại dư nợ của các NHTM thông thường thấp hơn hạn mức tín dụng vì có NHTM huy dodọng vốn tốt thì sử dụng hết hạn mức tín dụng còn những ngân hàng hoạt động yếu kém thì không sử dụng hết hạn mức này, đặc biệt khi hệ thống ngân hàng hoạt động chưa tốt thì con số thực tế cho vay của NHTM khác nhiều so vơí con số dự kiến, từ đó không phát huy được vai trò quản lý của NHTW. Biện pháp này có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế bởi với hạn mức tín dụng được NHTW qui định thì các NHTM sẽ tìm đến dự án đầu tư lớn, những lĩnh vực đầu tư dễ sinh lợi nhuận gây ra khó khăn vốn trong các doanh nghiệp nhỏ.
2.2. Các công cụ gián tiếp.
2.2.1. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là khoản teìen gửi của các NHTM ở NHTW, mức tiền gửi này do pháp luật qui định bằng một tỷ lệ nhất định so với cdác khoản nợ của ngân hàng. Thông qua việc thay đổi mức dự trữ bắt buộc NHTW tác động tới việc cung cấp tiền tệ cho nền kinh tế quốc dân. Nếu NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên thì khả năng tín dụng của NHTM sẽ giảm xuống. Mặt khác, để bù lại phần lãi suất đó (do quỹ tiền gửi NHTW không được tính lãi) các ngân hàng phải tăng lãi suất tín dụng do vậy mức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế sẽ giảm xuống. Việc tăng lên hay giảm xuống quỹ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hoặc tăng lương tiền cung ứng cho nền kinh tế qua cơ chế tạo tièn của hệ thống ngân hàng. Vì vậy đó là một công cụ tiềm năng của chính sách tiền tệ. Ngoài ra dự trữ bắt buộc còn đảm bảo việc thanh toán thường xuyên của các NHTM.
Điểm lợi chính của công cụ này là nó tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên khi dự trữ bắt buộc không được trả lại, chúng tương đương với một khoản thuế và có thể dẫn đến hiện tượng phi trung gian hoá. Mặt khác dự trữ bắt buộc thiếu tính mềm dẻo bởi sẽ rất vất vả để thực hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi dữ trữ bắt buộc. Một điểm bất lợi khác nữa của việc sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát việc cung ứng tiền tệ là việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh khoản của các NHTM, gây ra tình trạng không ổn định cho các ngân hàng. Chính vì vậy công cụ dự trữ bắt buộc thường không được khuyến khích và ít được sử dụng.
2.2.2. Lãi suấ chiết khấu.
Chính sách lãi suất chiết khấu là chính sách NHTW cho các NHTM vay dưới nhiều hình thức tái chiết khấu tức là hình thức NHTW tái cấp vốn cho các NHTM. Khi NHTW nâng lãi suất chiết khấu tức là là hạn chế cho vay đối với các NHTM, khả năng cho vay của các ngân hàng giảm lượng tiền gửi giảm đồng nghĩa với việ lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại khi lãi suất tái chiết khấu giảm, các ngân hàng kinh doanh sẽ có khả năng bành trướng tín dụng do được lợi trong việc vay vốn của NHTW, bở vậy NHTM sẵn sàng hạ lãi suất khi cho các doanh nghiệp vay, kích thích đầu tư và sản lượng.
Biện pháp này có ưu điểm là việc vay mượn được thực hiện trên những giấy tờ có giá nên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nộp tương đối chắc chắn, tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của qui luật cung cầu thị trường. nó cũng giúp NHTW thực hiện người vay cuối cùng nhằm tránh khỏi những cuộc sụp đổ tài chính. Chiết khấu là một cách có hiệu quả đặc biệt để cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng trong quá trình xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng bởi vì dự trữ lập tức được điều đến các ngân hàng nào cần thêm dự trữ hơn cả. Chính sách chiết khấu có tác dụng thông báo ý định của NHTW về chính sách tiền tệ trong tương lai.
Việc sử dụng chính sách tiền tệ ít được khuyến cáo, vì nó có hai nhược điểm chinh sau: thứ nhất, ở vào nghiệp vụ này NHTW ở vào thế bị động, NHTW có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM phải đi vay; thứ hai khi NHTW ổn định mức lãi suất chiết khấu tại suất chiết khấu và lãi suất thị trường vì lãi suất vay thay đổi, dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó trong cung ứng tiền tệ, NHTW khó có thể đảo ngược những thay đổi trong lãi suất chiết khấu.
2.2.3. Nghiệp vụ thị trường mở.
Thực chất của hoạt động này là việc NHTW mua và bán các giấy tờ có giá (như cổ phiếu, trái khoán, công trái...) trên thị trường tiền tệ và trong chừng mực hạn chế nhất định cả trên thị trường vốn. Bằng việc bán các giấy tì có giá cho cdác NHTM với lãi suất hấp dẫn, NHTW thu hồi tiền từ lưu thông làm giảm lượng tiền cung ứng, đồng thời khả năng cho vay của các NHTM cũng giảm và giá trị tín dụng tăng lên. Ngược lại, bằng việc mua các giấy tờ có giá, NHTW cung cấp tiền cho các NHTM để cho vay, làm gia tăng lượng tiền cung ứng trên thị trường. Điều quan trọng ở đây là thời hạn của các giấy tờ có giá. Việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn chủ yếu nhằm mục đích cân bằng giao động của tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ, trong khi đó mua bán các giấy tờ có giá dài hạn có ảnh hưởng rõ rệt tới khả năng thanh toán của các NHTM.
Đây được coi là công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có những ưu điểm hơn hẳn so với các công cụ khác.
Phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTW trong đó NHTW hoàn toàn kiểm soát được khối lượng giao dịch.
Là công cụ linh hoạt giúp NHTW luôn luôn thay đổi được tình thế của mình khi mắc phải sai lầm.
Nghiệp vụ này có thể sử dụng được ở bất kì một mức độ nào khi có yêu cầu căn cứ vào khối lượng các loại giấy tờ có giá bán ra.
Nghiệp vụ thị trường mở có thể tiến nhanh chóng không gây những chậm trễ về mặt hành chính và ít tốn kém về mặt chi phí.
Tuy nhiên, khi NHTW mua bán chứng khoán trên thị trường thì vẫn phải phụ thuộc vào người mua bán (các NHTM). Và để sử dụng được nghiệp vụ này thì phỉa có sự phát triển khá cao của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt, tiền trong lưu thông phần lớn nằm trong tài khoản của ngân hàng, đòi hỏi thị trường tài chính phải tương đối phát triển.
chương 2. chính sách tiền tệ ở việt nam.
1. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở việt nam.
Nền kinh tế nước ta chuyển từ chế độ kế hoạch hoá tập trung sagn cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chúng ta phải đi những bước đầu teien, vừa xây dựng và cải cách tổ chức hoạt động hệ thống ngân hàng, vừa định hướng chính sách tiền tệ.
Sau khi hai pháp lệnh ngân hàng được ban hành năm 1990 (pháp lệnh về ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh ngân hàng - Hợp tác xã tín dụng - Công ty tài chính), hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp, phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống ngân hàng của nền kinh tế thị trường.
Chính sách tiền tệ đã được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụ thể: Chính sách tín dụng tạo ra các công cụ huy động vốn, mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế; chính sách lãi suất thực hiện thông qua xoá bỏ bao cấp vốn, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất cho vay phù hợp với sự biến động của lạm phát...; chính sách quản lí ngoại hối và một số công cụ hỗ trợ khác.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động ngày càng có hiệu quả, thể hiện vai trò quản lí thông qua: Ban hành và hoàn thiện cơ chế chính sách, điều hành các chính sách ấy hoạt động có hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức của hệ thống ngân hàng theo hướng gọn nhẹ có khoa học; củng cố hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, mở rộng quan hệ quốc tế; xây dựng qui chế, cấp giấy phép thành lập và quản lý hệ thống các tổ chức tín dụng đa thành phần; xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ngày càng hoàn thiện, có hiệu quả, góp phần kiềm chế lạm phát, từng bước ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam.
Đến tháng 10 - 1998, hai pháp lệnh ngân hàng đã được thay thế bằng hai luật ngân hàng: Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Hai luật này đã giúp hoạt động của hệ thống ngân hàng được tự do hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với những thay đổi lớn lao trong lĩnh vực ngân hàng.
2. Chính sách tiền tệ và việc sử dụng các công cụ CSTT những năm qua ở Việt Nam.
2.1. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM).
NVTMM bắt đầu vận hành vào 12/7/2000 đã có tác động nhất định tới vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia thị trường, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối kết hợp giữa thị trường liên ngân hàng - thị trường mở - thị trường chứng khoán (TTCK) trong các thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay.
Hoạt động của NVTTM được ban hành theo quyết định số 85/2000/QD - NHNNN 14 ngày 09/3/2000. Qua nửa năm hoạt động, NVTTM đã gólp phần khắc phục khó khăn bước đầu trong thời vận hành.
Thành viên tham gia NVTTM là các TCTD và NHNN, bao gồm 15 thành viên là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng công thương Việt Nam, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, NHTM cổ phần Đông á, Ngân hàng CHINFON, NHTM cổ phần Sài Gòn Thường Tín, NHTM cổ phần Quốc tế, NHTM cổ phần Phương Nam, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, NHTM cổ phần Quân đội, NHTM cổ phần Tân Việt, ABN AMRO Bank, Công ty tài chính bưu điện. Tuy chưa phải là nhiều song số lượng các TCTD này đã đại diện cho các TCTD hiện có ở Việt Nam. Qua các phiên giao dịch, số thành viên tham gia dự thầu là nhỏ, phiên giao dịch đông nhất có 5 thành viên dự thầu, thấp nhất là một thành viên, trong đó các NHTM quốc doanh tham gia dự thầu và trúng thầu là chủ yếu, còn các TCTD khác hầu như chưa tham gia dự thầu. Khối lượng giao dịch qua NVTTM từ 12/07/2000 đến ngày 15/11/2000 của Ngân hàng công thương Việt Nam là 810,420 tỷ đồng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là 228,020 tỷ đồng, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam là 393,390 tỷ đồng.
Về hàng hoá giao dịch, theo quy chế hiện hành thì chỉ có các giấy tờ có giá ngắn hạn mới được mua bán ở thị trường mở, song cho đến nay, chỉ có tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN được mua bán. Tín phiếu NHNN được mua bán nhiều nhất với số lượng 1.070 tỷ/1.448.5.00 tỷ đồng. Tín phiếu kho bạc Nhà nước chỉ có 378,500 tỷ đồng nếu tính theo giá trị khi đến hạn thanh toán. Như vậy hàng hoá ở thị trường mở là khá đơn điệu và chỉ tập trung ở các NHTM quốc doanh.
Về phương thức giao dịch, các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu kho bạc nhà nước, còn phương thức bán hẳn ít được thực hiện và đặc biệt phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực thi. Tính đến ngày 15/11/2000, doanh số trúng thầu ở hình thức mua hẳn ở 13 phiên giao dịch là 480 tỷ đồng, doanh số mua có kỳ hạn là 418,50 tỷ đồng, doanh số bán hẳn là 550 tỷ đồng. Phương thức đấu thầu thường là đấu thầu lãi suất.
2.2. Công cụ lãi suất cho vay triết khấu.
Lãi suất tái triết khấu là một công cụ quan trọng giúp NHTW thực hiện CSTT. Nhưng việc áp dụng công cụ này ở Việt Nam những năm vừa qua còn đang ở trạng thái giản đơn do các phương tiện làm căn cứ để NHNN thực hiện cho vay triết khấu còn chưa hoàn thiện (đó là các thương phiếu, hối phiếu).
Trong quá trình cho vay triết khấu, NHNN luôn luôn điều chỉnh lãi suất cho vay lãi suất phù hợp với mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ. Có thể nói trong thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây cho vay triết khấu thực sự trở thành công cụ đắc lực trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam.
Việc điều chỉnh lãi suất cho vay triết khấu của NHNN những năm vừa qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM và khả năng huy động vốn tỏng nền kinh tế đã tăng lên nhiều. Cụ thể: Trong năm 1997, lãi suất triết khấu được điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với diễn biến của nền kinh tế. Từ tháng 03 đến tháng 07/1997: Mức lãi suất triết khấu là 1,1%/tháng. Từ tháng 8 trở đi, lãi suất triết khấu quy định là 0,9%/tháng. Năm 1998, NHNH quyết định tăng lãi suất cho vay triết khấu lên mức 1,1%/tháng. Đến năm 1999, NHNN giảm lãi suất cho vay triết khấu đối với các NHTM lần 1 (vào tháng 01/1999) là 1%/tháng, lần 2 còn 0,85%/tháng (31/05/1999). Sau nhiều năm chuẩn bị dự án, ngày 02/08/2000, quyết định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đã được ban hành và trên cơ sở đó các NHTM đựoc chủ động quy định mức lãi cho vay cụ thể và lãi suất tiền gửi xoay quanh mức lãi suất cơ bản. Trong những tháng 08,09,10,11,12/2000, lãi suất cơ bản đối với nội tệ (đồng VN) vẫn giữ nguyên ở mức 0,75%/tháng nhưng lãi suất tái chiết khấu tăng từ 0,40% lên 0,45% tháng, lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN được điều chỉnh từ 0,4% lên 0,5%.
2.3. Công cụ dự trữ bắt buộc.
Từ năm 1990, dự trữ bắt buộc (DTBB) đã trở thành công cụ chủ yếu để điều hành CSTT ở Việt Nam. Theo pháp lệnh Ngân hàng (ban hàng năm 1990) tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM. Xong xét hoàn cảnh thực tế bấy giờ: Tiềm lực của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN đã quy định tỷ lệ DTBB đối với các NHTM ở nước ta là mức 10%. Song trong thời gian gần đây NHNN cũng liên tục giảm tỷ lệ DTBB đối với các TCTD với mong muốn khuyến khích đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng.
2.4. Công cụ hạn mức tín dụng.
Công cụ hạn mức tín dụng được NHNN áp dụng để điều hành CSTT trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, do các công cụ gián tiếp để điều hành CSTT chưa phát huy đầy đủ hiệu quả. Việc đưa ra và áp dụng công cụ này trong những năm qua đã có những kết quả nhất định, chứng tỏ công cụ này phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam những năm đầu chuyển sang kinh tế thị trường.
Chẳng hạn, do lạm phát những năm 1990 -1991 còn ở tỷ lệ cao, để khống chế lạm phát, NHNN chủ trương giảm bớt lượng tiền cung ứng hạn mức tín dụng đối với tất cả NHTM là 34,5% (năm 1992) và đã đạt được kết quqả thực tế rất khả quan là mức tăng trưởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến, mức lạm phát thấp hơn dự kiến rất nhiều tiền tệ dần đi vào ổn định. Những năm sau đó, để kiểm soạt lạm phát, NHNN cũng đưa ra tỷ lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa phải cho các NHTM. Nhưng tình hình thực tế có khác đó là hầu hết các NHTM đều có xu hướng vượt quá chỉ tiêu hạn mức tín dụng theo kế hoạch đã được giao. Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạo thêm những nhân tố khó khăn cho các NHTM trong viẹec mở rộng tín dụng. Vì vậy, từ quý II năm 1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này như một công cụ thường xuyên để điều hành CSTT.
2.5. Công cụ lãi suất.
ở Việt Nam lãi suất được sử dụng như công cụ của CSTT. Đặc biệt những năm gần đây, việc điều chỉnh lãi suất theo hướng từng bước nới lỏng của NHNN được coi như một đối sách nhạy bén trước những thay đổi của cung - cầu về tiền tệ.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, năm 1989, NHNN thực hiện một cơ cấu kiểm soát lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi phức tạp, ổn định các mức lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay cụ thể theo đối tượng, ngành nghề kinh tế và kỳ hạn vay mượn.
Năm 1990, cơ chế lãi suất trèn tín dụng và sàn tiền gửi đã được áp dụng, nhưng vẫn được phân biệt theo kỳ hạn và loại hình khách hàng.
Kể từ năm 1993, NHNN đã bỏ hẳn hình thức lãi suất theo ngành, chỉ quy định các mức trần, sàn lãi suất theo kỳ hạn giao dịch. Cũng vào thời gian này, cơ chế lãi suất thoả thuận đã được thí điểm áp dụng đối với nguồn vốn hình thành do phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Trên thị trường, vì cầu tín dụng cao hơn cung nên lãi suất cho vay đã được đẩy lên rất cao và cơ chế lãi suất thoả thuận đã bị loại bỏ.
Bắt đầu 01/01/1996, NHNN thực thi chính sách trần lãi suất, tín dụng và quản lý chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra (bỏ việc điều tiết trực tiếp lãi suất tiền gửi). Cũng vào thời gian này, chế độ thuế doanh thu đánh vào hoạt động tín dụng bị xoá bỏ, chi phí trung gian tài chính được điều chỉnh giảm mạnh, nên trần lãi suất tín dụng cũng đã được điều chỉnh giảm mạnh. Lãi suất tín dụng trung và dài hạn lần đầu tiên đã được điều chỉnh cao hơn lãi tín dụng ngắn hạn.
Năm 1998 là năm tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi thông qua xoá bỏ chênh lệch lãi suất đầu ra, NHNN chỉ quản lý duy nhất trần lãi suất tín dụng. Cuối năm 1998, lãi suất cho vay ngắn hạn giảm xuống còn 1,1%/ tháng; cho vay trung hạn, dài hạn còn 1,15%/tháng.
Sau mấy tháng đầu năm 1999, thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 198/1999/QD- NHNN 1 điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay ngắn, trung và dài hạn được thống nhất ở mức chung là 1,15%/tháng, được áp dụng chung cho các NHTM ở cả thành thị và nông thôn. Đến tháng 10/1999, trần lãi suất cho vay bằng VND của các NHTM được quy định ở mức chung là 1,05%/tháng.
Vào năm 2000, việc kiểm soát lãi suất tiết kiệm ngoại tệ cũng đã được xoá bỏ. Ngày 05/08/2000, NHNN đã chính thức chuyển sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản, các NHTM được chủ động quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh mức lãi suất cơ bản, trên cơ sở đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi. Theo cơ chế mới hàng tháng, NHNN công bố mức lãi suất cơ bnả, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu.
Trong tất cả các tháng 08, 09, 10,11 và 12/2000, lãi suất cơ bản đối với tiền VNĐ vẫn liên tục giữ nguyên ở mức 0,75%/tháng vớid biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn, 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay ngoại tệ (USD) được xác định trên cơ sở lãi suất huy động vốn lên một giới hạn nhất định, còn lãi suất cho vay thì hầu như không tăng, mức lãi suất tiền gửi VNĐ cao nhất của kỳ hạn 12 tháng ở các NHTM cổ phần lên tới 0,6 - 0,65%/tháng; kỳ hạn 6 tháng: 0,4 - 0,55% /tháng. Tiền gửi USD kỳ hạn 12 tháng phổ biến ở các Ngân hàng là 5,5% - 6,0%/năm.
Như vậy, hiện tại lãi suất cho vay nội tệ (VNĐ) hiện nay ở Việt Nam 7,5% - 10%/năm thấp nhất trong hơn 10 năm qua và lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng (bắt đầu từ tháng 3/2001).
3. Vai trò của CSTT trong điều hành kinh tế vĩ mô ở Việt Nam.
3.1. CSTT với kiểm soát lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát thấp là mục tiêu của mọi nền kinh tế. Với vai trò to lớn của mình để làm được điều đó, NHNN Việt Nam đã phải tiến hành thực hiện những công cụ của CSTT theo hướng có lợi nhất. Theo từng thời kỳ, NHNN sẽ đưa ra những quyết định hợp lý, đúng đắn sao cho nền kinh tế đạt được những kết quả to lớn nhất.
Có thể thấy tỷ lệ lạm phát ở nước ta các thời kỳ:
Năm
91
92
93
94
95
96
97
98
99
Lạm phát %
6,8
17,5
5,2
14,4
12,7
4,5
3,7
9,2
0,1
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế và niên giám thống kê 1999
Năm 1991, lạm phát mức cao 68%. Với mục tiêu đẩy lùi lạm phát, NHNN “thắt chặt” cung tiền, nhờ vậy đến năm 1992 lạm phát đẩy xuống còn 17,6%. Đến năm 1993, NHNN tiếp tục “thắt chặt” cung tiền với những biện pháp như ổn định hạn mức tín dụng, áp dụng quy chế DTBB..., nhờ đó lạm phát tiếp tục giảm (chỉ còn 5,2%). Năm 1994, tỷ lệ phát bị đẩy lên cao (14,4%) là do nhiều nguyên nhân song tỷ lệ này lại bị giảm ngay vào các năm sau đó. Có được kết quả như vậy là do NHNN đã áp dụng các công cụ nhằm “thắt chặt” cung tiền. Năm 1998, do nhiều nguyên nhân trong và ngoài nước, tốc độ loạm phát ở mức cao hơn so với hai năm trước đó: 9,2%. Tuy nhiên lạm phát vẫn được kiềm chế ở mức dưới 10% theo chỉ tiêu Quốc hội đã đề ra. Từ 1999 đến nay tình trạng giảm phát xuất hiện, đặc biệt là namư 2000. Mặc dù 2 tháng đầu năm 2000, lạm phát là 2,0% nhưng cả năm giảm phát là 0,6%.
Như vậy, những năm vừa qua, CSTT và việc điều hành CSTT của NHNN Việt Nam có thể coi là bàn tay hữu hiệu đẩy lùi và kiềm chế lạm phát. Lạm phát bị đẩy lùi trước hết làm hco giá cả ổn định, đời sống của nhân dân nói chung và người lao động nói riêng có xu hướng được cải thiện, ngoài ra nó còn tạo môi trường đầu tư lành mạnh cho các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước.
3.2. CSTT với tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu kinh tế vĩ mô đồng thời cũng là mục tiêu của CSTT. Kết quả đổi mới kinh tế trong thời gian qua đặc biệt là đổi mới CSTT được đánh dấu bằng sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Bức tranh toàn cảnh trên được thể hiện qua một số số liệu sau:
Năm
CDP (%)
Công nghiệp (%)
Nông nghiệp (%)
Dịch vụ (%)
1991
6,0
9,9
2,2
8,3
1992
8,6
12,6
6,3
8,6
1993
8,1
12,1
3,8
9,2
1994
8,5
13,0
4,5
10,3
1995
9,5
13,9
4,7
10,9
1996
9,3
14,2
4,4
8,8
1997
8,2
13,6
4,3
8,8
1998
5,8
12,1
3,5
4,9
1999
4,8
10,4
5,2
2,3
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 2000 - 2001
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Năm đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định. Có được kết quả như vậy là nhờ NHNN đã có những điều chỉnh, quyết định đúng đắn, đặc biệt là về vấn đề lãi suất đã có những cải cách và điều chỉnh hợp lý.
Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định từ năm 1992 đến 1997 (tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế là 8,45% từ 1992 đến 1998). Kể từ 1991 trở đi, năm 1998 và 1999 tuy có tăng trưởng, song ở mức thấp nhất và có xu hướng chậm lại ở một số ngành.
Năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,7%, vượt mức chỉ tiêu đầu năm do Quốc hội đề ra là 5,5 - 6% và cao hơn nhiều so với năm 1999 là 4,8%. Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp cả năm tăng 15,5% (kế hoạch là 10,5 - 11%) giá trị sản xuất nông, lâm, ngư, nghiệp 4,9% (kế hoạch là 3,5 - 4%), dịch vụ tăng 6% (kế hoạch là 5 - 5,5%). Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2000 tăng dần qua từng quý và với kết quả như vậy, năm 2000 nước ta đã chặn đà giảm sút về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Bình quân GDP trên đầu người năm 2000 đạt khoảng 400 USD/ người.
Mặc dù, mới chỉ qua 3 tháng, nền kinh tế Việt Nam đã có những tăng trưởng khá cả về lượng tuyệt đối cũng như tốc độ (so với cùng kỳ các năm trước). Nét nổi bật là GDP tăng cao hơn cùng kỳ năm 2000, giá tị sản xuất nông nghiệp và dịch vụ đều tăng so với cùng kỳ năm trước, ngành công nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng 2 chữ số với mức độ cao nhất so với cùng kỳ trong 4 năm trước.
3.3. Chính sách tiền tệ với ổn định việc làm.
Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định đã góp phần giải quyết nhiều mặt về xã hội trong đó đặc biệt lưu tâm tới việc làm. Từ trước đến nay lao động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm đa số (70% dân số). Đây là loại hình lao động có tính chất vụ mùa. Cùng với sự phát triển kinh tế là sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Sự phát triển của các ngành công nghiêklpj và dịch vụ tỏng thời gian qua đòi hỏi phải được bổ sung lực lưoựng lao động. Bên cạnh đó là việc mở rộng vốn đầu tư cho mọi thành phần kinh tế cũng cần phải sử dụng số lượng lực lượng lao động lớn hơn. Đây là những yếu tố giúp tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống.
Theo báo cáo thống kê thì những năm gần đây, Việt Nam có tỷ lệ tạo việc làm nhanh hơn việc tăng dân số, vì vậy tỷ lệ thất nghiệp có chiều hướng giảm đi. Ước tính trong thời kỳ 1995 - 1998, Việt Nam đã giải quyết việc làm mới cho khoảng 5,2 triệu người, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm mới cho khảng 1,3 triệu người. Rõ ràng, thông qua việc mở rộng đầu tư tín dụng cho các thành phần kinh tế, tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh và dịch chuyển cơ cấu kinh tế.... công ăn việc làm cho người lao động được cải thiện.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV022.doc