Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam

Qua những nghiên cứu, đánh giá, những thuận lợi, khó khăn và cả những thành công ban đầu của Việt Nam trong qúa trình hội nhập, chúng ta càng khẳng định một cách chắc chắn để đưa đất nước ta thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta tiến lên CNXH thì con đường mở cửa hội nhập cùng thế giới là con đường đúng đắn duy nhất. Trên con đường phát triển của mình Việt Nam cũng đã khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế, đó là một Việt Nam nhỏ bé, kiên cường không chỉ trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc mà còn trong sự nghiệp kinh tế, đổi mới đất nước. Với những quan tâm và bước đi đúng đắn, chúng ta tin chắc vào một tương lai tốt đẹp : Việt Nam sẽ đứng vững trên con đường đã chọn, đất nước sẽ đi lên sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng giàu đẹp và phồn vinh hơn.

doc42 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
% số doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước . So với hàng nhập khẩu hàng hoá của ta thua kém cả về chất lượng và giá cả mà biểu hiện rõ nhất là ở giá cả . Ví dụ đường RS của ta giá xuất xưởng là 340-400 $ / tấn nhưng giá nhập khẩu chỉ có 260-300$/ tấn . Như vậy giá nhập còn rẻ hơn giá xuất xưởng của ta 20-30% . Giá sắt thép trong nước sản xuất bình quân 300$/ tấn nhưng nhập khẩu chỉ có 285$/ tấn , giá xi măng của Việt Nam 840 nghìn đồng /tấn trong khi nhập của Thái Lan chỉ có 630 nghìn . Hay thể hiện rõ nhất là trong vòng hai năm trở lại đây hàng xe máy Trung Quốc đã làm rối loạn cả thị trường Việt Nam với một ưu điểm mà xe máy sản xuất trong nước chưa làm được đó là giá cả rất rẻ hợp với túi tiền của người lao động . Qua những ví dụ nhỏ trên càng chứng tỏ để hàng hoá của ta có thể đứng vững trên thị trường thì nhất thiết phải đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và giảm giá thành của sản phẩm . Đó là một thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam . Trong khi đó hiện nay nước ta mới chỉ có 23,8% số doanh nghiệp đã có hàng xuất khẩu , 13,7% có triển vọng xuất khẩu , còn lại 62,5% số doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu . Tuy nhiên đến nay hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm thô chưa được chế biến hoặc chỉ được sơ chế .Ví dụ dầu thô chiếm 17,5% kim ngạch xuất khẩu (KNXK) , gạo chiếm 9% KNXK , cà phê chiếm 5% , hải sản chiếm 8,5% KNXK ... Còn các sản phẩm công nghiệp chế biến nhất là các sản phẩm chất lượng cao còn ít , sức cạnh tranh yếu . Trong khi đó các giá cả các mặt hàng nguyên vật liệu và sơ chế lại bấp bênh , hay bị tác động xấu bất lợi cho các nước xuất khẩu . Ta có thể thấy rõ điều này qua sự sụt giảm giá hàng loạt các sản phẩm nông sản như cà phê , tiêu ... xuất khẩu trên thế giới . Giá cà phê đã xuống đến mức thấp nhất trong tháng 11,12 năm 2001 vừa qua , dẫn đến việc chính phủ phải rút một khoản ngân sách lớn để bao tiêu sản phẩm giúp các nhà trồng cà phê không bị phá sản . Mặt khác giá hàng xuất khẩu của Việt Nam thường bị chèn ép trên thị trường và thuờng rẻ hơn 10-20% với giá bình quân trên thế giới . Vì thế thị trường cho hàng hoá xuất khẩu còn rất hạn chế . Hiện nay thành phần hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đến các nước ASEAN chiếm chưa đến 1% trong tổng giá trị hàng nhập khẩu của các nước này , so với thị trường Đông Bắc á thì tỷ lệ này còn thấp hơn nhiều , thị trường liên minh Châu Âu còn rất hạn chế trong phạm vi quan hệ song phương Anh , Pháp , Đức , Hà Lan ... Còn hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ thì rất ít do những yêu cầu khắt khe về phía Mỹ . Diễn đàn kinh tế thế giới mới đây quan sát và đánh giá sức cạnh tranh của 59 nền kinh tế thì Việt Nam xếp thứ53 /59 Khi mà chúng ta đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế thế giới trong đó có các thị trường lớn có triển vọng xuất khẩu mà khả năng cạnh tranh của hàng hoá ta không được cải thiện thì đó là một thách thức to lớn cho nền kinh tế nhỏ như Việt Nam . d / Chính sách về thuế , luậtkhuyến khích đầu tư chưa được hoàn thiện còn là bước ngăn cản hội nhập kinh tế kinh tế . Hiện nay trong hệ thống luật và các chính sách hiện hành còn nhiều điều bất hợp lí và chưa chặt chẽ . Như về thuế nhập khẩu , hiện nay thuế nhập khẩu có chức năng bảo vệ sản xuất trong nước nên thuế suất thường xuyên được thay đổi cho phù hợp với những mặt hàng trong nước đã sản xuất được , do đó đã góp phần hỗ trợ tích cực cho thời kỳ đầu phát triển . Nhưng chính điều này cũng tạo ra những lệch lạc trong định hướng đầu tư trong nước , đặc biệt là trong thu hút đầu tư nước ngoài . Trong những năm qua đầu tư nước ngoài đã được thu hút vào những ngành sản xuất ra các sản phẩm có mức thuế bảo hộ cao phục vụ cho nhu cầu thị trường trong nước chứ không nhằm xuất khẩu . Do tổ chức quản lí điều hành xuất nhập khẩu còn yếu kém nên thị trường khoảng 50% sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không xuất khẩu mà cung ứng trên thị trường nội địa , và đây là việclàm đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong việc tiêu thụ sản phẩm . Điều này dẫn đến vốn đầu tư chưa thực sự góp phần tăng thêm tiềm lực xuất khẩu cũng như làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam và chưa đẩy nhanh được khả năng thâm nhập thị trường thế giới của hàng Việt Nam , gây lãng phí trong việc sử dụng nguồn vốn này . Trong luật thuế có quy định áp dụng giá tính thuế tối thiểu với 15 nhóm mặt hàng do nhà nước quản lí . Việc áp dụng này chưa phù hợp với quy định quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ phải cam kết thực hiện khi gia nhập AFTA và WTO cũng như trong hiệp định thương mại Việt – Mỹ . Đó là quy định của hoạt động xác định giá hải quan theo GATT . Luật thuế xuất nhập khẩu cũng quy định một số loại hàng hoá chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng , nghiên cứu khoa học , giáo dục được xét miễn giảm thuế nhập khẩu . Tuy nhiên trên thực tế rất khó xác định rạch ròi các loại hàng hoá này vì thế vừa làm cho thủ tục xét miễn giảm thuế phức tạp nhưng vẫn không bảo đảm được sự chính xác , chặt chẽ dẫn tới lợi dụng trốn thuế . Trong tổ chức thực hiện luật thuế xuất khẩu , nhập khẩu cũng có nhiều bất cập như việc tính thuế đôi lúc còn tuỳ tiện ở các cửa khẩu biên giới , công tác quản lí nhiều khi còn buông lỏng cộng với tình trạng đánh thuế quá cao một số mặt hàng nhập khẩu dẫn đến tình trạng nhập lậu gia tăng , hàng lậu lấn át hàng ngoại làm cho sản xuất trong nước không thể cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài gây thiệt hại nhiều cho các doanh nghiệp . Những năm đổi mới vừa qua nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu . Điều đó đã góp phần tích cực thúc đẩy xuất nhập khẩu , điều tiết tiêu dùng . Tuy vậy thuế xuất nhập khẩu hiện hành còn nhiều điều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện hội nhập , tự do hoá thương mại : mức thu còn cao , biểu thuế còn nhiều thuế suất làm phức tạp quá trình thực hiện . Thêm vào đó những bất cập trong tổ chức thực hiện đang làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh , gây khó khăn cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của thương mại Việt Nam . Các chính sách khuyến khích đầu tư của Việt Nam đối với người nước ngoài còn nhiều điều chưa hoàn thiện gây cản trở cho việc nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam . Ví dụ tiền thuê mặt bằng làm văn phòng đại diện , cơ sở sản xuất cao , giá vé máy bay , cước thông tin liên lạc , các dịch vụ ... còn phân biệt người nước ngoài và khách nội địa ... Muốn các nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh nhất là những vùng chậm phát triển thì trước hết ta phải tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng , điện, nước, an ninh trật tự ... để họ dễ dàng hoạt động .Như vậy với những hạn chế trong chính sách khuyến khích đầu tư đã làm cho môi trường đầu tư vào Việt Nam thiếu sức hấp dẫn . Muốn hội nhập thành công với nền kinh tế thế giới và khu vực thì nhất thiết là phải hoàn thiện các chính sách về thuế và các chính sách khuyến khích đầu tư . 2.1 Những nguy cơ đối với Việt Nam a/ Nguy cơ mà nhiều người lo ngại nhất hiện nay là do gia nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực , nước ta phải giảm dần thuế quan , và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan , thì hàng hoá nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta , chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước kéo theo hệ quả xấu về việc làm , thu nhập và đời sống người lao động . Thực chất thì hội nhập kinh tế thế giới chính là nhằm mục đích cạnh tranh tìm kiếm thị trường , vì thế điều quan trọng nhất là hàng hoá của Việt Nam phải đủ sức cạnh tranh về chất lượng , số lượng và giá cả .nhưng do Việt nam có trình độ công nghệ thấp , máy móc thiết bị đã cũ kỹ lạc hậu nên khả năng cạnh tranh còn kém , một khi hàng hoá nước ngoài tràn vào Việt Nam sẽ đánh bại hàng hoá nội địa .Nhất là hiện nay với chính sách bảo hộ của nhà nước thuế nhập khẩu một số hàng hoá của nước ngoài còn được duy trì khá cao , vậy mà hàng nhập khẩu vẫn có giá rẻ hơn hàng hoá trong nước và tràn ngập thị trường gây khó khăn không ít với các ngành sản xuất trong nước. Cho đến khi Việt Nam gia nhập AFTA năm 2006 , thuế nhập khẩu giữa các nước ASEAN chỉ còn từ 0-5% lúc đó sẽ thực sự khó khăn cho hàng hoá của ta . Về lí thuyết khi ta gia nhập AFTA có thể tạo điều kiện để xuất khẩu hàng hoá sang các nước ASEAN vì hàng rào bảo hộ của các nước đó cũng cắt giảm tương ứng . Nhưng trên thực tế triển vọng gia tăng xuất khẩu hàng hoá Việt nam sang các nước ASEAN vẫn chưa có những hứa hẹn thay đổi . Bởi những hàng hoá thế mạnh của Việt Nam thì cũng là những hàng hoá xuất khẩu thế mạnh của các nước bạn , và Việt Nam có thể vượt qua họ được . Như vậy dường như càng ngày thị trường của Việt Nam càng bị thu hẹp . Với lo ngại đó nhiều doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp trung bình và yếu kém thường đòi hỏi nhà nước thi hành chính sách bảo hộ càng lâu càng tốt .Tuy nhiên nếu đứng từ góc độ lợi ích toàn cục và lâu dài của quốc gia mà xem xét thì nhà nước ta không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi nêu trên của các doanh nghiệp đó được . Bởi lẽ , một là Việt Nam có nghiã vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại vào các nước 2006 và 2020 khi tham gia vào AFTA và APEC cũng như những cam kết khác khi được kết nạp vào WTO . Hai là , việc thi hành chính sách bảo họ mậu dịch luôn tạo ra sự ỉ nại của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp sẽ không nhận thấy vai trò trách nhiệm của mình trong việc hội nhập nền kinh tế thế giới và cho rằng việc cắt giảm hàng rào thuế quan khi hội nhập vào khu vực và quốc tế là còn rất xa xôi . Việc bảo hộ có chọn lọc , có điều kiện , có thời hạn thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong nước khẩn trương đổi mới , tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh hơn . Một chính sách bảo hộ quá mức thì rất có thể trở thành “ gậy ông lại đập lưng ông ” gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội . Một tài liệu nghiên cứu gần đây cho thấy “ Việc hạn chế định lượng nhập khẩu xi măng làm cho giá xi măng thông dụng cao hơn giá xi măng nhâpj khẩu chưa có thuế là 50% ( khoảng 20-22 $ / tấn ) .Toàn bộ xã hội phải trả thêm 220 triệu $ năm 1999 để bảo hộ ngành sản xuất xi măng , trong đó gần 1/2số tiền vào túi các nhà đầu tư nước ngoài , số tiền tương đương 40% ngân sách giáo dục của cả nước , gấp gần 4 lần ngân sách khoa học kỹ thuật ” Với trình độ công nghệ kém hơn , Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh dựa trên tính độc đáo của chủng loại và mẫu mã sản phẩm . Vì thế nếu Việt Nam vẫn không tích cực đẩy mạnh đổi mới công nghệ , nâng cao chất lượng hàng hoá , giảm giá thành sản phẩm , thay đổi hình thức mẫu mã hàng hoá thì nguy cơ bị thu hẹp thị trường là không thể tránh khỏi . b/ Một thách thức rất nhạy cảm và hệ trọng được đặt ra là phải làm sao giữ được độc lập tự chủ trong tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế thế giới . Vì lệ thuộc về kinh tế sẽ rất dễ dẫn đến lệ thuộc về chính trị và mất tự chủ về kinh tế Trong quá trình hội nhập , Việt Nam vẫn còn là một nước có nền kinh tế non yếu , vị thế của nước ta trên trường quốc tế còn thấp nên ta sẽ vấp phải rất nhiều nguy cơ dẫn tới mất tự chủ về kinh tế . Thứ nhất là nguy cơ bán rẻ như cho và mua phải trả giá cao , tỷ lệ giao hoán bất lợi , xuất phát từ việc xuất khẩu nông khoáng sản thô giá rẻ và nhập khẩu hàng cao cấp giá cao . Sự thiệt thòi triền miên năm này qua năm khác mỗi năm ước tính hàng nhiều tỉ USD khiến cho nước ta nghèo càng nghèo thêm . Thứ hai là nguy cơ nhập siêu đưa đến đâm thủng cán cân thương mại buôc phải vay tiền nước ngoài . Trong những năm 1995 đến 1997 chúng ta nhập siêu trên dưới 3 tỉ USD , nợ quốc tế tăng 2-3 tỉ / năm . Thứ ba là nợ quốc tế tăng gia với tốc độ nhanh hàng năm đưa đến tình trạng nợ đáo hạn và vốn lời mỗi năm tăng . Nợ quốc tế tăng đến một mức độ nào đó sẽ dẫn tới tình trạng khủng hoảng tài chính – tiền tệ và có thể dẫn tới khủng hoảng chính trị như ở Achentina vào cuối năm 2001 . Tình hình nợ quốc tế của ta ít hơn rất nhiều lần so với Achentina nhưng bài học ở đây cho thấy rằng nợ quốc tế tăng có thể đưa đến việc ngân hàng trung ương không còn khả năng thanh toán quốc tế , đặc biệt là các trang trải nhập khẩu thông thường và lúc bấy giờ sẽ xẩy ra khủng hoảng tài chính – tiền tệ ... Thứ tư , hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt Nam tranh thủ kỹ thuật , khoa học ,vốn công nghệ ...Tuy nhiên các công ty nước ngoài chỉ đầu tư tại Virtj Nam nếu họ có lợi . Như vậy chúng ta ở trong thế yếu , chỉ có khả năng hạn chế họ bớt lợi mà thôi , nhưng nếu đầu tư mà chỉ thu được lợi ít , họ sẽ ngưng hay giới hạn lượng đầu tư . Kinh nghiệm cho thấy trong thập niên 90 những thiết bị đầu tư ở Việt Nan thường là những thiết bị cũ . Thị phần các doanh nghiệp Việt Nam giảm nhanh trong khi thị phần các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh , nhiều công ty phía Việt nam có phần hùn vốn 30% nhờ phần đóng góp mặt bằng , nhà đất đã chuyển thành công ty có vốn nước ngoài 100%do nhiều lí do , trong số có lí do phía nước ngoài đề nghị tăng vốn nhưng phía ta không đáp ứng được . Nếu tình trạng này gia tăng , người nước ngoài sẽ làm chủ các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam . Khi đó sẽ khó giữ được độc lập tự chủ kinh tế quốc gia . Sự phối hợp của 4 nguy cơ trên có khả năng đưa đất nước đến tình trạng mất độc lập tự chủ về kinh tế , tài chính , tiền tệ gây ra cảnh lệ thuộc vào nước ngoài . c/Một thách thức nữa không kếm phần quan trọng được đặt ra đối với chúng ta trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế là làm sao giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc , đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước . Đây không chỉ là nỗi lo riêng của chúng ta mà còn là nỗi lo chung của nhiều nước khác trên thế giới .Bởi song song với quá trình hội nhập kinh tế cũng diễn ra sự hội nhập về nhiều lĩnh vực khác như văn hoá , tư tưởng , lối sống ... Quá trình đó làm nảy sinh mối nguy aơ ghê gớm về “sự đồng nhất hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn , đe doạ làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hoá , nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của nhân loại ” Nguy cơ nói trên lại càng tăng lên gấp bội khi một siêu cường nào đó tự cho các giá trị văn hoá của mình là ưu việt , là tối thượng , từ đó làm nảy sinh thái độ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị của mình cho các dân tộc khác bằng một chính sách có thể gọi là “xâm lược văn hoá ”với nhiều biện pháp trắng trợn và tinh vi . Đứng trước tình hình đó , chúng ta không thể lui về chính sách đóng cửa khước từ giao lưu , trao đổi, đối thoại với bên ngoài .Trái lại với bản lĩnh vốn có của dân tộc trong quá trình giao lưu văn hoá với thế giới suốt mấy ngàn năm chúng ta có thể vững tin và chủ động lựa chọn , tiếp thu các yếu tố nhân bản , hợp lí , khoa học , tiến bộ văn hoá các nước cả phương Đon và phương Tây để làm giàu thêm bản sắc văn hoá dân tộc , xem đó là nhân tố cực kỳ quan trọng khơi dậy các tiềm năng sáng tạo làm nên những giá trị văn vật chất tinh thần mới trong công cuộc CNH-HĐH đất nước . Đồng thời chúng ta kiên quyết phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ gọi là “tân kỳ ”của văn hoá ngoại lai mà không phân biệt hay , dở, tốt , xấu, để đi đến chỗ mất gốc và lai căng về văn hoá , gây hậu quả xấu về tư tưởng , đạo đức , lối sống của các tầng lớp dân cư . Tóm lại chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị ưu tú của văn hoá dân tộc , đi đôi với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại , thì văn hoá Việt Nam ngày nay mới có thể đóng được vai trò quan trọng vừa là mục tiêu , vừa là động lực và hệ điều tiết của sự phát triển kinh tế –xã hội . Những lợi thế của Việt Nam khi bước vào hội nhập kinh tế thế giới . Bên cạnh những khó khăn thử thách mà Việt Nam phải đối mặt thì chúng ta cũng có những lợi thế khi bước vào hội nhập nền kinh tế thế giới . Việt Nam có sự ổn định chính trị , xã hội tương đối caotrong vùng . Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới , chúng ta đã đạt được nhiều thắng lợi quan trọng tạo nên thế và lực mới cho đất nước . Chính sự ổn định khá vững chắc của đất nước đã góp phần quan trọng cho Việt Nam hạn chế bớt những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng khu vực và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất vùng Đông Nam á thứ nhì thế giới sau Trung Quốc . Nhất là sau cuộc khủng bố hôm 11/9/2001 tại Mỹ vừa qua cả thế giới mới chợt bừng tỉnh ,một đất nuớc muốn phát triển bền vững thì phải có một nền chính trị xã hội ổn định . Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế thì Việt Nam được coi là nơi an toàn nhất trong vùng Châu á Thái Bình Dương . Đây là một đánh giá có ý nghĩa to lớn với nền kinh tế Việt Nam . Bởi các nhà đầu tư sẽ không mạo hiểm để đầu tư một lượng vốn lớn vào một đất nước mà nền chính trị luôn bất ổn định , xã hội luôn có nguy cơ bị đe doạ bởi khủng bố và nội chiến . Với đánh giá đó Việt Nam thực sự trở thành “ Điểm đến của thiên niên kỷ mới ” 2.2Vị trí địa lí chính trị và địa lí kinh tế của Việt Nam trong vùng Đông Nam á . Việt Nam nằm ở bán đảo Đông Dương , án ngữ giao lộ hàng hải , hàng không nội vùng và quốc tế . Các đường bay từ Hồng Kong , Nhật Bản đi Thái Lan đều có con đường lợi nhất là ngang qua không phận Đà Nẵng . Đường cáp quang quốc tế cũng có mạch nối vào Đà Nẵng . Hạm đội Nga đầu thế kỷ này cũng đã trú chân tại Cam Ranh .Con đường bộ xuyên á không chỉ đi qua thành phố Hồ Chí Minh mà hành lang Đông Tây qua đường 9 và cả hành lang Đong Tây mở rộng sẽ không chỉ là lối thông ra biển Đông của Lào , Đông Bắc Thái Lan và Vân Nam mà còn là cây cầu dài trên bộ nối liền ấn Độ Dương với Thái Bình Dương tạo ra con đuờng vận tải liên vận ngắn nhất từ Tây sang Đông trong tương lai gần . Mặt khác Việt nam cũng nằm trong khu vực diễn ra những hoạt độngkinh tế sôi động nhất của thế kỷ mới . Một vị trí trung tâm Đông Nam á như vậy quả là nổi trội . Trên thực tế Mỹ , Tây Âu nhìn vào Việt Nam không chỉ như một nơi có nhiều tiềm năng nói chung mà trước hết vì thế địa lí chính trị và kinh tế của Việt Nam trong Đông Dương , trong ASEAN , APEC, ASEM . Có thể nói lợi thế này còn cao hơn lợi thế về một số loại khoáng sản hiện có . Khoáng sản có thể cạn kiệt nhưng lợi thế vị trí địa lí chính trị , kinh tế này thì còn mãi , và nếu biết khai thác thì có thể có vị thế cao trong vùng . 2.3 Quy mô dân số lớn thứ 2 trong vùng , lao động trẻ chiếm đa số , có trình độ văn hoá , có khả năng khá khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới Dân số nước ta hiện nay có trên 80 triệu người , trong đó tổng lao động trẻ chiếm ~50 triệu người. Đây là một lợi thế trong quá trình phát triển . Lao động còn trẻ nên khả năng tiếp cận , tiếp thu khoa học công nghệ mới nhanh hơn và sáng tạo hơn . Đối với bất cứ một nền kinh tế nào điều cần thiết nhất chính là nguồn nhân công . ở Việt nam đã có một nguồn dồi dào , vấn đề là ở chỗ ta có biết khai thác nguồn lực đó hay không hay để tình trạng thất nghiệp gây lãng phí . Các nhà đầu tư đã nhận thấy khả năng khai thác tiềm lực to lớn này ở nước ta : nguồn nhân công vừa dồi dào vừa rẻ . Với lợi thế đó mà chúng ta có những đường lối chính sách về giáo dục đào tạo hợp lí phù hợp để nâng cao chất lượng của người lao động thì đây sẽ điểm mạnh , một yếu tố quyết định thắng lợi của quá trình hội nhập kinh tế thế giới . 2.4Nông nghiệp nhiệt đới được ứng dụng khoa học kỹ thuật đảm bảo an ninh lương thực và chiếm vị thế cao trong xuất khẩu nông sản . Nước ta nằm trong khu vực khí hậu rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp . Từ Băc vào Nam được chia thành các đới khí hậu khác nhau rất đa dạng phong phú thích hợp với nhiều các loại cây lương thực , thực phẩm , cây công nghiệp thuộc các miền khí hậu khác nhau . Trog đó lợi thế lớn nhất của Việt Nam là trồng lúa gạo . Với sự ưu đãi của khí hậu , địa hình và mạnh dạn áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới , Việt Nam từ một nước nghèo đói về lương thực phải vay nợ thế giới tới những năm 90 bỗng vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau T hái Lan . Các cây công nghiệp xuất khẩu như cà phê , tiêu điều , cao su , chè ... vẫn có thị trường ổn định . Năm 2001 vừa qua Việt Nam vươn lên đứng thứ 2 trên thế giới sau Brazil về xuất khẩu cà phê . Ngoài ra các loại thuỷ , hải sản dồi dào phục vụ cho công nghiệp chế biến thực phẩm cũng là một thế mạnh của Việt Nam . Hiện nay các mặt hàng hải sản chế biến , đông lạnh của Việt nam đã tìm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường Mỹ và Châu Âu . 2.5 Việt Nam còn có lợi thế của một nước đi sau . Việt Nam tiến hành hội nhập kinh tế thế giới sau rất nhiều nước nên sẽ có cơ hội để rút kinh nghiệm học hỏi từ những thành công hay thất bại của các nước đi trước . Nếu biết tận dụng lợi thế so sánh này thì sự tụt hậu hiện nay có thể lại là một lợi thế tương đối để đi ngay vào công nghiệp hiện đại , đi vào xây dựng một xã hội văn minh hiện đại mà trong một số trường hợp có thể đi tắt đón đầu , không qua giai đoạn công nghiệp hoá cổ điển .Việc bứt lên hàng nhì của khu vực về phát triển bưu chính viễn thông , sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã cho thấy khả năng tận dụng lợi thế của những nước đi sau là hiện thực . Lợi thế của nước đi sau còn thể hiện ở chỗ chúng ta có thể tạo ra môi trường thông thoáng hơn để tiếp nhận vốn và chuyển giao công nghệ , mở rộng thị trường ra nước ngoài . Với những lợi thế ấy Việt Nam đang từng bước bứt phá trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới để đạt được những thành tựu nhất định đáng khích lệ . Những thành công bước đầu của Việt nam càng khẳng định đường lối đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là đúng đắn , là điều tất yếu của sự phát triển kinh tế . 3. Kết quả bước đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới . 3.1 Tiến trình hội nhập của Việt Nam . Việt Nam đã và đang tích cực tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới . Điều này được thể hiện rõ qua sự tham gia của Việt Nam vào các tổ chức kinh tế khu vực và trên thế giới . Từ ngày 25/7/1995 ta đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và từ ngày 1/11/1996 bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên của ASEAN bằng cách chính thức tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA) và hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của ASEAN (AFTA/CEPT) .Điều này đánh dấu sự mở đầu có tính chất đột phá trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam :về đối ngoại , tạo vị thế quốc tế mới ; về kinh tế ,tạo thị trường láng giềng ổn định tăng sự hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài . Tham gia vào ASEAN ta trở thành viên của một tổ chức khu vực gồm 10 nước thành viên có diện tích 4,5 triệu km2 với dân số khoảng 500 triệu người , với tổng sản phẩm quốc gia khoảng 737 tỉ USD và tổng buôn bán thương mại khoảng 720 tỉ USD Bằng việc tham gia vào AFTA /CEPT , Việt Nam sẽ phải tuân thủ thực hiện đầy đủ các quy định ,cam kết cơ bản và bắt buộc của hiệp định nhưng vẫn phải tìm những cách vận dụng phù hợp các quy định có tính linh hoạt của hiệp định để vừa bảo hộ một cách hợp lí , đồng thời nâng dần khả năng sản xuất cũng như cạnh tranh của các ngành sản xuất trong nước nhằm giảm tối đa những bất lợi của ta khi thực hiện các bước tham gia vào AFTA. Ngày 15/6/1996 , ta đã gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11/1998 đã trở thành viên chính thức của tổ chức này , một tổ chức hiện có 21 thành viên , trong đó bao gồm cả các nền kinh tế phát triển , đang phát triển và chuyển đổi . Mục tiêu của APEC cũng là phát triển bền vững thông qua các chương trình thúc đẩy mở cửa và thuânj lợi hoá thương mại đầu tư , thương mại , hợp tác kinh tế kỹ thuật theo các nguyên tắc bình đẳng , cùng có lợi ,tự nguyện công khai và không phân biệt đối xử giữa các thành viên . Các cam kết mang tính tự nguyện nhưng việc thực hiện là bắt buộc , do tuyên bố ở cấp cao và hàng năm được đưa ra kiểm điểm . Tiếp đó tháng 3/1996 Việt Nam tham gia với tư cách là thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác á-Âu (ASEM) . ASEM là cơ chế hợp tác liên khu vực Âu -á , thành lập năm 1996 , hiện có 26 nước thành viên ,gồm 15 nước Châu Âu , 10 nước Châu á .ASEM dự tính tập trung vào thúc đẩy hợp tác và mở cửa hợp tác thương mại với những nguyên tắc như APEC . Ta đã tham gia ASEM tích cực ngay từ buổi đầu với các mục tiêu là xúc tiến mở rộng thị trường thương mại , đầu tư hợp tác kinh tế , khoa học kỹ thuật trên cơ sở cùng có lợi . Tháng 12/1994 , Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) tiền thân của tổ chức thương mại thế giới thế giới WTO và vào năm 1995 chính thức đề nghị gia nhập WTO . WTO là tổ chức thương mại quốc tế mang tính toàn cầu có mục đích cơ bản là thưong lượng để thiết lập các luật lệ chung bảo đảm thông thoáng cho thương mại cũng như cho các lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế khác , và một môi trường kinh doanh có thể dự đoán được , theo dõi việc thực hiện cam kết của các nước thành viên , bảo đảm tính công khai về chế độ thương mại và các luật lệ khác về hợp tác quốc tế . WTO cho phép có sự phân biệt đối xử giữa các nước thành viên và không phải là thành viên. Việc thực hiện các cam kết mang tính pháp lý và nếu vi phạm có thể bị trả đũa. Các thành viên kém phát triển nhất, đang phát triển và kinh tế chuyển đổi được hưởng một số ưu đãi nhưng mức độ hưởng một số ưu đãi trong từng lĩnh vực tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán của từng nước với WTO. Cho đến nay, ta đã tiến hành nhiều phiên họp với nhóm công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, tập trung vào việc minh bạch hoá chính sách của Việt Nam về các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư. Trong thời gian qua, một số thành viên WTO như EU, Mỹ, Uruguay, úc, Thuỵ Sỹ... đã bắt đầu gửi đề nghị về đàm phán mở rộng thị trường cho Việt Nam. Hiện nay, ta đang nghiên cứu các đề nghị này để xây dựng bản chào ban đầu, đồng thời tiếp tục quá trình xây dựng và điều chỉnh hệ thống chính sách của mình cho phù hợp với các quy định của WTO. Tháng 8/2000 vừa qua, nước ta đã ký hiệp định thương mại với Hoa Kỳ và đến tháng 1/2002 thì hiệp định Việt-Mỹ bắt đầu có hiệu lực chính thức.Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc nước ta sẽ gia nhập vào WTO. 3.2 Thương mại Việt Nam ngày càng phát triển . Sau hơn 10 năm tích cực mở cửa hội nhập thế giới Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công , nhất là trong hoạt động thương mại . Việt nam đã có quan hệ thương mại với hơn 160 nước trên thế giới , thương mại đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ , nhất là tăng trưởng xuất khẩu cao trên 2-3 lần so với nhịp độ tăng trưởng kinh tế .Nhìn một cách cụ thể, ta có thể đánh giá những thành công mà Việt Nam đã đạt được qua những kết quả sau : a/ Quan hệ thương mại Việt Nam –ASEAN ngày càng được mở rộng . Mặc dù Việt Nam và các nước ASEAN cùng nằm trong một khu vực địa lí có thể giao lưu dễ dàng , song do các lí do chính trị nên quan hệ này bị gián đoạn trong một thời gian khá dài . Các mối quan hệ hợp tác kinh tế mới được nối lại từ năm 1986 và được đẩy mạnh kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1987 .Trong bối cảnh khó khăn lúc bấy giờ của một nền kinh tế mới chuyển đổi và bị sự bao vây cấm vận của Mỹ và sự thu hẹp đột ngột của các thị trường truyền thống Liên Xô cũ và Đông Âu thì ASEAN trở thành một thị trường quan trọng của Việt Nam . Đặc biệt từ sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN thì ASEAN đã trở thành một đối tác quan trọng của Việt Nam, quan hệ buôn bán của ta với tổ chức này đã được đẩy mạnh một cách nhanh chóng . Nếu như năm 1986 tổng kim ngạch ngoại thương của Việt nam với các nước ASEAN hầu như không đáng kể , chỉ khoảng 118 triệu USD chiếm khoảng 4% tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam thì hiện nay mỗi năm ASEAN tiêu thụ vừa trực tiếp vừa tái xuất từ 30-50% tổng giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam . Nếu như năm 1990 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN đạt 989 triệu USD thì đến năm 1997 đã là 4884 triệu USD và còn tăng cao hơn trong các năm tiếp theo. Quy mô FDI vào Việt Nam không ngừng tăng , Singapo, Malaixia , ThaiLan là 3 trong số các nước ASEAN có khối lượng đầu tư lớn nhất vào Việt Nam , đứng thứ 2, 6 ,9 trong số 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam . Hiện ASEAN đầu tư vào Việt nam hơn 350 dự án với số vốn lên tới hàng chục tỉ USD chiếm gần 30% tổng giá trị đầu tư nước ngoài vào Việt Nam . Đầu tư trực tiếp của ASEAN vào Việt Nam chưa lớn nhưng đã góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế một cách hiệu và tăng cường vai trò của Việt Nam trong hệ thống phân công lao động trong khu vực . Nhất là hiện nay Việt Nam và ASEAN đang tích cực thực hiện công tác chuẩn bị cho việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA tiến đến việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan năm 2003 đối với 6 nước ASEAN cũ và 2006 với Việt Nam thì cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán ngoại thương của nước ta với các nước trong khu vực càng được tăng cường . b/ Quan hệ thương mại giữa Việt nam –Châu Âu ngày càng thắt chặt Kể từ tháng 11/1990 , khi Việt Nam và liên hiệp Châu Âu (EU) chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao , đến nay mối quan hệ hợp tác giữa hai bên trên nhiều lĩnh vực ngày càng được mở rộng . Trong đó quan hệ hợp tác kinh tế phát triển với tốc độ rất nhanh sau khi hai bên ký kết hiệp định hợp tác năm 1995 . Về thương mại , hai bên dành cho nhau những ưu đãi tối huệ quốc , cam kết mở rộng thị trường hàng hoá tới mức tối đa có tính đến điều kiện đặc thù của mỗi bên .EU cũng dành cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) .Ngoài hiệp định buôn bán hàng dệt may ký cuối năm 1992 , đến nay sau hai lần gia hạn , điều chỉnh hạn ngạch đã giúp tăng cường quan hệ thương mại giữa hai bên . Chính cơ sở pháp lí đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng Việt Nam khai thác được lợi thế so sánh để xuất khẩu sang EU , nhất là hàng dệt may và giày dép . Từ chỗ hầu như bị cấm vận , nhóm hàng này của Việt Nam xuất khẩu sang EU đến năm 1999 đã đạt được trên 550 triệu USD Riêng mặt hàng giày dép từ năm 1995 đến nay đã được xuất khẩu tự do sang EU . Nếu như năm 1991 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai bên mới là 393 triệu USD (trong đó Việt Nam xuất 193 triệu và nhập 200triệu USD) thì đến năm 1999 con số đó đã đạt 3,9 tỉ USD tăng gấp 10 lần (trong đó Việt Nam xuất 2,9 tỉ USD, nhập 1 tỉ USD) với tỉ lệ hàng chế biến càng tăng . Nhất là mới đây EU đã công nhận Việt nam áp dụng cơ chế kinh tế thị trường . Nhờ đó hàng hoá Việt Nam không còn bị bất lợi so với hàng của các nước khác khi EU điều tra và thi hành các biện pháp chống phá giá .Những thuận lợi này càng tạo thêm các cơ hội mới cho cả hai bên mở rộng các quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư trong thời gian tới .Về những mặt hàng cụ thể , khả năng thâm nhập thị trường EU của các sản phẩm truyền thống của Việt Nam như giày dép , quần áo , thuỷ sản ... vẫn tăng thêm do đang được giảm miễn thuế theo GSP .Trong khi đó , nhiều nhóm hàng của có khả năng cạnh tranh mạnh trên thị trường EU đã bị loại khỏi diện được hưởng GSP . Mặt khác , với việc EU công nhận 40 doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang EU là điều kiện thuận lợi để đảm bảo xuất khẩu ổn định . Việc này có ý nghĩa quan trọng vơi ngành thuỷ sản của Việt Nam , hàng thuỷ sản của ta chỉ phải tuân theo quy định chung của khối về vệ sinh thực phẩm , được cơ quan thẩm quyền Việt Nam cấp chứng nhận an toàn thực phẩm là được nhập khẩu vào EU và được lưu thông tự do giữa các nước thành viên . Ngoài ra điều này còn giúp nâng cao uy tín về chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường khác , tăng khả năng thâm nhập thị trường của nhóm hàng này . Mặt khác các mặt hàng mới như hàng điện tử , hàng thủ công mỹ nghệ xuất sang EU cũng tăng đáng kể . Nhập khẩu của Việt Nam từ EU hầu hết là thiết bị máy móc , nguyên liệu thiết yếu và hóa mỹ phẩm . Trong những năm gần đây , tỉ lệ hàng tiêu dùng trong tổng số giá trị hàng EU xuất khẩu sang Việt nam tăng dần . Qua hơn 10 năm hợp tác kinh tế với EU , quan hệ giữa hai bên ngày càng thắt chặt và càng có nhiều cơ hội mở rộng mối quan hệ lâu dài này . Đây là một kết quả tốt đẹp mà Việt Nam chúng ta đã đạt được trong quá trình mở cửa hội nhập cùng thế giới . c/ Quan hệ Việt- Mỹ ngày càng được cải thiện . Sau một thời gian dài cấm vận hàng hóa của Việt Nam làm quan hệ kinh tế giữa hai nước bị đóng băng , thì đến ngày 3.2.1994 Mỹ đã bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam . Ngày 11.7.1995 Mỹ đã tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam . Kể từ đây 2 nước đã xích lại gần nhau hơn mở ra một cơ hội mới cho việc thúc đẩy mối quan hệ kinh tế cùng có lợi . Với dân số đông , sức mua rất lớn , Mỹ ngày càng trở thành một bạn hàng quan trọng của Việt Nam . Kim ngạch buôn bán 2 chiều đã tăng dân lên qua các năm .Hiện nay ,Mỹ đã trở thành bạn hàng nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam (hơn 25%) , xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ ngày càng tăng . Hiện có 40 doanh nghiệp thuỷ sản đang tham gia xuất khẩu sang Mỹ .Đầu tư của Việt Nam cũng đang có su hướng tăng lên qua các năm . Hiện có gần 400 công ty Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam . Mỹ đã có hơn 70 dự án với tổng số vốn là 1.23 tỷ USD được đầu tư vào Việt Nam , chiếm 3,8% tổng đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam và đứng vào hàng thứ 8 . Quan hệ kinh tế Việt –Mỹ đã có những bước tiến nhất định nhưng quy mô buôn bán và đầu tư vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của 2 nước .Vì thế Việt Nam muốn ký hiệp định thương mại Việt – Mỹ càng nhanh càng tốt , nhưng phải qua rất nhiều vòng đàm phán thì tới tháng 1/2002 hiệp định thương mại này mới có hiệu lực chính thức . Đây là một mốc đánh dấu quan trọng trong mối quan hệ song phương giữa hai nước trên mọi lĩnh vực nhất là trong quan hệ thương mại , mở ra cơ hội to lớn cho nền kinh tế Việt Nam . đ/ Vai trò của ngoại thương trong nền kinh tế ngày càng được nâng cao . Nếu như năm 1989 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 4512 triệu Rup và USD bằng khoảng 32% GDP trong đó xuất khẩu là 14%GDP nhập khẩu khoảng 18% GDP . Đến năm 1999, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 23.159 triệu USD bằng khoảng 80% GDP trong đó xuất khẩu đạt 39,6% nhập khẩu đạt 40,4% GDP .Năm 2000 đã đánh dấu một bước chuyển biến mạnh mẽ trong thương mại quốc tế của Việt Nam . Xuất khẩu đạt 14.308 triệu USD và nhập khẩu 15.200 triệu USD , như vậy thương mại hai chiều đạt 29.508 triệu USD đạt 95% GDP . Như vậy xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước tiến nổi bật dần cân bằng với nhập khẩu . Đầu tư trực tiếp FDI ngày càng tăng . Năm 1999 , tổng số vốn FDI lên tới con số hơn 37 tỉ USD .Tỉ trọng đóng góp của khu vực FDI trong GDP tăng dần qua các năm từ 2% năm 1992 ,3,6% năm 1993 lên 7,7% năm 1996 ; 8,6% năm 1997 ;9% năm 1998 và 10,5% năm 1999 . Khu vực này đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế , mở mang thị trường , chuyển giao công nghệ đào tạo nguồn nhân lực .Các dự án được thực hiện đã đào tạo ra năng lực sản xuất và sản lượng rất lớn , riêng trong khu vực công nghiệp đóng góp trên 35% giá trị sản lượng toàn ngành và nói chung khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất 12% GDP cả nước , thực sự trở thành một bộ phận hợp thành của nền kinh tế Việt Nam . 4 . Việt Nam chuẩn bị gia nhập AFTA và WTO . 4.1 Cơ cấu kinh tế Việt Nam đã chuyển dịch phù hợp với nền kinh tế thị trường để chuẩn bị tham gia WTO và AFTA Cơ cấu kinh tế Việt nam đã có những bước chuyển biến đáng kể . Việt nam đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN , chuyển từ một nền kinh tế về cơ bản là khép kín sang một nền kinh tế mở , chủ động hội nhập , gắn nền kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và quốc tế .Với quan điểm phát triển quan trọng là chủ động hội nhập , đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước . Công cuộc đổi mới được Đảng ta khởi xướng trên cơ sở tổng kết thực tiễn sinh động với bao sáng tạo độc đáo từ cơ sở đã có tác động làm cho đất nước chẳng những thoát khỏi cuộc khủng hoảng trong thập kỷ 80 mà còn làm nền kinh tế đất nước trở nên năng động hơn . Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã đạt được những thành quả vững chắc , trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo chiếm lĩnh những vị trí quan trọng như tài chính , ngân hàng , bảo hiểm , giao thông vận tải , bưu chính viễn thông ... Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng từng bước phát triển mới , nhất là các chính sách kinh tế mới tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ nông nghiệp nhất là kinh tế trang trại . Cơ cấu các ngành cũng có sự thay đổi tăng dần tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ , giảm dần tỉ trọng ngành nông nghiệp và tăng dần các sản phẩm chứa hàm lượng chất xám cao . Từ một nền kinh tế chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã , không có doanh nghiệp nước ngoài cách đây 13 năm , đến nay khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tham gia xuất khẩu trên 50% tổng giá trị chiếm 50% tổng sản lượng với nhiều mặt hàng có công nghệ tiên tiến và sản xuất trên 12% GDP .Nền kinh tế chuyển dịch theo hướng hướng về xuất khẩu. Như vậy cơ cấu kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi phù hợp với xu thế chung của thời đại , chuẩn bị cho sự gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới . 4.2 Các chính sách ưu đãi đầu tư và luật về thuế được hoàn thiện , cải cách luật thương mại để phù hợp với xu thế hội nhập . Để chuẩn bị gia nhập AFTA và WTO Việt nam đã có những chính sách kinh tế chính trị , xã hội phù hợp đã tạo dựng được môi trường đầu tư thông thoáng , thu hút được các nhà đầu tư vào nước ngoài . Trong chính sách ưu đãi đầu tư , Việt nam cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài về cơ sở vật chất , kỹ thuật hạ tầng , đuờng xá , điện , nước , môi trường ...tạo điều kiện chuyển giao công nghệ , phương pháp quản lí tiên tiến trên cơ sở đó từng bước nang cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế . Từ năm 1990 hệ thống thuế của Việt Nam được cải cách một bước căn bản bằng việc Quốc hội đã ban hành các luật thuế , pháp lệnh về thuế áp dụng chung cho các thành phần kinh tế như : luật thuế xuất nhập khẩu , luật thuế doanh thu , luật thuế tiêu thụ đặc biệt , luật thuế lợi tức , luật thuế sử dụng đất nông nghiệp , luật thuế chuyển quyền sử dụng đất , pháp lệnh thuế thu nhập đối với nguời có thu nhập cao , pháp lệnh thuế tài nguyên , pháp lệnh thuế nhà đất . Hệ thống thuế đó đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư , chuyển dịch kinh tế , thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước phát triển . Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, hệ thống thuế tuy đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần nhưng vẫn còn bộc lộ nhược điểm và tồn tại . Đặc biệt các chính sách còn co nhiều điểm chưa phù hợp với hệ thống thuế quốc tế , trong đó có chính sách thuế thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài , thuế xuất nhập khẩu ... Vì vậy quốc hội khoá IX đã thông qua ba luật thuế mới thuế giá trị gia tăng (VAT) , thuế thu nhập công ty , thuế thu nhập cá nhân nhằm hạn chế và khắc phục những khiếm khuyết của hệ thống thuế và tăng cường khả năng hội nhập của nước ta .Việc áp dụng thuế VAT (1/1999) đã khắc phục tình trạng đánh thuế trùng lặp , giảm bớt số thuế suất .Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường và mở rọng hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực và quốc tế , việc áp dụng thuế VAT kích thích xuất khẩu , tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam có thể gia nhập và cạnh tranh trên thị trường thế giới . Từ đó cho thấy việc cải cách bước hai về thuế là một bước tiến mới trong chính sách kinh tế để chúng ta hội nhập với thế giới . Hy vọng rằng trong quá trình áp dụng hệ thống thuế mới chúng ta có thể tìm tòi , sửa chữa những bất lợi để nhanh chóng hoà nhập vào hệ thống kinh tế mở với các nước ASEAN và trên thế giới . III. Các giải pháp hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. 1.Một số quan điểm . Để chủ động hội nhập nền kinh tế thế giới , xây dựng nền kinh tế tự chủ thì hội nhập cần dựa trên những nguyên tắc sau : 1.1Hội nhập kinh tế quốc tế phải dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hưỡng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất, đồng thời là nhân tố cơ bản bảo đảm cho sự kết hợp hài hoà giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển. Chúng ta không chấp nhận hội nhập theo quan điểm của chủ nghĩa tự do mới, nghĩa là hội nhập kinh tế theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần, nhưng phải hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội. Sự hy sinh này rất dễ dẫn đến triệt tiêu động lực của tăng trưởng kinh tế xã hội bền vững và như thế rốt cuộc đất nước sẽ không tránh khỏi lại rơi vào vòng lệ thuộc của củ nghĩa thực dân kiểu mới. 1.2 Phát huy tối đa mọi nguồn lực nội sinh mà trung tâm là nguồn lực con người với trí tuệ và bản lĩnh văn hoá dân tộc, đồng thời tạo ra sức tranh thủ các nguồn lực ngoại sinh, tạo thành một hợp lự mạnh để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong thế giới cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, không thể có ảo tưởng chỉ dựa vào một chiều các nguồn lực ngoại sinh để phát triển. Để phát triển vững bền lâu dài thì nguồn lực nội sinh của một đất nước đóng vai trò làm nòng cốt, làm cơ sở cho sự phát triển . Sự phát triển của một đất nước cũng giống như một con người , muốn con người phát triển thì phải dựa vào chính sức lực và ý chí của người đó . Của cải quý giá của một đất nước đó chính là nguồn lực con người với trí tuệ và bản lĩnh văn hoá dân tộc. Bất cứ một quốc gia nào biết tận dụng tối đa những của cải đó thì nó sẽ trở thành một nguồn lực nội sinh vô cùng quý cho sự phát triển . Nhưng chỉ dựa vào nguồn lực của riêng một đất nước thì tất yếu sẽ dẫn đến sự tụt hậu của nước đó so với thế giới . Vì thế để thực hiện thành công việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới thúc đẩy nhanh tiến tới thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH đất nước thì chúng ta cần phát huy tối đa nguồn nội lực trong nước , đồng thời phải tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế tận dụng hết nguồn lực bên ngoài . 1.3 Trong quá trình hội nhập phải kiên nhẫn giữ vững phương châm bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia. Theo phương châm này, một mặt cần thông minh nhậy bén, xử lý mọi tình huống, kiên quyết không để nước ta bị thiệt thòi về lợi ích kinh tế - xã hội mà lẽ ra chúng ta được hưởng; mặt khác, chấp nhận chia sẻ lợi ích hợp lý với các đối tác. Muốn vậy, phải biết kết hợp nhuần nhuyễn nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh. Bởi trong quá trình hội nhập sẽ diễn ra sự hợp tác giữa nhiều nền kinh tế , văn hoá khác nhau , một tổ chức kinh tế có rất nhiều thành viên với những thể chế chính trị và truyền thống văn hoá khác nhau . Điều đó không tránh khỏi những mâu thuẫn nội tại trong chính các tổ chức này và sẽ có rất nhiều sức ép bất lợi không bình đẳng đối với một quốc gia có nền kinh tế nhỏ bé và đi theo con đường XHCN như Việt Nam . Vì thế nguyên tắc chủ động hội nhập theo phương châm bình đẳng cùng có lợi là nguyên tắc có tính định hướng trong quá trình hội nhập và phát triển của Việt Nam . 2.Một số giải pháp chủ yếu. 2.1 Phải xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế thế giới và khu vực nói chung và hội nhập vào từng tổ chức quốc tế nói riêng, cụ thể hoá thành chiến lược của từng ngành với lịch trình thống nhất và bước đi cụ thể. Chúng ta cần xây dựng một chiến lược tổng thể hội nhập KTQT đến năm 2005, năm 2010 và năm 2020, trong đó dựa trên cơ sở năng lực cạnh tranh của hàng hoá và tác động xã hội để xác định thời hạn và mức độ mở cưả của nền kinh tế, bảo hộ, miễn thuế quan ở những ngành hàng, mặt hàng có khả năng cạnh tranh với hàng hoá ngoại đã xuất khẩu hoặc ở những mặt hàng cần thiết để đến năm 2006 thực hiện cam kết AFTA và đẩy mạnh hội nhập với các nước trong APEC. Chủ động tiếp cận và nghiên cứu thể chế của các tổ chức kinh tế quốc tế , xác định khả năng gia nhập của nước ta để rà soát và đổi mới thể chế kinh tế trong nước cho thích hợp làm cơ sở thúc đẩy của hội nhập Việt Nam. Trên lĩnh vực thương mại, cần thực hiện nhất quán chính sách bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện các mặt hàng của ta để kích thích các nhà sản xuất vươn lên cạnh tranh trên thị trường. Lộ trình giảm thuế nhập khẩu và giảm dần các hàng rào phi thuế quan theo cam kết với AFTA và APEC cần có kế hoạch và bước đi cụ thể. Trên lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, cần tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh quy chế tổng thể, quy hoạch chi tiết cho từng ngành, từng lãnh thổ, chủ động đặt ra các danh mục, các dự án, các địa bàn khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư nước ngoài. Đi đôi với thu hút thêm vốn đầu tư cần cải tiến và tăng cường công tác quản lý các dự án đã được cấp giấy phép và các dự án đã đi vào hoạt động theo hướng vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, vừa yêu cầu họ chấp hành tốt luật pháp Việt Nam, nhất là luật lao động và luật Bảo vệ môi trường… Đồng thời làm tròn nghĩa vụ nộp thuế và thực hiện đúng tỷ lệ hàng xuất khẩu Trên lĩnh vực tài chính - tiền tệ - ngân hàng, đây là những lĩnh vực mà thực lực của ta còn yếu, do đó cần có bước đi và biện pháp thận trọng sao cho phù hợp với tiến trình chấn chỉnh, cải tiến, củng cố hệ thống Tài chính-tín dụng- ngân hàng ở nước ta 2.2 Chuẩn bị tốt các điều kiện cho qúa trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Thực hiện chiến lược khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý và phát triển các ngành nghề truyền thồng hoặc những ngành nghề có lợi thế cạnh tranh, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp phát huy mọi khả năng đi tắt, đón đầu, đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu … Để bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam trước các nguy cơ của qúa trình hội nhập, Nhà nước cần duy trì một chính sách bảo hộ hợp lý, chỉ bảo hộ có chọn lọc và bảo hộ cho một số mặt hàng nhất định có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Bảo hộ có điều kiện và có thời hạn nhất định, trong một số điều kiện cụ thể vừa giúp đỡ, vừa tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải tạo điều kiện vươn lên, chỉ thực hiện bảo hộ với những sản phẩm có khả năng cạnh tranh, thời gian bảo hộ tối đa 3-4 năm. Hiện nay để hoà nhập vào hệ thống giảm thuế, Việt Nam phải xây dựng được các kế hoạch lớn như: Kế hoạch giảm thuế những mặt hàng đưa vào thực hiện giảm thuế của CEPT, kế hoạch áp dụng và xoá bỏ các biện pháp hạn chế về số lượng, các biện pháp phi thuế quan khác gắn với việc chỉnh giảm thuế quan, phải đề ra các phương hướng, biện pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư của từng ngành sản xuất trong điều kiện Việt Nam thực hiện AFTA. Chúng ta cần rà soát lại các biểu thuế để phát hiện những sai sót bất hợp lý trên cơ sở đó điều chỉnh, xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật kinh tế và các luật có liên quan trên cơ sở các tập quán và thông lệ của các tổ chức quốc tế và khu vực mà Việt Nam tham gia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. 2.3 Phải đẩy mạnh phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu, chú trọng khai thác các nguồn lực trong nước, sử dụng nguồn lực nước ngoài, nhằm hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước Để hội nhập có hiệu quả thì nhất thiết Việt Nam phải có sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, chuyển từ một nền kinh tế có trình độ phát triển thấp của lực lượng sản xuất sang một nền kinh tế phát triển, đồng thời chuyển từ một nền kinh tế đóng sang một nền kinh tế mở hướng về xuất khẩu, tạo điều kiện tập trung nhân tài, vật lực, tạo môi trường vĩ mô phát triển, phát huy sáng kiến của từng đơn vị để từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tăng sức mạnh nội lực của Việt Nam trong qúa trình phát triển . 2.4 Tiếp tục đổi mới để nâng cao vai trò quản lý, hướng dẫn của Nhà nước trong hội nhập kinh tế. Thành công của tiến trình hội nhập kinh tế thế giới phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của tất cả các ngành, các cấp có liên quan, trong đó Nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước phải đóng vai trò quyết định trong việc định hướng tổ chức chỉ đạo cho sự hội nhập đó ở tầm vĩ mô. Vì thế, cần tích cực đổi mới để nâng cao vai trò quản lý, hướng dẫn của Nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Cần có những biện pháp làm gọn nhẹ bộ máy Nhà nước, tránh việc chồng chéo các chức năng, cải cách bộ máy hành chính Nhà nước để tạo điều kiện cho hoạt động của Nhà nước năng động và có hiệu quả trong quản lý ngành kinh tế nói chung và thúc đẩy tiến trình hội nhập nói riêng. 2.5 Phải xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Tất cả các giải pháp trên trung quy phải có con người. Con người đóng vai trò quan trọng trong qúa trình phát triển của cả nhân loại. Một đất nước không thể phát triển nếu con người của đất nước đó có trình độ thấp kém. Chính vì thế, giáo dục-đào tạo đã được coi là quốc sách hàng đầu của bất cứ một quốc gia nào. Chúng ta cần tiếp tục đổi mới để phát triển giáo dục-đào tạo nhằm vào yêu cầu thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng được đội ngũ cán bộ có đầy đủ các yêu cầu phục vụ cho nền kinh tế hội nhập, đó là khả năng chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật cao, am hiểu kinh nghiệm kinh doanh, luật pháp nước ta và thông lệ quốc tế, có khả năng giao tiếp trực tiếp với các đối tác nước ngoài và trung thành với lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia. Để làm được thế, chúng ta nhất thiết phải phát triển giáo dục-đào tạo trở thành một chiến lược phát triển con người có hiệu quả và chất lượng . Để một đất nước như nước ta hội nhập thành công với khu vực và thế giới thì còn có rất nhiều các yêu cầu và giải pháp được đề ra, vì thế trong qúa trình phát triển chúng ta càng phải đầu tư nghiên cứu để tìm ra các giải pháp tốt nhất cho sự phát triển của đất nước. Đó cũng chính là một thách thức, một nhiệm vụ cấp bách mà Việt Nam cần phải giải quyết để có thể chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Kết luận Qua những nghiên cứu, đánh giá, những thuận lợi, khó khăn và cả những thành công ban đầu của Việt Nam trong qúa trình hội nhập, chúng ta càng khẳng định một cách chắc chắn để đưa đất nước ta thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta tiến lên CNXH thì con đường mở cửa hội nhập cùng thế giới là con đường đúng đắn duy nhất. Trên con đường phát triển của mình Việt Nam cũng đã khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế, đó là một Việt Nam nhỏ bé, kiên cường không chỉ trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc mà còn trong sự nghiệp kinh tế, đổi mới đất nước. Với những quan tâm và bước đi đúng đắn, chúng ta tin chắc vào một tương lai tốt đẹp : Việt Nam sẽ đứng vững trên con đường đã chọn, đất nước sẽ đi lên sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng giàu đẹp và phồn vinh hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10245.doc
Tài liệu liên quan