Một chính sách tiền tệ hợp lý là điều mà bất kì quốc gia nào cũng quan tâm song khi xây dựng CSTT phải dựa vào các điều kiện về môi trường kinh tế, chính trị, xã hội,. trong từng giai đoạn cụ thể. Đồng thời phải có một hệ thống công cụ đầy đủ, môi trường hoàn thiện để phát huy hiệu quả của các công cụ đó.
Việt nam đang bước vào thế kỉ XXI, thế kỉ của nền kinh tế tri thức, thế kỉ của hội nhập quốc tế và cũng là thế kỉ đòi hỏi Việt Nam phải tăng tốc để thu hẹp khoảng cách nghèo nàn lạc hậu so với các nước trong khu vực và thế giới. CSTT cùng các chính sách kinh tế vĩ mô khác đã góp phần rất lớn trong việc ổn định nền kinh tế trong thời gian qua tuy nhiên Việt Nam vẫn là một nước kém phát triển, khả năng cạnh tranh yếu, thu nhập bình quân đầu người thấp, cho nên trách nhiệm của NHNN trong việc vận hành và hoàn thiện các công cụ của chính sách vĩ mô nói chung và CSTT nói riêng là rất nặng nề. Một xã hội ổn định và phát triển lành mạnh, hiệu quả và bền vững trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa là những gì chúng ta cần vươn tới.
50 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iai đoạn đầu chuyển sang KTTT ở nước ta. Tuy chưa có một lịch sử lâu đời, nhưng các NHTM cũng phát huy đầy đủ khả năng, vai trò của chúng. Vì vậy với vai trò của mình, NHTW phải thiết lập một hệ thống công cụ mới phù hợp với điều kiện hiện tại nhằm điều hành CSTT.
1. Công cụ truyền thống nêu trong pháp lệnh
Để điều hành CSTT trong điều kiện đã có hệ thống ngân hàng hai cấp và các tổ chức tài chính đa dạng, tại các nước người ta sử dụng một số công cụ truyền thống. Các công cụ đó cũng tương đối phù hợp với điều kiện nước ta, do đó tại pháp lệnh ngân hàng nhà nước cũng nêu ra để ngân hàng áp dụng. Đó là: dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở.
1.1. Dự trữ bắt buộc (DTBB)
Việc sử dụng công cụ DTBB có thể làm thay đổi khối lượng tiền lưu thông, thậm chí thay đổi theo một bội số lớn hơn rất nhiều. Vì công cụ này có tác dụng hạn chế khả năng tạo tiền của các NHTM mà chúng ta sẽ nghiên cứu dưới đây.
1.1.1. Mối quan hệ giữa khả năng tạo tiền và DTBB
Khả năng tạo tiền của các NHTM đã biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền ký gửi mới lớn hơn gấp nhiều lần khi tiền qua nhiều ngân hàng. Khả năng tạo tiền tạo ra một bội số của mức cung tiền tệ. Khả năng này liên quan trực tiếp đến công cụ DTBB tối thiểu trong hệ thống công cụ của CSTT.Vì vậy nghiên cứu kỹkhả năng này sẽ có biện pháp tốt để sử dụng công cụ DTBB .
Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau để thấy được các NHTM đã tạo bút tệ như thế nào:
Hãy bắt đầu từ một khoản tiền gửi tại NHTM 1 và chẳng hạn với số tiền là 1.000.000 đ. Sau khi nhận được số tiền gửi này, NHTM 1 phải thực hiện DTBB theo quy định của NHTW - được giả sử với tỷ lệ là 10%. Thế thì NHTM 1 phải trích 100.000 đ nộp tại NHTW và còn lại 900.000 sẽ đem cho vay hoặc thực hiện các bút toán thanh toán khác theo chức năng vốn có của mình.
Giả thiết rằng, số tiền 900.000 đ cho A vay hoặc thanh toán tiền gửi trước đây được A mang đến gửi ở NHTM 2. Tại NHTM này, cũng như trên, phải trích 10% để nộp lên NHTW và chỉ còn lại 90% - tức 810.000 đ sẽ đem cho vay hoặc thực hiện các bút toán thanh toán khác.
Cứ tiếp tục như vậy, từ nguồn 1.000.000 đ ban đầu đó, đến các ngân hàng tiếp theo. Chúng ta có thể tổng hợp qua bảng số sau:
Vị trí từng NH trong chuỗi dây chuyền
Tiền gửi mới
(đ)
Cho vay và đầu tư mới(đ)
Dự trữ mới
(đ)
NH ban đầu
NH thứ 2
NH thứ 3
v.v...
1.000.000
900.000
810.000
...
900.000
810.000
729.000
...
100.000
90.000
81.000
...
Tổng của toàn bộ hệ thống ngân hàng
10.000.000
9.000.000
1.000.000
Như vậy khi tỷ lệ DTBB là 10% (tiền gửi mới của ngân hàng tiếp theo sẽ là 90% hay 9/10 so với số tiền gửi của ngân hàng trước nó) thì tổng số tiền gửi mới được hệ thống ngân hàng tạo ra sẽ gấp 10 lần tiền gửi ban đầu. Có thể khẳng định rằng, việc tạo ra tiền gửi mới gấp bao nhiêu lần là phụ thuộc trực tiếp vào tỷ lệ DTBB đã quy định. Điều này có liên quan tới việc sử dụng công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc trong hệ thống công cụ của CSTT.
Tỷ lệ này có tính chất hai mặt:
Mặt là tích cực là, khi tỷ lệ DTBB càng cao thì mức độ an toàn trong hoạt động của các NHTM càng cao.
Mặt tiêu cực là, công cụ này của CSTT sẽ kém hiệu lực khi tỷ lệ này càng cao sẽ đồng thời dẫn đến hệ số sử dụng vốn cuả các NHTM quá thấp, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách lãi suất, thậm chí bất lợi cho kinh doanh và huy động vốn của các NHTM; đình đốn tín dụng.
Tỷ lệ DTBB đặt ra, nếu quá cao đến mức nào đó sẽ làm cho các NHTM mất hẳn khả năng tạo tiền, một khả năng cần phải có của ngân hàng đồng thời mất khả năng kinh doanh.
Sự ra đời của hệ thống NHTM là phù hợp với yêu cầu khách quan của KTTT nhưng khả năng tạo tiền của nó đòi hỏi NHTW phải thiết lập một hệ thống công cụ của CSTT thích hợp để quản lý và điều khiển khối lượng tiền.
1.1.2 Quá trình sử dụng công cụ DTBB ở Việt Nam
Tại điều 45 pháp lệnh NHNN đã quy định " tỷ lệ DTBB ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Trong trường hợp cần thiết hội đồng quản trị NHNN quyết định tăng tỷ lệ này trên mức 35% và NHNN trả lãi cho mức tăng đó ".
Trên thực tế, công cụ này được bắt đầu sử dụng từ cuối năm 1989, với tổng số tiền các NHTM phải ký gửi hơn 100 tỷ đồng, năm 1990 là 356 tỷ đồng và các năm sau vẫn được thực hiện theo mức 10% tính trên số tiền gửi của khách hàng.
Thực tế trong giai đoạn đầu, tỷ lệ 10% được ổn định một cách cố định, mặc dù chính sách tín dụng từ năm 1989 đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau theo chủ trương lúc thì thắt chặt, khi thì nới lỏng và tiến tới tự do hoá lãi suất. Thực hiện việc bơm tiền vào lưu thông, điềukhiển khối lượng tiền lưu thông luôn luôn được thực hiện theo những dự kiến nhất định và bằng những công cụ khác nhau nhưng công cụDTBB chưa được sử dụng nhạy bén, nó vẫn thực hiện một tỷ lệ ổn định. Song trong giai đoạn tiếp theo - kể từ đầu năm 1994 - công cụ DTBB đã có nhiều đổi mới. Năm 1994, NHTW đã quy định bổ sung tỷ lệ DTBB đối với loại tiền gửi không kỳ hạn là 13%, và có kỳ hạn là 7%. Tiếp đó, ngày 19/9/1995 NHTW ban hành quyết định số 260/QĐ-NHNN1 quy định mức DTBB được tính chung cho tất cả các loại tiền gửi - không phân biệt tiền gửi không kỳ hạn hay có kỳ hạn - dưới 1 năm là 10%, đồng thời trong cơ cấu tiền DTBB cũng thay đổi, đó là quy định có 70% phải gửi tại NHNN và các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền DTBB phải gửi tại NHNN (duy trì hàng ngày). Bước đổi mới tiếp theo gắn liền với sự ra đời của 2 luật ngân hàng. Từ năm 1999, công cụ DTBB được áp dụng mở rộng thêm với các đối tượng: ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, HTX tín dụng, tỷ lệ DTBB từ 0-20% và đặc biệt số tiền DTBB được tính bình quân số dự tiền gửi tại NHNN trong kỳ duy trì. Đặc biệt trong năm 2000, việc điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ đã có tác dụng hạn chế dòng chuyển đổi từ VND sang USD, khắc phục tình trạng khan hiếm VND của các tổ chức tín dụng, góp phần thực hiện mục tiêu CSTT.
1.1.3. Một tỷ lệ DTBB hợp lý
Tỷ lệ DTBB là một công cụ dùng để hạn chế bội số mức cung cầu của tiền tệ. Bội số này bắt nguồn từ khả năng tạo tiền của các NHTM. Trong thời kỳ kinh tế ổn định, việc tạo ra tiền gửi mới không phương hại gì mà lại có lợi cho sản xuất, kinh doanh. Vì vậy quá trình tạo tiền đó mới có thể tồn tại lâu dài bao thế kỉ nay.
Một tỷ lệ DTBB hợp lý mới sẽ làm cho các NHTM có thể thực hiện được việc tạo tiền và cũng chỉ khi có một tỷ lệ như vậy mới có thể hạn chế được khả năng tạo tiền khi cần hạn chế. Tỷ lệ đặt ở mức phù hợp khi sử dụng nó có thể sẽ thực hiện được việc rung chuyển mạnh bội số mức cung tiền tệ. Tuy nhiên, quá trình điều hành CSTT đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ toàn hệ thống công cụ. Xét trên mặt lý thuyết, bản thân các công cụ cũng đã có mối quan hệ với các công cụ khác. Nếu chỉ sử dụng riêng công cụ DTBB để thắt chặt tín dụng thì ắt các công cụ khác sẽ bị kích hoạt, gây ra phản ứng dây chuyền và có thể sẽ làm đình trệ tín dụng. Trên thực tế, công cụ này có mối quan hệ chặt chẽ với lãi suất tín dụng.
Tỷ lệ DTBB thực hiện luôn thay đổi thường xuyên phù hợp với yêu cầu của việc thực hiện CSTT và chính sự thay đổi thường xuyên trong quá trình thực hiện mới làm cho công cụ này trở nên có ý nghĩa. Tuy vậy, không phải ngẫu nhiên hoặc vô căn cứ mà tại nhiều nước họ chỉ áp dụng phổ biến tỷ lệ DTBB là 10% trở xuống.
1.2. Lãi suất tái chiết khấu
Lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu là một công cụ khá nhạy cảm trong quá trình điều hành khối lượng tiền tệ và đã được nhà nước cấp giấy phép sử dụng tại điều 41 và 43 pháp lệnh NHNN Việt Nam. Nhưng trong thực tế ở nước ta, do đang thừa hưởng một tiềm thế của một nền lưu thông trong đó không được phép tồn tại tín dụng thương mại, vì vậy chưa có các công cụ truyền thống trực tiếp để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu như các loại kỳ phiếu, thương phiếu.... Do đó việc tái chiết khấu đang được thực hiện dựa trên căn cứ các chứng từ do NHTM đã cho vay, nhưng chưa đến hạn các doanh nghiệp phải trả nợ. Hình thức này được thực hiện bằng cách, các NHTM, các tổ chức tín dụng đem một số loại giấy tờ có giá trị đến NHTW làm vật thế chấp để vay tiền. Căn cứ vào các chứng từ đó, NHNN cho các NHTM vay lại những khoản nợ mà các NHTM đã cho các doanh nghiệp vay. Loại tín dụng này nhằm giải quyết khó khăn tài chính tạm thời của các NHTM. Bên cạnh phương pháp tái chiết khấu kiểu này, NHTW còn thực hiện phương thức " mua lại " các dự án đã được các ngân hàng thẩm định trước khi đầu tư, nhưng NHTM không đủ nguồn vốn
Việc chiết khấu và tái chiết khấu theo phương thức sử dụng công cụ đã trình bày ở trên vẫn mang dáng dấp kiểu tín dụng trực tiếp. Như vậy sẽ tạo ra sự cộng hưởng về áp lực tiền tệ trong lưu thông. Yêu cầu việc tái chiết khấu là cần có khoảng cách thời gian và không gian với cho vay trực tiếp (hoặc chiết khấu lần đầu) để tạo ra một sóng bằng phẳng (theo kiểu san bằng đáp tuyến của sóng điện từ), làm giảm bớt sự mấp mô của giá cả. Mặt khác, trên thực tế thời gian qua việc mua lại các dự án và cho vay cầm cố thực hiện được rất ít vì những công cụ thực hiện chưa đáp ứng và chưa thích hợp.
Thông thường lãi suất tái chiết khấu điều khiển toàn bộ lãi suất tín dụng trên thị trường tiền tệ. Khi NHTW cần thi hành chính sách thắt chặt tín dụng thì NHTW tăng lãi suất chiết khấu làm cho tiền tệ khan hiếm, giá của vốn tức là lãi suất thị trường tăng lên và ngược lại là khi NHTW hạ thấp lãi suất chiết khấu thì lãi suất tín dụng cũng giảm xuống.
Đối với việc cho vay theo hình thức mua lại dự án đầu tư hoặc cho vay cầm cố, NHTW thường áp dụng một tỷ lệ lãi suất bị động, chạy theo lãi suất của các NHTM quốc doanh. Chỉ có các NHTM quốc doanh mới chịu sự chi phối và thực thi công cụ này, còn các ngân hàng cổ phần hoàn toàn đứng ngoài cuộc với các công cụ trung gian trong một thời gian rất dài. Rồi đây, khi thị trường tiền tệ phát triển, các công cụ lưu thông đa dạng; thương phiếu, trái phiếu... ra đời, việc mua lại, cho vay lại nói trên sẽ không còn chỗ đứng.
1.3. Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM)
Nghiệp vụ này là công cụ quan trọng và chủ động của NHTW trong việc thay đổi cơ số tiền tệ. Điển hình của hoạt động này là việc NHTW trực tiếp mua-bán các trái phiếu nhà nước, trái phiếu ngân hàng quốc gia nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các NHTM và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tệ.
Thị trường mở ở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/7/2000 - sự kiện này ghi nhận việc chuyển điều hành CSTT từ công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp của NHNN Việt Nam. Nó đã có tác động nhất định tới vốn khả dụng của các TCTD tham gia thị trường, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối kết hợp giữa thị trường liên ngân hàng - thị trường mở - thị trường chứng khoán trong các thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay.
NVTTM của NHNN Việt Nam là hoạt động hoàn toàn mới cả về lý luận và nội dung hoạt động đối với Việt Nam mà điều kiện vận hành và phát huy hiệu quả của nó không phải là dễ dàng. NVTTM là một trong các công cụ tái cấp vốn của NHTW, có thể nói là công cụ tái cấp vốn có hiệu quả nhất của CSTT. NVTTM là công cụ gián tiếp của CSTT qua việc mua bán các giấy tờ có giá giữa NHTW và các chủ thể có liên quan nhằm tác động trực tiếp tới lãi suất trên thị trường vốn ngắn hạn. Thành viên tham gia thị trường này là NHNN, các TCTD. Tuy nhiên, đến nay NHNN chỉ cấp phép hoạt động cho 15 thành viên. Qua các phiên giao dịch, số thành viên tham dự là nhỏ, phiên giao dịch đông nhất chỉ mới có 5 thành viên dự thầu và thấp nhất là một thành viên, trong đó các NHTM quốc doanh tham gia dự thầu và trúng thầu chủ yếu, còn cá TCTD khác hầu như chưa tham gia dự thầu. Hàng hoá cho nghiệp vụ này còn rất nhiều hạn chế và đơn điệu - chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN.
Là một công cụ gián tiếp quan trọng của CSTT song còn non trẻ, vì vậy, cần có những biện pháp, chính sách nhằm hỗ trợ và hoàn thiện công cụ này.
2. Những công cụ bổ trợ
2.1. Chính sách ngoại hối
Ngoài các công cụ truyền thống, người ta còn sử dụng chính sách ngoại hối để can thiệp trên thị trường hối đoái như một công cụ trung gian, bổ trợ cho các công cụ truyền thống trong việc thực thi CSTT.
Tỷ giá là một mắt xích quan trọng trong mối quan hệ khăng khít giữa bản vị tiền tệ hoặc tiền thật (vàng) với bản tệ một nước, NHTW tìm cách can thiệp khi tỷ giá biến động, chống nguy cơ khủng hoảng tỷ giá dẫn đến khủng hoảng tiền tệ. Trong quá trình can thiệp tỷ giá, NHTW đồng thời điều khiển khối lượng tiền lưu thông qua việc mua bán ngoại tệ, trong đó với vai trò là người cho vay cuối cùng, vì vậy khách hàng trực tiếp của NHTW là các NHTM, các tổ chức tài chính - tín dụng. Thông qua các hoạt động mua bán mà tỷ giá hối đoái được hình thành hàng ngày, được thực hiện và công bố tại các sở giao dịch hối đoái. Tại giao dịch hối đoái, NHTW cũng tham gia mua-bán bình đẳng và với tư cách là một thành viên như các thành viên khác nhưng luôn trong tư thế can thiệp nhằm thực hiện mục tiêu của mình về định hướng tỷ giá.
Nhưng ở nước ta, khi bắt đầu chuyển sang KTTT cũng là lúc lạm phát còn ở mức độ cao, vì vậy vàng và ngoại tệ đều có sức chi phối rất mạnh đén việc điều hành CSTT cũng như liên quan trực tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông. Mối quan hệ đó đòi hỏi chính sách ngoại hối phải phát huy mạnh vai trò của nó. Trong thời kì có lạm phát cao, đồng bản tệ không thể làm tròn chức phận của nó trong lưu thông trong khi sản xuất và lưu thông xã hội khoong thể ngừng lại nên khi chưa có một chính sách ngoại hối thích hợp như ở Việt Nam trong những năm 1990 - đầu 1991, buộc vàng và ngoại tệ phải xuất hiện trên vũ đài lưu thông để thực hiện vai trò của tiền tệ như một tất yếu khách quan. Vàng và ngoại tệ tham gia trực tiếp vào cấu thành khối lượng M1 trong lưu thông.
Chính sách ngoại hối lúc đó - nói đúng hơn là các chỉ thị về biện pháp quản lý ngoại hối cụ thể chỉ đọng lại trên các văn bản và bị bật ra khỏi thực tiễn, càng không có ý nghĩa trong việc đạt được mục tiêu CSTT. Chỉ đến cuối năm 1992, khi mức độ lạm phát ở mức 17,5% /năm, luc đó Việt Nam mới thực sự áp dụng một tỷ giá linh hoạt với sự quản lý và can thiệp của NHTW thông qua các trung tâm giao dịch ngoại tệ, thay thế cho hệ thống tỷ giá cứng, tỷ giá kết toán trước đây, thì khi đó việc can thiệp trên thị trường ngoại hối đã có tác dụngthực sự như một công cụ hỗ trợ cho các công cụ khác. Tỷ giá hối đoái thời kì đó đã tương đối ổn định, bước đầu qua tỷ giá mà điều khiển được khối lượng tiền trong lưu thông.
Khi thực hiện chính sách hối đoái và can thiệp thị trường hối đoái, chúng ta gặp phải những khó khăn sau:
Việc can thiệp thị trường hối đoái nhằm đạt được 2 mục tiêu trực tiếp là đưa tỷ giá vào quỹ đạo đã định trong ý đồ CSTT của mỗi giai đoạn ngắn nào đó và điều khiển khối lượng tiền.
Muốn chính sách can thiệp thực sự trở thành công cụ trung gian, hỗ trợ được cho các công cụ khác của CSTT, thì NHTW phải có những điều kiện nhất định. Đó là khối lượng dự trữ và ngoại tệ dành cho quỹ bình ổn, các biện pháp hành chính và hệ thống pháp luật đồng bộ. Mặt khác, bản thân nền tiền tệ phải tương đối ổn định, không còn lạm phát ở mức độ cao.
Thời kì trước đây, ở nước ta, NHTW thiếu rất nhiều điều kiện đó, nên trước 1990 hầu như không dám can thiệp trên thị trường hối đoái. Những năm gần đây, việc can thiệp tuy đã đạt được mục tiêu điều khiển tỷ giá, nhưng do hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, các cơ chế quản lý về mặt hành chính chưa hoàn thiện nên vẫn còn tình trạng lưu thông ngoại tệ trên thị trường với khối lượng lớn. Tình trạng đó dẫn đến việc không chủ động nắm chắc và điều khiển được tổng khối lượng tiền.
Nghiên cứu việc sử dụng công cụ can thiệp thị trường hối đoái, trước hết cần nghiên cứu về chính sách tỷ giá.
2.2. Thực hiện chính sách tỷ giá
Là một công cụ của CSTT quốc gia, chính sách tỷ giá đã được các NHTW của các nước điều hành theo điều kiện của mỗi nước, phù hợp với tình hình cụ thể của từng thời kì. ở Việt Nam, trong thời kì dài chuyển sang KTTT, việc thực hiện chính sách tỷ giá đang được đi theo những tiến trình hoà hợp với xu thế chung.
2.2.1. Chính sách tỷ giá linh hoạt có quản lý
Chính sách hối đoái là một công cụ của CSTT, nó chi phối hoạt động của thị trường ngoại tệ. Nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với kinh tế các nước nên ngoại tệ và thị trường ngoại tệ tác động khá mạnh vào khối lượng tiền tệ lưu thông. Thị trường ngoại tệ trong một nước luôn chứa đựng những nội dung và tính chất thị trường quốc tế, vì một biến đổi nhỏ của tỷ giá hối đoái trên thị trường quốc tế đều ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái trong nước và ngược lại. Không chỉ thế mà còn ảnh hưởng về số lượng khách hàng. Hiện nay, ngoài các nhà đầu tư nước ngoài, các công ty, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam còn có nhiều ngân hàng khác trên thế giới có quan hệ thường xuyên với thị trường ngoại tệ nước ta.
Trong điều kiện giao lưu quốc tế hiện nay, việc ấn định một tỷ giá cứng, chính thức, ổn định cho cả một thời kì dài, thoát ly sự nhạy bén của thị trường sẽ dẫn đến tình trạng ngoại tệ ào ạt dịch chuyển vào hoặc ra theo khả năng sinh lời do chênh lệch tỷ giá, làm tổn hại đến nguồn ngoại tệ trong nước. Ngược lại,nếu tỷ giá thả nổi hoàn toàn để thị trường chi phối toàn bộ sẽ làm cho các công cụ khác của CSTT giảm hiệu lực. Mỗi lần điều chỉnh giá sẽ gây xáo động không nhỏ trong hoạt động kinh tế, lưu thông tiền tệ, đồng thời lại có sự dãn cách xa hơn về biên độ giữa tỷ giá chính thức với tỷ giá trên thị trường tự do.
Một chính sách ngoại hối thích hợp bao gồm nội dung quản lý đúng hướng theo các mục tiêu kinh tế và tiền tệ của từng giai đoạn, cùng với một tỷ giá linh hoạt phù hợp, sẽ tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế đối ngoại và hoạt động ngoại thương. Ngày nay, thị trường ngoại tệ trong một nước không thoát ly thị trường quốc tế. Không một ai có thể ngăn cản được những cuộc mua bán ngoại tệ ở một ngân hàng nước mình, do một ngân hàng nước ngoài tiến hành thông qua một cuộc thương lượng qua điện thoại, điện báo hoặc một bức fax. Vì vậy, tỷ giá linh hoạt, chính sách đúng đắn sẽ tạo thuận lợi cho việc giao dịch và mua bán ngoại tệ thông qua các ngân hàng theo tỷ giá thị trường. Mục tiêu chủ yếu là tạo dự trữ ngoại tệ ngày càng lớn để điều tiết thị trường ngoại hối, làm cho tỷ giá hối đoái phản ánh đúng hơn sức mua thực tế của đồng Việt Nam, tiến tới làm cho đồng tiền có khả năng chuyển đổi.
Nhằm thực hiện mục tiêu nói trên, qua nhiều năm đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của các nước có điều kiện tương tự, Việt Nam đang thực hiện một chính sách tỷ giá linh hoạt có điều chỉnh theo phương pháp tỷ giá nguội. Tỷ giá chính thức được NHTW công bố hàng ngày. Căn cứ tỷ giá chính thức đó, các NHTM quy định tỷ giá giao dịch trên cơ sở dưới phép giao động với biên độ 0,5%so với tỷ giá chính thức. Với một chính sách và phương thức vận hành như vậy cho đến nay, thực tế đã cho thấy nó phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Chưa có một biến động nào lớn về kinh tế và lưu thông tiền tệ do chính sách tỷ giá gây ra. Tuy nhiên, khi phân tích quá trình thực hiện chính sách tỷ giá của Việt Nam trong những năm gần đây, các nhà khoa học nước ta đánh giá rằng: tỷ giá chính thức đồng Việt Nam được quy định ít căn cứ vào tình hình giá cả nội địa và chỉ số lạm phát của Việt Nam. Ví dụ năm 1989, lạm phát là 34,7% nhưng tỷ giá chuyển động từ 5200VNĐ/1USD xuống 4600VND/1USD. Tức là đồng Việt Nam lên giá trong khi chỉ số giá cả năm đó tăng 35%. Năm 1990 và 1991 lạm phát cùng chỉ số là 67%/năm. Tỷ giá so với USD lại theo 2 chỉ số khác nhau là: năm 1990 - 7050 VNĐ/1USD và 12500VNĐ/1USD năm 1991.
Năm 1992, 1993, 1994 khi các chỉ số không phụ thuộc và cho pha lẫn nhau: năm 1992 lạm phát 17,5% - với tỷ giá 10600VNĐ/1USD; 1993 lạm phát 5,3% - tỷ giá 10800VNĐ/1USD; 1994 lạm phát 14,4% - tỷ giá 11050VNĐ/1USD.
Từ năm 1999 đến nay, nhìn chung biên độ được điều chỉnh giảm từ ± 7% xuống còn ± 0,1% và hàng ngày, NHNN sẽ công bố tỷ giá liên ngành ngân hàng của ngày giao dịch trước đó làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng quy định tỷ giá mua và bán. Kể từ đó cho đến nay, tỷ giá liên ngân hàng vẫn luôn luôn tăng kịch trần nhưng do biên độ chỉ có 0,1% nên tỷ giá hối đoái thưòng giao động từ 10-20đ/USD. Tuy nhiên, nhiều lúc tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ngày hôm sau mà NHNN công bố vẫn ở mức cũ, điều này chứng tỏ tỷ giá liên ngân hàng mà NHNN công bố vẫn là tỷ giá theo ý muốn chủ quan của NHNN.
2.2.2. Chính sách hối suất đơn
Hiện nay có rất nhiều lời khuyên rằng, ở nước ta nên học tập một số nước về việc áp dụng chính sách đa hối suất (nhiều tỷ giá) nhằm thông qua đó mà khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng truyền thống nhưng sản xuất gặp nhiều khó khăn, hoặc những mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩu do trong nước có mức cung vượt cầu về tiêu dùng (ví dụ xuất khẩu gạo thì 10000đồng Việt Nam được 1USD, cà phê 10800VNĐ/1USD... đòi hỏi ngân hàng phải căn cứ vào đó để tính các tỷ lệ giá khác nhau). Hoặc ít nhất Việt Nam cũng nên sử dụng chính sách 2 tỷ giá. Một tỷ giá cao - áp dụng cho xuất khẩu các mặt hàng truyền thống và nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu; một tỷ giá thấp - áp dụng cho công nghiệp và cho xuất khẩu và nhập khẩu những mặt hàng không cơ bản. Chính sách 2 hệ thống tỷ giá như thế này đã được nhiều nước như Hàn Quốc, Indonesia, Đài Loan... đang áp dụng, nên họ đã tăng trưởng xuất khẩu rất mạnh trong hai thập kỉ 60 và 70. Hiện nay, các quốc gia này đã có sức cạnh tranh kinh tế khá mạnh. Một chính sách như trên thực tế là sử dụng chính sách tỷ giá để bù lỗ ngoại thương. ở nước ta, trong giai đoạn mà chế độ kiểm toán chưa chặt chẽ, việc kiểm soát các nguồn hàng xuất khẩu chưa thể thực hiện được một cách chính xác thì việc áp dụng tỷ giá đa hối suất theo phương thức mua ngoại tệ của các công ty xuất khẩu khác nhau với tỷ giá khác nhau sẽ gây mất ổn định giá cả ngoại tệ, thậm chí còn phát sinh tiêu cực, gian lận trong các chứng từ thu ngoại tệ. Việc bù lỗ cho các mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩu sẽ thực hiện bằng các chính sách tài chính khác, công cụ khác. Vì vậy cho đến nay và có thể một thời gian dài nữa chúng ta vẫn kiên trì quan điểm chính sách hối suất đơn.
2.2.3. Nguyên tắc sử dụng bản tệ
Tại Việt Nam chỉ lưu thông tiền Việt Nam
Tuyệt đại đa số các nước trên thế giới đều thực hiện rất nghiêm ngặt một nguyên tắc là ở trong nước chỉ lưu thông bản tệ. Tuy nhiên, ở một vài nước, trong từng thời kì nhất định do hoàn cảnh lịch sử, vẫn tồn tại tình trạng lưu thông hai hoặc nhiều loại tiền. Tình trạng này diễn ra không chỉ trong lịch sử chiến tranh xâm lược trước đây, mà còn trong kinh tế hiện đại. Đó là thời kì nền kinh tế một quốc gia có lạm phát cao, đồng bản tệ không làm trong chức năng của mình trong lưu thông. Việc sản xuất và các hoạt động kinh tế vẫn phải tiếp diễn theo yêu cầu của cuộc sống. Sự đòi hỏi khách quan buộc phải có một công cụ làm thước đo ổn định trong hạch toán kinh tế. Do đó, sự xuất hiện trở lại tiền thực (vàng bạc) để làm thước đo được coi như một tất yếu đối với nhiều quốc gia. ở Việt Nam, trong những năm có lạm phát cao cũng diễn ra tình trạng lưu hành các loại ngoại tệ trong lưu thông. Có thời kì số lượng đôla Mỹ khá nhiều, đến mức không kiểm soát được. Cuối năm 1992, ngân hàng Việt Nam cũng tung ra hơn 1000 tỷ đồng để mua đôla mỹ. Năm 1994, nguyên tắc trên đất việt chỉ lưu hành tiền ngân hàng Việt Nam đã được thực hiện bằng những quy định khá chặt chẽ như:
Một là, mọi nguồn thu ngoại tệ và xuất khẩu dịch vụ với nước ngoài và các nguồn ngoại tệ khác ở trong nước của các tổ chức, đơn vị đều phải gửi vào tài khoản mở tại các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ ở Việt Nam.
Hai là, NHNN cấp giấy phép cho mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài đối với ngân hàng, các công ty tài chính có đủ điều kiện kinh doanh và thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế; các đơn vị thuộc ngành hàng không, hàng hải, bưu điện, bảo hiểm có thu-chi tại chỗ và thanh toán bù trừ cho hoạt động của mình ở nước ngoài theo thông lệ quốc tế; các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vay vốn nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, một số đơn vị kinh tế Việt Nam được thủ tướng chính phủ cho phép đặt trụ sở ở nước ngoài.
Ba là các tổ chức, đơn vị (trừ các ngân hàng, các công ty tài chính được kinh doanh ngoại tệ) không được trực tiếp cho vay, thanh toán, mua bán, chuyển nhượng ngoại tệ cho nhau. Mọi hoạt động ngoại tệ này đều phải theo dõi qua ngân hàng và các công ty tài chính được phép kinh doanh ngoại tệ.
Tình trạng lưu thông ngoại tệ trên thị trường đã giảm dần. Mạng lưới các quầy đổi tiên cho khách nước ngoài được phát triển rông. Trong thực tế, khối lượng ngoại tệ của khách vãng lai từ nước ngoài vào Việt Nam là con số không thể định đoán và cũng không cần quan tâm. Nhưng khối lượng ngoại tệ trong tay dân chúng và một phần khối lượng của khách vãng lai khi đã tham gia vào quá trình lưu thông tiền tệ ở Việt Nam là con số đã có thể kiểm soát được sau khi có các quy định về quản lý ngoại hối.
2.3. Hạn mức tín dụng
Trong một nền KTTT phát triển, trong đó hệ thống các NHTM và các tổ chức tài chính đa dạng, thì việc điểu khiển khối lượng tín dụng được thông qua các công cụ lãi suất chiết khấu và các công cụ khác là chủ yếu. Nhưng đối với nước ta, công cụ truyền thống chưa thể phát huy được tác dụng, thì việc định ra công cụ trung gian trong thời gian chuyển tiếp đã có một ý nghĩa lớn và tác dụng thiết thực cho việc điều hành khối lượng tiền tệ. Đó là hạn mức tín dụng.
2.3.1. Hạn mức tín dụng đối với các NHTM
Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTW có thể cung ứng cho tất cả các NHTM trong thời kì nhất định (năm hay quý), phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kì đó. Đây là một chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp đến khối lượng tiền trung ương được cung ứng thêm (hay giảm bớt) đối với các NHTM. Khi ấn định hạn mức tín dụng cho mỗi thời kì, NHTW thường căn cứ vào kế hoạch tăng trưởng kinh tế cộng với chỉ số lạm phát cho phép trong thời kì đó. Hạn mức tín dụng này không phải là chỉ tiêu khống chế hạn mức tín dụng cho nền kinh tế mà các NHTM ấn định đối với các doanh nghiệp. Các NHTM có thể thực hiện mức tín dụng của mình lớn hơn hạn mức tín dụng mà NHTW ấn định cho ngân hàng mình, nếu NHTM huy động được khối lượng vốn lớn hơn. Sở dĩ như vậy là vì vốn do các NHTM huy động và cho vay ra dù lớn gấp nhiều lần hạn mức tín dụng được NHTW cung ứng, cũng không ảnh hưởng đến khối lượng tiền (đưa thêm hay rút khỏi) lưu thông.
Việc đưa ra và áp dụng công cụ hạn mức tín dụng trong những năm qua đã có những kết quả chứng tỏ công cụ này phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.
Năm 1992, mức tăng dự kiến tăng trưởng kinh tế là 4,5%, chỉ số lạm phát dự kiếm (mức cho phép) là 30% /năm. NHTW đã khống chế hạn mức tín dụng đối với tất cả hệ thống NHTM ở mức 34,5%. Kết quả thực tế năm đó, mức tăng trưởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến, mức lạm phát 17,5% tiền tệ đi dần vào ổn định. Tất nhiên theo các chỉ số đó, NHTW cũng chỉ đưa thêm tiền vào lưu thông mức 33%. Năm 1993, NHTW cũng điều hành công cụ này theo phương thức tương tự và đã có tác dụng tốt.
Tuy nhiên việc điều hành công cụ này chỉ có hiệu quả khi hệ thống NHTM quốc doanh còn chiếm lĩnh thị phần lớn thị trường tiền tệ; đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ (lãi suất tín dụng, can thiệp thị trường hối đoái), cùng các biện pháp hành chính khác. Mặt khác, trong điều kiện thị trường tệ, thị trường vốn chưa phát triển, sự tăng (hay giảm) giữa hạn mức tín dụng cho toàn bộ nền kinh tế là gần cùng nhịp điệu nên việc điều khiển công cụ này thuận lợi hơn. Khi các thị trường tiền tệ, thị trường vốn phát triển, khi hệ thống các NHTM quốc doanh và cổ phần, các tổ chức tài chính phát triển đa dạng, phong phú thì việc điều hành bằng công cụ này không đơn giản.
2.3.2. Hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế
Nhiều nhà kinh tế cho rằng, việc tăng tín dụng đối với nền kinh tế, do các NHTM thực hiện là không ảnh hưởng đến lạm phát và giá cả bởi vì khối lượng tín dụng này tăng có nguồn gốc từ trong nội bộ lưu thông. Tức là vốn huy động của các NHTM tăng lên sẽ tăng khối lương cho vay mà không tăng khối lượng phát hành của NHTW. Nhưng nền kinh tế hiện đại trong kinh tế hoà nhập lại không phải như vậy. Việc tăng khối lượng tín dụng đối với nền kinh tế mặc dù do các NHTM thực hiện, chưa có bàn tay phát hành của NHTW nhưng việc đó đã làm tăng khối lượng thanh toán, tăng hệ số tạo tiền lên mức độ tối đa, sẽ tác động rất mạnh đến giá cả. Mặt khác, trong kinh tế hoà nhập các NHTM đâu phải chỉ có huy động vốn trong dân, đâu phải là lưu thông tiền tệ trong nước. Mỗi đồng ngoại tệ vay thượng mại (FDI) ở nước ngoài đều phải có một số bản tệ tương ứng, buộc phải cung ứng từ tiền phát hành của NHTW. Vì vậy, tăng khối lượng tín dụng cho nền kinh tế, tự nó cũng gây sức ép về cung ứng tiền trung ương (tiền phát hành). Vì vậy, việc khống chế hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế, đối với nước ta vẫn là một công cụ tín dụng cần thiết. Nếu không sẽ đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế lên mức quá nóng. Vượt quá giới hạn tiềm năng sản xuất của một quốc gia, dẫn đến tăng trưởng để phản tăng trưởng.
2.4. Lãi suất tín dụng
Do công cụ lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu chưa có khả năng chi phối và điều khiển toàn bộ lãi suất tín dụng trong nền kinh tế nên trong giai đoạn nhất định, NHTW trực tiếp điều khiển lãi suất tín dụng cho nền kinh tế. Việc điều khiển công cụ lãi suất tín dụng bằng các biện pháp hành chính, các quyết định... đối với các NHTM, cùng với mức lãi suất đã ấn định được coi là một công cụ bổ trợ, có tác dụng nhất định. Thời kì đầu, khi mới chuyển từ hoạt động của hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, thừa kế tiềm thức về tuân thủ các chỉ tiêu kế hoạch và sự điều hành mệnh lệnh thống nhất đối với hệ thống ngân hàng quốc doanh, NHNN đã điều khiển trực tiếp lãi suất tín dụng trong nền kinh tế.
Để cho lãi suất tín dụng thực sự là công cụ của CSTT, trong thời kì này, lãi suất không còn giữ mức tương đối cố định lâu dài như trước mà đã luôn linh hoạt theo thị trường. Phương pháp xác định lãi suất đã được tính toán đến các yếu tố lãi suất cơ bản với chỉ số trượt giá. Đồng thời lãi suất được thay đổi thường xuyên. Điều đó có nghĩa là công cụ lãi suất đã bước đầu được sử dụng một cách đúng đắn. Một bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam thời gian qua, đó là cơ chế điều hành lãi suất tiến tới tự do hoá lãi suất, do cơ chế lãi suất trước đây chưa có mức lãi suất nào đóng vai trò là lãi suất chủ đạo, định hướng cho các tổ chức tín dụng ấn định mức lãi suất kinh doanh, vì thế kể từ ngày 5/8/2000, theo quyết định số 241/QĐ-NHNN1 của thống đốc NHNN đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay băng ngoại tệ. Theo đó, đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam, các tổ chức tín dụng sẽ ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt qú mức lãi suất cơ bản và biên độ do thống đốc NHNN quy định cho từng thời kì. Trong đó, lãi suất cơ bản được NHNN công bố trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD được lựa chọn theo quyết định của thống đốc NHNN trong từng thời kì, còn biên độ thì được công bố hàng tháng trong trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Đối với lãi suất cho vay bằng USD các TCTD sẽ ấn định mức lãi suất cho vay theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt qúa lãi suất USD trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng kì hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn và kì hạn 6 tháng đối với trung dài hạn tại thời điểm cho vay và biên độ do thống đốc NHNN quy định trong từng thời kì.
Với cơ chế điều hành lãi suất mới này, về mặt bản chất cũng giống như cơ chế lãi suất trần bởi vì lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản cộng với biên độ, chỉ khác là nó mang tính hướng dẫn, chỉ đạo cho các TCTD hình thành lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay khi mà nhà nước chưa thể thả nổi lãi suất thì việc quy định biên độ nào dao động là nhằm bảo đảm quản lý của nhà nước trước khi chuyển hẳn sang lãi suất thị trường, lúc đó, việc điều hành CSTT chủ yếu bằng công cụ lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trưởng mở, tỷ lệ DTBB. Chính vì vậy mà tình hình lãi suất ngân hàng đến nay hầu như không biến động so với thời điểm trước khi điều chỉnh.
Ngày 29/5/2001, thống đốc NHNN đã ra quyết định số 718 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng đôla Mỹ. Theo đó, các TCTD được quyền chủ động ấn định lãi suất cho vay bằng đôla Mỹ trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung-cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ trong nước. Đây là một bước đi tự tin, táo bạo và sáng suốt, đặt tiền đề hết sức quan trọng cho qúa trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam.
Chương 3:
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc sử dụng các công cụ CSTT
1. Đối với NHTW
* Nâng cao vai trò chủ động của NHNN trong việc điều hành CSTT
Trong quá trình thực hiện CSTT, NHTW có vai trò tương đối hạn chế. Điều này được thể hiện ở chỗ: Một là, NHNN chỉ chủ trì xây dựng dự án CSTT quốc gia trình chính phủ, sau đó, chính phủ lại trình quốc hội quyết định - nội dung này xuất phát từ quy định tại điểm 4 - điều 84 của hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 như sau: " quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn quyết định CSTT quốc gia ". Sau nữa, vì NHNN là thành viên của chính phủ nên NHNN không thể trực tiếp trình dự án CSTT quốc gia trước quốc hội mà phải thông qua chính phủ. Hai là, định kì lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm đều đã được chính phủ chỉ định để chi cho các mục tiêu cụ thể. Vì thế, NHTW khó có thể chủ động trong việc sử dụng các công cụ của CSTT để điều tiết lượng tiền lưu thông. Như vậy khó có thể tránh khỏi việc chính phủ can thiệp vào để phục vụ cho những mục đĩch riêng của mình và trong một số trường hợp có thể sẽ dẫn tới lạm phát, gây thiệt hại cho toàn nền kinh tế. Vì vậy, chính phủ chỉ nên giữ ở vai trò là người quản lí, chỉ đạo chung đối với tổng thể các hoạt động vĩ mô của nền kinh tế, điều đó cho phép NHTW chủ động trong việc thực thi CSTT nói chung và cụ thể là ở việc điều tiết lượng tiền cung ứng cho lưu thông tiền tệ. Biểu hiện là hàng năm, chính phủ duyệt lượng tiền bổ sung cho lưu thông nhưng không phải chỉ xuất phát từ nhu càu cho chi tiêu ngân sách nhà nước mà phải xuất phát từ nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
* Góp phần tăng cường khả năng điều hành các công cụ thực hiện CSTT của NHNN trong việc tập trung nguồn vốn
Hiện nay, việc phân tán nguồn vốn tín dụng, đặc biệt là các nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào hệ thống ngân hàng đã gây ra khó khăn không nhỏ đối với NHTW trong việc kiểm soát nguồn vốn này và vì thế sẽ khó có thể điều tiết được lượng tiền lưu thông, thông qua các công cụ tái cấp vốn bởi các tổ chức khác nhau có quá nhiều loại và lãi suất thấp, khác nhau trên thị trường.
* Hạn chế sự can thiệp quá sâu đối với NHNN của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động và thực hiện CSTT. Đồng thời hạn chế một số nhiệm vụ của NHNN với vai trò là một bộ phận trong chính phủ.
Theo quy định của luật NHNN thì không chỉ có quốc hội và chính phủ quyết định và chỉ đạo, giám sát việc thực hiện CSTT quốc gia mà còn có một số tổ chức chính trị, chính quyền các cấp gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, các cơ quan khác của nhà nước ở trung ương; hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân các cấp; mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cũng có trách nhiệm phối hợp, giám sát, kiểm tra hoạt động ngân hàng. Điều này tạo ra cơ chế hành chính rườm ra, do vậy sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tiến hành cũng như hiệu quả của các công cụ trong việc thực thi CSTT. Như vậy việc hạn chế sự can thiệp quá sâu đối với NHNN sẽ góp phần làm tăng tính chủ động của NHTW. Đồng thời, cũng nên giảm dần một số nhiệm vụ thuộc chức năng một bộ quản lý nhà nước thuần tuý cũng như bộ chủ quản đối với các tổ chức tín dụng nhà nước để tạo điều kiện cho NHTW thực hiện chuyên môn hoá công việc điều hành CSTT của mình.
* CSTT quốc gia phải được tổ chức thực hiện đồng bộ với các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô khác của nhà nước
Nói chung, trong thời đại ngày nay, mục tiêu của nền kinh tế ở các nước đều nhằm:
Một là, kiểm soát được vấn đề giá cả. Hay nói cách khác, lạm phát cần được giữ và ổn định ở mức thấp (dưới 10%)
Hai là, giải quyết công ăn việc làm, thất nghiệp phải được duy trì ở mức tối thiểu (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên)
Ba là, thăng bằng cán cân ngoại thương và ổn định tỷ giá
Bốn là, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
Nhìn tổng quát và có tính chiến lược dài hạn thì các mục tiêu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều ấy cho thấy rằng không thể tuyệt đối hoá một chỉ tiêu nào, không thể giải quyết các chỉ tiêu một cách độc lập trên tầm vĩ mô. Tuy nhiên co nơi, có lúc trong từng thời gian ngắn có thể xảy ra sự xung đột, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu. Điều thường gặp và dễ thấy nhất là sự mâu thuẫn giữa tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ thất nghiệp, giữa ổn định tiền tệ với tốc độ tăng trưởng kinh tế. ổn định giá trị đồng bản tệ là mục tiêu của CSTT quốc gia. Để đi đến mục tiêu đó một mặt phải giải quyết các mục tiêu trung gian, mặt khác phải đạt được sự hài hoà với các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác. Không thể duy trì một sự ổn định tiền tệ mà ở đó tỷ lệ thất nghiệp lại có sự gia tăng quá đáng, hay làm cho nền kinh tế lầm vào tình trạng suy thoái. Thực tiễn của các nước phát triển theo cơ chế thị trường cho thấy vận hành CSTT để đạt được mục tiêu của nó cần có sự phối hợp, hỗ trợ của các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Trước hết, cần phối hợp với chính sách tài chính quốc gia bởi: mục tiêu chủ yếu của chính sách tài chính là nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và sử dụng nhân lực ở mức tiềm năng. Điều đó phải phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, nhà nước có ngân sách vững vàng sẽ là cơ sở quan trọng bậc nhất cho đồng tiền quốc gia ổn định. Ngược lại, sự thiếu hụt của ngân sách nhà nước, bất kể được bù đắp bằng những con đường nào đều trực tiếp hoặc gián tiếp làm cho giá trị đồng tiền bất ổn định. Thông thường chính sách tài chính và CSTT đều phát huy tác dụng thông qua ảnh hưởng của nó đối vơí tổng cầu. Trong khi đó, theo CCTT thì tiền lương và giá cả được quyết định bởi các lực lượng thị trường. Trong thực tế, chính sách tài chính và CSTT có thể làm tăng nhu cầu, giảm thất nghiệp nhưng sẽ làm gia tăng lạm phát. Giải quyết mâu thuẫn này, kinh nghiệm của các nước phát triển theo CCTT là phải có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách phân phối thu nhập. Trong trường hợp này, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước phải thể hiện sự kiểm soát chặt chẽ về tiền lương và giá cả.
CSTT ở Việt Nam dadng được thực hiện trong bối cảnh đồng tiền còn lạm phát, bội chi ngân sách nhà nước còn lớn, cán cân thanh toán còn bị thâm hụt, tốc độ tăng trưởng chưa cao. Điều đó đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa chính sách kinh tế đối nội và chính sách kinh tế đối ngoại. Đó phải là một chính sách kinh tế mở hướng xuất khẩu, mạt khác tranh thủ tốt nhất trình độ công nghệ, KHKT và mọi nguồn vốn từ bên ngoài. Trong đó, đặc biệt là quan hệ với các tổ chức kinh tế, tiền tệ quốc tế như WB,IMF...
2. Các công cụ của CSTT
* lãi suất: Việc điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất cơ bản như hiện nay là một bước mới trong quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất. Vì vậy, việc hoàn thiện điều hành lãi suất trong giai đoạn tới chủ yếu là nhằm vào sự hoàn thiện nguyên tắc xác định lãi suất cơ bản. Như chúng ta đã biết, lãi suất vừa đáp ứng lợi ích của người đi vay và người cho vay, đối với người cho vay thì lãi suất phải bao gồm lạm phát dự kiến, rủi ro và mức lợi nhuận mong đợi; còn người đi vay thì mức lãi suất phải nhỏ hơn mức lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, về phía ngân hàng cần xác định chính xác lạm phát dự kiến, rủi ro và lợi nhuận mong đợi. Theo như hiện nay, NHNN xác định lãi suất cơ bản chỉ dựa trên một số NHTM là rất phiến diện, chưa phản ánh hết quan hệ cung-cầu tín dụng thực của thị trường.
* Tỷ giá hối đoái: Trong thời gian tới, khi mà lãi suất chưa được tự do hoá, vẫn còn sự can thiệp của nhà nước, dự trữ ngoại tệ còn quá ít, kinh tế tăng trưởng nhưng chưa thật vững chắc, thị trường tiền tệ chưa phát triển thì việc duy trì cơ chế tỷ giá công bố và biên độ giao dịch vẫn là điều cần thiết. Hiện nay, nhu cầu về ngoại tệ còn rất cao do nhiều nguyên nhân khác nhau; trong khi đó, cung ngoại tệ thì rất hạn chế. Nhiều người thừa nhận đồng Việt Nam đang bị đánh giá cao, nếu cứ để tỷ giá hối đoái theo quan hệ cung-cầu thị trường sẽ tất yếu dẫn đến một sự tăng giá không lường, nguy cơ lạm phát và khủng hoảng sẽ xảy ra. Mặt khác, trong nước đang trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nhập khẩu đang chiếm tỷ trọng lớn hơn so với xuất khẩu. Do đó, lợi ích của việc nhập khẩu hiện nay lớn hơn xuất khẩu, ngoài ra nếu tỷ giá hối đoái tăng vọt lên sẽ làm cho các khoản nợ nước ngoài tăng. chính vì thế mà việc duy trì một tỷ giá hối đoái linh hoạt sẽ làm cho nhà nước chủ động hơn trong việc phân tích những lợi ích của các mức tỷ giá hối đoái mang lại.
* NVTTM: Các cơ chế, quy chế làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường cần được rà soát lại để kịp thừoi điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện thu hút thành viên tham gia thị trường. Đồng thời, NHNN cần tiếp tục nghiên cứu để mở rộng thêm nhiều loại hàng hoá để có thể sử dụng trong các phiên giao dịch NVTTM. Chất lượng công tác dự báo, điều hành thị trường cần từng bước hoàn thiện trên cơ sở nâng cao trình đọ cán bộ dự báo, cải tiến chế đọ cung cấp thông tin trong và ngoài ngành với sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị nhnn, các TCTD, các bộ ngành liên quan.Đặcbiệt, trong bối cảnh công nghệ ngân hàng ngày càng phát triển, việc đẩymạnh tiến độ hiện đại hoá hệ thống thanh toán liên ngân hàng để phát triển thị trường liên ngân hàng là cần thiết và tất yếu. Đây cũng chính là cơ sở để nâng cao hiệu quả của hoạt động NVTTM.
* Tái cấp vốn: công cụ này chỉ có thể phát huy hiệu quả khi nó được phối hợp với lãi suất. nếu NHNN muốn các TCTD ra sức khai thác nguòn vốn trong nhân dân thì quy định mức tái cấp vốn càng cao, ngược lại việc quy định một mức lãi suất tái cấp vốn thấp chỉ khuyến khích các TCTD vay của NHNN. Trong thời gian tới,khi mà thị trường mở đã đi vào hoạt động ổn định thì đòi hỏi phải thận trọng hơn nữa trong việc quy định mức lãi suất như thế nào là hợp lí. Bởi vì một mức tái cấp vốn thấp sẽ khuyến khích các TCTD vay của NHNN dùng chính tiền của mình để mua các giấy tờ có giá, kết quả là, NVTTM không có tác dụng. Như vậy, mức lãi suất tái cấp vốn hợp lý phải là mức xấp xỉ với lãi suất các giấy tờ có giá ngắn hạn hay lãi suất tiền gửi ngắn hạn.
* DTBB: Để nâng cao hiệu quả hoạt động của công cụ này, NHNN cần có các giải pháp hoàn thiền công cụ theo hướng mở rộng khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN và khuyến khích các TCTD sử dụng vốn linh hoạt và hiệu quả. Theo đó, một số nội dung cần xem xét không trả lãi cho tièn gửi vượt DTBB và trả lãi cho tiền DTBB, mở rộng diện tiền gửi phải DTBB từ 12 lên 24 tháng. Bên cạnh đó, tỷ lẹ DTBB cần được điều chỉnh linh hoạt, phối hợp đồng bộ với việc điều chỉnh đối với các công cụ khác như tái cấp vốn, NVTTM.
3. Về môi trường thực thi CSTT
KTTT, về thực chất là một nền kinh tế tiền tệ. Hay đó là một nền kinh tế đã được tiền tệ hoá ở mức cao độ. ậ đó mọi hoạt động kinh tế, xã hội đều liên quan đến tiền tệ, đến CSTT. Sức sống của CSTT là đáp ứng được mọi nhu cầu chính đáng về tiền, vốn của hoạt động kinh tế - xã hội. Hoạt động kinh tế, xã hội là môi trường cho những nội dung cơ bản của CSTT trở thành hiện thực. Không có môi trường nào phù hợp thì không có một chính sách kinh tế nào có thể tồn tại được. Môi trường hoạt động của CSTT ở Việt Nam là một nền kinh tế hoạt động theo CCTT và có sự quản lý vĩ mô.
* Về môi trường kinh tế
Chúng ta phải tiếp tục kiên trì phát triển nèn kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo CCTT. Điều quan trọng ở đây là các chủ thể kinh tế đó phải thật sự bình đẳng trước pháp luật về mọi hoạt động của mình. Trong đó, các quyền từ do chính đáng của họ phải được bảo đảm, trước hết là các quyền tự do về kinh tế. Để có được môi trường kinh tế như vậy, chúng ta phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mới, với nhiều hình thức sở hữu khác nhau ra đời và hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, điều khong kém phần quan trọng hiện nay là phải có các giải pháp hữu hiệu trong việc sắp xếp lại các DNNN, các đơn vị kinh tế tập thể. Song, phải xuất phát từ hai quan điểm cơ bản là:Một - nhà nước cần nắm được các doanh nghiệp của các ngành chủ đạo trong nền kinh tế, các lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không đucs làm hay không muốn làm vì ít lãi hoặc lỗ mà rất cần cho xã hội; các lĩnh vực có liên quan đến an ninh quốc phòng. Hai - trong các lĩnh vực khác, sự tồn tại các DNNN là căn cứ vào hiệu quả kinh tế của nó. Như vậy, các doanh nghiệp phải cạnh tranh mà tồn tại theo CCTT - bất kể đó là hình thức sở hữu nào.
* Về môi trường chính trị - xã hội
Chúng ta đều biết rằng, sự mất giá của đồng tiền không chỉ do nguyên nhân lạm phát tiền tệ. Sự ổn định của đồng tiền không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố tâm lý. Lòng tin của dân chúng vào đồng tiền (trong điều kiện hiện nay, thực chất đó là lòng tin của dân chúng đối với chính phủ) là cơ sở không kem phần quan trọngcho sự ổn định đồng tiền. Bởi vậy, CSTT ở Việt Nam phải được tổ chức thực hiện trong môi trường chính trị - xã hội ổn định. Muốn vậy, một mặt phải làm trong sach đội ngũ cán bộ, mặt khác phải nâng cao trình độ về mọi mặt của cán bộ để tăng cường hiệu lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của nhà nước.
* Về môi trường pháp lý
Để có được môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh, ổn định trong CCTT, sự quản lý của nhà nước đống vai trò vô cùng quan trọng. Bên cạnh những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước, một hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ sẽ tạo cơ sở cho CSTT, thực hiện được mục tiêu của nó.
Chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần - hoạt động theo CCTT có sự quản lý của nhà nước trong khuôn khổ pháp luật. Do vậy, hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay phải là sự phản ánh pháp lý của cơ chế KTTT. ở đó đòi hỏi phải bảo đảm những đặc trung cơ bản như: sự bình đẳng, tự do, phá sản,...
Môi trường pháp lý trong nền KTTT trước hết phải thể hiện ở các luật lệ trong lĩnh vực tài cính ngân hàng. Do vậy cần hệ thống pháp lý thống nhất, chặt chẽ trên lĩnh vực này từ hiến pháp, luật, các văn bản dưới luật. Mặt khác các luật về ngân hàng, luật về tài chính cần phải tiến hành đồng bộ với các luật khác như luật lao động, luật doanh nghiệp, luật thương mại, luật phá sản...
4. Đào tạo cán bộ và trang bị phương tiện hoạt động cho ngành ngân hàng
Chuyển ngân hàng từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp đòi hỏi phải bố trí, sắp xếp lại độingũ cán bộ phù hợp với chức năng nhiệm vụ của từng tổ chức, trong đó vấn đề đào toạ và đào tạo lại cán bộ ngân hàng đang trở nên bức thiết, không thể chậm trễ. Mục tiêu của đào tạo là tạo ra những cán bộ ngân hàng thực sự có văn hoá và bản lĩnh trong quản lý và kinh doanh, nắm vững và ứng dụng thành thạo công nghệ ngân hàng hiện đại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Mặt khác, chuyển sang CCTT, các quan hệ về tiền tệ - tín dụng - thanh toán được mở rộng, hoạt động của ngân hàng đa dạng hoá hơn và đòi hỏi trình độ công nghệ phải cao hơn. Điều đó cũng cho thấy rằng đào tạo cán bộ phải gắn liền với đổi mới các phương tiện hoạt động ngân hàng. Coi nhẹ một trong hai yếu tố đó sẽ hạn chế kết quả trong quá trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng ở nước ta. Cơ sở vật chất góp phần quan trọng trong công cuộc đổi mới hoạt động hệ thống ngân hàng ở nước ta. Trong đó chủ yếu là trụ sở làm việc và hệ thống máy móc trong quản lý, điều hành và kinh doanh của NHTW cũng như các ngân hàng kinh doanh. Trước mắt phải trang bị phổ biến các thiết bị chuyên dùng trong hệ thống ngân hàng và vi tính hoá toàn bộ các khâu tính toán,kế toán, thanh toán, thông tin và xử lí thông tin.
kết luận
Một chính sách tiền tệ hợp lý là điều mà bất kì quốc gia nào cũng quan tâm song khi xây dựng CSTT phải dựa vào các điều kiện về môi trường kinh tế, chính trị, xã hội,.... trong từng giai đoạn cụ thể. Đồng thời phải có một hệ thống công cụ đầy đủ, môi trường hoàn thiện để phát huy hiệu quả của các công cụ đó.
Việt nam đang bước vào thế kỉ XXI, thế kỉ của nền kinh tế tri thức, thế kỉ của hội nhập quốc tế và cũng là thế kỉ đòi hỏi Việt Nam phải tăng tốc để thu hẹp khoảng cách nghèo nàn lạc hậu so với các nước trong khu vực và thế giới. CSTT cùng các chính sách kinh tế vĩ mô khác đã góp phần rất lớn trong việc ổn định nền kinh tế trong thời gian qua tuy nhiên Việt Nam vẫn là một nước kém phát triển, khả năng cạnh tranh yếu, thu nhập bình quân đầu người thấp, cho nên trách nhiệm của NHNN trong việc vận hành và hoàn thiện các công cụ của chính sách vĩ mô nói chung và CSTT nói riêng là rất nặng nề. Một xã hội ổn định và phát triển lành mạnh, hiệu quả và bền vững trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa là những gì chúng ta cần vươn tới.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ
Trường ĐH KTQD. Hà Nội - 1999
2. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ
Nguyễn Ngọc Hùng - Trường ĐH kinh tế tp.HCM
3. Giáo trình Lý thuyết tiền tệ
Trường ĐH TCKT. Hà Nội
4. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính
Frederic.S.Mishkin
5. Hệ thống công cụ CSTT quốc gia trong nền KTTT
PTS. Nguyễn Võ Ngoạn - NXB tài chính. Hà Nội-96
6. Tạp chí Ngân hàng năm 2000,2001
7. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, Số 9+10/2000
8. NHTW với CSTT hiện nay - Phạm Ngọc Long
Nghiên cứu kinh tế số 214/tháng 3.năm1996
9. Các giải pháp thực thi chính sách tài chính tiền tệ ở Việt Nam
Nguyễn Hữu Tài - hoạt động khoa học số 10/1994
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35140.doc