Đề tài Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình phát triển ở Việt Nam

Ngày nay, trong chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới thì yếu tố chuyển dịch cơ cấu kinh tế chiếm một vị trí tương đối quan trọng. Thực tế cho thấy nhiều nước trên thế giới đã có sự tăng trưởng cao nhờ lựa chọn cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lý như: NICs, Nhật Bản,. đối với Việt Nam qua hơn 10 năm đổi mới các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển biến cơ bản. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,67% năm 1990 tăng lên 33,5% năm 1999, tỷ trọng ngành dịch vụ từ 38,59% năm 1990 tăng lên 40,7% năm 1999, còn tỷ trọng nông nghiệp từ 38,74% năm 1990 giảm xuống còn 25,8% năm 1999. Nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2000 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp như Đại hội VIII đã đề ra. Tuy nhiên trong quá trình phát triển cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam vẫn còn một số những tồn tại cần được giải quyết. Đề án đã trình bày một số nguyên nhân của tình trạng trên và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp mong đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

doc40 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1001 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình phát triển ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o mô hình này đã đạt được mức tăng trưởng tương đối cao trong giai đoạn đầu. Mặc dù về thực chất, sự tăng trưởng này chủ yếu bắt nguồn từ điểm xuất phát thấp, khiến cho một mức gia tăng nhỏ về số lượng tuyệt đối cũng đẩy chỉ số tương đối lên rất cao, song nó cũng tạo ra sự thay đổi về cơ cấu kinh tế nhất định, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của các quốc gia vốn trước đây là xứ thuộc địa. Đáng tiếc rằng, tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mô hình này đã không thể tiếp tục duy trì lâu hơn. Các nước khác nhau tuỳ vào những điều kiện cụ thể của mình mà lần lượt rời bỏ mô hình trước những giới hạn không sao vượt qua được. Các nhà kinh tế học đã tổng kết các lý do cơ bản của tình hình này là: + Mô hình này tự nó giả định phát triển đồng thời tất cả (hay ít nhất cũng là hầu hết) các ngành kinh tế quốc dân. Yêu cầu này không thể đáp ứng được bởi các nền kinh tế kém phát triển do bị quá tải về vốn đầu tư, khả năng công nghệ kỹ thuật và quản lý. + Việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối, hoàn chỉnh đã đưa nền kinh tế đến chỗ khép kín và tách biệt với thế giới bên ngoài. Điều này chẳng những ngược với xu hướng chung của tất thảy mọi nền kinh tế trong điều kiện hiện đại là khu vực hoá và toàn cầu hoá. Kinh nghiệm thế giới và lý thuyết hệ thống đã chỉ ra rằng: Sự phát triển của một quốc gia do động lực bên trong quốc gia đó là chính , tuy nhiên có sự tận dụng các lợi thế từ môi trường bên ngoài. Cả hai yếu tố trên đều góp phần làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá gặp khó khăn bởi lẽ cách tiếp cận trên đã làm phân tán các nguồn lực phát triển rất có hạn của quốc gia khiến cho ngay cả việc sửa cháa hậu quả cơ cấu kinh tế què quặt của thời kỳ thuộc địa cũ cũng bị trở ngại. Chính vì thế, chỉ sau 1 thời kỳ tăng trưởng, các nền kinh tế theo đuổi mô hình cơ cấu cân đối này đã nhanh chóng rơi vào tình trạng thiếu năng (maldevelopment). 1.2.4. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay "các cực tăng trưởng". Ngược lại với quan điểm phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu cân đối, khép kín nêu trên, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối (A.hirschman, F.Perrons, G.Destanne deBernis) cho rằng không thể và không nhất thiết phải bảo đảm tăng trưởng bền váng bằng cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia, bởi nháng luận cứ chủ yếu sau: - Việc phát triển cơ cấu không cân đối gây lên áp lực, tạo ra sự kích thích đầu tư. Trong mối tương quan giáa các ngành nếu cung bằng cầu thì sẽ triệt tiêu động lực khuyến khích đầu tư nâng cao năng lực sản xuất. Do đó, nếu có những dự án đầu tư lớn hơn vào một số lĩnh vực thì áp lực đầu tư sẽ xuất hiện bởi cầu lớn hơn cung lúc đầu và sau đó thì cung lớn hơn cầu ở một số lĩnh vực. Chính những dự án đó có tác dụng lôi kéo đầu tư theo kiểu lý thuyết số nhân. - Trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ công nghiệp hoá, vai trò "cực tăng trưởng" của các ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì thế cần tập trung nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong 1 thời điểm nhất định. - Do trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá các nước đang phát triển rất thiếu vốn, lao động, kỹ thuật, công nghệ và thị trường nên không đủ điều kiện để cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế, việc phát triển cơ cấu không cân đối là một sự lựa chọn bắt buộc. Lý thuyết này là cơ sở để hình thành lên mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Về mặt lý thuyết, mô hình này dựa trên nháng xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế dưới tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật và lựa chọn một cơ cấu kinh tế không cân đối để hình thành các cực tăng trưởng dựa trên những lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương. Các tiếp cận cơ cấu kinh tế trong mô hình công nghiệp hoá này có một số đặc trưng là: + Quá trình công nghiệp hoá được bắt đầu từ việc tập trung khai thác các thế mạnh của nền kinh tế, tạo ra những lĩnh vực phát triển có lợi thế so sánh trên thị trường thế giới. Thông thường, đối với các nước chậm phát triển, nháng thế mạnh khả dĩ là nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, tài nguyên khoáng sản và nông sản. Ví dụ, như NICs thì hướng sự phát triển vào những ngành công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động như : dệt, may, chế biến thực phẩm, điện tử dân dụng. Trong khi đó một số nước khác như Malaysia và Thái Lan lại khởi đầu với những sản phẩm nông nghiệp và khai thác khoáng sản. + Toàn bộ hệ thống chính sách chủ yếu nhằm khuyến khích xuất khẩu, tức là đảm bảo cho các nhà sản xuất có lợi hơn nếu bán sản phẩm của mình ra nước ngoài. Cụ thể là: Nhà nước trực tiếp tác động bằng cách đưa ra danh mục các mặt hàng ưu tiên, được giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu, hoặc trực tiếp trợ cấp cho các loại hàng hoá phục vụ sản xuất hàng xuát khẩu. Nhà nước gián tiếp can thiệp qua các công cụ tài chính, tiền tệ, tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất hướng ra thị trường thế giới. Ví dụ như: đánh tụt giá đồng tiền nội địa cung cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi cho sản xuất xuất khẩu khuyến khích đầu tư ngước ngoài.... Lúc đầu, lý thuyết này tỏ ra không hấp dẫn lắm vì nó xây dựng một nền kinh tế hướng ngoại và phụ thuộc vào bên ngoài (các nền kinh tế khác) mà thường thì các nước có nền kinh tế chậm phát triển gặp phải nhiều bất lợi hơn. Nhưng về sau do kết quả tăng trưởng kinh tế "thần kỳ" của một nhóm nước thực hiện chính sách này như: NICs, Malay sia, Thái Lan... nên xu hướng này đã được nhiềù nước áp dụng. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học cũng đưa ra hai loại vấn đề cần lưu ý khi áp dụng lý thuyết này; Thứ nhất, một số yếu điểm của chính sách thúc đẩy công nghiệp hoá hướng ngoại như sự phụ thuộc quá mức vào biến động của thị trường thế giới, tiêu biểu là cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 vừa qua đã làm cho nhiều nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng về tăng trưởng kinh tế cũng như về mặt xã hội. Thứ hai, không chắc môi trường kinh tế quốc tế còn thuận lợi cho việc thực thi chính sách hướng về xuất khẩu vì lợi thế so sánh không tồn tại mãi mãi. 1.2.5. Lý thuyết phát triển theo mô hình "đàn nhạn bay". Từ sự phân tích thực tế lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia và dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Người khởi xướng lý thuyết này, giáo sư Kaname Akamatsu đã đưa ra nháng kiến giải về quá trình "đuổi kịp" các nước tiên tiến nhất của các nước kém phát triển hơn. Trong những ý tưởng về sự đuổi kịp này, vấn đề cơ cấu ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xét trên góc độ phát triển của toàn bộ nền công nghiệp, từng phân ngành hay thậm chí từng loại sản phẩm riêng biệt. Quá trình "đuổi kịp" về mặt kinh tế và kỹ thuật của chúng được chia thành 4 giai đoạn sau: * Giai đoạn 1: Các nước kém phát triển nhập hàng công nghiệp chế biến từ các nước phát triển hơn và xuất khẩu một số sản phẩm thủ công đặc biệt. Tức là, các nước kém phát triển đã có sự chuyên môn hoá sản xuất 1 số loại hàng thủ công đặc biệt để xuất khẩu sang các nước phát triển. * Giai đoạn 2: Các nước chậm phát triển nhập sản phẩm đầu tư từ các nước công nghiệp để chế tạo lấy hàng hoá công nghiệp tiêu dùng trước đây vẫn phải nhập. Đây là giai đoạn các nước kém phát triển bắt đầu tích luỹ tư bản (vốn) và phỏng theo (bắt chước) công nghệ chế tạo từ các nước công nghiệp phát triển. Vì thế những ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu phát triển mạnh trong giai đoạn này. Song những điều chỉnh cơ cấu kinh tế vĩ mô lại được giành ưu tiên cho các ngành công nghiệp trợ giúp (kết cấu hạ tầng kinh tế) cho nháng ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển như điện nước và giao thông vận tải. * Giai đoạn 3: Là giai đoạn mà sản phẩm công nghiệp thay thế ở giai đoạn 2 đã có thể trở thành sản phẩm xuất khẩu. Những sản phẩm đầu tư trước đây phải nhập giờ đây đã có thể dần dần thay thế bằng nguồn khai thác và sản xuất ở trong nước. Như vậy, về khoảng cách kỹ thuật giáa các nước đi sau với các nước công nghiệp phát triển (trước hết là trong lĩnh vực hàng tiêu dùng) không còn xa cách bao nhiêu. * Giai đoạn 4: Là giai đoạn việc xuất khẩu hàng công nghiệp tiêu dùng bắt đầu giảm xuống, nhường chỗ cho việc xuất khẩu các loại hàng hoá đầu tư vốn đã bắt đầu phát triển ở giai đoạn 3. Về mặt kỹ thuật, nền công nghiệp đã đạt mức ngang bằng với các nước công nghiệp phát triển và chuyển giao một số ngành sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng sang các nước kém phát triển hơn. Như vậy, quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mô hình "đàn nhạn bay" có nhiều điểm tương đồng với lý thuyết phát triển cơ cấu ngành "không cân đối". Ngoài ra, điều cần lưu ý náa là việc "đuổi kịp" các nước công nghiệp phát triển diễn ra nhanh hay chậm một phần rất lớn phụ thuộc vào việc lựa chọn các "cực tăng trưởng" trong mỗi giai đoạn nhất định. Trên đây, đề án đã đưa ra một số lý thuyết phát triển và sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Về nguyên tắc, phải thừa nhận rằng mỗi mô hình công nghiệp hoá đều có những khía cạnh hợp lý. Vì thế sẽ là lý tưởng nếu tận dụng được tối đa các yếu tố hợp lý của mỗi mô hình để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thông qua các mô hình có thể rút ra một số kết luận về sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình phát triển như sau: + Các lý thuyết phát triển đều quan tâm đến việc xác định các tiền đề cần thiết của quá trình công nghiệp hoá. + Chúng không những chỉ coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng của sự phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá mà còn chỉ ra nội dung cụ thể của nó là tăng tỷ trọng của công nghiệp, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP, cũng như sự phát triển trong nội bộ từng ngành. Cách xác định nội dung chuyển dich cơ cấu kinh tế như vậy cho phép một mặt đánh giá mức độ thành công của công nghiệp hoá của một số quốc gia, mặt khác tìm hiểu nháng nguyên nhân quy định tình trạng thoái triển hay không sao bắt nhịp được với quá trình công nghiệp hoá đã xảy ra ở một số nước trên thế giới. + "Kinh tế học của sự phát triển" đã đạt vấn đề cơ cấu vào một trong những vị trí cơ bản trong lý thuyết của mình để xem xét, đánh giá và phân loại các dạng thức phát triển và suy thoái ở các nước thuộc thế giới thứ 3. Việc đề cao vấn đề cơ cấu được xem là một trong những thành công trong lý thuyết phát triển kinh tế hiện đại, bởi vì nó khắc phục được sự phiến diện của việc nhìn nhận các vấn đề kinh tế của các nước chậm phát triển chỉ xoay quanh chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế. + Kinh tế học phát triển cho rằng hình thức chuyển dịch cơ cấu ngành của các nước chậm phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá diễn ra rất đa dạng. Chính vì vậy, việc công nghiệp hoá bắt đầu từ đâu: công nghiệp, nông nghiệp hay dịch vụ vẫn là một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển. Để lựa chọn cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, Chính phủ cần đánh giá được các nguồn lực bên trong, đồng thời kết hợp được với các nguồn lực bên ngoài trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế. Khi nghiên cứu các điều kiện của Việt Nam nhiều tác giả đã cho rằng Việt Nam nên áp dụng lý thuyết phân kỳ phát triển của W.Rostow bởi vì nó có nhiều yếu tố phù hợp với nền kinh tế Việt Nam như: nền kinh tế nông nghiệp, lực lượng lao động dồi dào... do đó trong quá trình phát triển cần bắt đầu từ nông nghiệp và hiện đại hoá nông nghiệp nhằm đảm bảo lương thực tạo cơ sở cho quá trình phát triển. Sau đó có thể thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu để tạo ra một số tiền đề cần thiết, cơ bản, tạo đà cho sự "cất cánh" và nhanh chóng chuyển sang chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tận dụng các lợi thế so sánh. 1.3. Một số kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước trên thế giới. 1.3.1 Nhật bản. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã bắt đầu diễn ra, lao động trong nông nghiệp bị thu nhỏ dần một phần do tác động của kỹ thuật mới, mặt khác do sự tính toán hiệu quả sản xuất đã tạo ra một sự di chuyển lao động rất lớn từ nông nghiệp sang công nghiệp và các lĩnh vực kinh tế khác. Chỉ trong thời gian 30 năm (từ 1950-1979) đã có 9 triệu người rút khỏi khu vực nông nghiệp để chuyển sang các khu vực khác. Nhờ chủ trương nâng cao tiền lương thực tế của nhân dân bằng cách nâng cao năng suất lao động nên trong suốt thập kỷ 50, tiền lương thực tế của công nhân nông nghiệp đã tăng bình quân 7%/năm, điều này đã góp phần làm tăng thêm thu nhập của gia đình nông dân trong suốt thập kỷ 50, tạo cơ sở cho sự phát triển các giai đoạn sau. Đến những năm 1960 và 1970, tình hình thị trường lao động ở Nhật Bản trở nên rất căng thẳng. Chính phủ Nhật Bản đã tận dụng hết khả năng nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế. Tình hình di chuyển lao động sang các ngành phi nông nghiệp phát triển quá nhanh đã trở thành mối nguy cho sự phát triển của khu vực nông nghiệp, nông thôn. Để giải quyết tình trạng đó, Chính phủ Nhật Bản đã đưa tiến bộ kỹ thuật vào nông nghiệp (đầu tiên là máy gặt đập, sau đó là máy cày...) đã giải phóng sức lao động của nông dân, tạo cơ hội cho họ tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp. Như vậy, ở đây ta thấy Nhật Bản đã phát triển theo mô hình hai khu vực của A.Lewis. - Về tài chính: sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu đi vào phát triển; sự thiếu vốn diễn ra là một thực tế. Nguồn tài chính của Chính phủ, thậm chí cả của tư nhân cũng bị kiệt quệ hoặc bị tiêu hao do tình trạng lạm phát diễn ra. Tuy vậy, Nhật Bản đã nhận được nguồn viện trợ từ Mỹ cùng với sự thành công của một số chính sách làm cho tỷ lệ tích luỹ cao và có xu hướng tăng. Thứ nhất, Nhật Bản duy trì mức tiền lương thấp trong khi năng suất lao động tăng nhanh. Thứ hai, nhờ tính tiết kiệm, người Nhật đã làm tăng khối lượng tiền tiết kiệm cho sản xuất kinh doanh. Chỉ tính từ năm 1961-1967, thời kỳ phát triển mạnh nhất của công nghiệp Nhật Bản thì tỷ lệ tiết kiệm trong tổng số thu nhập của người dân Nhật là 18,6%, trong khi đó của Mỹ là 6,2%, Anh là 7,7%, Philippin là 8,7% và Cộng hoà Liên bang Đức là 13%. Thứ ba, do có chính sách thuế hợp lý đã góp phần đáng kể vào ổn định và tăng trưởng kinh tế. Chính phủ Nhật đã áp dụng chính sách giảm thuế trong nháng năm đầu đi vào sản xuất, vì vậy tỷ lệ tiết kiệm trong dân cư tăng. Ngay từ đầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Chính phủ Nhật Bản đã chủ trương nhập khẩu các kỹ thuật mới, nhập khẩu các bằng phát minh sáng chế từ các nước phát triển. - Về ngoại thương: Nhờ có những chiến dịch xuất khẩu ngày càng tăng đã đẩy nền kinh tế Nhật Bản ra khỏi khủng hoảng và suy thoái. Trong 20 năm (1965-1985), tỷ trọng nông nghiệp giảm đi 3 lần trong cơ cấu kinh tế của Nhật Bản (từ 9% năm 1965 còn 3% năm 1985). Một điều đáng quan tâm mới là trong quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành dịch vụ Nhật Bản đã dần trở thành một ngành có tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu kinh tế cả nước. 1.3.2. Hàn Quốc. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc có thể coi là thành công trong khoảng thập kỷ 60-80 với các kế hoạch 5 năm đã thực hiện (bảng 9). Điểm nổi bật của giai đoạn này là nền kinh tế Hàn Quốc đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế rất nhanh, bình quân trong 4 kế hoạch 5 năm là 8,3%. Sau 4 lần thực hiện kế hoạch 5 năm Hàn Quốc đã đạt được một nền kinh tế tự lực (1981). Đạt được sự thành công đó, trước hết phải nói đến vai trò của Chính phủ trong việc lựa chọn chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong giai đoạn phát triển, Hàn Quốc đã theo đuổi lý thuyết thay thế nhập khẩu, tập trung sức phát triển công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp nhẹ cần nhiều lao động và làm hàng xuất khẩu. Nháng năm 1986-1988 được xem là những năm thành công nhất của Hàn Quốc, do xuất khẩu bùng nổ nền tăng trưởng hàng năm lên tới 15%. Hàn Quốc trở thành một lực lượng mới, quan trọng trong nền kinh tế thế giới và là một trong nháng nước công nghiệp hoá mới (NICs) hùng mạnh trong thế giới thứ ba. Tuy nhiên, do một số chính sách về tài chính chưa được đảm bảo nên Hàn Quốc đã phải trả một giá đắt trong đợt khủng hoảng tài chính vừa qua. Bảng 9: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc qua các kế hoạch 5 năm (%) Các kế hoạch 5 năm Kế hoạch Thực tế Lần thứ nhất (62- 66) 7,1 8,5 Lần thứ hai( 67- 71) 7,0 9,7 Lần thứ ba (72 - 76) 8,6 10,1 Lần thứ tư (77 -81) 9,2 5,5 Nguồn: "Kinh nghiệm Kế hoạch hoá và quản lý ở Hàn Quốc". NXB Chính trị quốc gia, 1995, trang 11. Do theo đuổi chính sách thay thế nhập khẩu nên một trong những vấn đề Chính phủ Hàn Quốc phải đối đầu là chính sách lao động. Sự thay đổi cơ cấu ngành cũng tạo ra một sự mất cân đối trong thị trường lao động. Số lao động tìm kiếm việc làm trong các ngành dịch vụ quá đông, trong khi đó thiếu lao động trong các ngành nặng nhọc. Về lao động, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc đã để lại một gánh nặng cho ngành nông nghiệp. Tỷ lệ người di cư từ nông thôn ra thành thị của Hàn Quốc đạt mức cao nhất thế giới, vào giáa nháng năm 1980 con số này đạt mức trung bình hàng năm là 0,4 triệu người. Trong vòng 5 năm 1995 - 1996 có 1,3 triệu dân cư từ nông thôn di cư ra thành thị. Điều đó làm cho lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm, trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị có xu hướng tăng, tạo lên 1 thị trường sức lao động có cạnh tranh. Trước tình hình đó, Chính phủ đã duy trì chế độ trả lương thấp và đã tạo thuận lợi lớn cho sự cạnh tranh kinh tế của Hàn Quốc. 1.3.3. Trung Quốc. Sự chuyển dịch kinh tế của Trung Quốc một thành tựu điển hình là sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc, sự phát triển của các Xí nghiệp Hương Trấn ở Trung Quốc là nhân tố đóng góp chính vào thắng lợi của việc cải tổ nền kinh tế, đem lại sự tăng trưởng kéo dài suốt cả thập kỷ (bảng 10) tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ trong nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc. Sự phát triển của Xí nghiệp Hương Trấn dưới tác động hỗ trợ của các chính sách kinh tế của Nhà nước trong khu vực nông thôn làm đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Trong 10 năm (1979-1989) số hộ nghèo cả nước đã giảm đi 2 lần. Năm 1989 thu nhập bình quân đầu người của nông dân Trung Quốc đạt tăng 3,1 lần so với năm 1978, bình quân tăng 11,8%/năm. Năm 1978 thu nhập phi nông nghiệp chỉ chiếm 7% trong thu nhập bình quân đầu người của nông dân, đến năm 1988 con số đó là 27,3%. Trong khu vực nông thôn cơ cấu kinh tế đã thay đổi một cách cơ bản sau 10 năm. Tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm đáng kể và tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Công nghiệp đã trở thành lực lượng chính của nền kinh tế quốc dân, từ chỗ chỉ chiếm 27,9% năm 1978, vươn lên chiếm 50% vào năm 1990, đồng thời nông nghiệp năm 1990 còn 45,4% mà năm 1978 là 68,4%. Tốc độ tăng trưởng bình quân công nghiệp thời kỳ 1980-1990 đạt 11,7%, nông nghiệp đạt 5,5%. Bảng 10: Một số chỉ tiêu của Trung Quốc (1970-1992) Đơn vị: (%) Bình quân 1987 1988 1989 1990 1991 1992 71-80 81-90 Tăng trưởng GDP 7,9 10,1 10,9 11,3 4,4 3,9 7,5 12,8 Tăng trưởng Nông nghiệp 3,0 5,5 4,7 2,5 3,1 7,3 2,4 3,7 Tăng trưởng Công nghiệp 9,1 11,7 13,7 14,5 3,8 3,2 12,6 20,4 Nguồn: "chính sách cơ cấu vùng" - NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Tuy nhiên quá trình phát triển Xí nghiệp Hương Trấn đã đẩy Trung Quốc đến tình trạng thu hẹp diện tích đất canh tác, do phát triển công nghiệp và quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh. Trước tình hình đó Chính phủ Trung Quốc đã ra chính sách hạn chế sử dụng đất nông nghiệp nhằm đảm bảo ổn định lương thực. Trong quá trình phát triển các nước đều coi công nghiệp hoá là trọng tâm, là động lực phát triển của xã hội. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra tuỳ theo đặc thù của mỗi quốc gia nhưng với xu thế chung là giảm tỷ trọng của nông nghiệp, tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra theo chiều hướng ngày càng nâng cao vị trí, vai trò chủ đạo và then chốt của ngành công nghiệp dịch vụ trong quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên, không phải mọi sự chuyển dịch cơ cấu đều mang ý nghĩa tiến bộ, đều dẫn tới sự phát triển kinh tế như nhau khi áp dụng ở các nước khác nhau. Do vậy, Chính phủ của mỗi nước cần nghiên cứu điều kiện, đặc điểm của đất nước mình mà lựa chọn một cơ cấu kinh tế hợp lý. Chương 2 Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam 2.1. Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế của nền kinh tế Việt Nam từ 1986 đến nay. 2.1.1. Giai đoạn 1986-1990. Việt Nam bước vào thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986 trong bối cảnh kinh tế - xã hội phức tạp. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi còn có nhiều yếu tố không thuận lợi cả trên tầm vĩ mô (mất cần bằng nghiêm trọng giữa tổng cung và tổng cầu, lạm phát phi mã và siêu lạm phát, thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại, nháng sai lầm nghiêm trọng trong chính sách kinh tế,...) cũng như ở cấp độ vi mô (trước hết là sự hoạt động kém hiệu quả của các xí nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã nông nghiệp), cả yếu tố trong nước cũng như yếu tố quốc tế (trước hết là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, vốn là nguồn viện trợ và bạn hàng chủ yếu của Việt Nam. Kết quả là vào thời điểm đó xảy ra tình trạng khủng hoảng kinh tế sâu sắc, sản xuất đình đốn, mức sống của đại đa số nhân dân càng bị giảm sút. Từ sau Đại hội lần thứ IV của Đảng, do có những đổi mới về cơ chế quản lý trong nông nghiệp, ngành nông nghiệp nước ta bắt đầu phát triển. Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP tăng mạnh từ 36,11% (1986) lên 42,07% (1989) và 38,74% (1990) trong khi đó tỷ trọng công nghiệp giảm từ 30,06% (1986) xuống 23,79% (1990). Cụ thể là: Bảng 11: Tăng trưởng và cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 1986-1990 1986 1987 1988 1989 1990 I. Tỷ lệ tăng GDP (%) 2,33 3,64 5,98 4,69 5,1 1. Nông-lâm-ngư nghiệp 2,39 -0,52 3,94 6,77 1,57 2. Công nghiệp - xây dựng 10,28 9,15 5,29 -2,81 2,87 3. Dịch vụ -2,83 5,25 9,09 7,61 10,81 II. Cơ cấu ngành (%) 100 100 100 100 100 1. Nông-lâm-ngư nghiệp 36,11 40,56 46,3 38,74 38,74 2. Công nghiệp - xây dựng 30,06 28,36 23,96 22,67 22,67 3. Dịch vụ 33,38 31,08 29,74 38,59 38,59 Nguồn: Niên giám thống kê Qua số liệu trên cho thấy, trong những năm đổi mới giai đoạn 86-90 thì sự chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế nước ta mới diễn ra trong hai khu vực nông nghiệp và dịch vụ là chính, còn trong công nghiệp sự chuyển dịch này chưa nhiều. Về cơ bản, kinh tế nước ta vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong giai đoạn này. ở thời kỳ này, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành diễn ra theo chiều hướng là tăng tỷ trọng ngành nông nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng công nghiệp. Đây là chiều hướng phát triển bất lợi đối với quá trình công nghiệp hoá. Tuy tỷ trọng của ngành có sự tăng, giảm, song số tuyệt đối của các nhóm ngành trong GDP đều tăng lên. Do đó làm cho nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục tăng trưởng với con số đáng khích lệ, năm 1986 tăng 2,33%, đến năm 1990 tăng 5,1%, tốc độ tăng trung bình là 4,34%. Trong đó, tốc độ tăng trưởng GDP của nông nghiệp trong 5 năm (1986-1990) là 2,83%, công nghiệp là 4,96%, dịch vụ là 6%. Tương ứng, là tỷ trọng nông nghiệp trong GDP tăng từ 36,11% (1986) lên 42,07% (1989) và 38,74 (1990), công nghiệp giảm từ 30,06 (1986) xuống 22,67 (1990), dịch vụ tăng từ 33,83% (1986) lên 38,59 (1990). Qua số liệu trên, ta thấy ở giai đoạn 1986-1990 nền kinh tế Việt Nam hình thành theo cơ cấu nông - công nghiệp. Theo lý thuyết phân kỳ phát triển của Walt - Rostow thì Việt Nam đang ở thời kỳ xã hội truyền thống với đặc trưng là nông nghiệp giá vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. 2.1.2. Giai đoạn 1991 đến nay. Cải cách kinh tế năm 1986 đã giúp Việt Nam vượt qua khủng hoảng trong giai đoạn 1986-1990, cải thiện đáng kể tình hình kinh tế - xã hội trong thập niên 90. Từ năm 1991 đến năm 1996 nền kinh tế đã liên tục tăng trưởng với tốc độ cao năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ tăng bình quân đạt đến 8,5%/năm. Đến năm 1997 khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế các nước trong khu vực, tăng trưởng của GDP vẫn con đạt trên con số 8%, nhưng đó cũng là năm đầu tiên đánh dấu sự giảm sút đà tăng trưởng trong phần còn lại của thập kỷ 90, năm 1998 là 5,8%, năm 1999 là 4,5%, dự báo năm 2000 đạt khoảng 5,1%. Tuy nhiên, xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế lại phù hợp với quá trình công nghiệp hoá thể hiện ở việc giảm tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP, tăng đồng thời tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ. Số liệu ở bảng 12 phần nào thể hiện xu thế biến đổi tích cực của cơ cấu ngành kinh tế nước ta giai đoạn 1991-2000. Bảng 12: Tăng trưởng và cơ cấu kinh tế thời kỳ 1991-2000 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 DB 2000 I. Tỷ lệ tăng GDP (%) 5,96 8,65 8,07 8,84 9,54 9,34 8,15 5,8 4,5 5,1 1. Nông-lâm-ngư nghiệp 2,17 7,08 3,82 3,92 4,95 4,40 4,32 3,53 5,2 2. Công nghiệp - XD 9,04 14,03 13,13 14,02 13,3 14,46 12,62 8,63 6,5 3. Dịch vụ 8,26 6,98 9,19 10,2 10,03 8,80 7,14 4,93 2,3 II. Cơ cấu ngành (%) 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 1. Nông-lâm-ngư nghiệp 40,49 33,94 29,87 28,7 27,18 27,76 25,77 25,75 25,8 22,5 2. Công nghiệp - XD 23,79 27,26 28,9 29,65 28,75 29,73 32,06 32,59 33,5 31,8 3. Dịch vụ 35,72 38,8 41,65 44,07 42,51 42,17 41,66 40,7 40,7 45,7 Nguồn: Niên giám thống kê Qua bản số liệu ta thấy, tốc độ tăng bình quân của các nhóm ngành kinh tế cũng kách nhau, tăng trưởng nhanh nhất thuộc về nhóm ngành công nghiệp sau đến dịch vụ, thấp nhất là nông nghiệp tốc độ tăng trưởng GDP của nông nghiệp bình quân giai đoạn (1991-1998) là 4,2%, công nghiệp là 12,4% và dịch vụ là 8,5%. Tương ứng với nó là hình thành xu hướng nâng cao tỷ trọng và tốc độ phát triển của công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp. Năm 1991 tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP là 40,5%, đến năm 1999 giảm xuống còn 25,8%, bù vào đó là sự gia tăng tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Năm 1991 tỷ trọng của công nghiệp trong GDP là 23,79%, dịch vụ là 35,72%, đến năm 1999 tăng lên tương ứng là 33,5% và 40,7%. Như vậy xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, thì ở giai đoạn này đặc trưng cơ cấu kinh tế của nước ta là 1 nền kinh tế công - nông nghiệp. Theo lý thuyết phân kỳ phát triển của Walt - Rostow thì Việt Nam đang ở giai đoạn chuẩn bị cất cánh. Để mục tiêu đến năm 2010 Việt Nam trở thành 1 nước công nghiệp phát triển, thì cơ cấu kinh tế cần phải chuyển dịch nhằm đạt tới mức tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chiếm 10-12%, công nghiệp 43-48%, và dịch vụ 47-50%. 2.2. Thành tựu và nguyên nhân 2.2.1. Thành tựu. 2.2.1.1. Trong những năm đổi mới 1991-2000: Các ngành kinh tế quốc dân đã có sự chuyển dịch theo hướng nâng cao tỷ trọng và tốc độ phát triển của công nghiệpvà dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp (Biểu 12) nhưng giá trị sản lượng nông nghiệp vẫn tăng lên, tổng sản phẩm nông nghiệp năm 1996 so với 1991 tăng 26%, bình quân mỗi năm tăng 4,8%, năm 1998 tăng 3,5%. 2.2.1.2. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành: Được thực hiện gắn liền với sự phát triển các ngành theo hướng đa dạng hoá, dần hình thành ngành trọng điểm mũi nhọn. * Nông nghiệp có bước chuyển dịch theo hướng đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi, xoá dần tình trạng độc canh cây lương thực, do đó tăng hiệu quả sử dụng đất và lao động nông nghiệp. Một kết quả đáng ghi nhận trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn là đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung, chuyên canh với quy mô lớn như: cà phê ở Tây Nguyên, cây ăn quả ở Nam Bộ và miền núi phía Bắc, mía ở duyên hải miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó có một số sản phẩm đã đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế như: cà phê, cao su, hạt điều. Sản lượng cà phê nhân năm 1988 mới có 31,3 ngàn tấn đến năm 1996 lên tới 252 ngàn tấn và năm 1997 đạt 315 ngàn tấn, gấp 10 lần năm 1998. Sản lượng cà phê xuất khẩu năm 1996 đạt 248 ngàn tấn, tạo hơn nửa tỷ đô la, đứng vị trí thứ hai sau gạo, trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu. Trong hơn 10 năm qua, cao su tự nhiên đã có bước phát triển vượt bậc cả về diện tích và sản lượng. Năm 1987 cả nước có 203 ngàn ha với 51,7 ngàn tấn mủ khô, trong đó xuất khẩu 110 ngàn tấn. Cây điều nổi lên đứng thứ 3 trên thế giới sau ấn Độ, Braxin về diện tích sản lượng và khả năng chế biến, xếp thứ hai về số lượng xuất khẩu, đưa ngành sản xuất điều nước ta lên ngang hàng với các quốc gia sản xuất, xuất khẩu điều lớn trên thế giới, năm 1996 lên tới 250 ngàn đô la, đứng thứ tư trong xuất khẩu nông sản (sau lúa gạo,cao su, cà phê). Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, nên sản lượng xuất khẩu của cà phê, gạo... giảm và giá của các mặt hàng này cũng giảm mạnh. Xét trong nội bộ ngành nông nghiệp ta thấy rằng, trong những năm gần đây tỷ trọng ngành nông nghiệp (bao gồm có lâm và ngư nghiệp) tuy có giảm song tốc độ còn chậm và đến nay vẫn chiếm tỷ lệ áp đảo so với ngành thuỷ sản. Năm 1998 tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm 22,5%, thuỷ sản chiếm 3,2% trong cơ cấu GDP (Biểu 3). * Công nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, bước đầu khai thác lợi thế, tạo ra được một số sản phẩm xuất khẩu khối lượng lớn, chất lượng tăng dần như: dầu thô, khoáng sản, may mặc... Trong thời gian gần đây trong nội bộ ngành công nghiệp thì các ngành nhỏ đã có sự tăng trưởng khá cao, chẳng hạn năm 1997 ngành công nghiệp khai thác mỏ tăng 13,2%, năm 1998 là 14,1%, các ngành còn lại như: công nghiệp chế biến, sản xuất và phân phối khí đốt, năm 1998 có mức tăng trưởng tương ứng là : 11% và 12,3%. Qua số liệu ở bảng 13 ta thấy trong nội bộ ngành công nghiệp thì ngành công nghiệp chế biến là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất, năm 1998 ngành này chiếm 17,3% GDP. Như vậy ngành công nghiệp đã bước đầu hình thành và phát triển nhanh một số ngành thị trường có nhu cầu và đất nước có nguồn lợi để hình thành và phát triển một số ngành mũi nhon. * Các ngành dịch vụ bước đầu đã có sự phát triển đa dạng chất lượng được nâng cao từng bước: - Các loại dịch vụ liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế như: dịch vụ sản xuất, nhập khẩu và dịch vụ thương mại, dịch vụ vận tải, dịch vụ bưu chính viễn thông đã có mức tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng lớn trong nội bộ ngành dịch vụ (bảng 13). Đặc biệt là tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành dịch vụ và thương mại tăng từ 8,3% năm 1991 lên 10,9% năm 1995 và 8,5% năm 1997. Và trong nháng năm gần đây đã xuất hiện thêm loại hình dịch vụ mới đó là dịch vụ làm thuê gia đình, loại hình hoạt động này tuy mới xuất hiện nhưng cũng đã có sự phát triển mạnh và đóng góp và GDP năm 1998 là 0,2%. Tuy nhiên Nhà nước cũng cần có các biện pháp để kiểm soát loại hình hoạt động này nhằm bảo đảm lợi ích cho người lao động cũng như tránh các tiêu cực xảy ra. Tóm lại, qua các số liệu và sự phân tích ở trên chúng ta đều có thể thấy được trong những năm qua trong nội bộ từng ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đã bắt đầu xuất hiện nháng ngành có mức tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng lớn bước đầu hình thành nên những ngành trọng điểm mũi nhọn trong nền kinh tế ở Việt Nam. Bảng 13: Tăng trưởng và cơ cấu GDP thời kỳ 1995-1998 (đơn vị: %) Tăng trưởng kinh tế Cơ cấu kinh tế 1995 1996 1997 1998 1995 1996 1997 1998 GDP (nghìn tỷ đồng) 195,6 213,8 231,3 244,7 228,9 272 313,6 361,5 Tỷ lệ tăng (%) 9,5 9,3 8,2 5,8 100 100 100 100 Khu vực I 5 4,4 4,3 3,5 27,2 27,8 25,8 25,8 - Nông nghiệp & L.nghiệp 4,4 4,4 4,7 3,4 24,3 24,2 22,5 22,5 - Thuỷ sản 8,2 4,1 1 4,3 2,9 3,6 3,2 3,2 Khu vực II 13,3 14,5 12,6 8,6 28,8 29,7 32,1 32,6 - CN khai thác mỏ 13,5 13,6 13,2 14,1 4,8 5,6 6,3 6,7 - CN chế biên 13,6 13,6 12,8 11 15 15,2 16,5 17,3 - SX & PP điện khí đốt 18,5 17,8 14,7 12,3 2,2 2,4 2,7 2,9 - Xây dựng 12,7 16,1 11,3 -1 6,9 6,5 6,5 5,8 Khu vực III 10 8,8 7,1 4,9 44,1 42,5 42,2 41,7 - Thương nghiệp và S. Chữa 11,3 9,7 6,9 4,4 16,4 15,9 15,6 15,5 - Khách sạn, nhà hàng 10,1 10,2 7 4,5 3,8 3,6 3,6 3,4 - Vận tải, kho bãi, thông tin 9,7 7,4 8,9 4 4 3,8 4 3,9 - Tài chính & tín dụng 14,2 11,4 4,3 4,4 2 1,9 1,7 1,7 - Hoạt động KHCN 7,8 6,8 3,4 5,4 0,6 0,6 0,6 0,6 - KD TS và DV tư vấn 6,6 6,2 7,1 5 5,4 5 4,9 4,9 -QLNN,ANQP,B.Đảm XH 8,9 7 4 3 3,6 3,5 3,3 3,3 - Giáo dục và đào tạo 7,3 8 7,1 6,9 3,6 3,6 3,6 3,7 - Y tế và hoạt động cứu trợ 9,1 7 4 7,5 1,6 1,5 1,4 1,4 - Hoạt động văn hoá - TT 7,6 8,3 9,9 7,9 0,6 0,6 0,6 0,6 -Hoạt động Đảng, đoàn thể 8 14,8 23,3 19,3 0,1 0,1 0,1 0,2 - Hoạt động phục vụ 9,1 11,7 15,6 8,6 2,2 2,3 2,5 2,4 - HĐ làm thuê gia đinh 6,2 9,4 5,1 5,9 0,2 0,2 0,2 0,2 Nguồn niên giám thống kê 2.2.1.3. Cơ cấu kinh tế ngành đã chuyển dịch dần theo hướng hướng vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu. Trong những năm đổi mới vừa qua nền kinh tế Việt Nam vẫn mang nặng tính chất hướng nội, thay thế nhập khẩu nhưng về mặt chủ trương và biện pháp thực hiện đã coi trọng hướng vào xuất khẩu. Từ năm 1991 đến năm 1995 bình quân kim ngạch xuất khẩu đạt 16,9 tỷ USD. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu đạt 9,3 tỷ USD. Năm 1999 xuất khẩu đạt 11,523 tỷ USD vượt kế hoạch 15,2% và tăng 23,1% so với 1998. Cơ cấu hàng xuất khẩu biến đổi theo hướng tăng chút ít tỷ lệ hàng công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, hàng công nghệ và khoáng sản. Tóm lại, cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua đã có sự chuyển dịch đúng hướng, đẩy nhanh hội nhập và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời phù hợp với quá trình phát triển, cụ thể là tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2.2.2. Nguyên nhân. - Đảng và Nhà nước có chủ trương và các chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Đầu tư vào kinh tế tăng lên, trong đó đầu tư vào công nghiệp chiếm tỷ lệ lớn, một số công trình lớn đã phát huy tác dụng. Tỷ lệ đầu tư vào công nghiệp như sau: năm 1990 là 37,84%, năm 1991 là 41,18%, năm 1992 là 48,14%, năm 1993 là 54,99%, năm 1994 là 37,17%, năm 1995 là 30,58%, năm 1996 là 40,8%, năm 1997 là 39,01% (Nguồn: niên giám thống kê). - Thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài, quy mô vốn đầu tư toàn xã hội tăng từ 15% GDP năm 1991 lên 27% GDP năm 1995. Nhiều ngành có tỷ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài cao là: Công nghiệp 62% tổng giá trị sản xuất, chiếm 25,1% trong tổng giá trị năm 1996. Tiếp đến là ngành kinh doanh khách sạn: 13,7%, kinh doanh bất động sản: 10,9%, vận tải và thông tin liên lạc: 5,3% tổng số vốn. Tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn năm 1988-1998 là 35,4 tỷ USD với 2200 dự án chiếm 33% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. 2.3. Những tồn tại và nguyên nhân. 2.3.1. Những tồn tại. - Sự chuyển dịch cơ cấu giáa ba nhóm ngành lớn và trong nội bộ từng nhóm ngành tuy đúng hướng nhưng diễn ra vẫn còn chậm. Cho đến nay, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của nền kinh tế còn cao (25,8% năm 1999) với cơ cấu cho 3 nhóm ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ là: 33,5%, 25,8% và 40,7% và với tốc độ tăng trưởng tương ứng của 3 nhóm ngành là 6,5%; 5,8% và 2,3% thì còn lâu nước ta mới có thể tiến đến mục tiêu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Nhìn một cách tổng quát, nước ta hiện nay cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp. Cho đến nay, khu vực nông thôn và nông nghiệp (bao gồm cả bộ phận lao động trong công nghiệp nông thôn và dịch vụ phi nông nghiệp) vẫn chiếm khoảng 80% dân số và 72% lực lượng lao động xã hội. Sự ổn định đời sống sản xuất của đất nước còn phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp. - Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở khu vực đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại (năm 1995: 9,54%, năm 1996: 9,34%, năm 1997: 8,155, năm 1998: 5,8% và năm 1999: 4,5%). - Trong lĩnh vực nguồn lực yếu tố vốn quá được chú trọng đôi khi đến mức lạm dụng, trong khi lao động, vốn được coi là nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội, lại chưa được coi trọng đúng mức. Điều đáng nói ở đây là sự bất cập về trình độ của lực lượng lao động xã hội so với yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chúng ta thường coi sức lao động với giá thấp ở nước ta là một lợi thế để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng trong điều kiện tiến bộ khoa học - kỹ thuật ngày nay, nhiều ngành công nghiệp có hàm lượng vốn và công nghệ ngày càng cao, đòi hỏi lao động phải được trang bị tốt về trình độ và phong cách làm việc. Bởi vậy, trong khi lao động nông nghiệp tiếp tục dư thừa thì vẫn thiếu những người lao động có khả năng làm việc tốt trong các ngành công nghiệp và dịch vụ theo tiêu chuẩn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chịu tác động của cơ chế thị trường với lợi ích trước mắt là chủ yếu, mà thiếu các chiến lược và quy hoạch có luận cứ khoa học và tính khả thi. - Chưa hình thành rõ các ngành trọng điểm và mũi nhọn. Ngay khái niệm về ngành trọng điểm và ngành mũi nhọn chưa có sự thống nhất và sự lựa chọn ngành mũi nhọn vẫn chưa cụ thể. - Công nghiệp chế biến còn nhỏ bé. Công nghiệp chế biến bao gồm: chế biến nông, lâm, hải sản, chế biến kim loại, sản xuất hoá chất, khoảng sản ở trình độ thấp, nhỏ bé chưa phát triển. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu, nguyên liệu thô chiếm 70%, trong đó các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là: dầu thô, gạo, cà phê hạt, cao su nguyên liệu, hàng thuỷ sản sơ chế và hàng dệt may gia công. Công nghiệp lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử, tỷ lệ nội địa hoá còn thấp (10%) công nghiệp sản xuất thép đi từ quặng còn ít. - Công nghiệp nông thôn còn nhỏ bé, phát triển trong tình trạng bế tắc. Tỷ trọng lao động hoạt động trong công nghiệp nông thôn chiếm khoảng 9,5% -11% giá trị tổng sản lượng các ngành sản xuất. - Chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của sản phẩm yếu, do vậy khả năng tăng trưởng kém và hậu quả tất yếu là cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và kém hiệu quả. - Một đặc điểm và đồng thời cũng là một yếu kém trong thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta thời gian qua là xuất phát điểm của sự chuyển dịch rất thấp, thực chất còn ở giai đoạn sơ khai của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, song tư tưởng nóng vội muốn lợi dụng ưu thế của nước đi sau để đốt cháy giai đoạn làm cho bức tranh chuyển dịch cơ cấu nước ta có phần hỗn tạp, pha trộn. 2.3.2. Nguyên nhân. - Trình độ và tích chất phát triển công nghiệp còn thấp so với thế giới và khu vực. Ví dụ: chỉ tiêu tiêu thụ năng lượng theo đầu người (đơn vị TOE/capitan) của Việt Nam so với một số nước đã chỉ rõ năm 1993, Brunây: 1,97, Malaixia: 0,96, Xingapo 0,95, Thái Lan 0,25, Việt Nam 0,08 (năm 1996 Việt Nam 0,11). - Thiếu chiến lược và quy hoạch cụ thể có đủ luận chứng kinh tế kỹ thuật có tính khả thi làm cơ sở cho định hướng phát triển. - Cơ cấu ngành chưa có sự kết hợp chặt chẽ theo mục tiêu thống nhất với cơ cấu theo thành phần. Ngoài ra, tính tự phát trong phát triển kinh tế còn nặng nề. - Do nguồn lực tài chính hạn hẹp và sự phân bố thiếu hợp lý của nguồn lực này làm cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa rõ nét và hợp lý để hình thành lên các ngành trọng điểm mũi nhon. Tóm lại, trực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta thời gian qua tuy đã đạt được các thành tựu, góp phần tạo đà tăng trưởng kinh tế nhanh và tương đối ổn định. Song cũng phát sinh nhiều vấn đề cần được tiếp tục tháo gỡ, nhất là trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế. Chương 3 Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình phát triển ở Việt Nam 3.1. Một số quan điểm và định hướng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình phát triển ở Việt Nam. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân trong nháng năm qua ở nước ta về cơ bản là tích cực, đúng hướng. Song bên cạnh đó, vẫn tồn tại nhiều vấn đề nổi cộm làm chậm quá trình chuyển dịch đó. Để đến năm 2020 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp tức là cơ cấu kinh tế ngành của ta lúc đó phải có đặc điểm là : công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn (40%) và giá vai trò "đầu tầu" trong nền kinh tế. Khi đó theo lý thuyết phát triển của Rostow thì Việt Nam đang ở giai đoạn cất cánh hoặc giai đoạn trưởng thành. Để thực hiện được điều đó, chúng ta cần tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tế hiện nay có một số định hướng và quan điểm sau: 3.1.1. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải tiến tới một cơ cấu hợp lý, đó là một cơ cấu đa ngành, trong đó hình thành các ngành trọng điểm mũi nhọn. - Tập trung sức phát triển mạnh và toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn liền với chế biến sản phẩm bằng công nghệ ngày càng tiến bộ, hiện đại. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh diện tích và sản lượng cây công nghiệp,cây ăn quả, từng bước công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, đẩy nhanh thuỷ lợi hoá, từng bước cơ giới hoá, điện khi hoá và ứng dụng rộng rãi khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Tăng thu nhập, tăng sức mua của dân cư trên thị trường nông thôn, tạo cơ sở cho thị trường đầu ra của công nghiệp phát triển với nhịp độ nhanh trong cơ cấu ngành kinh tế. - Trong các ngành công nghiệp, nổi lên hàng đầu là vai trò của công nghiệp chế tạo và chế biến phát triển nhanh một số ngành, một số lĩnh vực có lợi thế như: chế biến lương thực, thực phẩm công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo. - Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất và đời sống kinh doanh. 3.1.2. Kết hợp tối ưu giá cơ cấu ngành với cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế: - Cơ cấu ngành phải kết hợp với cơ cấu thành phần kinh tế thể hiện ở: chiến lược và chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, trong đó nhấn mạnh vai trò kinh tế của Nhà nước. - Cơ cấu ngành gắn liền với cơ cấu vùng thông qua các biện pháp: + Xây dựng các khu công nghiệp (trong đó có khu chế xuất), các trung tâm công nghiệp, các cụm doanh nghiệp để tạo động lực cho phát triển kinh tế và coi đó là phương tiện để thực hiện đô thị hoá nông thôn. + Đi đôi với phát triển kinh tế thành thị và công nghiệp trung ương cần phát triển công nghiệp địa phương và công nghiệp nông thôn theo hướng phát huy thế mạnh của mỗi vùng, mỗi địa phương, thực hiện phân công lao động tại chỗ, gắn công nghiệp với nông nghiệp. Công nghiệp địa phương và công nghiệp nông thôn phải nằm trong chiến lược quy hoạch phát triển chung công nghiệp của cả nước. 3.1.3. Hình thành và phát triển các ngành trọng điểm và mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Ngành trọng điểm là ngành: + Có vai trò, vị trí quan trọng với nền kinh tế quốc dân, phát triển các ngành này thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế quốc dân. + Có khả năng và lợi thế phát triển. + Có hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cao, thể hiện là ngành có hệ số ICOR thấp. + Đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. + Có khả năng phát triển hiện tại và lâu dài. Ngành trọng điểm có thể là những ngành mới, nháng ngành truyền thống, những ngành gặp thuận lợi, những ngành gặp khó khăn trong sự phát triển, những ngành hướng về xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu. Như vậy, phạm vi đối tượng của ngành trọng điểm tương đối rộng, miễn là nó nằm trong sự ưu tiên phát triển của Nhà nước. Với quan niệm như vậy, trong thời kỳ 2000-2010 ngành kinh tế trọng điểm có thể là các ngành: điện lực, than, trồng lúa, chăn nuôi, lâm nghiệp, du lịch, lắp ráp sản xuất ô tô - xe máy, xi măng, hoá chất cơ bản, cơ khí, sản xuất thép, các ngành chế biến lương thực, thực phẩm (như: mía, chè, cà phê, bánh kẹo...) - Ngành mũi nhọn là ngành đáp ứng các tiêu chuẩn sau: + Là ngành có ý nghĩa quan trọng, sự phát triển của nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển các ngành khác của nền kinh tế quốc dân. + Là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. + Là ngành có tốc độ tăng trưởng vượt trội các ngành khác. + Là ngành có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, thể hiện ở hệ số ICOR thấp, tỷ lệ lợi nhuận cao, giải quyết đựoc nhiều việc làm. + Là ngành phát huy lợi thế so sánh của đất nước, là ngành đại diện cho tiến bộ khoa học - công nghệ. + Là ngành tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách. + Là ngành hướng về xuất khẩu và có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều kiện công nhận ngành mũi nhọn khó khăn hơn so với ngành trọng điểm. Nên kinh tế phải phát triển đến một trình độ nào đó mới có ngành kinh tế mũi nhọn. Xung quanh vấn đề đã hình thành ngành kinh tế mũi nhọn ở nước ta chưa? và nháng ngành nào là ngành kinh tế mũi nhọn ở nước ta, hiện nay ý kiến còn khác nhau. Theo một số chuyên gia kinh tế giai đoạn 2000-2010 các ngành kinh tế sau đây có thể được chọn là ngành mũi nhọn: công nghiệp điện tử và tin học, công nghiệp dệt may, khai thác và chế biến thuỷ sản, khai thác và lọc dầu. 3.2. Một số giải pháp. Xuất phát từ kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một số nước trong khu vực và các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển. Theo em, cần tập trung vào một số vấn đề sau đây nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 3.2.1. Cần lựa chọn mô hình phát triển hợp lý, nâng cao chất lượng các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành. - Gắn chiến lược phát triển ngành với chiến lược sản phẩm và chiến lược thị trường của các doanh nghiệp thuộc ngành. - Đánh giá đầy đủ nguồn lực, cơ hội, thách thực, khả năng cạnh tranh. 3.2.2. Phát triển mạnh mẽ thị trường. - Phát triển đồng bộ các loại thị trường: sản phẩm, nguyên vật liệu, công nghệ, thông tin, lao động, vốn - bao gồm cả thị trường chứng khoán. - Nhà nước và doanh nghiệp đều phải có trách nhiệm phát triển thị trường trong nước và nước ngoài. 3.2.3. Đầu tư, chuyển dịch cơ cấu đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư. - Đầu tư có trọng điểm, tránh tràn lan. Hướng ưu tiên là đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng và đầu tư cho các ngành trọng điểm, mũi nhọn. - Chuyển hướng từ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều sâu trong tất cả các ngành kinh tế, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật mới và thiết bị máy móc mới vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. 3.2.4. Đổi mới và phát triển công nghệ. - Tập trung đổi mới công nghệ cho một số ngành kinh tế mũi nhọn: khai thác chế biến dầu khí, điện tử - tin học, chế biến thuỷ sản, dệt may. - Đi ngay vào công nghệ tiên tiến hiện đại với một số ngành có nhu cầu, có điều kiện và khả năng như: bưu chính viễn thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. - Đối với vùng nông thôn rộng lớn cần hiện đại hoá công nghệ truyền thống và áp dụng các công nghệ phù hợp. 3.2.5. Về cơ sở hạ tầng: Phát triển và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng nhất là điện và đường giao thông, tạo điều kiện để đưa khoa học - kỹ thuật thông tin thị trường đến người sản xuất, gắn công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp. 3.2.6. Về chính sách vĩ mô: Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, trước hết là chính sách tài chính, tiền tệ. Vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế trị trường chủ yếu nhờ vào việc sử dụng chính sách tài chính. Thông qua chính sách này Nhà nước có thể tăng thuế đối với nháng ngành, nghệ, lĩnh vực không cần thiết; ngược lại, giảm hoặc miễn thuế đối với những ngành nghề, dịch vụ thực sự có ích cho nền kinh tế quốc dân, phục vụ đắc lưc cho quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 3.2.7. Về quan hệ quốc tế: Phát triển kinh tế đối ngoại trên tất cả các ngành và lĩnh vực: thương mại, đầu tư, hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế, nhằm mở rộng thị trường, thu hút vốn, khoa học công nghệ mới và kinh nghiệm phục vụ yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta cần nhiều vốn. Vì vậy, chúng ta cần tận dụng thời cơ thu hút các nguồn vốn đầu tư, viện trợ, cho vay ưu đãi của các nước và tổ chức quốc tế. Trong khi tranh thủ và tập trung thu hút nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức ODA, vốn vay của ADB, WB, cần chú ý sử dụng nguồn vốn đó có hiệu quả. Thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào những ngành và vùng trọng điểm có tác dụng thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế cả nước, như công nghiệp, du lịch, xây dựng cơ sở hạ tầng và chuyển giao công nghệ, muốn vậy, cần đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép và miễn giảm thuế vào nháng ngành và vùng cần thu hút vốn FDI. Kết luận Ngày nay, trong chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới thì yếu tố chuyển dịch cơ cấu kinh tế chiếm một vị trí tương đối quan trọng. Thực tế cho thấy nhiều nước trên thế giới đã có sự tăng trưởng cao nhờ lựa chọn cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lý như: NICs, Nhật Bản,... đối với Việt Nam qua hơn 10 năm đổi mới các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển biến cơ bản. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,67% năm 1990 tăng lên 33,5% năm 1999, tỷ trọng ngành dịch vụ từ 38,59% năm 1990 tăng lên 40,7% năm 1999, còn tỷ trọng nông nghiệp từ 38,74% năm 1990 giảm xuống còn 25,8% năm 1999.. Nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2000 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp như Đại hội VIII đã đề ra. Tuy nhiên trong quá trình phát triển cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam vẫn còn một số những tồn tại cần được giải quyết. Đề án đã trình bày một số nguyên nhân của tình trạng trên và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp mong đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của T.S Nguyễn Thị Ngọc Huyền và giáo viên trong Khoa. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Do trình độ và thời gian có hạn, nên đề án không tránh khỏi những thiếu xót. Mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô để bài viết sau hoàn chỉnh hơn./. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình "Quản lý kinh tế" - NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 1999. 2. Giáo trình "Kinh tế phát triển" - NXB Thống kê, Hà Nội 1997. 3. Cerard Crellet - Cơ cấu và chiến lược phát triển, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội 1989. 4. Ngô Đình Giao - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân - NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1992. 6. Đỗ Hoài Nam - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trọng điểm mũi nhọn ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1996. 7. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. 8. Tạp chí Kinh tế phát triển. 9. Tạp chí Phát triển kinh tế. 10. Tạp chí Thông tin lý luận. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0334.doc
Tài liệu liên quan