Thời kì trước đổi mới, Hải quan Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ hợp tác hải quan của các nước xã hội chủ nghĩa. Hải quan Việt Nam tham gia và đã từng đăng cai tổ chức Hội nghị Hải quan các nước xã hội chủ nghĩa tại hà Nội. Tuy nhiên, từ sau khi có chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm đa dạng hóa và đa phương hóa các mối quan hệ, Hải quan Việt Nam bắt đầu tìm hiểu các tổ chức hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hải quan và từng bước tham gia ngày càng sâu và rộng trong các diễn đàn quốc tế về hải quan. Trên tinh thần đó, ngày 1/7/1993, Việt Nam chính thức trở thành thành viên chính thức của Hôi đồng hợp tác Hải quan. Kể từ khi gia nhập Hội đồng, hải quan Việt Nam đã tích cực thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ các hoạt động hàng năm của WCO.
Từ năm 1993 đến nay, Hải quan Việt Nam tham gia các cuộc họp Hội đồng đầy đủ, đóng góp tiếng nói tích cực vào các hoạt động, kế hoạch và chương trình do Hội đồng đề xướng. Thông thường, Tổng cục trưởng hoặc Lãnh đạo Tổng cục dẫn đầu đoàn của Hải quan Việt Nam tham gia các cuộc họp của Hội đồng tổ chức tại Bruxelles cũng như tại các nước thành viên.
Hợp tác hỗ trợ kỹ thuật là hoạt động quan trọng của WCO cung cấp cho các nước thành viên. Ngay từ khi tham gia, Hải quan Việt Nam đã tích cực đóng góp và tranh thủ các hoạt động trợ giúp kỹ thuật của WCO để nâng cao năng lực của mình. Trong số các hoạt động hợp tác kỹ thuật, đào tạo, hải quan Việt Nam đã cử các cán bộ tham gia một số hoạt động như Chương trình học bổng của WCO phối hợp với các nước tài trợ tổ chức để đào tạo cán bộ hải quan; Chương trình thạc sỹ của WCO tại Nhật Bản, Hội thảo đào tạo về trị giá hải quan theo Hiệp định trị giá hải quan GATT/WCO, Hội thảo về đánh giá rủi ro, lập hồ sơ và xác định đối tượng trọng điểm, Hội thảo về phân tích thông tin tình báo Hải quan, Hội thảo về liêm chính hải quan, Hội thảo về công ước HS, Công ước Kyoto sửa đổi, Hội thảo về kiểm tra sau thông quan, về Khung Tiêu chuẩn An ninh thương mại toàn cầu .Tất cr các hoạt động diễn ra trong khuôn khổ hợp tác WCO đang mang lại cho Hải quan Việt Nam những kinh nghiệm và phương thức làm việc tiên tiến và hiện đại.
46 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2247 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chống gian lận xuất xứ hàng hóa ở Việt Nam - Cần giải pháp mạnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
văn bản liên quan đến cấp và kiểm tra giấy chứng nhận xuất xứ điện tử (e-C/O).
Hai là, xây dựng cơ sở dữ liệu cho việc kiểm tra, xác minh và chống gian lận xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu, áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro.
Ba là, đào tạo đội ngũ cán bộ, xay dựng mạng lưới tình báo để kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu.
Bốn là, xây dựng quy trình xác định, xác minh (việc sử dụng các quy tắc xác định xuất xứ của chương trình hài hòa, xây dựng các quy tắc của Việt Nam ), kiểm tra (các bước tiến hành kiểm tra xuất xứ trước, trong và sau thông quan) xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu phù hợp với các điều khoản của Hiệp định về quy tắc xuất xứ và quy định về xuất xứ của Công ước Kyoto.
Năm là, hợp tác Hải quan – Hải quan trong lĩnh vực thống nhất chương trình hài hòa quy tắc xuất xứ không ưu đãi, thống nhất các quy tắc ưu đãi mà các bên tham gia và phối hợp kiểm tra, xác minh chống gian lận về xuất xứ hàng hóa.
Hợp tác Hải quan với các Bộ Ngành trong công tác xây dựng quy tắc xuất xứ, xác định xuất xứ hàng hóa và trong việc kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa.
Hải quan hướng dẫn quy trình xác định, xác minh xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp, tuyên truyền phổ biến pháp luật, vận động hướng doanh nghiệp tới sự tuân thủ, tự nguyện trong công tác khai báo xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu.
Chương 2:THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHỐNG GIAN LẬN XUẤT XỨ
HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các quy định pháp lý về chống gian lận xuất xứ hàng hoá ở Việt Nam.
Từ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đã cam kết thực hiện các quy định của WTO bao gồm cả Hiệp định Quy tắc xuất xứ, các quy tắc trong chương trình hài hòa quy tắc xuất xứ, chương trình ưu đãi phổ cập chung của EU, của Mỹ và Nhật Bản, các Quy tắc xuất xứ của ASEAN và với một số nước châu Á. Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam xây dựng hệ thống pháp luật và các quy tắc xuất xứ phục vụ công tác xác định, kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa.
Hiện nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam như Luật hải quan 2001, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan 2005, các văn bản quy phạm pháp luật chẳng hạn như Nghị định 154/2005/NĐ-CP; nghị định 19/2006/NĐ-CP; thông tư 112/2005/TT-BTC; thông tư 07/2006/TT-BTM; thông tư 45/2005/TT-BTC; thông tư 14/2006/TT-BTC; thông tư 45/2007/TT-BTC; quyết định 865/2004/QĐ-BTM; quyết định 12/2007/QĐ-BTM; quyết định 09/2006/QĐ-BTC… là cơ sỡ pháp lý cơ bản phục vụ công tác xác định, kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật này quy định về vai trò, trách nhiệm của các Bộ ngành trong công tác xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xuất xứ hàng hóa. Các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam quy định vai trò, trách nhiệm của Hải quan trong công tác kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu; vai trò trách nhiệm của doanh nghiệp trong công tác xác định, khai báo xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu. Quy định về công tác quản lý và thẩm quyền cấp giấy chứng nhận xuất xứ, điều kiện để khu vực được hưởng ưu đãi đặc biệt về thuế quan….Về cơ bản hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam đã cụ thể hóa các quy định quốc tế về xuất xứ hàng hóa của Hiệp định Quy tắc xuất xứ và Phụ lục K của công ước Kyoto sửa đổi phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam.
2.2. Thực trạng việc chống gian lận xuất xứ hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.
Việc các C/O (giấy chứng nhận nguồn gốc) giả đang gây ra những hậu quả rất xấu cho chính các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm kiếm thị trường làm ăn, ký kết các hợp đồng và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh đất nước.
Theo báo cáo tình hình khiếu nại của hải quan nước ngoài năm 2008 do phòng C/O thuộc Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) thống kê: số thư khiếu nại tăng 72,58% so với năm 2007, số lượng thư C/O bị khiếu nại năm 2008 là 107. Số lượng thư khiếu nại tăng chủ yếu tập trung vào C/O giả. Trong tổng số 107 thư khiếu nại có 467 C/O giả tập trung chủ yếu ở mặt hàng dệt may, 36 C/O sửa chữa chứng từ bao gồm sửa chữa trên hoá đơn thương mại, tờ khai hải quan hàng hoá. Số lượng thư khiếu nại chủ yếu tập trung vào các nước Slovakia, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ...
Năm 2008 số C/O giả ở thị trường Slovakia là 453 trong khi đó, năm 2007 mới chỉ ở mức 17, năm 2006 là 40; Ba Lan năm 2008 là 16, năm 2007 là 70. Những con số thống kê này chỉ dừng lại ở tháng 10-2008, bộ C/O giả năm 2008 tăng 80% so với năm 2007.
Một vấn đề khác được nhiều đại biểu đề cập tại hội thảo chính là những phương thức gian lận thương mại đang diễn ra rất phổ biến trong hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu. Đặc biệt có 4 hình thức gian lận phổ biến trong hoạt động thương mại: hình thức đao giá, để gian lận về giá tính thuế; hình thức gian lận thông qua khai báo mã số hàng hoá để trốn thuế; khai gian lận về số lượng hàng hoá thực tế so với tờ khai hải quan và hợp đồng thương mại; gian lận về xuất xứ hàng hoá để hưởng các ưu đãi thuế quan.
Với hình thức gian lận ngày càng tinh vi, các sản phẩm bị gian lận thương mại ngày càng phong phú. Có đến 87 bộ C/O giả hàng dệt may sang Hoa Kỳ. Có 3 loại sản phẩm chính vi phạm gian lận thương mại nhiều nhất: Hàng dệt may xuất sang EU, Hoa Kỳ; hàng nông sản xuất khẩu sang Đài Loan và một số sản phẩm khác như mật ong, thuỷ sản, cà phê, vòng khuyên kim loại, bóng đèn điện chiếu sáng năng lượng.
Các hình thức gian lận thương mại đã làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp nói chung và nhà nước Việt Nam. Làm giả C/0 đã làm thất thu một khoản thuế rất lớn của nhà nước; tác động xấu đến sản xuất trong nước lừa dối người tiêu dùng; cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp làm ăn không chân chính, cạnh tranh trực tiếp với hàng xuất khẩu Việt Nam.
Để kịp thời ngăn chặn những tình huống gian lận trong thương mại góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, kết hợp với Cục phòng chống buôn lậu Tổng Cục hải quan, tham khảo ý kiến các doanh nghiệp đã thực hiện những biện pháp để ngăn chặn:
- Hoàn thiện văn bản pháp luật để có cơ sở pháp lý đầy đủ, ban hành các chế tài xử phạt và xử lý nghiêm khắc về mặt hình sự đối với các hành vi gian lận thương mại giúp cho lực lượng kiểm soát triển khai thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan giữa doanh nghiệp với Bộ Công thương, Bộ Khoa học Công nghệ, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
- Tăng cường công tác thu thập phân tích thông tin nhằm kịp thời phát hiện và triển khai thực hiện các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn tình trạng và những đối tượng, doanh nghiệp có dấu hiệu gian lận trong C/O.
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra sau thông quan để phát hiện và xử lý các hành vi gian lận C/O.
- Tăng cường phối hợp trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý và thực thi pháp luật để kịp thời điều tra, xác minh, phát hiện các hành vi gian lận về C/O. Đồng thời tăng cường hơn nữa trong việc hợp tác các cơ quan quản lý Việt Nam với các tổ chức, cơ quan quản lý cấp C/O của các nước xuất khẩu.
Năm 2008, đã đạt được những kết quả tích cực trong việc phòng chống gian lận thương mại. Lượng C/O giả từ các thị trường lớn như Ba Lan, Đài Loan đã được hạn chế. Hải quan nước ngoài đánh giá cao về việc hợp tác chống gian lận thương mại. Bộ C/O giả ở thị trường Ba Lan đã giảm từ 70 bộ (năm 2007) xuống 16 (năm 2008). Bộ C/O giả ở thị trường Đức giảm từ 3 bộ (năm 2007) xuống 2 bộ (năm 2008).
Khi Việt Nam càng ngày càng gia nhập sâu và hoà vào nền kinh tế thế giới, tuân thủ các cam kết khi hội nhập kinh tế, tình hình gian lận thương mại cần phải được ngăn chặn triệt để.
2.2.1. Thuận lợi và khó khăn.
2.2.1.1. Thuận lợi:
Một là, có sự quan tâm của Nhà nước.
Thứ nhất, nhà nước đã có những chính sách nhằm xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phát triển Hải quan Việt Nam.
Thứ hai, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về Hải quan.
Thứ ba, hướng dẫn, thực hiện và tuyên truyền pháp luật hải quan;
Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ công chức hải quan
Thứ năm, tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, phương pháp quản lý hải quan hiện đại;
Thứ sáu, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hải quan.
Hai là, xây dựng được đội ngũ cán bộ, công nhân viên đạt chất lượng khá, số lượng tăng lên nhiều so với những năm trước.
Tháng 8/1994 thủ tướng chính phủ ra chỉ thị về tăng cường xây dựng lực lượng Hải quan, trong đó yêu cầu “ Tổng cục Hải quan cần có chương trình và biện pháp cấp bách nhằm đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân vien Hải quan hiện có theo hình thức thích hợp để số cán bộ này vừa đảm đương được nhiệm vụ vừa có thể tham gia các lớp về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, về đổi mới Nghiệp vụ Hải quan…”
Tháng 9/1995, thủ tướng chính phủ quyết định nâng cấp trường Hải quan Việt Nam thành trường Cao đẳng Hải quan, nằm trong hệ thống chung các trường đại học, cao đẳng của Nhà nước. trường có nhiệm vụ “ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành Hải quan ở trình độ cao đẳng, nghiên cứu khoa học về các vấn đề liên quan đến công tác Hải quan”.
Biên chế của ngành cũng được tăng lên đáng kể, từ 4.380 người năm 1993, lên tới 7.242 người năm 2002, bình quân hàng năm tăng 330 người (khoảng 8%). Chất lượng cán bộ, công chức hải quan cũng được chú trọng thể hiện qua việc triển khai các hoạt động đào tạo, nâng cao nhận thức về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng thời kì, về vị trí, vai trò, trách nhiệm của hải quan trong sự phát triển của đất nước. Đồng thời ban hành quy chế dân chủ nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức; đề ra 10 giải pháp xây dựng lực lượng hải quan trong sạch, vững mạnh; kết hợp tăng cường chế độ kiểm tra, thanh tra, giám sát, xử lý những sai phạm. Đáng chú ý là tháng 6/2004, Tổng cục trưởng Tổng cục hải quan ký ban hành Quyết định số 517/QĐ/TCHQ/TCCB về việc áp dụng một số giải pháp để ngăn chặn và chấm dứt tệ phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong cán bộ công chức Hải quan; tháng 12/2004 ký Quyết định số 1395/TCHQ/QĐ/TCCB ban hành “ 10 điều kỷ cương của công chức Hải quan Việt Nam” và tổ chức quán triệt, triển khai trong toàn Ngành.
Ba là, cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư khá cơ bản.
Tại các cảng biển quốc tế, cảng hàng không sân bay quốc tế, các cửa khẩu đường sắt, đường bộ quốc tế và các khu công nghiệp trọng điểm có lưu lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và khách hàng xuất nhập cảnh lớn được đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Hệ thống làm việc đạt tiêu chuẩn được quy hoạch hợp lý, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, đồng bộ với hệ thống công nghệ thông tin trong một quy trình thủ tục hải quan thống nhất tại các cảng biển, sân bay quốc tế, cửa khẩu đường bộ quốc tế lớn trong đó ưu tiên đầu tư các trang thiết bị kỹ thuật cao (tàu cao tốc, máy soi, camera giám sát, cân ô tô…), để nâng cao khả năng kiểm tra, giám sát cho cơ quan hải quan.
Trong sự thành công của việc triển khai mô hình hải quan điện tử, hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin là một yếu tố có ảnh hưởng quyết định vì nó luôn luôn được ưu tiên hàng đầu. triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động hải quan được tiến hành một cách đồng bộ, tương thích với quy trình hải quan điện tử, phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện hải quan điện tử.
Bốn là, sự phối hợp giữa Hải quan các nước trong khu vực và trên thế giới.
Cuối năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chính thức tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ thương mại mở rộng tới nhiều quốc gia thuộc châu Á, châu Âu, châu Phi và châu Mỹ la tinh. Việt Nam đã ký kết và tham gia nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA, được hưởng các chế dộ ưu đãi của các quốc gia khác và ngược lại Việt Nam cũng dành cho nhiều nước được hưởng ưu đãi tối huệ quốc MFN. Việt Nam đã học tập được những kinh nghiệm của các nước phát triển trong công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, quy tắc xuất xứ, các biện pháp kiểm tra xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế và Việt Nam.
2.2.1.2. Khó khăn:
Một là, khung pháp lý cho hoạt động chống gian lận thương mại qua xuất xứ hàng hoá còn hạn chế.
Việt Nam đã phát triển kinh tế thị trường nhưng lại thiếu những thể chế hỗ trợ đi kèm. Đó là trừng phạt những hành vi gian dối, gian lận thương mại. Nguyên tắc cơ bản nhất về xử phạt của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới là khi doanh nghiệp vi phạm, gây ra tổn thất thế nào sẽ bị trừng phạt mức tương ứng.
Ở Việt Nam, những hành vi kinh doanh gian lận lại bị phạt rất nhẹ. Ví dụ trường hợp trộn bột đá vào kẹo có thể đem đến lợi nhuận tiền tỉ nhưng chỉ bị phạt vài chục triệu đồng. Vì biện pháp chế tài không đủ răn đe nên những doanh nghiệp chỉ chạy theo lợi nhuận sẽ tính toán. Họ chấp nhận bị phạt. Tình trạng doanh nghiệp kinh doanh gian dối không phải bây giờ mới có mà từ lâu rồi và sẽ tiếp diễn. Vì thế biện pháp trừng phạt của Nhà nước phải nghiêm minh.
Hệ thống pháp luật của chúng ta cũng thiếu. Phần lớn chỉ phạt hành chính, sau đó nếu mức độ nghiêm trọng mới chuyển sang hình sự. Ở các nước họ có ủy ban điều tra. Khi xảy ra sự việc, các ủy ban này sẽ vào cuộc. Nhiệm vụ của các ủy ban này là xác định có vi phạm hay không, mức độ vi phạm đến đâu, hệ quả của nó ra sao. Sau đó là khởi kiện ra tòa hoặc điều trần trước quốc hội...
Để Hội Bảo vệ người tiêu dùng làm việc hiệu quả, không nên “nhà nước hóa” mà phải xem là “khu vực dân sự” để đại diện cho lợi ích người tiêu dùng. Chúng ta có cơ quan quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm với các chức năng, nhiệm vụ nhưng không rõ về trách nhiệm. Khi sự việc xảy ra, nếu họ không nhảy vào thì họ cũng chẳng sao cả, chẳng phải chịu trách nhiệm gì cả.
Vấn đề là phải có cách nhìn đúng về khu vực dân sự, khi nó phát triển lên thì sẽ làm thay Nhà nước một số việc. Nhà nước lùi lại làm những công việc vĩ mô, chiến lược.
Hai là, bản chất việc xác định xuất xứ hàng hoá và kiểm tra xuất xứ hàng hoá cũng có những khó khăn nhất định.
Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại Trung ương (BCĐ 127), tại Hội nghị triển khai công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, hàng gian, hàng giả trong những tháng cuối năm 2009, tổ chức tại TP. Vũng Tàu vào ngày 22-7 vừa qua, 6 tháng đầu năm 2009, các lực lượng chức năng trong cả nước đã kiểm tra, xử lý hơn 78.300 vụ vi phạm pháp luật như buôn bán hàng cấm, hàng giả, trốn lậu thuế và gian lận thương mại…, tổng số tiền phạt gần 1.140 tỷ đồng.
Con số nêu trên không phải là nhỏ, nhưng cũng tại hội nghị này, BCĐ 127 cho rằng, các lực lượng chức năng làm công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, hàng gian, hàng giả cũng mới dừng lại ở chỗ giải quyết những vấn đề nổi cộm trên khâu lưu thông, chưa triển khai được việc kiểm tra kỹ lưỡng, một cách căn cơ để xử lý bản chất vi phạm của doanh nghiệp làm ăn gian dối. Lý do được đưa ra để giải thích cho tồn tại này là, lực lượng làm công tác phòng chống buôn lậu, hàng gian, hàng giả còn quá ít, chưa đủ sức chủ động, nhạy bén trong việc nắm tình hình thị trường để phát hiện, đề xuất giải pháp xử lý kịp thời; công tác dự báo chưa mang tính dài hạn; hiệu quả đấu tranh phòng, chống buôn lậu ở một số đơn vị chưa cao, chưa tương xứng với khả năng, nhất là đấu tranh với các đường dây tổ chức buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại có quy mô lớn, xuyên quốc gia. Sự phối hợp giữa các ngành chức năng, giữa trung ương và địa phương, giữa các địa phương với nhau theo tuyến, theo cụm chưa chặt chẽ, còn mang tính cục bộ…Ví dụ như khi hàng loạt các sản phẩm sữa trên thị trường có hàm lượng đạm thấp hơn với mức công bố của doanh nghiệp và thấp hơn với hàm lượng cho phép được bày bán tràn lan thì các cơ quan chức năng đùn đẩy trách nhiệm kiểm soát thị trường mặt hàng này cho nhau. Ngành y tế cho rằng, lực lượng kiểm soát của ngành quá mỏng, không đủ để kiểm soát thị trường, đề nghị Quản lý thị trường làm nhiệm vụ chủ chốt trong việc kiểm soát, trong khi Quản lý thị trường thì chỉ có chức năng kiểm tra hóa đơn, chứng từ và nhãn hàng hóa chứ không có chức năng kiểm định chất lượng sản phẩm, thế là trách nhiệm không biết thuộc về ai…
Buôn lậu và gian lận thương mại luôn luôn diễn biến phức tạp. Các đối tượng buôn lậu, sản xuất, kinh doanh hàng gian, hàng giả hoạt động với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, thường xuyên thay đổi địa bàn hoạt động và tập trung vào các mặt hàng nhạy cảm, có lợi nhuận lớn, trong khi đó phương tiện nghiệp vụ của các lực lượng chức năng phòng chống buôn lậu, hàng gian, hàng giả thì lại vừa thiếu vừa lạc hậu; chất lượng và số lượng của các lực lượng chức năng chống buôn lậu, gian lận thương mại, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Chúng ta không thể đưa ra kết luận điều tra mà chỉ dựa trên kinh nghiệm và quan sát trực quan. Phải trang bị cho lực lượng chức năng chống buôn lậu, hàng gian, hàng giả các phương tiện kiểm định nhanh chất lượng hàng hóa để có thể áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời. Kinh phí cho các lực lượng chức năng trong công tác điều tra, mua tin, giám định sản phẩm cũng như đấu tranh chống buôn lậu, hàng gian, hàng giả cũng cần được tăng cường nhiều hơn, và điều quan trọng nữa là, chúng ta sớm hoàn thiện các văn bản pháp luật để các lực lượng thi hành nhiệm vụ chống buôn lậu, gian lận thương mại có đầy đủ công cụ pháp lý, chủ động triển khai công tác; tránh tình trạng lúng túng, không biết xử lý ra sao khi phát hiện, thu giữ được tang vật vi phạm như hiện nay.
Công tác đấu tranh chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại được Chính phủ coi là nhiệm vụ quan trọng và giao cho nhiều ngành, nhiều lực lượng tổ chức thực hiện, vì vậy, ngoài việc tăng cường lực lượng biên chế và phương tiện phục vụ công tác, rất cần sự phối hợp đồng bộ, liên minh chặt chẽ giữa các ngành, các cấp liên quan để kiểm soát thị trường, tránh tình trạng khi thì chồng chéo, khi thì bỏ hổng. Có như vậy công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu, hàng gian, hàng giả mới được tăng cường mạnh mẽ và triển khai có hiệu quả.
Ba là, hàng hoá nhập khẩu với chủng loại đa dạng và phong phú, trong khi đó, công chức hải quan chỉ được đào tạo những kiến thức nghiệp vụ về hàng hoá tổng thể, không thể bao quát hết từng loại hàng hoá.
Gian lận trong dán nhãn hàng hóa là hành vi vi phạm về sản xuất, kinh doanh. Với thủ đoạn “thay tên đổi họ” các sản phẩm nhập khẩu, nhiều mặt hàng bị đánh tráo nhãn mác. Hành vi này tuy không mới, nhưng nhiều người tiêu dùng vẫn bị đánh lừa...
Gần đây, hàng loạt các sản phẩm trong nước bị phát hiện dùng bao bì, vỏ nhãn giả. Tại TP. Hồ Chí Minh, lực lượng quản lý thị trường (QLTT) phát hiện một điểm làm giả thuốc tây với số lượng lớn tại quận Tân Phú. Khi cơ quan chức năng có mặt, một số công nhân của cơ sở này đang lột các nhãn thuốc có nguồn gốc tại Việt Nam để dán nhãn mác của Pháp lên bao bì. Tương tự hành vi gian dối về nhãn mác, tại Thanh Hóa, Công an đã bắt quả tang gần 1.000 bao phân đạm xuất xứ từ Trung Quốc được các nhân viên Xí nghiệp Thiên Nông đóng vào bao bì phân Đạm Phú Mỹ để lừa nông dân. Tại Đà Nẵng, chỉ trong vòng nửa tháng ra quân đợt cao điểm (từ đầu tháng 6 đến nay), QLTT thành phố đã kiểm tra 112 vụ, xử lý 34 vụ vi phạm với số tiền phạt gần 20 triệu đồng. Đáng chú ý, tình hình vi phạm trong buôn bán hàng Trung Quốc như quần áo, đồ chơi trẻ em có dấu hiệu tăng lên, vi phạm phổ biến vẫn là nhãn mác.
Trong số hàng chục điểm kinh doanh vi phạm tại các chợ, cửa hàng bán lẻ tại các quận nội thành cho thấy, các hộ kinh doanh luôn tìm cách đối phó với cơ quan chức năng. Cụ thể, với các sản phẩm quần áo của Trung Quốc, người bán in thêm nhãn “Made in Vietnam”. Cơ quan chức năng còn phát hiện tại nơi bán hàng, nhiều hộ còn có sẵn cả bọc ni-lông nhãn mác hàng Việt Nam nhưng không chứng minh được nguồn gốc.
Điều này lý giải tại sao hiện nay, quần áo Trung Quốc núp bóng nhiều tên tuổi của Việt Nam chiếm số lượng lớn, khoảng 70-80% tổng lượng hàng trong nước nhưng vẫn được đón nhận, bởi nhiều người không thể phân biệt được đâu là vải Trung Quốc, đâu là vải sản xuất trong nước được may ra. Lợi dụng điều này, tiểu thương ra sức giới thiệu rằng đây là hàng của Sài Gòn, Thái Lan, Hồng Kông... Chỉ là một miếng vải rẻo được dập nhãn “Made in Vietnam” đính vào hàng của Trung Quốc, vẫn “móc túi” được người tiêu dùng. Và để xử lý hàng Trung Quốc là chuyện không phải dễ !
Tuy nhiên, nổi lên trong đợt này là việc hộ kinh doanh gỡ bỏ nhãn có chữ Trung Quốc trên các loại quần áo rồi gắn nhãn mới in bằng chữ vi tính “Made in Vietnam” nhằm tay đổi xuất xứ của mặt hàng này đã che mắt được nhiều khách hàng và đến cả cơ quan chức năng cũng khó phân biệt đâu là hàng trong nước sản xuất và đâu là hàng Trung Quốc, trừ khi đem mẫu kiểm nghiệm.
2.2.2. Tình hình gian lận thương mại qua xuất xứ và kết quả đạt được.
Lực lượng biên phòng tuần tra ngăn chặn hàng lậu. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng cho biết, trong thời gian qua, hoạt động buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả và gian lận thương mại trên các tuyến biên giới tiếp tục diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, gần đây một lượng lớn hàng có xuất xứ từ Trung Quốc và Thái Lan do không xuất khẩu được sang Châu Âu, Mỹ đang được tập kết ở biên giới Việt Nam để tìm đường tuồn vào trong nước.
Diễn biến phức tạp, thủ đoạn tinh vi
Trên tuyến biên giới đường bộ Việt - Trung, hàng nhập lậu chủ yếu là đồ điện tử, điện gia dụng, gia cầm, gia súc, mũ bảo hiểm, điện thoại di động, sợi thuốc lá, pháo... Và hàng xuất lậu như động vật hoang dã, đồng, dầu Diezen, quặng Măng gan, quặng sắt, ngoại tệ... tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu. Đáng chú ý là tình trạng nhập lậu gia cầm giống, hoa quả tại tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lai Châu; hoạt động xuất lậu quặng Măng gan tại Cao Bằng. Các chủ "đầu nậu" dùng thủ đoạn xé lẻ hàng hóa, lợi dụng biên giới có nhiều đường mòn lối tắt qua lại, thuê người vận chuyển vào ban đêm, tập kết hàng vào các nhà dân, chợ, bến xe ở các xã, phường sát biên giới hoặc gần đường quốc lộ. Thậm chí các chủ hàng lậu còn khoán gọn cho người làm thuê, người vận chuyển, gắn trách nhiệm của họ bằng cách đặt cọc số tiền tương ứng với trị giá số hàng vận chuyển. Đây là một hành vi rất xảo quyệt của các chủ "đầu nậu", bởi một khi bị bắt, những người vận chuyển hàng lậu sẽ chống trả lại lực lượng quản lý rất quyết liệt. Sau khi hàng đã "tuồn" qua biên giới, các chủ hàng sử dụng các phương tiện như ô tô, mô tô phân khối lớn đưa vào nội địa tiêu thụ. Tuyến Việt - Lào nổi lên là hoạt động vận chuyển trái phép gỗ trắc từ Lào về Việt Nam, xuất lậu thuốc lá và xăng dầu sang Lào, chủ yếu qua cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh), Lao Bảo (Quảng Trị). Tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia: Hàng xuất lậu sang Campuchia chủ yếu là xăng dầu, hàng nhập lậu chủ yếu là thuốc lá, rượu ngoại, đường Thái Lan, thuốc tân dược, mỹ phẩm... trọng điểm là các tỉnh Kiên Giang, An Giang, Long An, Tây Ninh, Bình Phước, Đắc Nông, Gia Lai.
Trên tuyến biển nổi lên là hoạt động buôn lậu than, gia cầm, pháo Trung Quốc, sắt, thép, quặng, chì, gạch men, đồ điện tử đã qua sử dụng, đồ uống các loại, thuốc lá, rượu ngoại, xăng, dầu DO... với các địa bàn trọng điểm là vùng biển Quảng Ninh, Hải Phòng, Nghệ An, Khánh Hòa, TP.Hồ Chí Minh, Kiên Giang. Các đối tượng vận chuyển hàng lậu trên biển thường hoạt động về đêm, sử dụng tàu công suất lớn hoặc các tàu đánh cá vượt tuyến sang Trung Quốc mua hàng lậu, sau đó sang mạn vận chuyển vào đất liền để tiêu thụ, khi phát hiện bị đuổi bắt các đối tượng sẵn sàng vứt hàng xuống biển để phi tang.
Nếu bị kiểm tra gắt gao ở tuyến biển thì bọn buôn lậu lại di chuyển sang các tỉnh tuyến biên giới đường bộ. Hoạt động xuất lậu than tại địa bàn tuyến biển tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng tiếp tục diễn biến phức tạp, các chủ "đầu nậu" than tổ chức khai thác than trái phép từ các "lò thổ phỉ" hoặc thu gom than từ các nguồn trôi nổi không có nguồn gốc, mua hóa đơn để hợp thức để xuất lậu đi Trung Quốc.
Phương thức, thủ đoạn của hành vi buôn lậu ngày càng tinh vi và sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Thậm chí, các đối tượng được trang bị máy thông tin liên lạc để theo dõi lực lượng chức năng và điều hành buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Điều này gây khó khăn và là một thách thức rất lớn đối với lực lượng kiểm tra, kiểm soát!
Trước thực trạng trên, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng đã chỉ đạo các đơn vị tập trung lực lượng, phương tiện, nhất là các địa bàn phức tạp về buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại như Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Lào Cai, Hà Giang, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Long An, An Giang, Tây Ninh; chủ động xác lập các chuyên án, vụ án nhằm phát hiện, đấu tranh triệt phá các đường dây, tổ chức buôn lậu có quy mô lớn, xuyên quốc gia như chuyên án đấu tranh chống buôn lậu đường ở An Giang, chống buôn lậu thuốc lá ngoại, than, quặng, gia cầm tại Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Kiên Giang...
Bộ tư lệnh cũng xác định, thời gian tới, hoạt động buôn lậu qua biên giới tiếp tục diễn biến phức tạp, các đối tượng buôn lậu sẽ hoạt động với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi hơn, thường xuyên thay đổi địa bàn hoạt động, gây khó khăn cho các lực lượng chức năng trong công tác phát hiện, bắt giữ, điều tra và xử lý. Buôn lậu với quy mô, số lượng lớn sẽ tập trung chủ yếu ở vùng biển các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Kiên Giang; hàng hóa xuất lậu sẽ là các loại có giá trị cao như xăng dầu và các loại khoáng sản... Tuyến biên giới đất liền các chủ "đầu nậu" sẽ tập trung vào các mặt hàng nhạy cảm, có lợi nhuận lớn như đường Thái Lan; thuốc lá, rượu và đồ uống ngoại; gỗ, khoáng sản, động thực vật quý hiếm... Ngoài ra, hoạt động vận chuyển trái phép tiền giả, tiền mặt, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý qua biên giới cũng sẽ diễn ra phức tạp. Vì vậy, cần triển khai đồng bộ các biện pháp công tác biên phòng, nâng cao chất lượng nắm tình hình, phát hiện, ngăn chặn, bắt giữ, xử lý đúng pháp luật các vụ việc xảy ra; kết hợp hoạt động thường xuyên với mở các đợt cao điểm triệt phá các đường dây, tổ chức buôn lậu xuyên quốc gia; đánh trúng bọn chủ mưu, cầm đầu, không để hình thành các điểm nóng ở khu vực biên giới. Phối hợp tốt với các ngành chức năng, chính quyền địa phương và lực lượng bảo vệ biên giới các nước láng giềng, phát huy sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại ở khu vực biên giới.
Năm 2008, các đơn vị Bộ đội Biên phòng đã phát hiện, bắt giữ 2.281 vụ/2.356 đối tượng/385 phương tiện (tăng 615 vụ, 455 đối tượng so với năm 2007), trong đó khởi tố hình sự 31 vụ/175 đối tượng, xử phạt VPHC 776 vụ/1.105 đối tượng, chuyển giao cơ quan chức năng xử lý 1.499 vụ/1.076 đối tượng. Hàng hóa thu giữ gồm: 8.350 kg pháo các loại; 87.933 lít xăng, dầu các loại; 538.820 kg quặng các loại; 94 chai rượu ngoại; gần 93.000 kg gà thịt; 88.410 bao thuốc lá ngoại; 107.532 kg đường; 900 kg lá thuốc lá; 69 m3 gỗ; 75 kg động vật hoang giã; 380 thùng sữa trẻ em; 600 thùng bia; 9.023 tấn xỉ than; 106.488,995 tấn than; 280 mũ bảo hiểm; 720 nồi cơm điện các loại… Tổng trị giá hàng hóa tịch thu, bán sung quỹ nhà nước gần 70 tỷ đồng. Chủ yếu tại các địa bàn: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Quảng Trị, TP. Hồ Chí Minh, Long An, Kiên Giang, An Giang, Tây Ninh...
Theo báo cáo của Bộ Công Thương tại hội nghị triển khai công tác đấu tranh chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại cho thấy, riêng năm 2007, cơ quan chức năng đã kiểm tra, xử lý 130.787 vụ vi phạm pháp luật (tăng 6,42% so với năm 2006). Theo đó, tổng giá trị hàng hóa vi phạm, xử phạt và truy thu thuế là trên 1.280 tỷ đồng (tăng 136,7% so với năm 2006). Trong đó, xử phạt hành chính là 196,286 tỷ đồng, trị giá hàng vi phạm hơn 1.42 tỷ đồng, phạt và truy thu thuế 42,09 tỷ đồng.
2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân.
Một là, còn quá chú trọng vào buôn lậu.
Hai là, mới chỉ phát hiện các vụ gian lận thương mại ở mức độ đơn lẻ, chưa phản ánh đúng thực tế.
Ba là, hạn chế về đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao, am hiểu về xuất xứ hàng hóa.
Bốn là, chưa gắn liền việc chống gian lận thương mại với chống tham nhũng.
Năm là, cơ chế phản hồi thông tin chưa hiệu quả.
Chương 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHỐNG GIAN LẬN XUẤT XỨ HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM
3.1. Xu hướng phát triển của hoạt động thương mại và quan điểm, định hướng công tác chống gian lận thương mại.
3.1.1. Xu hướng phát triển
Năm 2008, tình hình kinh tế thế giới cũng như khu vực có những biến động phức tạp và bất thường, thêm vào đó là những yếu tố không thuận lợi do thời tiết diễn biến phức tạp đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định của kinh tế cả nước
Giá nguyên, nhiên liệu đầu vào của nhiều mặt hàng tăng cao, nhất là đối với nhóm nguyên liệu nhập khẩu nên tình trạng hàng kém chất lượng, hàng giả về chất lượng, hàng không đủ định lượng lưu thông trên thị trường có xu hướng tăng. Nhiều cơ sở sản xuất đã giảm chất lượng, định lượng của hàng hoá để giảm giá thành sản phẩm, gây thiệt hại cho người tiêu dùng trong khi người tiêu dùng chưa chấp nhận mặt bằng giá mới.
Chỉ số giá tiêu dùng 3 quý đầu năm tăng rất cao và đã xảy ra tình trạng “sốt giá” đối với một số mặt hàng như gạo, phân bón, xi măng, sắt xây dựng, gạch xây dựng....
Mặc dù mặt bằng giá chung tăng nhưng lượng cung hàng hoá vẫn đảm bảo, cân đối cung cầu được duy trì, phục vụ tốt sản xuất và tiêu dùng. Cơ cấu kinh tế tiếp tục có sự chuyển đổi tích cực sang công nghiệp và dịch vụ, số lượng các tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh tăng nhanh. Trong năm 2008 đã có 690 doanh nghiệp mới được thành lập nâng tổng số doanh nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh lên 3.044 doanh nghiệp. Hàng hoá sản xuất được đổi mới về hình thức, mẫu mã, chất lượng được nâng cao đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Việc thực hiện đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế đã có tiến bộ tích cực, song số hộ chưa thực hiện đăng ký kinh doanh và kinh doanh chưa đúng nội dung còn tương đối phổ biến. Nhiều cơ sở kinh doanh các mặt hàng kinh doanh có điều kiện, hạn chế kinh doanh không có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, không đảm bảo điều kiện kinh doanh theo qui định, như kinh doanh xăng dầu, khí đốt hóa lỏng, dịch vụ ăn uống, dịch vụ y tế tư nhân, vận chuyển, giết mổ gia súc, gia cầm....
Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đã được nâng cao; công tác kiểm tra, kiểm soát việc vận chuyển, kinh doanh gia súc, gia cầm nhập lậu, không có giấy chứng nhận kiểm dịch được tăng cường đã đem lại những kết quả nhất định.
Tình hình vận chuyển hàng hoá nhập lậu qua địa bàn các tỉnh biên giới diễn biến phức tạp. Các đối tượng vận chuyển tiếp tục sử dụng các thủ đoạn như chuyển tải hàng hoá, thay đổi biển số xe, thay đổi cung đường vận chuyển, thời gian, quy luật hoạt động.....; đặc biệt xuất hiện các trường hợp đối tượng vi phạm thuê người theo dõi hoạt động của các lực lượng chức năng để tìm cách trốn tránh.
Các mặt hàng cấm được tập trung kiểm tra kiểm soát nên có dấu hiệu giảm cả về số vụ vi phạm và tính chất vụ việc. Hàng giả, các vi phạm về sở hữu trí tuệ có dấu hiệu tăng, tính chất vụ việc phức tạp, có sự tham gia của nhiều đối tượng; hàng hoá vi phạm chủ yếu là các mặt hàng công nghệ cao. Đặc biệt là tình trạng hàng nhập lậu là hàng giả, hàng vi phạm về sở hữu trí tuệ, về xuất xứ, hàng kém chất lượng.
3.1.2. Quan điểm, định hướng công tác chống gian lận và kết quả đạt được:
3.1.2.1. Công tác chống gian lận và những kết quả đạt được
Thực hiện chỉ đạo của Chính Phủ, Ban chỉ đạo 127 TW, các Bộ, UBND tỉnh; bám sát chương trình, kế hoạch hoạt động năm, Ban chỉ đạo 127 tỉnh đã kịp thời chỉ đạo các ngành, địa phương triển khai các hoạt động cụ thể cũng như xây dựng chương trình kế hoạch công tác để hoàn nhiệm vụ được giao. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra trong đó có các đợt trọng điểm sau:
- Tổ chức thực hiện việc quản lý, kiểm tra kiểm soát thị trường
- Thực hiện “Tháng an toàn vệ sinh thực phẩm”, các ngành và các địa phương đã tăng cường công tác quản lý thị trường, tập trung kiểm tra các nhà hàng ăn tập thể và các cơ sở dịch vụ kinh doanh ăn uống; góp phần làm cho các vụ ngộ độc thực phẩm giảm so với các năm trước.
- Nhằm kiềm chế và tránh nguy cơ tái phát dịch bệnh trên gia súc gia cầm, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc vận chuyển, kinh doanh gia súc, gia cầm nhập lậu, không có giấy chứng nhận kiểm dịch, không rõ nguồn gốc xuất xứ, Ban chỉ đạo 127 tỉnh đã chỉ đạo các Sở ngành, địa phương tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, Chi cục QLTT tăngncường hoạt động của Đội kiểm tra liên ngành kiểm tra việc vận chuyển, buôn bán, giết mổ gia súc, gia cầm.
- Chỉ đạo Chi cục QLTT tỉnh chủ trì triển khai thực hiện 04 Phương án kiểm tra theo chỉ đạo của Ban chỉ đạo 127 TW tại văn bản số 18/BCĐ-QLTT ngày 08/7/2008 gồm: Phương án kiểm tra, kiểm soát thuốc lá điếu nhập lậu lưu hành trên thị trường nội địa; Phương án chống buôn lậu, gian lận thương mại (đo lường, chất lượng) đối với mặt hàng xăng dầu; Phương án chống buôn lậu, gian lận thương mại đối với mặt hàng thép xây dựng; Phương án chống buôn lậu đối với gia súc, gia cầm và các sản phẩm từ gia súc, gia cầm.
- Cùng với việc chỉ đạo công tác quản lý, kiểm tra kiểm soát, Ban 127 đã chỉ đạo các ngành, địa phương tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách và pháp luật về lưu thông hàng hoá dịch vụ. Trong đó nổi bật là tuyên truyền về an toàn vệ sinh thực phẩm, chống sản xuất lưu thông hàng kém chất lượng, hàng giả; định hướng, hướng dẫn các kỹ năng mua sắm hàng hoá. Thực hiện các chuyên mục “Thị trường với cuộc sống” với nội dung thiết thực, phong phú; kịp thời khuyến cáo về tình hình thị trường, các hành vi vi phạm, biện pháp để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng và nhà sản xuất chân chính; có tác dụng tuyên truyền, giáo dục tích cực được dư luận hoan nghênh và đánh giá cao.
3.1.2.2. Định hướng cho công tác chống gian lận trong những năm tới
Thị trường trong nước năm 2009 bên cạnh nhiều thuận lợi còn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức; đặc biệt là ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu tác động đến kinh tế trong nước. Cạnh tranh ngày càng gay gắt trong điều kiện nước ta hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Tình trạng gian lận thương mại sẽ diễn ra với tính chất và mức độ vi phạm phức tạp và khó kiểm soát, quản lý hơn.
Cùng với những mặt tích cực do việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới mang lại còn có những nguy cơ như: Vi phạm sở hữu công nghiệp, hàng giả sẽ có biến động theo chiều hướng gia tăng, với nhiều mặt hàng mới với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn. Các vụ việc vi phạm có yếu tố nước ngoài sẽ diễn ra nhiều hơn với các nhóm hành vi vi phạm mới, phức tạp hơn.
Thiên tai, dịch bệnh; giá cả thị trường có xu hướng diễn biến phức tạp, khó lường có khả năng ảnh hưởng lớn đến tình hình thị trường trong nước. Đặc biệt, do biến động về nguồn cung (do thiên tai, dịch bệnh....) có thể xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hoá vào dịp Tết Nguyên đán dẫn đến tăng giá; các đối tượng lợi dụng biến động để đầu cơ, găm giữ hàng hoá, tăng giá bất hợp lý.
Trước tình hình như vậy, ngoài những công việc thường xuyên các Sở, ngành tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, thực hiện quản lý đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế.
Từng Sở, ngành, địa phương chủ động triển khai thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và các Bộ những nhiệm vụ do Sở, ngành, địa phương phụ trách. Rà soát lại tình hình thực hiện đăng ký kinh doanh và thực tế quản lý thu thuế, có các biện pháp cụ thể tuyên truyền, vận động, kiểm tra đôn đốc để nâng cao tỷ lệ cơ sở thực hiện đăng ký kinh doanh theo quy định. Trước hết là các ngành hàng và dịch vụ kinh doanh có điều kiện có tác động lớn đến thị trường và xã hội như: hành nghề y dược, kinh doanh thực phẩm, xăng dầu, vật liệu xây dựng, vận tải công cộng, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, phân bón, dịch vụ Internet, dịch vụ văn hóa, nhà hàng karaoke …
Thứ hai, về nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát.
- Chủ động xây dựng kế hoạch và phương án kiểm tra, kiểm soát, tổ chức tốt công tác phối hợp, chú trọng các biện pháp ổn định thị trường, kịp thời đối phó với những hiện tượng bất thường có thể xảy ra vào cuối năm như buôn lậu, vận chuyển buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu; sản xuất, kinh doanh hàng giả. Lập phương án, xây dựng kế hoạch kiểm tra đối với một số mặt hàng thiết yếu có tác động lớn đến sản xuất - tiêu dùng, đến sức khoẻ con người và an toàn vật nuôi, cây trồng
- Kiểm tra, kiểm soát về an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng chống dịch bệnh: Kiểm tra về dịch vụ kinh doanh ăn uống, kinh doanh hàng thực phẩm công nghiệp, thực phẩm tươi sống, kiểm tra việc lưu thông gia súc, gia cầm, hoá chất dùng cho thực phẩm,....
- Kiểm tra chống buôn lậu: Tập trung kiểm tra những vụ trọng điểm, đổi mới trong phương pháp trinh sát, nghiên cứu nắm đối tượng cho phù hợp với tình hình mới. Đặc biệt nghiên cứu các trường hợp hàng nhập lậu là hàng giả, hàng vi phạm sở hữu công nghiệp, hàng kém chất lượng.
- Tăng cường kiểm tra chống hàng cấm, hàng giả, vi phạm sở hữu trí tuệ, hàng quá hạn sử dụng, hàng không rõ nguồn gốc, hàng vi phạm về đo lường chất lượng. Tập trung vào các ngành hàng, nhóm mặt hàng thiết yếu như thực phẩm công nghệ, vật tư công, nông nghiệp, hàng thực phẩm, mỹ phẩm,...
- Kiểm tra về thực hiện đăng ký kinh doanh, tập trung vào các địa bàn trọng điểm và nhóm hàng, ngành nghề kinh doanh có điều kiện, kiểm tra việc đảm bảo và duy trì điều kiện kinh doanh.
- Tăng cường việc kết hợp giữa kiểm tra thường xuyên theo kế hoạch năm, tháng với kiểm tra các đợt trọng điểm theo chuyên đề.
Thứ ba, về công tác thông tin, tuyên truyền.
Coi trọng tuyên truyền vận động để nhân dân hiểu rõ chức năng nhiệm vụ của lực lượng kiểm tra kiểm soát thị trường, tham gia phát hiện tố giác các đối tượng kinh doanh có vi phạm. Tiếp tục thực hiện phối hợp liên ngành tổ chức phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành, các chủ trương, đường lối chính sách của nhà nước, tỉnh.
Thực hiện việc gắn công tác kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm với công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, ngăn ngừa vi phạm pháp luật về thương mại.
Tiếp tục thực hiện các chuyên mục “Thị trường với cuộc sống” với các nội dung mới, cải tiến; bám sát những diễn biến của thị trường, kịp thời thông tin, khuyến cáo đến người sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.
3.2. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường công tác chống gian lận thương mại qua xuất xứ hàng hóa.
3.2.1. Các giải pháp vĩ mô
Một là, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt dộng Hải quan..
Chủ động xây dựng kế hoạch hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động hải quan.
Kiến nghị xây dựng mới, bổ sung, sửa đổi những văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động hải quan đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa hải quan.
Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và công chúng tiếp cận hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động hải quan để thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện của doanh nghiệp và người dân đối với các quy định hải quan.
Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và kỹ năng xây dựng và thực thi các văn bản pháp luạt hải quan.
Hai là, đẩy mạnh chống tham nhũng.
Công chức hải quan là cán bộ, công chức theo quy định của pháp lệnh cán bộ công chức, phải có phẩm chất chính trị tốt, thực hiện nhiệm vụ đúng theo quy định của pháp luật, trung thực liêm khiết, có tính kỷ luật , thái độ văn minh lịch sự, nghiêm chỉnh chấp hành quyết định điều động và phân công của cấp trên. Công chức hải quan được tuyển dụng và đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, đề bạt và sử dụng theo quy định của pháp luạt về cán bộ, công chức và được thống nhất quản lý từ Tổng cục hải quan đến chi cục. Để đáp ứng được các yêu cầu trên, cán bộ, công chức hải quan phải thực hiện tốt Mười điều kỉ cương đã được ban hành, thống nhất trong toàn ngành.
Hải quan thế giới và Hải quan Việt Nam ý thức được vấn đề liêm chính hải quan và tầm quan trọng của liêm chính hải quan trong tiến trình hội nhập thế giới. Trong những năm gần đây có hàng loạt các hội thảo, tuyên bố và công ước quốc tế tâpj trung vào các vấn đề chống tham nhũng trong các cơ quan công quyền. Theo tổ chức Hải quan thế giới, liêm chính hải quan là vấn đề cốt tử của tổ chức hải quan. Tham nhũng, sách nhiễu có thể phá hủy tính thống nhất của tổ chức hải quan. Vì vậy, Tổ chức hải quan thế giới đã tuyên bố về liêm chính hải quan khuyến nghị hải quan các nước cùng hợp tác và hành động để giúp Nhà nước quản lý nền kinh tế-xã hội có hiệu quả.
Ba là, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển xã hội.
Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là bước phát triển tất yếu, hợp quy luật. Kinh tế thị trường có những ưu điểm song cũng có những khuyết tật nhất định. Để khắc phục những hậu quả do kinh té thị trường gây ra , Nhà nước giữ vai trò rất là quan trọng. Kinh tế học hiện đại khẳng định thành công của mỗi quốc gia khi chuyển sang kinh tế thị trường chủ yếu phụ thuộc vào sự kết hợp giũa khả năng điều tiết của thị trường và sự quản lý, điều tiết của nhà nước.
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước có các chức năng vĩ mô sau:
Thứ nhất, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội, thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất xoa hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả.
Thứ hai, định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh để dẫn dắt nền kinh tế phát triển; ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến trong nền kinh tế.
Thứ ba, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, đảm bảo yêu cầu của phát triển kinh tế.
Thứ tư, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội. thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của nhà nước. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ của các doanh nghiệp.
Thứ năm, khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
3.2.2. Các giải pháp vi mô.
3.2.2.1. Xây dựng đội ngũ Hải quan trong sạch, vững mạnh.
Thứ nhất, tổ chức lực lượng, tăng cường quân số cho lực lượng chống gian lận thương mại, thực hiện luân chuyển cán bộ thường xuyên.
Thứ hai, nâng cao trách nhiệm và tính liêm chính cho cán bộ về trách nhiệm và sự cần thiết của công tác chống gian lận xuất xứ hàng hóa.
Thứ ba, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác chống gian lận thương mại qua xuất xứ hàng hóa.
3.2.2.2. Chú trọng công tác tình báo hải quan.
Thứ nhất, tăng cường công tác thu thập, xử lý, cung cấp thông tin.
Thứ hai, xây dựng cơ chế phản hồi thông tin hợp lý.
3.2.2.3. Nâng cao hiệu quả kiểm tra xuất xứ trong quá trình thông quan và kiểm tra sau thông quan.
Hiện chưa có quy trình kiểm tra riêng cho xuất xứ của cơ quan Hải quan, chưa xây dựng quy trình tiến hành trước xuất xứ hàng nhập khẩu theo quy định tại Nghị định 19. Thực tế việc kiểm tra, xác định xuất xứ chỉ được thực hiện trong quá trình làm thủ tục hải quan và kiểm tra sau thông quan với các mức độ, hình thức kiểm tra khác nhau phù hợp với kiểm tra hải quan áp dụng trong quy trình thủ tục Hải quan nói chung, cụ thể :
(1) Kiểm tra hồ sơ (kiểm tra sơ bộ, kiểm tra chi tiết hồ sơ )
Hình thức kiểm tra này cần xác định :
-Nước xuất xứ hàng hóa được xác nhận tại C/O
-Nước xuất xứ theo khai báo tại tờ khai Hải quan
-Kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của C/O (đối với trường hợp phải nộp C/O)
-Kiểm tra vận đơn, xác định tuyến đường vận chuyển hàng hóa có đáp ứng yêu cầu vận chuyển trực tiếp không (đối với quy tắc xuất xứ có yêu cầu về vận chuyển trực tiếp)
(2) Kiểm tra thực tế hàng hóa :
- Kiểm tra nước xuất xứ ghi trên nhãn hàng
- Kiểm tra sự phù hợp giữa xuất xứ ghi trên nhãn hàng với khai báo hải quan và các chứng từ khác thuộc bộ hồ sơ hải quan
(3) Xác minh, xác định xuất xứ hàng hóa
Xác minh xuất xứ thực của hàng hóa theo quy tắc xuất xứ cụ thể trên cơ sỡ kiểm tra chứng từ chứng minh nguồn gốc mà chủ hàng bổ sung ; hoặc xác minh tại cơ quan cấp C/O (đối với xác minh xuất xứ thực của hàng hóa thể hiện tại C/O) ; hoặc kiểm tra thực tế tại cơ sỡ sản xuất.
Trong các hình thức kiểm tra này, hình thức (1) và (2) có ưu điểm là đáp ứng yêu cầu thông quan nhanh tại cửa khẩu, tuy nhiên việc kiểm tra mang tính hình thức, không thể xác định được khai báo của chủ hàng, ghi nhãn xuất xứ trên hàng hóa, xuất xứ xác nhận tại C/O có dúng không mà chỉ là chấp nhận theo các nội dung xuất xứ khai báo và thể hiện này. Chính vì vậy khi gặp sự khác nhau giữa xuất xứ ghi trên nhãn hàng và xuất xứ ghi trên C/O hoặc trên khai báo hải quan thì lúng túng và không triệt đế trong việc xác định hành vi vi phạm. Thực tế công chức hải quan thường cho rằng xuất xứ ghi trên nhãn hàng mới thật sự là xuất xứ của sản phẩm, xuất xư skhai báo không đúng với xuất xứ ghi trên nhãn được coi là hành vi khai báo sai xuất xứ hàng hóa. Đây là cách xử lý chưa triệt để vì trong tình huống này có thể xảy ra các trường hợp :
+ Ghi nhãn đúng, khai báo sai : hành vi khai báo sai xuất xứ hàng hóa
+ Ghi nhãn sai, khai báo đúng : hành vi nhập khẩu hàng hóa giả mạo xuất xứ ;
+ Ghi nhãn sai, khao báo sai : hành vi nhập khẩu hàng hóa giả mạo xuất xứ và khai báo sai xuất xứ hàng hóa.
Cơ sỡ pháp lý chủ yếu cho hai loại hình thức kiểm tra này là chủ hàng là người chịu trách với hành vi khai báo của mình.
Hình thức (3) ngược lại với hai hình thức trên, hình thức này yêu cầu phải xác minh đúng xuất xứ thực của hàng hóa theo quy tắc xuất xứ cụ thể trên cơ sỡ các chứng từ chứng minh nguồn gốc mà chủ hàng bổ sung hoặc thậm chí kiểm tra thực tế tại cơ sỡ sản xuất. Tuy nhiên kiểm tra theo hình thức này hết sức phức tạp, đòi hỏi chuyên môn cao và thường cần nhiều thời gian, công sức, tiền của và đôi khi động chạm tới quan hệ ngoại giao, kinh tế với nước xuất khẩu. Chính vì vậy, hình thức này thường chỉ diễn ra sau thông quan thông qua hoạt động kiểm tra sau thông quan và không áp dụng rộng rãi mà chỉ tập trung ở một số đối tượng mục tiêu hoặc lựa chọn ngẫu nhiên (như các đối tượng có nguồn tin nghi ngờ, các đối tượng nhạy cảm, có giá trị cao, chênh lệch thuế lớn...)
Các hình thức kiểm tra này thường được diễn ra trong qua trình làm thủ tục hải quan hoặc kiểm tra sau thông quan. Đối với xác định trước xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu chưa được cụ thể hóa để thực hiện.
Riêng đối với kiểm tra xuất xứ để xác định hàng hóa nhập khẩu được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt, cần đặc biệt quan tâm kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của C/O, các xử lý khi nghi ngờ tính hợp pháp, hợp lệ của C/O.
3.2.2.5. Trang thiết bị, máy móc là điều kiện cần thiết.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và đặc biệt của Internet đã và đang tạo ra một cuộc cách mạng trong phương pháp quản lý và cách thức hoạt động của của cơ quan Hải quan các nước trên thế giới. Các phương pháp quản lý truyền thống dựa trên việc xử lý giấy tờ được thay thế bằng các phương pháp xử lý các giao dịch điện tử, phương thức “gác cổng” – kiểm tra tất cả hàng hóa được thay thế bằng phương thức tập trung nguồn lực để kiểm tra hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có mức độ rủi ro cao và tạo điều kiện thuận lợi cho các hàng hóa của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Việc áp dụng công nghệ máy móc hiện đại trong công tác Hải quan đem lại các lợi ích như:
- Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra giám sát hải quan
- Nâng cao hiệu quả công tác thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu
- Thống nhất trong việc thực hiện luật hải quan…
3.2.2.6. Xây dựng mối quan hệ phối hợp, hợp tác trong và ngòai nước.
Thời kì trước đổi mới, Hải quan Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ hợp tác hải quan của các nước xã hội chủ nghĩa. Hải quan Việt Nam tham gia và đã từng đăng cai tổ chức Hội nghị Hải quan các nước xã hội chủ nghĩa tại hà Nội. Tuy nhiên, từ sau khi có chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm đa dạng hóa và đa phương hóa các mối quan hệ, Hải quan Việt Nam bắt đầu tìm hiểu các tổ chức hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hải quan và từng bước tham gia ngày càng sâu và rộng trong các diễn đàn quốc tế về hải quan. Trên tinh thần đó, ngày 1/7/1993, Việt Nam chính thức trở thành thành viên chính thức của Hôi đồng hợp tác Hải quan. Kể từ khi gia nhập Hội đồng, hải quan Việt Nam đã tích cực thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ các hoạt động hàng năm của WCO.
Từ năm 1993 đến nay, Hải quan Việt Nam tham gia các cuộc họp Hội đồng đầy đủ, đóng góp tiếng nói tích cực vào các hoạt động, kế hoạch và chương trình do Hội đồng đề xướng. Thông thường, Tổng cục trưởng hoặc Lãnh đạo Tổng cục dẫn đầu đoàn của Hải quan Việt Nam tham gia các cuộc họp của Hội đồng tổ chức tại Bruxelles cũng như tại các nước thành viên.
Hợp tác hỗ trợ kỹ thuật là hoạt động quan trọng của WCO cung cấp cho các nước thành viên. Ngay từ khi tham gia, Hải quan Việt Nam đã tích cực đóng góp và tranh thủ các hoạt động trợ giúp kỹ thuật của WCO để nâng cao năng lực của mình. Trong số các hoạt động hợp tác kỹ thuật, đào tạo, hải quan Việt Nam đã cử các cán bộ tham gia một số hoạt động như Chương trình học bổng của WCO phối hợp với các nước tài trợ tổ chức để đào tạo cán bộ hải quan; Chương trình thạc sỹ của WCO tại Nhật Bản, Hội thảo đào tạo về trị giá hải quan theo Hiệp định trị giá hải quan GATT/WCO, Hội thảo về đánh giá rủi ro, lập hồ sơ và xác định đối tượng trọng điểm, Hội thảo về phân tích thông tin tình báo Hải quan, Hội thảo về liêm chính hải quan, Hội thảo về công ước HS, Công ước Kyoto sửa đổi, Hội thảo về kiểm tra sau thông quan, về Khung Tiêu chuẩn An ninh thương mại toàn cầu….Tất cr các hoạt động diễn ra trong khuôn khổ hợp tác WCO đang mang lại cho Hải quan Việt Nam những kinh nghiệm và phương thức làm việc tiên tiến và hiện đại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25108.doc