Việc xây dựng khung pháp luật kinh tế là việc hợp đồng hoàn thiện pháp luật quy định các quy tắc hợp đồng hoạt động kinh doanh trên thị trường. Nếu như yếu tố đầu tiên là xác định"sân chơi”)thị trường và những chủ thể kinh doanh tham gia thị trường) thì yếu tố thứ hai là xác định luật chơi. Thị trường có tổ chức là thị trường có luật chơi chặt chẽ. Vì vậy việc xây dựng, hoàn thiện các luật lệ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trên các loại thị trường là vấn đề, nội dung chủ chốt của khung pháp pháp luật kinh tế. Có như vậy mới tạo ra được các cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
24 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chủ thể hợp đồng kinh tế trong quá trình phát triển của chế độ hợp đồng kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Xã hội loài người trong lịch sử đã trải qua năm hình thái kinh tế xã hội, đó là hình thái cộng sản nguyên thuỷ, hình thái chiếm hữu n"lệ, hình thái phong kiến, hình thái tư bản chủ nghĩavà hình thái chủ nghĩa xã hội. Trong đó ở hình thái cộng sản nguyên thuỷ chưa có sự phân công lao động, chưa có sự trao đổi hàng hoá. Đến khi có sự phân công lao động xã hội phản ánh sự phát triển cao của nền sản xuất, đòi hỏi tất yếu phải có sự trao đổi sản phẩm- một khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất xã hội. Sự trao đổi này thiết lập trên cơ sở tự do ý chí giữa các chủ thể trong quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hoá. khi được pháp luật tác động đến quan hệ kinh tế này, nó sẽ trở thành quan hệ pháp luật và thông qua"bản giao kèo”, nó còn được gọi là khế ước hay hợp đồng.
Như vậy, sự ra đời của hợp đồng kinh tế là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế sản xuất hàng hoá, đã có sản xuất hàng hoá tất yếu phải có hợp đồng phục vụ cho quá trình trao đổi sản phẩm hàng hoá. Sau đó cùng với sự phất triển của xã hội, hợp đồng đã phát triển ra ngoài phạm vi trao đổi sản phẩm hàng hoá. Tất nhiên, trong mỗi xã hội khác nhau thì bản chất, đặc điểm và nội dung của bản hợp đồng là khác nhau hay nói cách khác mỗi nhà nước có hệ thống chính trị, xã hội và đặc biệt kinh tế khác nhau thì bản chất, đặc điểm và nội dung là khác nhau. ở Việt Nam trải qua hai cơ chế khác nhau, đó là cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp và cơ chế thị trường. Do đó, bản chất, đặc điểm hợp đồng kinh tế cũng như chủ thể của hợp đồng kinh tế cũng khác nhau ở từng giai đoạn.
Hiện nay nền kinh tế của chúng ta tồn tại nhiều thành phần, phát triển bình đẳng trong cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế đều được đưa vào các quan hệ hợp đồng kinh tế. Nói cách khác, hợp đồng kinh tế là quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ hợp pháp tất yếu, tất cả các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế phải thực hiện. Việc xem xét mức độ phù hợp về chủ thể hợp đồng hiện nay với các quy định trong các văn bản pháp luật trước đây là điều hết sức quan trọng.
Đây chính là lý do em chọn đề tài: "Chủ thể hợp đồng kinh tế trong quá trình phát triển của chế độ hợp đồng kinh tế ở việt nam”.
Kết cấu đề tài gồm bốn phần:
I- Quá trình phát triển chế độ hợp đồng kinh tế ở việt nam.
II- Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
III- Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế theo pháp lệnh về hợp đồng kinh tế 25/9/1989.
IV- Luật doanh nghiệp)12/6/1999) và những vấn đề đặt ra trong vấn đề chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế.
Nội dung đề tài
I- Quá trình phát triển của chế độ hợp đồng kinh tế ở việt nam
1. Thời kỳ đầu xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc:
Trong thời kỳ này nền kinh tế nước ta bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau, ngoài kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể còn có kinh tế cá thể trong nông nghiệp, thủ công nghiệp và thành phần kinh tế tư bản tư doanh chưa được cải tạo. hợp đồng kinh tế của các cơ quan, xí nghiệp nhà nước của các đơn vị kinh tế tập thể tiến hành song song với kinh tế của tư nhân. Để thu hút mọi hoạt độnh kinh tế đi theo hướng có lợi cho việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới- quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thủ tướng chính phủ đã ban hành nghị định 735/ ttg ngày 10/4/ 1957, kèm theo nghị định là bản điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế, bản điều lệ này bao gồm những quy định điều chỉnh các quan hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế như các đơn vị kinh tế quốc doanh, hợp tác xã, công tư hợp doanh, tư doanh, người Việt Nam hay ngoại kiều kinh doanh trên đất Việt Nam.
Đến năm 1960 ở miền bắc chúng ta đã hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội mở đầu kế hoạch năm năm lần thứ nhất 1960-1965. Các quan hệ kinh tế có sự thay đổi về cơ cấu chủ thể và về tính chất, công tác kế hoạch hoá và hoạch toán kinh tế đòi hỏi phải có những quy định mới về điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị kinh tế. Vì vậy, điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế được nhà nước ban hành kèm theo nghị định 04/ttg ngày 04/01/1960, đồng thời nhà nước quyết định thành lập hội đồng trọng tài kinh tế để thực hiện chức năng quản lý công tác hợp đồng kinh tế và giải quyết các tranh chấp kinh tế)nghị định 20/ttg ngày 14/01/1960). Hợp đồng kinh tế đã thực sự trở thành công cụ điều chỉnh và củng cố các quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trước yêu cầu của việc cải tiến quản lý kinh tế: xoá bỏ lối quản lý hành chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, khắc phục cách quản lý thủ công, phân tán theo lối sản xuất nhỏ, xây dựng cách tổ chức quản lý của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình đưa nền kinh tế quốc dân từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ngày 10/03/1975 nhà nước đã ban hành bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế)ban hành kèm theo Nghị định 54/cp ngày 10/03/1975 của Hội đồng Chính phủ). Điều lệ này đã quy định tương đối đầy đủ các vấn đề như: vai trò của hợp đồng kinh tế, giải quyết tranh chấp và trách nhiệm do vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế.
2. Sau đại hội lần VI Đảng cộng sản Việt Nam (11/1986):
Tháng 11/1986 Đại hội lần thứ VI Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định nội dung đường nối đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nướcvà định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện nội dung đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cần xáo bỏ hoàn toàn cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, xác định rõ phạm vi quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh, xác lập và mở rộng quyền tự chủ quyền sản xuất kinh doanh cho các đơn vị kinh tế cơ sở, bảo đảm sự bình đẳng về mặt pháp lý trong các đơn vị kinh tế giữa các thành phần kinh tế và không phân biệt thành phần kinh tế.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành các quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị kinh tế mang một nội dung mới. Bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 54/cp ngày 10/03/1975 không còn phù hợp nữa. Vì vậy, nhà nước đã ban hành pháp lệnh về hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989, nó đã thể chế hoá được những tư tưởng lớn về đổi mới kinh tế của Đảng, trả lại giá trị đích thực cho hợp đồng kinh tế với tư cách là sự thống nhất ý chí của các bên. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản pháp lý cụ thể hoá pháp lệnh đã tạo thành một hệ thống các quy phạm làm cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế trong cơ chế kinh tế mới hiện nay.
II- Chủ thể hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung:
1. Đặc điểm, bản chất của hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung
Trong mọi xã hội sản xuất hàng hoá, trao đổi là điều kiện tồn tại và là điều kiện tất yếu, ở những xã hội mà sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, trao đổi giữa những chủ sở hữu tư liệu sản xuất độc lập với nhau vì những điều kiện kinh tế, lợi ích kinh tế riêng từng người. Giữa những hàng hoá đem trao đổi, có sự khác nhau về giá trị sử dụng nhưng lại có một cái chung, đó là giá trị, giá trị hàng hoá làm cho những người sản xuất hàng hoá khác nhau trao đổi được với nhau và đó chính là mục đích của họ. Quá trình trao đổi thông qua các quan hệ kinh tế mà mục đích tối cao là lợi nhuận, các chủ thể là người sản xuất độc lập và tự do cạnh tranh với nhau. muốn giải quyết vấn đề này, giữa những người trao đổi phải đạt được thoả thuận cho ý chí và lợi ích của từng bên, hình thức trao đổi dựa trên sự tự nguyện như thế gọi là hợp đồng. Với hình thức hợp đồng, quy luật giá trị thông qua các quan hệ cung cầu tác động trực tiếp đến các quan hệ trao đổi để từ đó tự phát điều tiết sản xuất. Như thế, hợp đồng là hình thức đặc trưng của các quan hệ trao đổi đã ra đời đồng thời với sản xuất hàng hoá.
Nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế, nhà nước ta đã dùng pháp luật kinh tế là một trong những công cụ, pháp luật kinh tế nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế thể hiện dưới nhiều hình thức, nhiều biện pháp khác nhau. Nhà nước có thể dùng quyền lực chính trị để tạo mệnh lệnh có tính chất hành chính đối với quan hệ kinh tế, ví dụ như trong việc thu thúê, trích nộp lợi nhuận, kiểm tra, kiểm soát và công tác kế hoạch hoá…sử dụng quyền lực chính trị trong quản lý kinh tế là điều kiện cần thiết trong thời kỳ quá độ, nhất là điều kiện lúc bấy giờ ở nước ta phải ổn định và củng cố trật tự phân phối lưu thông xã hội chủ nghĩa, chống lại xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Dựa trên quyền lực chính trị nhà nước đã ban hành các quy phạm hành chính bắt buộc mọi chủ thể phải tuân theo, đó là một ưu thế để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho các quan hệ kinh tế quán triệt được nôị dung và kế hoạch.
Song nếu chỉ dùng mệnh lệnh hành chính thì không thể đảm bảo sự kết hợp lợi ích trong khi giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích tập thể và lợi ích chung của toàn xã hội, nếu đơn thuần dùng mệnh lệnh hành chính gò ép các tập thể phải thực hiện kế hoạch nhà nước thì trong điều kiện đó sẽ không khuyến khích, tận dụng được mọi mặt năng lực sản xuất, hoạt động kinh tế kém hiệu quả và thông thường lợi ích kế hoạch thể hiện trong việc hoàn thành những chỉ tiêu kế hoạch cũng kém hiệu quả, không đảm bảo. Vậy muốn điều chỉnh một quan hệ kinh tế có nội dung tổng hợp thì cũng cần dùng những quy phạm mà về phương diện điều chỉnh là tổng hợp của hai phương pháp hành chính và kinh tế, bên cạnh việc đưa ra mệnh lệnh còn phải sử dụng các đòn bẩy kinh tế, thực hiện khuyến khích lợi ích vật chất…có như thế mới hướng các quan hệ lưu thông đi vào quỹ đạo có tổ chức và có kế hoạch mà vẫn đảm bảo được hiệu quả kinh tế, như thế đòi hỏi nhà nước phải kết hợp sử dụng cả hai mặt quỳên lực và kinh tế.
Lưu thông kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể có những quan hệ thực hiện trên cơ sở ra mệnh lệnh theo luật hành chính, luật tài chính. Nhưng những quan hệ đó không nhiều, phần thực hiện sản phẩm qua các quan hệ đó không phải là phần lớn trong tổng số các sản phẩm của quỹ lưu thông xã hội chủ nghĩa. Những quan hệ khác thông qua chúng phần lớn sản phẩm xã hội được thực hiện qua lưu thông đòi hỏi phải giải quyết đồng thời hai yếu tố, đó là cần vừa có những hình thức tác động mà vừa ra mệnh lệnh vừa cho phép các chủ thể có những lợi ích kinh tế riêng của họ. Cách tốt nhất và cũng là mọi cách làm của mọi nhà nước trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là duy trì và mua bán. ở đây mua bán phải nằm trong quỹ đạo của nhà nước, mua bán trong lưu thông xã hội chủ nghĩa khác với trong chế độ tư hữu tư liệu sản xuất, ở chỗ quan hệ này phải nhằm phục vụ thực hiện kế hoạch, đặt lợi ích nhà nước làm mục tiêu chính. Nhà nước chỉ đạo bằng cách ban hành các quy định, nguyên tắc, phương pháp và các chỉ tiêu kế hoạch. Tuy nhiên, vì nó vẫn là quan hệ mua bán, tức là trao đổi giữa những người sản xuất)có sự độc lập tương đối với nhau) có những lợi ích kinh tế riêng nên giữa các chủ thể đó phải có sự bình đẳng và phải có sự thoả thuận ở một mức độ nhất định, có nghĩa là cần phải sử dụng đến hình thức hợp đồng. Hợp đồng dùng trong các quan hệ mua bán của quá trình lưu thông kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sự thoả thuận giữa các tổ chức xã hội chủ nghĩa với nhau nhằm thực hiện kế hoạch hoá nhà nước gọi là hợp đồng kinh tế.
Tập trung vào mục đích cao nhất là lợi ích kế hoạch nhà nước nhưng có chú ý kết hợp giữa lợi ích nhà nước và lợi ích tập thể là đặc điểm cơ bản quán xuyến trong toàn bộ các khâu của quá trình tiến hành công tác hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Đặc điểm này quy định bản chất của hợp đồng kinh tế xã hội chủ nghĩa, điều này phải được xác định là một tư tưởng chỉ đạo đối với mọi cấp, mọi ngành và mọi người tham gia vào việc thực hiện công tác này.
Ngoài đặc điểm cơ bản trên, hợp đồng kinh tế trong cơ chế tập trung bao cấp còn có một số đặc điểm khác. Sự bình đẳng giữa các chủ thể là đặc điểm chung của mọi loại hợp đồng, nhưng trong điều kiện của xã hội chủ nghĩa nó mang một nội dung mới, sự bình đẳng này có tinh thần là bình đẳng giữa những người tuy có nhiệm vụ cụ thể khác nhau nhưng chung một mục đích cuối cùng phải bình đẳng trong sự hợp tác, tương trợ lẫn nhau. Các chủ thể của quan hệ hợp đồng kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có thể là tổ chức chứ không thể là một cá nhân với ý nghĩa là một cá thể, điều đó xuất phát từ cơ sở là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, những người sản xuất, những người tham gia vào lưu thông, phân phối là những người chủ tư liệu sản xuất hay được giao quyền quản lý tài sản phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Các tổ chức xã hội chủ có thể có sự khác nhau về trình độ, hình thức sở hữu)quốc doanh, hợp tác xã, công ty hợp doanh…) có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh khác nhau và lợi ích riêng của họ cũng không giống nhau. Nhưng các tổ chức đó gặp nhau và xác lập quan hệ hợp đồng kinh tế với nhau trên cơ sở vì lợi ích chung của nhà nước, vì thế chúng đều được pháp luật nhà nước bảo vệ và duy trì sự bình đẳng, sự bình đẳng này vừa là điều kiện đảm bảo cho sự cân đối giữa các nghĩa vụ của các bên vừa là sự thể hiện tính cân đối giữa các hoạt động củak ế hoạch hoá nhà nước, vừa là điều kiện đảm bảo của mỗi đơn vị.
Cũng vì những đặc điểm trên trong các hợp đồng kinh tế trong cơ chế tập trung bao cấp, nếu có các tranh chấp hoặc vi phạm của các chủ thể thì việc xử lý thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý kinh tế, nhưng trước hết do tự các bên thương lượng với nhau. Thủ tục truy cứu cũng như các hình thức trách nhiệm do các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng khi giải quyết các vi phạm chủ yếu nhằm vào lợi ích kinh tế của các tổ chức đã vi phạm và có lỗi.
Tính chất bắt buộc của hợp đồng kinh tế cũng là một đặc điểm nổi bật của hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tính bắt buộc này xuất phát từ chỗ hợp đồng kinh tế là công cụ thực hiện kế hoạch nhà nước mà kế hoạch nhà nước lại có tính pháp lệnh. Hợp đồng kinh tế tham gia vào tất cả các khâu kế hoạch hoá, những cam kết sơ bộ)gọi là hợp đồng kinh tế sơ bộ) là những căn cứ thực tế để xác định các chỉ tiêu khi đơn vị xây dựng kế hoạch chỉ có thể dựa trên các khả năng thực tế về mua bán vật tư, thiết bị, cung ứng nhiên liệu động, lực điện, điện,…và tiêu thụ sản phẩm thì kế hoạch mới có căn cứ chắc chắn. Nhất là thực tế trong thời kỳ này, một trong những phương châm mới của công tác kế hoạch hoá là mở rộng tính đân chủ của kế hoạch, phát huy tính độc lập, tự chủ của đơn vị nên bên cạnh việc nhà nước tập trung quản lý những mặt hàng quan trọng thì xu hướng thì xu hướng trong lưu thông là thu hẹp danh mục chỉ tiêu pháp lệnh và các chỉ tiêu mặt hàng nhà nước quản lý, còn lại hàng triệu mặt hàng nhà nước cho phép các đơn vị cơ sở có những quyền rộng rãi và linh hoạt hơn khi lập kế hoạch lưu thông. Kế hoạch toàn diện của một đơn vị gồm các chỉ tiêu pháp lệnh và các chỉ tiêu kế hoạch do xí nghiệp tự làm bằng nguyên liệu tự lo, chỉ có thể được thực hiện khi mà xây dựng nó đã có những cam kết sơ bộ với những cơ quan có liên quan, những hợp đồng kinh tế sơ bộ cũng chính là những căn cứ vững chắc để bảo vệ kế hoạch, chính trong quá trình bàn bạc đã ký kết những hợp đồng kinh tế sơ bộ, đơn vị cơ sở có thể nhận thấy trước những khó khăn, thuận lợi của quá trình thực hiện sau này và cũng qua đó phát hiện những mặt mất cân đối của kế hoạch, từ đó có những phương án bảo vệ, nếu cần có thể điều chỉnh kế hoạch.
Ngoài những đặc điểm chung của hợp đồng kinh tế mà chúng ta đã phân tích ở trên, tuỳ vào từng điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội khác nhau mà hợp đồng kinh tế có những đặc điểm, bản chất và nội dung khác nhau.
1.1. Bản chất, đặc điểm của hợp đồng kinh tế trong giai đoạn 1954-1975.
Đầu năm 1960 khi công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sắp hoàn thành thì cơ cấu kinh tế có sự thay đổi, thành phần kinh tế tập thể đã được mở rộng qua phong trào hợp tác hoá trong nông nghiệp và thủ công nghiệp, kinh tế tư bản tư doanh đã được thay thế bằng hình thức tư bản nhà nước dưới công ty hợp doanh. Vào thời điểm này, nhà nước ta đã xác định bước vào xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, một nền kinh tế được xác định chỉ còn tồn tại hai thành phần kinh tế chủ yếu đó là quốc doanh và tập thể, được tập trung vào kế hoạch hoá cao độ dưới sự quản lý của nhà nước. Do đó, điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế số 735/ttg ngày 10/04/1956 được coi là không thích hợp nữa. Trong điều kiện đó, nhà nước đã ban hành điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế theo nghị định số 04/ttg ngày 04/01/1960 của Thủ tướng chính phủ, đây là một mốc quan trọng trong quá trình phát triển của pháp luật kinh tế ở nước ta.
Về khái niệm hợp đồng kinh tế, bản điều lệ này đã đưa ra một khái niệm chung:”hợp đồng kinh tế nói trong điều lệ này là hợp đồng về sản xuất, về cung cấp và tiêu thụ hàng hoá, về vận tải, xây dựng, bao thầu…”(điều 1). Về nguyên tắc ký kết điều 2 đã quy định:”ký kết hợp đồng kinh tế là một kỷ luật bắt buộc trong quan hệ kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh, các cơ quan nhà nước”. Cơ sở ký kết hợp đồng kinh tế là chỉ tiêu kế hoạch nhà nước, các xí nghiệp quốc doanh, cơ quan nhà nước chỉ được ký kết hợp đồng trong phạm vi chỉ tiêu kế hoạch nhà nước.
Hợp đồng kinh tế chỉ được điều chỉnh hay huỷ bỏ khi được nhà nước điều chỉnh hay huỷ bỏ các chỉ tiêu pháp lệnh nhà nước, ngoài ra trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu gặp phải những trở ngại khách quan không tthể khắc phục được, hai bên ký kết hợp đồng có thể điều chỉnh hợp đồng trong phạm vi không được ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch nhà nước và được hội đồng trọng tài đồng ý(điều 4).
Nghiên cứu bản điều lệ này ta thấy, bản thân hợp đồng kinh tế trở thành công cụ để thực hiện kế hoạch nhà nước của các xí nghiệp, cơ quan cho nên việc ký kết hợp đồng trở thành một nghĩa vụ, một kỷ luật bắt buộc, hợp đồng dần dần mất đi giá trị đích thực của nó. Chủ thể hợp đồng kinh tế bị hạn chế chỉ trong phạm vi các tổ chức kinh tế quốc doanh và các cơ quan nhà nước, rõ ràng hợp đồng kinh tế lúc này là một biện pháp để hình thức hoá quan hệ kế hoạch. Do quan niệm và cơ chế quản lý lúc đó chủ yếu theo quan hệ dọc chỉ huy từ trên xuống dưới, báo cáo từ dưới lên, hơn nữa nhà nước ta đang muốn thu hẹp, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, hợp đồng kinh tế dù được ký kết thể hiện sự phối hợp, hợp đồng giữa các bên nhưng lợi ích giữa các bên ít được quan tâm. Việc thực hiện đúng hợp đồng được coi là nghĩa vụ của hai bên đã ký đối nhà nước, đồng thời là trách nhiệm giã đôi bên. Chính do cơ chế kế hoạch hoá nên các đơn vị sản xuất kinh doanh theo kế hoạch nhà nước, lãi nộp ngân sách, lỗ xin trên, do vậy việc xử lý vi phạm hợp đồng và đặc biệt các biện pháp đảm bảo thi hành hợp đồng không được điều lệ này đề cập đến.
1.2. Bản chất - đặc điển của hợp đồng kinh tế trong giai đoạn 1975-1986
Qua 15 năm thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế theo điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế dần đi vào nền nếp đã góp phần thúc đẩy việc hoàn thành kế hoạch nhà nước, cải tiến một bước kế hoạch hoá. Nhưng do cơ cấu của nền kinh tế tiếp tục có những biến đổi và nhằm đáp ứng yêu cầu mới của quản lý kinh tế, thực hiện nghị quyết trung ương lần thứ 20)khoá III đề ra là:"Xoá bỏ lối hành chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa", ngày 10-3-1975, Hội đồng chính phủ đã ban hành điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế. Bản điều lệ này đã đưa ra khái niệm:"hợp đồng kinh tế là công cụ pháp lý của nhà nước trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nó góp phần quan trọng trong việc kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, củng cố chế độ hạch toán kinh tế. Nó làm cho lợi ích của các đơn vị kinh tế cơ sở khớp với lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân, gắn liền công tác quản lý của nhà nước với sự tự chịu trách nhiệm của các tổ chức kinh tế cơ sở. Nó xác lập và thắt chặt mối quan hệ hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa các bên có liên quan đến việc ký kết hợp đồng kinh tế và thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết, quy định rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của từng bên đối với nhau, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên ký kết chuẩn bị kế hoạch, xây dựng kế hoạch một cách vững chắc, thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước với hiệu quả cao nhất“(điều1).
Vẫn với quan điểm hướng nền kinh tế theo một kế hoạch thống nhất và coi hợp đồng kinh tế là công cụ để thực hiện kế hoạch nên bản điều lệ này đã đề ra nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế tại điều 2:"Ký kết hợp đồng kinh tế là một kỷ luật nhà nước". Nhà nước bắt buộc mọi tổ chức kinh tế phải ký hợp đồng kinh tế trong mọi hoạt động kinh tế có liên quan với nhau. Tính bắt buộc đó là do tính pháp lệnh của nhà nước quy định.
Nghiên cứu bản điều lệ hợp đồng ban hành kèm theo Nghị định số 54/CP ngày 10-3-1975 có thể đưa ra những nhận xét khái quát như sau: Các tổ chức phải ký kết hợp đồng kinh tế khi có chỉ tiêu pháp lệnh; chỉ tiêu pháp lệnh là cơ sở để ký kết hợp đồng kinh tế, hợp đồng không được thay đổi, huỷ bỏ theo ý chí của các bên, nó chỉ được thay đổi, huỷ bỏ khi chỉ tiêu bị thay đổi, huỷ bỏ. Cũng vì mang nặng tính tập trung hành chính nên bản điều lệ này đã không đề cập dến biện pháp bảo đảm của hợp đồng. Dù sao đây cũng là một khiếm khuyết của chế định này. Tính hành chính còn thể hiện trong quy định về cơ quan giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế có cả cơ quan quản lý cấp trên. Về mặt kỹ thuật lập pháp, chế định hợp đồng kinh tế được thể hiện khá rõ, khá chính xác bằng các quy đinh về nội dung hợp đồng, thủ tục ký kết và trách nhiệm thực hiện hợp đồng kinh tế.
2. Chủ thể hợp đồng kinh tế:
Trong điều kiện của thời kỳ quá độ, tại nước nào cũng vậy, nền kinh tế có nhiều thành phần nên các quan hệ kinh tế rất phức tạp, đa dạng. ở nước ta trong giai đoạn này có 6 thành phần kinh tế và tất cả đều tham gia vào quá trình trao đổi. Trong đó chủ yếu là các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Những xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã và các cơ quan nhà nước, các đơn vị quân đội và một số tổ chức xã hội là chủ thể chính, thường thấy trong quan hệ hợp đồng kinh tế.
Trong quá trình cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh, hai thành phần, công ty hợp doanh và tư bản tư doanh được phép kinh doanh taị Miền Nam cũng là những người tham gia vào quá trình lưu thông xã hội chủ nghĩa và cũng có mục đích phục vụ kế hoạch nhà nước. Như vậy, có thể coi cả 4 thành phần kinh tế trên đều là những chủ thể của quan hệ hợp đồng kinh tế.
Tuy nhiên, xoay quanh vấn đề này còn nhiều ý kiến chưa thống nhất, những tổ chức và cơ sở kinh tế như thế nào mới được tham gia vào quan hệ hợp đồng kinh tế ? Trong thực tế hiện nay có những tổ chức, cơ sở quốc doanh hay tập thể ký những bản hợp đồng với tư nhân, người sản xuất cá thể, cũng có ý kiến cho đây cũng là những hợp đồng kinh tế, nhưng trong đó hàng loạt các vấn đề khác như: trách nhiệm khi vi phạm, vấn đề giám sát, kiểm tra, thực hiện hợp đồng lại không thể áp dụng nhưng quy định như đối với giữa các tổ chức với nhau
Muốn giải quyết vấn đề có những chủ thể nào tham gia vào quan hệ hợp đồng kinh tế thuộc lưu thông kinh tế của nước ta trong giai đoạn này, cần phải xuất phát từ những cơ sở nhất định.Trước hết cần thống nhất về các đặc điểm cơ bản của hợp đồng kinh tế xã hội chủ nghĩa như đã phân tích ở trên.
Chỉ những quan hệ kinh tế nào trực tiếp phục vụ những quan hệ hợp đồng kinh tế cần nói tới ở đây. Đối với từng đơn vị cơ sở, các quan hệ đó nhằm giải quyết trực tiếp những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh mà kế hoạch nhà nước đã giao cho, đặc biệt là các chỉ tiêu pháp lệnh. Cũng cần nói thêm là: lưu thông ở đây là chỉ trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh chứ không bao gồm mọi lĩnh vực kinh tế –xã hội.
Từ những cơ sở trên, đặt trong điều kiện cụ thể nền kinh tế nước ta trong giai đoạn này có thể đi đến những quy kết về điều kiện của một chủ thể tham gia quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Muốn các chủ thể tham gia quan hệ với nhau theo ý chí của nhà nước, nhà nước có thể kiểm soát, hướng dẫn quan hệ này theo quỹ đạo kế hoạch của mình thì các chủ thể phải đạt những điều kiện theo pháp luật nhà nước quy định về năng lực pháp luật và năng lực hành vi, được gọi là tư cách pháp nhân. khoa học pháp lý thừa nhận hoặc cho phép có một cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh, có tài sản riêng, có quyền độc lập tương đối về tài sản và hoạt động với danh nghĩa riêng. Những chủ thể có đủ những điều kiện đó được xác lập độc lập về mặt pháp lý, có tư cách pháp nhân và được phép tham gia vào các quan hệ hợp đồng kinh tế, đó là những điều kiện chung, còn đối với từng chủ thể trong những thành phần kinh tế cụ thể, nhà nước có những quy định cụ thể, như thế thông thường các chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế là những tổ chức độc lập của kinh tế quốc doanh, hợp tác xã và công ty hợp doanh. Tuy nhiên, trong công cuộc cải tiến quản lý kinh tế và vấn đề cải tạo công thương nghiệp hợp tác hoá, trong giai đoạn này một tổ chức còn có nhiều biến đổi, nhiều tổ chức mới được hình thành, chưa được quy định rõ địa vị pháp lý cũng như tư cách chủ thể trong các mối quan hệ. ở khu vực kinh tế quốc doanh, nhiều liên hiệp xí nghiệp mới được thành lập, có liên hiệp thực hiện hạch toán độc lập, toàn diện nhưng có nơi chỉ là một cơ quan chỉ đạo chung, trong điều kiện cách mạng nước ta lúc đó, các tổ chức quân đội tham gia vào cá quan hệ kinh tế ngày càng nhiều, tư cách pháp nhân của chúng đang dần dần được hình thành và hoàn thiện. Thông thường thì đó là các đơn vị hạch toán độc lập, nhưng cũng có đơn vị là tổ chức hành chính sự nghiệp thường nhận thêm nghiên cứu triển khai khoa học kỹ thuật hoặc gia công một số sản phẩm. Trong khu vực kinh tế tập thể, có nhiều hinh thức hiệp tác sán xuất như tập đoàn sản xuất, hợp tác xã bậc thấp, sự hợp tác có khi chỉ từng việc, từng sản phẩm hay một vụ, từng thời gian hợp tác, từng khâu tiền vốn, lao động hoặc toàn diện đén cả phân phối, ăn chia…
Tình hình này thường thấy tại các tỉnh phía nam, cũng tại đó có nhiều tư bản tư nhân với nguyên vật liệu và một số vốn đầu tư của nhà nước đã tiến hành sản xuất kinh doanh theo hướng kế hoạch và bán sản phẩm cho nhà nước. Những tư bản tư nhân được nhà nước cho phép hoạt độngk trong một số ngành, lĩnh vực và trong một thời gian nhất định, nó có tính chất như một biện pháp quản lý tạm thời.
Những nét mới của tùnh hình trên đã tồn tại trong một khoảng thời gian dài sau đó, nên quan điểm về tư cách chủ thể đối với những tổ chức, cơ sở này vừa phải dựa trên nguyên lý chung về quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, lại vừa chiếu cố đến những điều kiện nền kinh tế nước ta trong giai đoạn này, trong từng thời kỳ cụ thể, tuỳ vào sự phát triển của ba cuộc cách mạng mà trước hết là cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng về khoa học- kỹ thuật mà điều kiện cụ thể của mỗi chủ tham gia quá trình lưu thông kinh tế cũng có sự thay đổi thích hợp. Nhưng những điều kiện chung đối với những cơ sở, tổ chức mới hình thành thì nên là: nếu là quan hệ trực tiếp sản xuất- kinh doanh thì chúng phải thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, nghĩa là về mặt năng lực hành vi nó có đủ khả năng dùng tài sản của mình để hoàn thành những nghĩa vụ tài sản mà theo các hợp đồng chúng tham gia. Điều này cần được xem xét cụ thể với từng loại cơ sở quốc doanh hay tập thể, tư nhân và mức độ chung giá trị hợp đồng ký kết, sở dĩ như vậy là vì theo quan điểm của pháp luật kinh tế, ngoài việc đảm bảo yếu tố kế hoạch, thể hiện ở tính hợp pháp, còn phải đặc biệt coi trọng yếu tố tài sản khi xem xét các quan hệ kinh tế, những tài sản thuộc quyền quản lý hay sở hữu của một đơn vị nói lên khả năng có thể đảm bảo cho các cam kết về thực hiện về trách nhiệm pháp lý về tài sản của chúng, một đơn vị có hoạch toán kinh tế độc lập thì mới được coi là có tài sản riêng, có quyền độc lập với những tài sản đó thì mới được mới đựoc tham gia vào các quan hệ hợp đồng kinh tế mà các quyền và nghĩa vụ luôn luôn mang nội dung tài sản. Cố nhiên là những đơn vị này khi có đủ những điều kiện về tài sản thì cũng phải còn đảm bảo các quy định về đăng ký kinh doanh, quản lý nhà nước mà pháp luật đã quy định, còn đối với những quan hệ nghiên cứu, triển khai khoa học- kỹ thuật, tuy có mục đích cuối cùng là phục vụ sản xuất kinh doanh, thường là của một bên và nặng về nghiên cứu thiết kế thì điều kiện được xem nhẹ hơn và cũng được xác định là chủ thể của quan hệ hợp đồng kinh tế. Còn lại những cơ quan, tổ chức nào chỉ có vị chí chỉ đạo, quản lý hành chính- kinh tế…thì không thực hiện chế độ hoạch toán kinh tế, thì cũng có thể là chủ thể của hợp đồng kinh tế khi quyền và nghĩa vụ của chúng cũng mang nội dung tài sản, trong đa số những quan hệ khác mà chúng tham gia thì lại với tư cách không phải là chủ thể hợp đồng kinh tế.
Sự bàn bạc thoả thuận giữa các tổ chức xã hội chủ nghĩa để quản lý với nhau một bản hợp đồng kinh tế thực chất là sự hợp tác giữa các bộ phận của cùng một thể kinh tế thống nhất, có cùng mục đích chung là thực hiện kế hoạch nhà nước. Vì vậy, thẩm quyền của các chủ thể khong thể do tự họ quy định mà phải nằm trong khuân khổ mà nhà nước quy định, mức độ thẩm quyền của từng chủ thể tuỳ thuộc vào vị trí và nhiệm vụ kế hoạch của chúng, nói cách khác, quyền hạn, nhiệm vị và trách nhiệm của các chủ thể tronh các quan hệ hợp đồng ở mức độ cần thiết tương ứng cho sự thực hiện những chỉ tiêu kế hoạch được nhà nước giao. Khi xác định quan hệ hợp đồng ở mức độ cần thiết tương ứng cho sự thực hiện những chỉ tiêu kế hoạch được nhà nước giao cho, khi xác định quan hệ hựop đồng, các bên phải ý thức và đặt việc thực hiện những nhiệm vụ kế hoạch làm mục tiêu cao nhất. Xuất phát từ tính cân đối của kế hoạch nên quyền hạn và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng cũng có tính cân đối, trong quan hệ hợp đồng không bên nào có đặc quyền hay quyền dùng một ưu thế nào đó để gây khó khăn cho bên kia, vì làm như thế suy cho cùng người chịu thyệt hại không ai khác là nhà nước.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì các quan hệ kinh tế mang nội dung mới về chất, trong điều kiện đó điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo nghị định 54/cp ngày 10/03/1975 không còn phù hợp nữa, nhà nước đã ban hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989, nghị định số 17/hđbt ngày 16/01/1990 và nhiều văn bản khác để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng theo quan điểm đỏi mới. đến ngày 10/05/1997 quốc hội đã thông qua luật thương mại mà trong đạo luật này, có nhiều quy định về một mảng hợp đồng kinh tế- đó là hợp đồng thương mại.
Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu những quy định thực hành chủ yếu của nhà nước ta về hợp đồng kinh tế, đây là quy định đáp ứng được các yêu cầu của bước chuyển sang cơ chế thị trường, đánh dấu một bước phát triển mới của hợp đồng kinh tế nước ta. Sau bước chuyển này,nhà nước sẽ tạo một khung pháp lý tương đối ổn định cho các quan hệ hợp đồng kinh tế- thương mại rất đa dạng, phong phú trong thời gian sau.
II- chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế theo pháp lệnh về hợp đồng kinh tế 25/09/1989:
1. Bản chất, đặc điểm của chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường:
Chủ thể kinh tế là các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế bình đẳng, tự nguyện thoả thuận để xác định những quyền và nghĩa vụ đối với nhau, theo điều 2 pháp lệnh hợp đồng kinh tế và điều 1 Nghị định 17/HĐBT ngày 16/01/1990 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì chủ thể hợp đồng kinh tế là pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, thì trong đó có ít nhất một bên là pháp nhân. Thực ra khái niện pháp nhân và cá nhân là những khái niệm truyền thống, cơ bản được sử dụng trước hết là luật dân sự.
Trước hết, pháp nhân là một khái niệm được dùng để ám chỉ một loại chủ thể pháp lý độc lập, để phân biệt với các chủ thể là con người)bao gồm cá nhân và tập thể người). Như vậy, pháp nhân là một thực thể trừu tượng, được hư cấu thể hiện tình trạng tách bạch về mặt tài sản của nó với tài sản còn lại của chủ sở hữu, người đã sáng tạo ra nó, trong kinh doanh người sáng tạo ra pháp nhân, hiểu theo nghĩa này là chủ sở hữu doanh nghiệp- người đầu tư vốn để thành lập doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.
Nếu coi doanh nghiệp nhà nước là pháp nhân nghĩa là toàn bộ vốn và tài sản mà nhà nước đã giao cho doanh nghiệp là của doanh nghiệp, chúng tồn tại tách bạch và độc lập về mặt pháp lý với toàn bộ tài sản khác thuộc sử hưũ toàn dân. vì lẽ đó khi thành lập lại các doanh nghiệp)theo nghị định 388/hđbt ngày 20/01/199) và khi thành lập mối doanh nghiệp nhà nước)theo luật doanh nghiệp nhà nước ngày 20/04/1996) đều có thủ tục giao và nhận vốn. Cũng vì không có tài sản tách bạch nên trước đây các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh của ta chưa bao giờ tồn tại thực sự là những pháp nhân.
Trong trướng hợp là công ty)theo luật công ty ngày21/12/1990) điều này cũng có bản chất pháp lý như vậy, cụ thể khi thành lập công ty đối vốn, các thành viên góp đủ số vốn vào công ty và tồn tại tách bạch với phần còn lại thuộc sở hữu của thành viên của công ty mà không đưa vào vốn của công ty. Với tư cách thiết kế về pháp lý như vậy suy cho cùng chỉ nhằm mục đích là để các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hưởng trách nhiệm hữu hạn mà thôi, nói cách khác, pháp nhân không phải là khái niệm nhằm khẳng định tính độc lập về pháp lý của mọi chủ thể kinh doanh hay thương nhân. Theo lẽ đó, pháp luật nước ta)mà trước hết pháp luật kinh tế- dân sự) cũng như pháp luật của mọi quốc gia trên thế giới đều coi pháp nhân là một thực thể pháp lý:
+ Được thành lập hay thừa nhận mộy cách hợp pháp.
Có tài sản riêng.
Tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình bằng số tài sản đó.
Là nguyên đơn hay bị đơn trước cơ quan tài phán.
Bên cạnh các pháp nhân còn có một loại chủ thể pháp luật nữa, cũng là những thực thể pháp lý độc lập về tư cách chủ thể, song ở đó không có sự tách bạch về tài sản giữa phần của thực thể đó với chủ sở hữu của nó. vì vậy, ở đây khi xem xét tính chất về chế độ trách nhiệm, về mặt tài sản trong kinh doanh thì chính thực thể pháp lý đó và cùng với chủ sở hữu của nó)các cá nhân và các tổ chức góp vốn) cùng liên đới chịu trách nhiệm v"hạn về các khoản nợ của thực thể pháp lý đó. Như vậy,"đứng ra chịu trách nhiệm"về mặt tài sản ở đây trên thực tế có thể là cá nhân hay thậm chí cả tổ chức, nhưng thực thể pháp lý đó được khoa học pháp lý truyền thống gọi chung là thể nhân mà không nhất thiết là cá nhân.
2. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế.
Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế là các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế bình đẳng, tự nguyện, thoả thuận để xác định những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. theo điều 2 pháp lệnh hợp đồng kinh tế và điều 1 nghị định 17/HĐBT ngày 16/01/1990 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì chủ thể pháp lệnh hợp đồng kinh tế là pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, trong đó có ít nhất một bên là pháp nhân. cá nhân có đăng ký kinh doanh theo pháp luật quy định là người đã được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh)đó là cá nhân kinh doanh nhỏ dưới vốn pháp định hay doannh nghiệp tư nhân). theo điều 2 pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì chủ thể hợp đồng kinh tế một bên phải là pháp nhân còn bên kia có thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Tất cả các chủ thể kinh tế khi ký kết hợp đồng kinh tế phải tuân theo các quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế, ngoài các chủ thể kể trên, theo quy định tại điều 42,43 pháp lệnh hợp đồng kinh tế những người làm công tác khoa học, kỹ thuật, nghệ nhân, hộ gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể, tổ chức và cá nhân nước ngoài tại việt nam cũng phải áp dụng các quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế, mỗi bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ cần một đại diện để ký kết hợp đồng kinh tế) khoản 1 điều 5 pháp lệnh hợp đồng kinh tế). Nếu là pháp nhân thì đại diện phải hợp pháp của pháp nhân đó, đại diện hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hay được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó và đang giữ chức vụ đó. người đại diện hợp pháp của pháp nhân chỉ được ký kết hợp đồng kinh tế trong phạm vi thẩm quyền đại diện do pháp luật hoặc điều lệ pháp nhân quy định, như vậy người đứng đầu pháp nhân là người đại diện đương nhiên theo pháp luật của pháp nhân.
Nếu là các cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật thì người ký kết hợp đồng phải là người đứng tên giấy phép kinh doanh, được cấp giấy phép kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong tất cả các trường hợp, không bắt buộc kế toán trưởng phải cùng ký vào hợp đồng)đây là điểm khác với bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo nghị định 54/CP ngày 10/03/1975).
Trường hợp một bên là người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân thì người ký kết hợp đồng kinh tế phải là người trực tiếp thực hiện công việc theo hợp đồng, nếu có nhiều người cùng tham làm thì người ký vào bản hợp đồng kinh tế phải do những người cùng làm cử ra bằng văn bản trong đó có chữ ký của tất cả những ngươì đó và phải đính kèm theo bản hợp đồng kinh tế. Trường hợp một bên là hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dâncá thể thì đại diện phải là chủ hộ. Khi một bên là tổ chức nước ngoài tại việt nam thì đại diện tổ chức đó phải được uỷ nhiệm bằng văn bản, nếu là cá nhân nước ngoài tại việt nam thì bản thân họ phải là người ký kết các hợp đồng kinh tế.
Người đại diện hợp pháp của pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh có thể uỷ quỳên cho người thay mình ký kết hợp đồng kinh tế, làm đại diện trong ký kết, trong quá trình thực hiện hợp đồng, cũng như trong tố tụng khi có tranh chấp hợp đồng. Người được uỷ quyền chính là người đại diện uỷ quyền, nếu người đại diện theo uỷ quyền ký kết hợp đồng kinh tế vượt quá phạm vi uỷ quyền thì phần vượt quá phạm vi uỷ quyền bị coi là v"hiệu. Việc uỷ quyền phải được làm bằng văn bản trong đó ghi rõ họ tên, chức vụ, nơi làm việc, giấy chứng minh của người được uỷ quyền. Người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm của người được uỷ quyền như hành vi của chính mình, trong trường hợp uỷ quyền thường xuyên, chẳng hạn uỷ quyền cho cấp phó của mình, cho người quản lý đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân không đầu đủ, cứ mỗi lần giao dịch trong quan hệ hợp đồng kinh tế, người được uỷ quyền phải xuát trình văn bản được uỷ quyền thường xuyên này và người uỷ quyền vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi của người được uỷ quyền như trong trường hợp uỷ quyền không thường xuyên như đã nêu ở trên.
IV- luật doanh nghiệp)2/06/1999) và những vấn đề đặt ra trong vấn đề chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế.
1. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế trong luật doanh nghiệp (12/06/1999).
Từ năm 1986, đảng ta đã chủ trương đổi mối cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xoá bỏ tập chung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và tốc độ phát triển kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế mở, nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng quan trọng, coi việc sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá- tiền tệ, đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp trong việc chủ đọng tiếp cận nhu cầu thị trường, khai thác mọi khả năng để phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ chế quản lý mới đòi hỏi phải rà soát lại tất cả các chính sách, chế độ quản lý kinh tế trong đó có chế độ hợp đòng kinh tế. Trong cơ chế mới về quản lý kinh tế thì khái niệm về hợp đông kinh tế đã có những thay đổi căn bản, nó góp phần là công cụ pháp lý quan trọng trong kinh doanh và quản lý kinh tế, góp phần tăng cường kế hoạch hoá, củng cố hoạch toán trên cơ sở tôn trọng quyền tự do kinh doanh, nó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, bình đẳng trong kinh doanh nhằm đảm bảo sự vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để phù hợp với tình hình kinh tế lúc này các nhà làm luật đã ban hành luật doanh nghiệp)12/06/1999), có rất nhiều những thay đổi đặc biệt quan trọng đó là đưa ra những quy định nhằm phát huy tối đa quyền tự do kinh doanh, nó đã xoá bỏ cơ bản được cơ chế xin cho trong quá trình thành lập doanh, mà chỉ giữ lại một số lượng nhỏ giấy phép đối với một số ngành mà giấy phép vẫn còn phát huy được tác dụng. Và thực tế đã cho thấy những quy định mới trong luật doanh nghiệp là đúng đắn, nó được thể hiện chỉ trong 9 tháng sau khi luật doanh nghiệp ra đời, thì đã có hàng chục nghìn doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đăng ký thành lập và đi vào hoạt động. Còn đối với loại hình doanh nghiệp thì luật doanh nghiệp quy định thêm hai loại hình doanh nghiệp mới, đó là công ty tránh nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty hợp danh, khi có luật doanh nghiệp ra đời thì nhà nước ta đã chuyển một số doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, chính trị xã hội thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Như vậy, sau khi luật doanh nghiệp thì đã có thêm hai loại chủ thể mới có thể thực hiện ký kết hợp đồng kinh tế và số lượng hợp đồng kinh tế sẽ tăng lên rất nhanh, ngoài ra khi đất nước ta ngày càng tham gia ký kết các hiệp định song phương cũng như hiệp định đa phương ngày càng nhiều, đặc biệt sắp tới hiệp định song phương giữa ta và mỹ đi vào thực hiện thì hệ thống luật pháp của chúng ta phải thay đổi sao cho phù hợp với nước bạn, thì vấn đề chủ thể ký kết trong hợp đồng kinh tế quy định cho phù hợp là hết sức quan trọng.
Vì vậy, em có một số kiến nghị sau:
2. Một số kiến nghị:
Một là: theo như pháp lệnh về ký kết hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1999 quy định, trong hợp đồng kinh tế phải có một bên là pháp nhân còn bên kia có thể pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật. điều này là không phù hợp với tình hình phát triển kinh tế hiện nay nữa vì nếu trong trường hợp hai doanh nghiệp tư nhân ký kết hợp đồng kinh tế với nhau nhằm thực hiện hoạt động kinh doanh của họ thì không thể coi là hợp đồng kinh tế vì doanh nghiệp tư nhân theo quy định của pháp luật hiện hành thì doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Trường hợp này lại áp dụng theo chế độ hợp đồng dân sự, vậy để phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, pháp luật nên quy định chủ thể của hợp đồng kinh tế là các doanh nghiệp hoặc ít nhất có một bên là doanh nghiệp còn bên kia có thể là các tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc khộng có tư cách pháp nhân, nhưng có chức năng kinh doanh.
Hai là: trong qua trình giải quyết các vụ án kinh tế có một số khó khăn do thiếu sự nhận thức và vận dụng thông nhất các quy định của pháp luật do chưa có quy địmh:"Các quy định của pháp lệnh này có thể được áp dụng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân và người làm công tác khoa học – kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể”. Vấn đề này cần phải được làm rõ tránh sự nhầm lẫn giữa gợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế, đặc biệt là tư cách chủ thể của hợp đông kinh tế.
Theo quy định tại điều 43 pháp lệnh hợp đồng kinh tế"Các quy định của pháp ệnh này được áp dụng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng giữa pháp nhân Việt Nam". Vấn đề này cần phải được hướng dẫn rõ về chủ thể hợp đồng kinh tế là cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam
Các quy định tại điều 40 pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần hướng dẫn cách thức, mức độ miễn giảm trách nhiệm tài sản khi gặp thiên tai, dịch hoạ hặc phải thực hiện, thi hành lệnh khẩn cấp và cần quy định quyển khởi tố các vụ án kinh tế của Viện kiểm sát nhân dân trong trường hợp tranh chấp kinh tế có gây thiệt hại lớn đến tài sản nhà nước mà các bên tranh chấp không khởi kiện.
Ba là: Vấn đề hợp đồng: những gì có liên quan đến khái niệm thế nào là hợp đông dân sự ? thế nào là hợp đồng kinh tế ? Vì khái niệm hợp đồng của nước ta quy định không rõ ràng, nên khó phân biệt và áp dụng. Có một số trường hợp nhất định bắt buộc phải theo hợp đồng kinh tế thỉ nên có quy định rõ ràng, nhưng nếu không có quy định rõ thì đanh phải áp cụng luật dân sự trong khi hầu như các bên trong quan hệ hợp đồng kinh tế đều không muốn như thế. Đặc biệt trong trường hợp đối với thư tín dụng , tiếp đến là các văn bản giao dịch cũng như phải quy định thế nào là được coi là hợp đồng)công văn, điện tín, đơn chào hàng, đơn đặt hàng) nhưng vấn đề này lại chưa được quy định rõ, chưa có những hướng dẫn cụ thể.
Trong khung pháp lý có sự xung đột với các luật khác nhau vì trên thực tế có các dạng hợp đồng như hợp đông thương mại – kinh tế , thương mại dân sự nhưng nếu phát sinh tranh chấp thì lại áp dụng theo pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Điều này dẫn đến mức phạt là khác nhau. Do đó có sự khập khiễng khi giải quyết, pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần được sửa đổi và nêu được nguyên tắc áp dụng luật. Phương án tốt nhất là sửa đổi luật thương mại thành luật chung nhất trong kinh doanh, mở rộng phạm vi, hành vi hương mại và nêu rõ nguyên tác áp dụng luật. khi chưa làm được điều đó thì cần phải sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế theo hướng"Tự hành”
kết LUậN
Quan sát thực tế xây dựng pháp luật ở nước ta chúng ta dễ dãng nhận thấy là bên cạnh các dự thảo luật được xây dựng mới hợp đồng an toàn, còn một danh sách khá dài các văn bản luật cần phải được sửa đổi, bổ sung, chính vì vậy hệ thống pháp luật hiện hành, đặc biệt là pháp luật trong kinh tế, chưa có được tính ổn định lâu dài chưa tạo ra được các cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nền ki nh tế thị trường hiện đại đòi hỏi sự ổn định lâu dài của chế độ pháp lý. Do đó đòi hỏi phải đổi mới toàn bộ hệ thống pháp luật kinh tế. Có như vậy mới tạo ra được sự đồng bộ của sự điều chỉnh pháp luật, khắc phục tính thiếu thống nhất và mâu thuẫn trong bản thân luật pháp.
Việc xây dựng khung pháp luật kinh tế là việc hợp đồng hoàn thiện pháp luật quy định các quy tắc hợp đồng hoạt động kinh doanh trên thị trường. Nếu như yếu tố đầu tiên là xác định"sân chơi”)thị trường và những chủ thể kinh doanh tham gia thị trường) thì yếu tố thứ hai là xác định luật chơi. Thị trường có tổ chức là thị trường có luật chơi chặt chẽ. Vì vậy việc xây dựng, hoàn thiện các luật lệ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trên các loại thị trường là vấn đề, nội dung chủ chốt của khung pháp pháp luật kinh tế. Có như vậy mới tạo ra được các cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1. Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật
2. Nghị định số 004- TTg ngày 4-1-1960 của thủ tướng Chính phủ ban hành về"Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế"
3. Nghị định số 54-CP ngày 10-3-1975 của hội đồng Chính phủ về"Điều lệ chế độ hợp đồng kinh tế
4. Thông tư số 525-HĐ ngày 24-61975 của hội đồng tròng tài kinh tế nhà nước, hướng dẫn bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế.
5. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25-9-1989
6. Nghị định số 17-HĐBT ngày 16-1-1990 của hội đồng bộ trưởng quy định chi tiết pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
7. Quyết định số 18-HĐBT ngày 16-1-1990 của hội đồng bộ trưởng về ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh
danh mục các tài liệu khác
1. Bài giảng pháp huật kinh tế: Nhà xuất bản Đại học và giáo dục chuyên nghiệp)Hà nội –1990) do Nguyễn Hữu Viện chủ biên.
2. Tìm hiểu các ngành luật Việt Nam:"Luật kinh tế"do thạc sỹ luật hoạt động thương mại Nguyễn Thị Khế biên soạn)Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh)
3. “Hỏi đáp luật kinh tế"do Phó tiến sỹ Nguyễn Đang Dung và luật gia Nguyễn Thị Khế biên soạn)Nhà xuất bản thống kê)
4. Đề tài nghiên cứu: Tăng cường công tác hợp đồng kinh tế trong quản lý kinh tế thời kỳ quá độ xây dựng CNXH ở nước ta của Nguyễn Hợp Toàn)Trường ĐHKTQD_HN)
5. Tạp chí pháp luật của Bộ tư pháp cuối tháng 11"Những vướng mắc về pháp luật cần sửa đổi"do PTS Phạm Hữu Nghị trả lời phỏng vấn
6. Hoàn thiện cơ sở pháp lý của cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta của Đỗ Ngọc Thịnh trong tạp chí luật học số 2/1990.
Mục lục
I. Quá trình phát triển của chế độ hợp đồng kinh tế ở việt nam
1. Thời kỳ đầu xã hội chủ nghĩa ở miền bắc:
2. Sau đại hội lần VI Đảng cộng sản Việt N am (11/1986)
II. Chủ thể hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung
1. Đặc điểm, bản chất của hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung
1.1. Bản chất, đặc điểm của hợp đồng kinh tế trong giai đoạn 1954-1975:
1.2. Bản chất - đặc điển của hợp đồng kinh tế trong giai đoạn 1975-1986:
2. Chủ thể của hợp đồng kinh tế
III. Chủ thể hợp đồng kinh tế chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế theo pháp lệnh về hợp đồng kinh tế 25/09/19899
1. Bản chất, đặc điểm của chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường:
2. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế
IV. Luật doanh nghiệp (2/06/1999) và những vấn đề đặt ra trong vấn đề chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế.
1. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế trong luật doanh nghiệp (12/06/1999).
2. Một số kiến nghị:
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35124.doc