Nhận thấy chủ thể thực thi chính sách là các cơ quan Nhà Nước do vậy trách nhiệm chính thuộc về Nhà Nước, theo em trước khi thực hiện bất kì một chính sách giải quyết việc làm cho người lao động thì các nhà các nhà quản lý cần có tầm nhìn chiến lược dự báo các tình huống xảy ra trong thực tế, trong việc quy hoạch các đối tượng ưu tiên như người tàn tật hay đối tượng chính sách và những đối tượng thất nghiệp tạm thời. Việc thực hiện chính sách phải được tiến hành bám sát vào tình trạng thực tế của từng địa phương cụ thể đồng thời mỗi địa phương phải đề ra mục tiêu riêng và đề ra những công việc cụ thể trong từng giai đoạn , đồng thời tiến hành kiểm tra giám sát thường xuyên kết quả đạt được và phải bám sát mục tiêu lâu dài chung của cả nước. Qua mỗi giai đoạn thực hiện thì mỗi địa phương cần tổ chức đánh giá kết quả so với mục tiêu đề ra để phát huy những mặt tốt và khắc phục những mặt còn hạn chế để đạt được mục tiêu chung của cả nước.
Ngoài ra ở mỗi địa bàn địa phương cụ thể thì chính quyền xã, phường, tổ dân phố phải kết hợp với các tổ chức chính trị xã hội như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Mặt trận tổ quốc cùng với các doanh nghiệp cần quyết tâm đồng bộ để hoàn thành tốt chỉ tiêu của chính sách mà cấp trên giao cho. Trong quá trình thực thi chính sách của Nhà Nước cần có sự phân chia nhiệm vụ cụ thể để đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt là ở những địa bàn quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh thì cán bộ quản lý cần có biện pháp liên hệ với các doanh nghiệp lớn để giải quýêt lao động ở địa phương.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1900 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách việc làm cho người lao động trong thời kỳ hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g 2: Thực trạng về chính sách việc làm
Chương 3: Một số giải pháp kiến nghị
Mặc dù em đã có nhiều có gắng nhưng kiến thức còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong cô hướng dẫn thêm để em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn cô!
Chương I: Cơ sở lý luận
I. Chính sách việc làm
1. Khái niệm việc làm
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thì Nhà Nước bố trí việc làm cho người lao động. Và người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận là người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh , khu vực nhà nước và khu vực kinh tế tập thể.
Cùng với sự thay đổi của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì quan niệm về việc làm cũng đã thay đổi.Theo Bộ luật lao động năm 1994 “Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”.Như vậy so với trước đây thì quan niệm về việc làm được mở rộng ra trên hai khía cạnh:
Thị trường việc làm được mở rộng ra không chỉ trong cơ quan Nhà Nước, trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các hình thức tổ chức kinh doanh. Và đặc biệt cũng không hạn chế về mặt không gian, có thể trong nước hay nước ngoài...
Người lao động tự do hành nghề được tự do liên doanh, liên kết , tự do thuê mướn lao động theo đúng quy định của Pháp luật để tự tạo ra việc làm cho mình và có thể thu hút thêm lao động khác. Nói chung là bất kì nghề gì, việc gì cần thiết cho xã hội , mang lại thu nhập cho người lao động và không bị xã hội ngăn cấm thì được coi là việc làm. Bao gồm:
Việc làm đầy đủ:là sự thỏa mãn nhu cầu việc làm của bất cứ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác đó là trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì đều có thể tìm được việc làm trong thời gian ngắn.
Việc làm không đầy đủ: là không tạo được điều kiện cho người lao động sử dụng hết thời gian lao động của mình.
Tạo việc làm cho người lao động là phát huy sử dụng tiềm năng sẳn có của từng đơn vị, từng địa phương và của từng người lao động nhằm tạo ra những công việc hợp lý ổn định và đầy đủ xong việc làm đó phải đem lại thu nhập đảm bảo thoả mãn nhu cầu đời sống hàng ngày cho người lao động.
2. Khái niệm chính sách việc làm
Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm , tư tưởng, các mục tiêu , các giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm cho lực lượng lao động.
Chính sách việc làm là sự thể chế hóa Pháp luật của Nhà Nước trên lĩnh vực lao động việc làm, là hệ thống các quan điểm tư tưởng , phương hướng mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc cho người lao động. Như vậy để tạo việc làm cho người lao động có thể có một số chính sách sau:
• Chính sách tạo vốn để phát triển kinh tế.
• Chính sách di dân đến vùng kinh tế mới.
• Chính sách phát triển ngành nghề truyền thống.
• Chính sách xuất khẩu lao động.
• Chính sách hỗ trợ sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu..
3. Vai trò của chính sách việc làm
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc gia nhằm góp phần tạo đảm bảo an toàn , ổn định, và phát triển xã hội. Có thể nói việc tạo việc làm cho người lao động là một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các nước trên thế giới. Đặc biệt trong giai đoạn hội nhập , nước ta đang thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa thì chính sách việc làm lại càng đóng vai trò quan trọng.
Chính sách việc làm là một trong những chính sách quan trọng không những chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt chính trị xã hội. Khi chính sách việc làm được triển khai đúng đắn và hợp lý sẽ sử dụng hết nguồn lực lao động bao gồm thể lực, trí lực, kinh nghiệm kết hợp với điều kiện thiên nhiên ưu đãi cùng với khoa học công nghệ...từ đó sẽ giúp đất nước đạt được sự phát triển bền vững. Ngược lại khi hoạch định và thực hiện không tốt chính sách việc làm sẽ dẫn đến những hậu quả và thiệt hại về mặt kinh tế. Cụ thể sẽ không sử dụng hết tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội, người lao động thì không có việc để làm trong khi các nguồn tài nguyên thiên nhiên thì bị bỏ phí không được khai thác, nền kinh tế kém phát triển , đời sống của người dân vất vả. Từ đó kéo theo các hậu quả về chính , xã hội khác như nạn thất nghiệp , nghèo đói, xuất hiện các tệ nạn xã hội...Thực hiện tốt chính sách việc làm , nguồn nhân lực được sử dụng hiệu quả thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm đi, như vậy chính sách bảo hiểm xã hội sẽ giảm chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Nếu chính sách việc làm chưa được giải quyết tốt thì gánh nặng đối với các chính sách về bảo trợ xã hội , an ninh xã hội sẽ tăng lên, có khi còn gây bất ổn cả về kinh tế và chính trị.
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách kinh tế xã hội khác, tiêu biểu nhất là mối quan hệ với các chính sách dân số, chính sách giáo dục đào tạo, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế...Điều này được thể hiện rõ qua lí luận sau:
+ Chính sách giáo dục đào tạo mà thực hiện tốt thì cơ hội tìm kiếm được việc làm tăng.
+ Chính sách dân số được thực hiện tốt thì tỉ lệ tăng dân số được kìm hãm góp phần khắc phục tình trạng thất nghiệp trong lâu dài.
+ Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế giúp phát triển cac ngành nghề sản xuất, các lĩnh vực kinh doanh mới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm giải quyết số lượng lớn lao động ở thành thị và nông thôn.
iI. Hội nhập
1. Khái niệm hội nhập
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết Hội nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quy định của khối chung.Như vậy bản chất của hội nhập là sự mở cửa nền kinh tế, đón nhận những “luồng gió” mới từ bên ngoài vào , kích thích các yếu tố, điều kiện trong nước để phát triển kinh tế.
2. Tính tất yếu khách quan của quá trình hội nhập
Do trong hoạt động ngoại thương thì bất lợi luôn đến với nước nghèo nên phải hội nhập để đạt được năng lực tập thể của các nước kém phát triển hay đang phát triển nhằm tạo bức tường thuế quan chống lại sản phẩm của các nước phi thành viên. Một khi nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới có mối liên hệ phụ thuộc ngày một chặt chẽ thì sự liên kết, hội nhập giữa các quốc gia là điều tất yếu. Quá trình đó ở Việt Nam diễn ra ngày càng mạnh mẽ dưới sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, quốc tế hoá và sự phân công lao động diễn ra ngày càng sâu. Trong thời đại này mới này không thể có một quốc gia nào lại tồn tại được nếu không có sự liên kết với thế giới bên ngoài và cũng không có quốc gia nào có nền kinh tế phát triển mà lại không có sự liên kết hợp tác với các quốc gia khác. Chính vì thế, trong thời đại mới này hội nhập kinh tế là tất yếu khách quan.
III. ảnh hưởng của hội nhập đến vấn đề việc làm
Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế là sự mở cửa nền kinh tế, đón nhận những luồng gió mới từ bên ngoài vào, kích thích các yếu tố, điều kiện trong nước để phát triển kinh tế. Vì vậy nó có ảnh hưởng nhất định đến các vấn đề kinh tế xã hội đặc biệt là vấn đề việc làm:
1. Tích cực
+ Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xoá bỏ từng bước, từng phần của rào cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia, vì vậy quá trình hội nhập đã làm cho một đất nước có tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên và sự bình ổn về chính trị trở thành địa chỉ đầu tư đáng tinh cậy của các nước phát triển trên thế giới vào các lĩnh vực công nghệ cao hay là các khu công nghiệp góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện mở rộng thị trường ngoài nước, khơi thông các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển kinh tế. Từ đó nhiều doanh nghiệp trong nước mạnh dạn mở rộng quy mô sản xuất và tiêu thụ hàng hoá ra các nước trên thế giới, ngoài ra thúc đẩy quá trình thành lập doanh nghiệp sản xuất của những người có vốn và trình độ nhưng còn e ngại về thị trường tiêu thụ mà chưa dám đầu tư. Giải quýêt được công việc cho một số bộ phận người lao động đặc biệt là các thanh niên,
+ Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội vươn lên của các quốc gia đang và kém phát triển. Thông qua quá trình hội nhập kinh tế quốc tế các quốc gia này phát huy tối ưu các lợi thế so sánh của mình đồng thời cũng tiếp nhận công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại trên thế giới. Qua đó đào tạo được đội ngũ lao động trình độ cao bằng các hình thức đào tạo gửi ra nước ngoài hoặc mời chuyên gia về nước giảng dạy.
2. Tiêu cực
Bên cạnh mặt tích cực của quá trình hội nhập thì việc mở cửa thị trường và thực hiện các quy luật của thị trường sẽ ảnh hưởng đến vấn đề việc làm.
Một thực tế là đầu tư nước ngoài vào trong nước tăng nhưng chủ yếu vào các dự án dài hạn ở các khu công nghiệp , xây dựng và dich vụ nhưng vào lĩnh vực nông thôn rất thấp. Nó đi liền với vấn đề giảm đất nông nghiệp để sử dụng cho các khu công nghiệp mới, từ đó một lực lượng lao động ở nông thôn đang có việc làm lại trở thành người thất nghiệp. Mà họ không dễ dàng gì để chuyển đổi sang các hình thức lao động khác do không có trình độ tay nghề lao động.
Ngoài ra các doanh nghiệp sản xuất trong nước khi mở cửa hội nhập làm cho hàng hoá nước ngoài có thể dễ dàng nhập khẩu vào với chất lượng cao mà giá thành lại không cao.Chính sự cạnh tranh gay gắt ở cả thị trường trong nước và nước ngoài người sản xuất hàng hoá và dịch vụ đều phảI chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt với hàng hoá và dịch vụ của các nước thành viên tổ chức. Mà một thực tế là khả năng cạnh tranh của Việt Nam nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng còn rất yếu điều này làm cho một số xí nghiệp, doanh nghiệp trong nước phảI đóng cửa sản xuất gây ra tình trạng thất nghiệp cho người lao động.
Bên cạnh đó quy mô của doanh nghiệp Việt Nam là tương đối nhỏ phần lớn là còn lạc hậu so với trình độ trung bình của thế giới, năng suất lao động thấp, sản phẩm làm ra chủ yếu có giá thành cao. Nhất là những hàng hoá mang tính độc đáo. Trong khi các doanh nghiệp hội nhập phải đối mặt với chính sách tự do hóa thương mại và cho phép các nước thành viên bảo hộ quyền sản xuất trong nước bằng thuế quan với mức trung bình ngày càng giảm. Do đó khả năng bảo hộ của nhà nước để các doanh nghiệp đủ sức đối phó với hậu quả sức ép cạnh tranh sẽ hạn chế và dễ bị thu hẹp. Đi đôi với điều này chính là việc thu hẹp các cơ sở sản xuất trong nước dẫn đến tình trạng thất nghiệp, mất việc làm cho một bộ phận công nhân.
Quá trình hội nhập buộc các nước phải dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, như hạn ngạch, giấy phép hay trợ cấp… điều này sẽ khiến cho một số loại sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp như thép, giấy, phân bón…chịu sự cạnh tranh gay gắt từ phía ngoài. Một số doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư phát triển và mở rộng sản xuất nên chưa tạo được sự cạnh tranh cho doanh nghiệp trong khoảng thời gian ngắn. Hàng hoá không đủ sức cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải thay đổi hướng sản xuất hoặc đóng cửa gây ra tình trạng mất việc lamg tạm thời cho người lao động.
Đặc biệt việc tiến hành đô thị hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang cổ phần hoá đáp ứng cho quá trình hội nhập cũng làm cho một số cán bộ viên chức thiếu trình độ bị đào thải và không tìm được công việc mới kéo theo nhiều hậu quả khác cho xã hội như đói nghèo, tệ nạn xã hội…
IV. Nội dung của chính sách việc làm
1.Chủ thể
Bộ lao động – Thương binh và xã hội
Có trách nhiệm xây dựng các kế hoạch hàng năm bao gồm các kế hoạch về nhiệm vụ, mục tiêu, nhu cầu kinh phí và đề xuất các giải pháp thực hiện để gửi các Bộ khác có liên quan. Ngoài ra chủ trì và phối hợp với các Bộ ngành để xây dựng cơ chế thực hiện các dự án: vay vốn tạo việc làm, hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài, thực hiện hoạt động giám sát đánh giá…
Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Có trách nhiệm chủ trì và phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh xã hội hướng dẫn cơ chế đầu tư các chương trình dự án trong nước. Phải phối hợp với Bộ Tài chính để cân đối và bố trí kế hoạch hàng năm.
Bộ Tài chính:
Có trách nhiệm chủ trì và phối hợp với các bộ ngành liên quan để hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính đối với các dự án, phối hợp kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác chính sách. Ngoài ra phải đảm bảo ngân sách Nhà Nước cấp và hỗ trợ cho các đối tượng theo đúng quy định của Pháp luật
Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội: Có trách nhiệm quản lý nguồn vốn và tổ chức giải ngân kịp thời đối với các dự án hỗ trợ việc làm theo cơ chế và chính sách của nhà nước quy định.
Các cơ quan, UBND các cấp từ trung ương đến địa phương:
Có trách nhiệm phối hợp với các bộ ngành để triển khai các chương trình kế hoạch sát sao đến từng địa phương cụ thể. Đồng thời có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện công tác chính sách cụ thể trong từng giai đoạn để Nhà Nước có chính sách điều chỉnh kịp thời phù hợp với nhu cầu của người lao động.
Các tổ chức chính trị- xã hội:
Có trách nhiệm tổ chức việc thực hiện các chính sách cụ thể trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Pháp luật. Đồng thời phải phối hợp với địa phương nơi tổ chức làm việc hỗ trợ việc triển khai thực thi chính sách.2. Đối tượng
Đối tượng của chính sách là người lao động từ 18 tuổi trở lên ở thành thị và nông thôn, được chia thành hai bộ phận:
+ Từ 18 tuổi đến 35 tuổi: loại lao động này có khả năng tham gia vào các khu công nghiệp, tham gia học nghề đối với các ngành nghề mới. Do đó chính sách cho đối tượng này chủ yếu là đào tạo nghề và Xuất khẩu lao động, xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ...
+ Trên 35 tuổi: lao động trong độ tuổi này ít có khả năng chuyển sang ngành nghề mới hoặc học nghề, và thường thì cũng không đủ sức khỏe để xuất khẩu lao động. Do đó chính sách chủ yếu cho loại lao động này là phát triển kinh tế hộ gia đình và khôi phục làng nghề truyền thống giải quyết việc làm tại chỗ.
Căn cứ vào đặc điểm của từng đối tượng mà Nhà nước có những chính sách phù hợp.
3. Mục tiêu
a. Mục tiêu chung:
Căn cứ vào tài liệu dự báo về phát triển nguồn lao động và nhu cầu giải quýêt việc làm cùng với tư tưởng chủ đạo của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã xác định mục tiêu chính sách trong thời gian tương ứng là “Chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, đảm bảo việc làm cho phần lớn lao động có nhu cầu tìm kiếm việc làm; nâng cao năng suất lao động , tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống chung của nhân dân”.
b. Mục tiêu cụ thể:
Xây dựng đội ngũ lao động có chất lượng cao , nắm vững khoa học công nghệ hiện đại, tay nghề vững vàng, đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, góp phần ngăn chặn tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực. Chú trọng vào việc đào tạo phát triển đội ngũ lao động có trình độ khoa học công nghệ cao, tạo ra việc làm có năng suất cao và người lao động có thể tìm kiếm việc làm phù hợp với trình độ và có mức thu nhập thoả mãn với nhu cầu của bản thân.
Giảm thiểu tình trạng thất nghiệp, tạo chỗ làm cho người lao động bằng cách phát triển tối đa các vùng kinh tế mới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề truyền thống... để sử dụng hết nguồn lao động dư thừa. Cụ thể:
+ Tạo việc làm mới cho khoảng 8 triệu lao động trong vòng 5 năm 2006-2010, bình quân mỗi năm khoảng 1,5 triệu; đạt cơ cấu lao động nông nghiệp , công nghiệp- xây dựng , dịch vụ tương ứng là 50%,23%,27%;
+ Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% vào 2010;
+ Tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 85% vào 2010;
+Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40% vào 2010 trong đó đào tạo nghề là 30% vào năm 2010;
Nâng cao năng lực và hiện đại hóa trung tâm giới thiệu việc làm và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động; Xây dựng và đưa vào sử dụng trang Web về thị trường lao động;Tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác lao động việc làm từ trung ương đến địa phương.
4. Nguyên tắc
Công bằng cho tất cả các đối tượng. Nguyên tắc này đảm bảo mở rộng cơ hội cho tất cả mọi người, ai cũng giống nhau trong việc tiếp cận thông tin về việc làm, có cơ hội tham gia tuyển dụng, vào làm...
Tiết kiệm, tránh lãng phí. Nguyên tắc này đòi hỏi cần có những giải pháp thực hiện chính sách đạt được kết quả mong muốn với mức chi phí và tổn thất hợp lý nhất trong phạm vi có thể.
Phối hợp chặt chẽ giữa các cấp để đảm bảo chính sách được thực hiện đúng đắn. Nguyên tắc này nhằm tránh tình trạng gian lận trong công tác thực thi chính sách về nội dung , điều khoản thi hành cũng như các chính sách được áp dụng riêng cho các đối tượng đặc biệt. Thực hiện chính sách này nhằm đưa ra những giải pháp kịp thời nếu phát hiện ra thiếu sót.
Nguyên tắc hiệu quả: Nhà nước trong quá trình thực thi các chính sách tạo việc làm cho người lao động với kinh phí nhỏ nhất để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra trước mắt.
Nguyên tắc khách quan của thị trường : xây dựng chính sách tạo việc làm cho người lao động phải tuân thủ tính chất khách quan. Phải quan tâm tới cung cầu của thị trường lao động để có những chính sách hợp lý. Giả sử thị trường cần lao động có đào tạo nhưng đào tạo nhưng đào tạo ở mỗi địa phương là khác nhau do đó phương thức đào tạo và cung ứng phải khác nhau.
Nguyên tắc đảm bảo được tính chất xã hội và tính chất an sinh.
Nguyên tắc Nhà nước và nhân dân cùng làm: dựa trên cơ sở Nhà nước tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi người có cơ hội trong việc tìm kiếm và tự tạo việc làm, tránh tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, ngoài ra tránh xu hướng chạy theo thị trường tự do trong giải quyết việc làm, coi nhẹ trách nhiệm xã hội của Nhà nước, của doanh nghiệp.
5.Công cụ
Để đạt được các mục tiêu mà chính sách việc làm đã đề ra, Nhà nước đã áp dụng hệ thống công cụ phức tạp sau:
Công cụ hành chính:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bao gồm Luật đất đai, Luật doanh nghiệp, Luật Lao động, Luật xuất khẩu lao động...nhằm điều chỉnh, bảo vệ và tác động vào ý thức con người.Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội và người lao động phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của Pháp luật.
Những quy định của Hội đồng bộ trưởng về phát triển kinh tế, Thông tư liên tịch hướng dẫn công tác phòng ngừa và chống hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, Nghị định Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Lao động, Các quy định nguyên tắc của Bộ Lao động-Thương binh xã hội.
Công cụ kinh tế:
Bao gồm Quỹ hỗ trợ về việc làm, Nguồn vốn từ Ngân hàng chính sách, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng đầu tư, và một số quỹ khác như quỹ quốc gia, quỹ tiết kiệm xã hội... có trách nhiệm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ sản xuất kinh doanh, trang trại, làng nghề... vay vốn tạo việc làm cho người lao động ưu đãi về thời hạn với lãi suất thấp và thủ tục thế chấp đơn giản;
Công cụ tâm lý giáo dục:
Tuyên truyền giáo dục cho người lao động thông qua các cơ quan đoàn thể từ trung ương đến địa phương, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên...về các định hướng nghề nghiệp nhằm giải quýêt tư tưởng về việc làm có tính chất lâu dài và ổn định, hay các quy định của pháp luật để người lao động tự bảo vệ quyền lợi của mình trước các doanh nghiệp...
Công cụ nghiệp vụ:
Nhà nước đưa ra những ưu đãi nhằm tạo việc làm cho người lao động thông qua các chính sách và chủ trương: chính sách cắt giảm thuế, ưu đãi thuế nhập khẩu, các chương trình trợ cấp vốn sản xuất...Đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp thành lập tổ chức công đoàn để bảo vệ lợi ích cho người lao động.
6. Quan điểm của chính sách
Nhằm thực hiện mục tiêu chung của nền kinh tế về bảo đảm việc làm cho người lao động và giảm tỷ lệ thất nghiệp thì chính sách việc làm cần quán triệt những quan điểm chủ yếu sau:
Quan điểm tự do hóa lao động.
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, Nhà nước phải lo mọi vấn đề về lao động và việc làm, từ việc đào tạo, phân bổ việc sử dụng và các chế độ đãi ngộ khác. Và chỉ khi người lao động làm việc trong khu vực Nhà nước mới được coi là có việc làm, trong cơ chế đó thì lao động không được tự do di chuyển nơi làm việc khi chưa có quyết định của Nhà nước, không được tự do hành nghề nên không phát huy được sức mạnh của nguồn nhân lực từ đó kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong cơ chế thị trường thì quan điểm về lao động đã thay đổi hẳn: người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, hợp tác và thuê mướn lao động trên cơ sở tuân thủ quy định của Pháp luật và Nhà nước chỉ có trách nhiệm hỗ trợ về tài chính để xúc tiến việc làm khuyến khích tạo việc làm mới để thu hút người lao động; khai thác mọi tiềm năng trong dân cư và thu hút đầu tư của nước ngoài.
Quan điểm chú trọng chất lượng lao động:
Chính sách việc làm phải nhằm cải thiện chất lượng lao động đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Gắn với chất lượng lao động thì Nhà nước phải chú trọng phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo,có thể mở rộng liên kết hợp tác đào tạo quôc tế các ngành lĩnh vực công nghệ thông tin điện tử... Sản phẩm đào tạo phải đáp ứng yêu cầu lao động kỹ thuật cao trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Do đó Nhà nước tổ chức đào tạo đặc biệt chú trọng đào tạo đội ngũ doanh nhân, các nhà quản lý có trình độ cao, ưu tiên đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhất là thanh niên ở những nơi bị thu hồi đất nông nghiệp, lâm nghiệp.
Quan điểm về sự chỉ đạo của Nhà Nước:
Nhà nước kiểm soát cung cầu lao động để giảm thiểu tình trạng thất nghiệp.Nhà nước khuyến khích phát triển nguồn cung lao động, phát triển nhu cầu lao động và thúc đẩy giao dịch trên thị trường nhưng phải nằm trong tầm kiểm soát của nhà nước bằng cách cải cách hệ thống tiền lương tiền công và hoàn thiện hệ thống thể chế về thị trường lao động nhằm hạn chế được tình trạng thất nghịêp. Đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập toàn cầu thì một số chính sách can thịêp chống phá giá của chính phủ có thể gây tổn thất về việc làm, mặc dù hiện tượng thất nghiệp hiện tại chưa phải là vấn đề đáng lo ngại nhưng trong tương lai Nhà nước có thể có chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.
Quan điểm về hướng sản xuất:
Chính sách việc làm phải hướng vào khuyến khích sản xuất kinh doanh các ngành nghề sử dụng nhiều lao động đặc biệt là các ngành có thể xuất khẩu ra các nước trên thế giới. Phát triển những ngành mà Việt Nam có lợi thế, những ngành mũi nhọn, sử dụng lao động có trình độ kỹ thuật cao như điện tử, cơ khí chế tạo, vật liệu mới... song song với những ngành công nghiệp sử dụng ít vốn, sử dụng nhiều lao động phù hợp với trình độ của lao động của Việt Nam như dệt may, giày gia, chế biến...Chú trọng hình thành các khu kinh tế mở, khu chế xuất, khu công nghiệp...Phát triển ngành dịch vụ giá trị cao như bưu chính viễn thông, tài chính, kiểm toán...sử dụng lao động trình độ cao đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và hội nhập.
Quan điểm gắn chính sách việc làm với các chiến lược phát triển kinh tế xã hội:
Giải quyết việc làm phải theo “Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến 2010”, phải có mục tiêu, có vốn đầu tư từ Quỹ quốc gia về việc làm, Ngân sách trung ương và từ một số nguồn khác nữa. Đồng thời phải gắn vấn đề lao động việc làm với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và với các chương trình mục tiêu quốc gia khác như phát triển kinh tế nông thôn, quy hoạch đô thị, tạo việc làm cho người tàn tật, xuất khẩu lao động....
CHƯƠNG II: Thực trạng về chính sách việc làm
Cộng đồng quốc tế chính thức công nhận Việt Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 11/1/20007 và là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo An của LHQ từ ngày 1/1/2008. Điều này đã đánh dấu việc nước ta hội nhập chặt chẽ vào đời sống kinh tế- chính trị của thế giới.Điều này đã mang lại cho Việt Nam những cơ hội cũng như thách thức mới, cạnh tranh lớn dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu kinh tế gây tổn thất đến vấn đề việc làm, Nhà nứơc đã áp dụng một số chính sách để tạo việc làm và thu được một số kết quả nhất định.
I. Thực trạng công tác chính sách
Trong những năm qua để giải quyết việc làm cho người lao động nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách khác nhau như phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển kinh tế hộ gia đình, chính sách việc làm cho người tàn tật, chính sách dạy nghề….và đã đem lại được những hiệu quả nhất định góp phần giảm thiểu tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của đại bộ phận dân cư và còn có điều kiện được hưởng các dịch vụ an sinh xã hội khác. Cụ thể:
1. Chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhà nước hỗ trợ vốn tài chính và tín dụng cho các doanh nghiệp bằng cách: thành lập hệ thống tín dụng và thương mại đầy đủ, giảm lãi suất cho vay tới mức cần thiết, cải tiến đơn giản những thủ tục vay để sát thực với từng loại doanh nghiệp, sửa đổi thuế suất và lệ phí đăng kí thành lập...
Nhà nước hỗ trợ về đào tạo cho doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách đồng bộ, cả công nhân và những nhà quản lý lao động. Về mặt kinh phí đào tạo thì bản thân các doanh nghiệp không có đủ khả năng tài chính để tự đào tạo mà Nhà nước phải hỗ trợ.
Nhà nước có những giải pháp tích cực trong nâng cao quan hệ quốc tế nhằm hộ trợ các DNVVN. Tạo mối quan hệ tôt đẹp với các nước trên thế giới để tìm ra thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận với khoa học công nghệ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là hỗ trợ vốn cho các DNVVN thông qua nguồn vốn ODA, tạo liên doanh, liên kết thông qua các hình thức thu hút vôn FDI.
2. Chính sách khuyến khích phát triển các làng nghề truyền thống có khả năng xuất khẩu
Nhà nước có chính sách đầu tư cho vay vốn đối với những hộ gia đình ở các làng nghề truyền thống trên cả nước để khôi phục lại những mặt hàng có giá trị về mặt dân tộc như tranh thêu, gốm, làng tranh,….với lãi suất thấp và trả sau các đợt tiêu thụ hàng hoá. Bên cạnh đó còn hỗ trợ chuyển giao công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra nhà nước mở rộng quan hệ ra các nước trên thế giới, tìm hiểu nhu cầu và tạo ra thị trường xuất khẩu hàng hoá ra các nước một cách đồng loạt để người dân không phải mang nỗi lo lắng mình làm ra sản phẩm sẽ bán cho ai? Trong những năm qua thì Việt Nam đã có quan hệ hợp tác tốt với các nước trong khu vực và đó là thị trường tiêu thụ cho những sản phẩm truyền thống.
3.Chính sách phát triển kinh tế hộ gia đình
Nhà nước có chính sách khuyến khích mọi hình thức sản xuất như phát triển trang trại, hợp tác xã… đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định rõ quyền sở hữu đất đai cho từng hộ gia đình để họ yên tâm lao động sản xuất để họ nghiên cứu nuôi con gì hay trồng cây gì trong thời gian dài. Đồng thời xây dung khung pháp lí để bảo vệ người sản xuất nông nghiệp trong lĩnh vực đầu tư cũng như việc thuê mướn lao động,
Ngoài ra xây dựng những chính sách tính dụng hỗ trợ người dân vay vốn. Những chính sách này đã chú trọng ưu đãi về lãi vay cũng như thời hạn cho vay, thủ tục vay vốn phải đơn giản không phức tạp. Nhà nước có chính sách giám sát và hướng dẫn người dân sử dụng vốn đúng mục đích và chi tiêu cho sản xuất một cách hợp lý. Đồng thời tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản cho người dân để họ yên tâm sản xuất.
4. Chính sách xuất khẩu lao động
Các địa phương kết hợp với các trung tâm giới thiệu việc làm cùng với các doanh nghiệp đã tuyển chọn lao động đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng về trình độ chuyên môn nghề nghiệp cũng như kiến thức ngoại ngữ, sức khoẻ và ý thức kỷ luật. Ngoài ra các ngân hàng đã triển khai sâu rộng chính sách cho vay vốn cho XKLĐ theo quyết định số 440/2001/QĐ-NHNN ngày 17/4/2001 của Ngân hàng Nhà nước và các hướng dẫn kèm theo để tạo điều kiện thuận lợi và tháo gỡ khó khăn cho người lao động có nhu cầu vay vốn đi XKLĐ.
Bên cạnh đó Nhà Nước đã có nhiều chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động thực hiện mô hình liên kết XKLĐ và tổ chức các hội chợ việc làm để người lao động có cơ hội gặp gỡ và trao đổi trực tiếp với doanh nghiệp XKLĐ nhằm giúp lao động tìm được việc làm thông qua XKLĐ được thuận lợi.
5. Chính sách vịêc làm cho người tàn tật:
Nhà nước xây dựng chương trình tổng thể về việc làm cho người tàn tật đảm bảo cuộc sống kết hợp với phục hồi chức năng và hoà nhập với cộng đồng. Nhà nước ban hành một số chính sách theo Bộ Luật lao động : Nhà nước trợ cấp hàng năm để tạo việc làm , được vay vốn từ quỹ quốc gia về giải quyết việc làm với lãi suất thấp, được hỗ trợ dạy nghề…
Các trung tâm dạy nghề và tổ chức việc làm cho người lao động tàn tật kết hợp với dạy văn hoá. Phát triển các hiệp hội sản xuất của người tàn tật được Nhà nước bảo trợ và tạo điều kiện trực tiếp hợp tác với các hiệp hội tương ứng quốc tế trong lĩnh vực sản xuất và tạo việc làm cho họ.
II. Đánh giá thực trạng
1. Kết quả chung
Thực hiện chương trình mục tiêu về vịêc làm nhìn chung giai đoạn 2001-2005 đã góp phần tạo việc làm cho gần 11 triệu người; cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng lao động công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, giảm lao động nông nghiệp. Năm 2001 cơ cấu lao động nông nghiệp,công nghiệp- xây dựng và dịch vụ là 63%,14%,23% thì năm 2007 tương ứng là 53%, 19%,và 28%.hiện cả nước có 3 triệu hộ kinh daonh cá thể 17535 hợp tác xã kiểu mới, đã góp phần quan trọng để tạo ra công ăn việc làm cho người lao động.
Bên cạnh đó thì tình trạng thất nghiệp cũng được giảm thiểu: giai đoạn 2001-2005 đã tạo được việc làm cho 5,55 triệu lao động, năm 2006 là 1,22 triệu lao động và năm 2007 là 1,25 triệu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị từ 6,28% năm 2001xuống 4,91% năm 2007
Ngoài ra còn tăng số lao động qua đào tạo từ 22% năm 2001 lên 35,4% năm 2007.
Việc làm được tạo ra chủ yếu từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hàng năm có từ 40 đến 50 nghìn doanh nghiệp được thành lập, đến đầu 2007 đã có 234 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh.
Bên cạnh đó Quỹ Quốc gia về giải quýêt việc làm cũng có vai trò quan trọng, thúc đẩy tạo việc làm, từ 2001 đến 2005, Quỹ đã cho vay gần 100 nghìn dự án lớn, nhỏ, tạo nhiều chỗ làm cho công nhân. Xuất khẩu lao động Việt Nam cũng đem lại những kết quả khá, đến nay lao động Việt Nam đã có mặt ở 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm nghề các loại, trên 50% lao động đi làm ở nước ngoài được đào tạo nghề. Giai đoạn 2001-2005 nước ta đã đưa được 295,1 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, năm 2006 là 78,8 nghìn, và năm 2007 là 85 nghìn, nâng tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trên 400 người...
2. Một số hạn chế
a.Tình trạng thất nghiệp
Bên cạnh những kết quả đạt được thì chính sách việc làm trong những năm qua vẫn còn tồn tại một số yếu kém bất cập:
Thực ra tác động chủ yếu trong chuyển dịch cơ cấu lao động không rõ ràng, được hình thành một cách tự nhiên hơn là so với điều tiết chủ động. Lao động khu vực nông nghiệp giảm nhưng không hẳn là dịch chuyển sang khu vực công nghiệp- xây dựng hay dịch vụ mà hàng triệu lao động sau khi bị thu hồi đất rất ít người tìm được việc làm mới.Số còn lại là thất nghiệp , trước đây lao động nông nghiệp chỉ thiếu việc làm không có thất nghiệp toàn phần thì nay số lao động thất nghiệp toàn phần có xu hướng tăng lên.
Ngoài ra quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu làm cho cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu dẫn đến thường xuyên có lao động mất việc làm, hàng năm lại có khoảng 1,1 triệu người bước vào tuổi lao động nhưng hệ thống chính sách chưa đảm bảo cho người cần việc là có việc; chưa đảm bảo ổn định tương đối lực lượng sản xuất kinh doanh trong những thời gian nhất định. Người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường xuyên thay đổi lực lượng lao động bằng cách ký các hợp đồng ngắn hạn, phía bên người lao động thì tự tiện bỏ việc mà luật pháp không thể kiểm soát được.
Ngoài ra hội nhập toàn cầu dẫn đến cạnh tranh cao làm cho một số mặt hàng sản xuất trong nước bị các hàng hóa nhập khẩu từ nước khác với giá cả rẻ hơn cạnh tranh mạnh dẫn đến nợ nần quá lớn, nhập siêu với mức độ cao buộc phải phá sản. Đã làm cho số lao động thiếu việc làm và mất việc tăng lên.
Bên cạnh đó việc tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đô thị hóa nông thôn đã làm cho diện tích canh tác và trồng trọt giảm, người lao động không có việc để làm dẫn đến hiện tượng dòng di dân từ thành thị ra nông thôn, số tệ nạn xã hội gia tăng và tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vượt quá giới hạn cho phép của xã hội(7-9%), đặc biệt chủ yếu là lực lượng thanh niên.
b. Thiếu lao động trình độ cao
Lực lượng lao động ở Việt Nam tương đối lớn nhưng trong đó ba phần tư là lao động ở nông thôn.
Hiện nay mới chỉ có 32% số lao động đã qua đào tạo và tỷ lệ lao động đã có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn là 14,4%. Một số bộ phận lao động đã qua đào tạo nhưng được sử dụng không đúng ngành nghề hoặc phải đào tạo lại mới có thể làm được việc trong các doanh nghiệp, thiếu nghiêm trọng lao động có trình độ kỹ thuật cao, lao động quản lý; ý thức kỷ luật và tác phong công nghiệp kém; sức bền dẻo dai của lao động chúng ta chỉ ở mức trung bình kém, chưa đáp ứng được cường độ làm việc công nghiệp.
Việt Nam thiếu trầm trọng lao động có trình độ và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành tài chính, ngân hàng,kiểm toán nên phải thuê lao động nước ngoài trong khi lao động xuất khẩu đa phần có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc mới chỉ qua giáo dục định hướng.Theo đánh giá của một số chuyên gia về lao động, lĩnh vực thiếu hụt nhân sự nghiêm trọng nhất hiện nay là công nghệ thông tin, tài chính, kiểm toán, luật và hầu hết các ngành công nghiệp. Ngoài ra nhiều người lao động chưa đủ trình độ ngoại ngữ đủ để làm việc , dù rằng trên thực tế tình trạng này đang được cải thiện nhờ ngày càng có nhiều người nước ngoài đến Việt Nam cũng như một số người Việt được đào tạo ở nước ngoài và quay trở về Việt Nam làm việc.
c. Trình độ giải quýêt việc làm còn hạn chế chưa phát huy được tiềm năng đất nước
Đứng trước vấn đề giải quýêt việc làm vừa cấp bách vừa trước mắt vừa là vấn đề cơ bản có ý nghĩa về mặt kinh tế lớn lao và có ý nghĩa về mặt xã hội phức tạp thì hiện nay mâu thuẫn giữa nhu cầu việc làm ngày càng lớn và khả năng giải quyết việc làm còn tương đối hạn chế, trong thực tế thì tiềm năng phát triển kinh tế và tạo việc làm cho người lao động còn khá lớn , song chưa khai thác được, chưa gắn lao động với các tiềm năng đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Đặc biệt là các tiềm năng về đất đai ở các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, miền núi phía Bắc và các vùng ven biển…Trong khi đó thì trình độ tổ chức giải quyết việc làm chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thị trường , hệ thống giải quýêt việc làm còn hạn chế, cán bộ làm công tác dịch vụ còn thiếu nhiệt tình, thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt đã không tận dụng và phối hợp công tác việc làm giữa các vùng miền địa phương với nhau hay giữa nhà máy công ty với chính quyền các cấp.
CHƯƠNG III: Một số giảI pháp kiến nghị
I.Phương hướng thực hiện
1. Phát triển kinh tế tạo nhiều việc làm cho người lao động
Nhằm phát huy nội lực để xây dựng đất nước và tạo việc làm cho người lao động thì cần tập trung vào những phương hướng sau: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá phát triển những ngành mà Việt Nam có lợi thế, những ngành kỹ thuật mũi nhọn, sử dụng lao động có trình độ kỹ thuật cao như điện tử, cơ khí chế tạo, vật liệu mới… song song với những ngành công nghiệp đòi hỏi ít vốn, sử dụng nhiều lao động, công nghệ phù hợp với trình độ lao động của Việt Nam như dệt may, gia giày, công nghệ chế biến…Thực hiện song song hai vấn đề tăng trưởng và việc làm. Đồng thời chú trọng hình thành các khu công nghiệp tập trung , khu kinh tế mở, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu…và gắn quy hoạch các khu công nghiệp với kế hoạch sử dụng lao động, đặc biệt là lao động địa phương nơi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Ngoài ra phát triển các ngành dịch vụ giá trị cao như bưu chính viễn thông , tài chính, bảo hiểm… để sử dụng lao động trình độ cao đáp ứng trực tiếp cho yêu cầu tăng trưởng và hội nhập, đồng thời tận dụng được tối đa tiềm năng về du lịch của đất nước để tạo việc làm cho người lao động.
Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ: ước tính với mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ đi vào hoạt động sẽ thu hút được 50 lao động vào làm việc mêm các doanh nghiệp đi vào hoạt động ngày càng nhiều sẽ là một trong những hướng đi quan trọng để tạo nhiều việc làm cho lao động theo hướng công nghiệp hoá.
Ngoài ra với một đất nước hơn 50% lao động làm nông nghiệp như Việt Nam thì việc thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn là một bước đi quan trọng góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động đảm bảo việc làm bền vững, ổn định với thu nhập cao. Cụ thể: là phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện khí hậu, tiềm năng, đặc biệt khuyến khích phát triển trang trại, khôi phục và mở rộng các làng nghề, nghề thủ công công nghiệp truyền thống sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thủ công nghệ phục vuh trong nước và xuất khẩu, gắn sản xuất nông nghiệp với công nghệ chế biến và dịch vụ phục vụ sản xuất.
2. Nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động
Việc đào tạo nguồn nhân lực sẽ nâng cao chất lượng lao động nhằm đảm bảo cho người lao động có được việc làm bền vững trước những đòi hỏi cao của thị trường.Nhà nước cần huy động mọi nguồn lực trong xã hội cho phát triển giáo dục gắn tăng đầu tư ngân sách Nhà Nước cho giáo dục đào tạo sử dụng hiệu quả. Khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người được học tập suốt đời và không ngừng nâng cao kiến thức. Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực tăng cường giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về trình độ học vấn và cả chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tay nghề thực hiện liên thông giữa các cấp trình độ gắn giáo dục đào tạo với việc làm và với nhu cầu thị trường. Ngoài ra chú trọng đào tạo đội ngũ doanh nhân, các nhà quản lý, lao động có trình độ cao; tập trung đào tạo chuyển đổi nghề cho lao động nông thôn đặc biệt là thanh niên nông thôn trong vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đát nông nghiệp .
3. Hoàn thiện và phát triển hệ thống an sinh xã hội
Việc hội nhập kinh tế, Việt Nam mở cửa thị trường làm tác động tiêu cực đến nhiều vấn đề, đặc biệt là vấn đề xã hội. Do đó hệ thống an sinh là một trong những công cụ quan trọng để ngăn ngừa và hạn chế tiêu cực này. Trong bối cảnh hội nhập thì hệ thống an sinh xã hội cần tập trung vào chính sách cho lao động nông thôn bị mất việc làm, thiếu việc làm do quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, các chính sách bảo hiểm xã hội, đặc biệt là bảo hiểm thất nghiệp … tạo điều kiện cho mọi đối tượng được hưởng thành quả từ hội nhập.
Thất nghiệp là một trong những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường từ đó dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực cho xã hội nếu không có biện pháp hỗ trợ kịp thời như gia tăng nghèo đói, tệ nạn xã hội, sự bất ổn về chính trị… Bảo hiểm thất nghiệp cũng là một công cụ hữu hiệu của xã hội để hạn chế những tiêu cực trên góp phần tích cực ổn định và phát triển xã hội bền vững.
II. Một số giải pháp cơ bản
1. Phía người lao động
Người lao động là yếu tố chủ quan quyết định đến vấn đề có việc làm hay không? với tốc độ gia tăng dân số ngày càng nhanh như hiện nay đặc biệt là số người bước vào độ tuổi lao động hàng năm khoảng 1,2 triệu người thì nếu chỉ trông chờ vào các chính sách của Nhà Nước và các tổ chức xã hội giải quýêt việc làm thì kết quả sẽ rất thấp trong khi người gánh chịu trực tiếp lại chính là người lao động. Vì vậy trong những điều kiện có thể thì người lao động phải tự tìm cách giải quyết việc làm tại chỗ bằng các hình thức khác nhau như ra đời các thành phần kinh tế không kết cấu như xe ôm, đánh giày, cắt tóc, buôn bán nhỏ… sử dụng rất ít vốn mà lại có thể giải quyết được tạm thời công ăn việc làm, nâng cao đời sống hàng ngày.
Ngoài ra đối với lực lượng lao động ở nông thôn thì nên tự tạo việc làm bằng các hình thức như thâm canh tăng vụ, tự tổ chức phát triển kinh tế hộ gia đình bằng cách chăn nuôi gia súc hay là trang trại.
2. Phía Nhà Nước
Nhà nước cần xây dựng, bổ sung , sửa đổi và hoàn thiện hệ thống thể chế pháp luật như Luật BHXH, Luật Dạy nghề, Luật Xuất khẩu lao động, Pháp lệnh về đình công… giải quýêt các vướng mắc về cơ chế, chính sách, dỡ bỏ những rào cản về thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh để tạo thêm việc làm cho người lao động. Đồng thời xây dựng và trình Chính phủ hoặc ban hành các văn bản theo thẩm quyền hướng dẫn thi hành Luật, Pháp lệnh về lao động…
Ngoài ra Nhà Nước cần tổ chức thực hiện các chỉ tiêu nhiệm vụ:
Đối với lao động việc làm trong nước
Thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm đến năm 2010, thì Nhà Nước có 3 hướng:
Đổi mới cơ chế quản lý, điều hành vốn cho vay giảI quyết việc làm; tạo việc làm cho người lao động thông qua dự án vay vốn tạo việc làm là một trong những hướng tạo việc làm chủ đạo. Việc đổi mới cơ chế quản lí, điều hành đảm bảo đáp ứng nhu cầu vay vốn tạo việc làm ngày càng lớn của người lao động trong đó ưu tiên cho vay các nhóm đối tượng yếu thế như lao động là người tàn tật, người dân tộc,lao động nữ.
Hỗ trợ phát triển thị trường lao động nhằm đẩy mạnh phát triểm thị trường lao động Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh hội nhập. Cụ thể: xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động tiến tới xây dựng cơ sở dữ liệu về lao động việc làm. Nâng cao hiệu quả hoạt động giao dịch việc làm trên thị trường thông qua việc quy hoạch tổng thể hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, đầu tư nâng cao năng lực các trung tâm trong việc tổ chức sàn giao dịch việc làm định kỳ, thường xuyên thu thập và xử lý cung cấp thông tin thị trường lao động .
Đẩy mạnh cho vay vốn từ quỹ Quốc gia về giải quýêt việc làm, đồng thời ưu tiên cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cần có chính sách quản lý vảư dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí cho đầu tư phát triển các lĩnh vực lao động, thực hiện công khai, giám sát cộng đồng và tự kiểm tra trong phân bổ dự toán hay quyết toán chi tiêu các nguồn kinh phí.
Ngoài ra Nhà Nước cần có chính sách phát triển các hình thức giao dịch, thông tin thị trường, tổ chức các hội chợ việc làm để tạo ra thị trường lao động thông suốt và thống nhất trong cả nước.Bên cạnh đó cần phát triển các trung tâm giới thiệu việc làm.
Hướng dẫn kiêmt tra theo dõi việc thực hiện các chế độ BHXH, Hợp đồng lao động, tiền lương, thoả ước lao động tập thể, hay việc hoà giải các tranh chấp…
b. Về việc xuất khẩu lao động
Đẩy mạnh hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. ổn định các thị trường hiện có và mở rộng thị trường nhận lao động Việt Nam sang các khu vực, các nước phù hợp với trình độ, kĩ năng của người lao động Việi Nam.Tăng số lượng , nâng cao chất lượng lao động và chuyên gia nhằm đáp ứng tốt nhu cầu thị trường lao động nước ngoài, tạo sự tin tưởng của nước bạn.
Nhà Nước cần thực hiện các biện pháp đồng bộ nhằm giữ và mở rộng thêm thị phần ở các thị trường hiện có, đồng thời mở thêm thị trường mới trong đó tập trung vào ngăn chặn tình trạng lao động vi phạm hợp đồng lao động, tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc quản lý lao động xuất khẩu.
Nhà Nước cần sắp xếp mới và phát triển các Doanh nghiệp xuất khẩu lao động theo hướng chuyên môn hơn là hình thức đại trà. Ngoài ra cần đa dạng hoá các hình thức sở hữu doanh nghiệp tăng cường năng lực thông tin, khai thác thị trường, đào tạo cơ bản. Chuyên gia làm công tác quản lí việc xuất khẩu lao động kiên quýêt xử lí các doanh nghiệp vô trách nhiệm, gây hậu quả xấu cho người lao động.
Nhà Nước có chính sách phân công và phân cấp làm rõ trách nhiệm của các Bộ, Ngành, Địa phương các cấp về việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong Xuất khẩu lao động.
Bên cạnh đó Nhà nước cần tuyên truyền công khai các chính sách chế độ,tuyển chọn để góp phần lành mạnh hoá nhận thức, quyền lợi và nghĩa vụ của các cơ quan, doanh nghiệp và người lao đông.
Về dạy nghề
Nhà nước cần rà soát, bổ sung và quy hoạch mạng lưới dạy nghề theo hướng xã hội hoá. Các tỉnh, thành phố chủ động huy động các nguồn lực đầu tư mạng lưới dạy nghề của các địa phương theo quy hoạch, đẩy nhanh tiến độ thực hiện quy hoạch các trường dạy nghề.
Đối với các trung tâm dạy nghề cần tăng cường năng lực, cơ sở vật chất củng cố đội ngũ quản lý, đào tạo giáo dục định hướng, tích cực đẩy mạnh hoạt động đào tạo với hình thức đa dạng háo cơ cấu ngành nghề phục vụ hoạt động XKLĐ trên cơ sở những ngành nghề mà thị trường đòi hỏi với những ngành nghề mang tính chất tiềm năng của từng địa phương cụ thể.
Thực hiện khâu dạy nghề cho các khu công nghiêp, cho xuất khẩu lao động đáp ứng lao động có kỹ thuật và kĩ năng về tay nghề, dạy ngoại ngữ, các kỉ luật lao động, tác phong công nghiệp và sức khoẻ cho thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao động, dạy nghề cho lao động nông thôn để chuyển đổi cơ cấu lao động và tự tạo việc làm tại chỗ đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học trong đó cần chú trọng đổi mới chương trình dạy vầ học. Tiến hành tập huấn nâng cao trình độ giáo viên, liên kết chặt chẽ giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp và người sử dụng lao động.
Phía doanh nghiệp
Doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế so sánh đã có và tự tạo ra lợi thế so sánh mới. Nâng cao khả năng cạnh tranh ngoài những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý là những lợi thế so sánh thuộc về lợi ích do thiên nhiên ban tặng. Ngoài ra lợi thế quan trọng của doanh nghiệp Việt Nam là giá nhân công rẻ so với nhiều nước trên thế giới và đặc biệt là so với các nước thành viên.Vì vậy chúng ta có thể tận dụng lợi thế này để cạnh tranh với các nước trong tổ chức.
Doanh nghiệp nên biết kết hợp tự mình nâng cao khả năng cạnh tranh và hợp tác với doanh nghiệp khác. Mỗi doanh nghiệp cần phải nỗ lực tiến nhanh thắng nhanh hơn đối thủ đồng thời phải sẵn sàng hợp tác khi cần thiết do yêu cầu của hợp tác cạnh tranh. Nếu làm được điều đó thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ tân dụng được hai ưu điểm là cạnh tranh và hợp tác,cạnh tranh để có được sản phẩm tốt và hợp tác để hỗ trợ các doanh nghiệp khác tồn tại và phát triển.
Nhiều doanh nghiệp trong nước có một số mặt hàng có sức cạnh tranh mạnh ở một số thị trường tiêu thụ nước trên thế giới như gạo, cà phê, nông lâm , hải sản… thì doanh nghiệp cần tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất để nâng cao sức mạnh cạnh tranh cũng như giải quyết việc làm cho người lao động .Song một số mặt hàng trong nước có thế mạnh sản xuất nhưng chất lượng kém, mẫu mã đơn điệu nên chưa thể cạnh tranh với thị trường thế giới, nhất là thị trường các nước thành viên có nền công nghệ tiên tiến. Để hàng hoá và dịch vụ thương mại này có sức cạnh tranh cao ở thị trường các nước thành viên thì các doanh nghiệp cần tập trung đầu tư vốn, đổi mới công nghệ, tăng cường các biện pháp quản lý đạt chất lượng cao giá thành sản phẩm hạ và tương đối ổn định, thương hiệu rõ ràng để chon hướng đầu tư đúng qua đó nhằm tạo được công ăn việc làm cho người lao động.
III. Một số kiến nghị
Nhận thấy chủ thể thực thi chính sách là các cơ quan Nhà Nước do vậy trách nhiệm chính thuộc về Nhà Nước, theo em trước khi thực hiện bất kì một chính sách giải quyết việc làm cho người lao động thì các nhà các nhà quản lý cần có tầm nhìn chiến lược dự báo các tình huống xảy ra trong thực tế, trong việc quy hoạch các đối tượng ưu tiên như người tàn tật hay đối tượng chính sách và những đối tượng thất nghiệp tạm thời. Việc thực hiện chính sách phải được tiến hành bám sát vào tình trạng thực tế của từng địa phương cụ thể đồng thời mỗi địa phương phải đề ra mục tiêu riêng và đề ra những công việc cụ thể trong từng giai đoạn , đồng thời tiến hành kiểm tra giám sát thường xuyên kết quả đạt được và phải bám sát mục tiêu lâu dài chung của cả nước. Qua mỗi giai đoạn thực hiện thì mỗi địa phương cần tổ chức đánh giá kết quả so với mục tiêu đề ra để phát huy những mặt tốt và khắc phục những mặt còn hạn chế để đạt được mục tiêu chung của cả nước.
Ngoài ra ở mỗi địa bàn địa phương cụ thể thì chính quyền xã, phường, tổ dân phố… phải kết hợp với các tổ chức chính trị xã hội như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Mặt trận tổ quốc…cùng với các doanh nghiệp cần quyết tâm đồng bộ để hoàn thành tốt chỉ tiêu của chính sách mà cấp trên giao cho. Trong quá trình thực thi chính sách của Nhà Nước cần có sự phân chia nhiệm vụ cụ thể để đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt là ở những địa bàn quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh thì cán bộ quản lý cần có biện pháp liên hệ với các doanh nghiệp lớn để giải quýêt lao động ở địa phương.
LỜI KẾT
Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những mối quan tõm lớn nhất của bất cứ một địa phương nào. Bởi vì việc làm là một trong những vấn đề xã hội quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của một đất nước. Việc giải quyết việc làm như thế nào cho cú khoa học và đạt được hiệu quả cả về mặt kinh tế lẫn xó hội là một cõu hỏi khụng chỉ đặt ra đối với cơ quan chức năng mà đối với tất cả mọi người.
Nhằm thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm đến năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ và giải quyết việc làm cho người lao động thì trong những năm qua Nhà Nước đã có nhiều biện pháp chính sách áp dụng để tạo công ăn việc làm cho người lao động và đã đạt được một số thành quả đáng kể: đó là giảm thiểu tình trạng thất nghiệp đáng kể, nâng cao đời sống của đại bộ phận dân cư khắp cả nước. Tuy nhên bên cạnh những đóng góp to lớn đó thì tình hình lao động ở nước ta cũng còn nhiều bất cập như: chất lượng lao động chưa cao, thất nghiệp và bán thất nghiệp còn tồn tại, phân bố lao động còn chưa hợp lý giữa các ngành và các vùng trong cả nước. Với các nghiên cứu và những giải pháp trên em hy vọng trong thời gian tới lao động nước ta sẽ được sử dụng hiệu quả hơn, đóng góp tích cực vào quá trình hội nhập toàn cầu của đất nước.
Danh mục tài liệu tham khảo:
Báo cáo phát triển Việt Nam- Bảo trợ xã hội
Chính sách kinh tế xã hội –KHHQL- NXB khoa học và kĩ thuật
Thương mại Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế( kì yếu hội thảo khoa học quốc gia) – NXB Tư pháp
Việt Nam với WTO – NXB Tư pháp
Về chính sách giảI quyết việc làm ở Việt Nam
GS: Nguyễn Hữu Dùng
PTS: Trần Hữu Trung
Một số vấn đề kinh tế xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
-GS.TS : Nguyễn Văn Thươngg
7. Các trang điện tử
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25009.doc