Đề tài Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý, Phân tích khái quát cơ cấu đầu tư ở Việt Nam

Lời mở đầu Đầu tư phát triển là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã hội vì hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực; đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí; bảo vệ môi trường sinh thái và đưa các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác vào cuộc sống. Hoạt động đầu tư phát triển có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện cùng với sự tác động của nhiều nhân tố . Chính sự khác nhau đó tạo nên cơ cấu đầu tư. Vì vậy có thể nói cơ cấu đầu tư là khung xương của đầu tư phát triển. Cơ cấu đầu tư có hợp lý và vững chắc thì hoạt động đầu tư phát triển mới có thể đạt được hiệu quả cao. Do nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển cũng như cơ cấu đầu tư hợp lý như vậy nên trong những năm vừa qua đã có nhiều chính sách và giải pháp khơi dậy nguồn nội lực và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để huy động vốn cho đầu tư phát triển, tuỳ vào từng điều kiện bên trong và bên ngoài mà xây dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Tuy vậy, việc thu hút, sử dụng và phân bổ vốn đầu tư phát triển vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, cơ cấu đầu tư chưa tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư đạt hiệu quả cao nhất đòi hỏi phải có những giải pháp và tầm nhìn dài hạn để khắc phục. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng em xin mạnh dạn đưa ra một vài nhận xét và giải pháp chủ quan của mình nhưng do khả năng có hạn, chúng em không tránh khỏi những sai lầm thiếu sót, mong các thầy cô thông cảm và góp ý cho chúng em. Tài liệu tham khảo i. Giáo trình Kinh tế đầu tư – Bộ môn Kinh tế đầu tư, trường Đại học KTQD ii. Bộ tài chính - Ủy ban Kinh tế và ngân sách quốc hội iii. Một số luận cứ khoa học chuyển dịch cơ cấu đầu tư - Đề tài nghiên cứu cấp bộ. Bộ môn Kinh tế đầu tư, trường đại học kinh tế quốc dân. iv. Thời báo kinh tế Việt Nam v. Niên giám thống kê – Tổng cục thống kê. vi. www. Cia.gov vii. www. mof.gov.vn viii. WB – Báo cáo phát triển Việt Nam ix. WB – Hội nghị các nhà tư vấn tài trợ cho Việt Nam x. Việt báo.com xi. Tài liệu hội thảo “ Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước“ xii. Webbste: Đảng Cộng sản Việt Nam xiii. Báo Nhân dân xiv. Bộ Kế hoạch và đầu tư.

doc45 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1764 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý, Phân tích khái quát cơ cấu đầu tư ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2,01 1,27 2,49 Công ty cổ phần 0,76 1,95 1,26 1,24 Công ty mẹ - con 0,01 0,12 0,23 0,05 Tổng số 100 100 100 100 d) Đầu tư n ước ngoài phân theo đối tác đầu tư Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “ Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác…Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký . Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam. Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD. Trong nhưng năm đầu 90 thực hiện Luật Đầu tư, chủ yếu là dự án quy mô nhỏ và từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan. Cho tới hết năm 2007, vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn từ các nước châu Á mặc dù Đảng và Chính phủ đã có Nghị quyết 09 đã đề ra ba định hướng thu hút ĐTNN. 2.2. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức – ODA. a) Tình hình cam kết vốn ODA cho Việt Nam ODA là nguồn vốn quan trọng của ngân sách Nhà nước, được sử dụng để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ưu tiên. Ngày 9/11/1993, Hội nghị quốc tế các nhà tài trợ dành cho Việt Nam đã khai mạc tại Paris, đây là sự kiện đánh dấu sự hội nhập của Việt Nam với cộng đồng tài trợ quốc tế. Thông qua 14 Hội nghị CG (Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam), các nhà tài trợ đã cam kết ODA cho nước ta với tổng lượng đạt 37,011 tỷ USD. Mức cam kết năm sau cao hơn năm trước và đạt đỉnh điểm trong năm 2006 (4,4 tỷ USD). Trong thời kỳ 1993-2006, tổng giá trị ODA cam kết là 37,011 tỷ USD; tổng vốn ODA ký kết đạt khoảng 27,810 tỷ USD, tương đương 75% tổng vốn OĐA cam kết; tổng vốn ODA giải ngân đạt xấp xỉ 17,684 tỷ USD, tương đương 63,54% tổng vốn ODA ký kết. ODA được cung cấp theo dự án hoặc chương trình dưới hình thức viện trợ không hoàn lại và vay ưu đãi. Khoảng 15 - 20% số vốn ODA cam kết nói trên là viện trợ không hoàn lại, hầu hết là các dự án hỗ trợ kỹ thuật, còn lại một phần nhỏ là các dự án đầu tư xây dựng quy mô nhỏ và phi dự án (viện trợ hàng hóa). Các khoản vay ưu đãi tập trung cho các dự án đầu tư xây dựng, trong đó có các dự án cấp quốc gia với giá trị hàng trăm triệu đô la Mỹ. Ngoài ra, còn có các khoản vay theo chương trình gắn với việc thực hiện khung chính sách, như khoản vay thể chế tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo của IMF, chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo của WB. Bảng 9 : Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 2000 – 2007 Đơn vị: Triệu USD Năm Cam kết Ký kết Giải ngân 2000 2.400,50 1.772,02 1.650 2001 2.399,10 2.427,42 1.500 2002 2.462,00 1.826,17 1.528 2003 2.838,40 1.772,98 1.422 2004 3.440,70 2.569,22 1.650 2005 3.748,00 2.529,11 1.782 2006 4.445,60 2.824,58 1.785 2007 5455 3.122,47 2130 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Sau thành công của Hội nghị Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam giữa kỳ tổ chức tại Nha Trang vào tháng 6 năm 2006, Hội nghị CG thường niên tháng 12 năm 2006 được đánh giá là Hội nghị thành công nhất từ trước đến nay trước bối cảnh Việt nam bước vào một giai đoạn phát triển mới. Tại Hội nghị này, Thủ tướng Chính phủ đã đối thoại trực tiếp với các nhà tài trợ trên tinh thần thẳng thắn, mang tính xây dựng về những vấn đề cùng quan tâm như thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010, phát triển xã hội và môi trường bền vững, xây dựng nền tảng pháp luật và thể chế, hội nhập quốc tế và khu vực, hài hoà thủ tục và nâng cao hiệu quả viện trợ... Các nhà tài trợ đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Tại Hội nghị này Việt Nam và các nhà tài trợ đã thông qua mức cam kết ODA kỷ lục, cao nhất từ trước đến nay là 4,445 tỷ USD và cho thấy xu thế gia tăng liên tục nguồn vốn ODA cam kết trong suốt thời gian qua. b)Cơ cấu vốn ODA theo nhà tài trợ Hiện nay có 28 nhà tài trợ song phương, trong đó có 24 nhà tài trợ cam kết ODA thường niên (úc, Bỉ, Canađa, Séc, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Italy, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lux-xem-bua, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Thái Lan, Anh, Hoa Kỳ, Ailen, ); 4 nhà tài trợ không cam kết ODA thường niên (áo, Trung Quốc, Nga, Singapore) mà cam kết ODA theo từng dự án cụ thể. Ví dụ, gần đây Trung Quốc cam kết cung cấp 85 triệu USD vốn vay ưu đãi để thực hiện dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn. Hiện có 23 tổ chức tài trợ ODA đa phương cho Việt Nam, bao gồm ADB, WB, JBIC, KFW, AFD, (nhóm 5 ngân hàng), Uỷ ban Châu Âu (EC), Quỹ các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), Quỹ Kuwait, Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP), Quỹ Dân số Thế giới (UNFPA), Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) và Quỹ Đầu tư phát triển của Liên hiệp quốc (UNCDF), IMF. Bảng 10 : Số vốn ODA cam kết của 10 nhà tài trợ hàng đầu cho việt Nam Đơn vị: Triệu USD Nhà tài trợ Số lượng vốn cam kết Nhật Bản 8.469,73 WB 5.329,82 ADB 2.900,97 Pháp 912,26 Đức 597,35 Đan Mạch 549,48 Thuỵ Điển 412,83 Trung Quốc 301,08 Ôxtrâylia 282,32 EU 269,83 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Ngoài ra còn có trên 350 NGOs ( các tổ chức phi chính phủ ) hoạt động tại Việt Nam, cung cấp bình quân một năm khoảng 100 triệu USD viện trợ không hoàn lại. Trong số các nhà tài trợ, có 3 nhà tài trợ có quy mô cung cấp ODA lớn nhất là Nhật Bản, WB và ADB, chiếm trên 70% tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA được ký kết trong thời kỳ 1993 - 2006, trong đó Nhật Bản chiếm trên 40%. Bảng 11 : Cơ cấu ODA theo vùng của các nhà tài trợ đa phương và UNDP ( trương trình phát triển LHQ ) Đơn vị tính: Triệu USD Vùng Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB) Ngân hàng Thế giới (WB) Chương trình Phát triển Liên Hiệp quốc (UNDP) Tây Nguyên 50,81 70,29 Đồng bằng sông Cửu Long 135,71 434,61 Miền núi trung du phía bắc 137,14 133,58 4,62 Đồng bằng sông Hồng 239,23 210,31 2,08 Bắc Trung Bộ 273,08 209,83 1,60 Duyên hải miền Trung 337,10 186,96 14,86 Đông Nam Bộ 409,39 329,25 7,65 Liên vùng 795,03 2.560,19 12,70 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Từ năm 1998, khi Chính phủ và các nhà tài trợ nhất trí tập trung nguồn vốn ODA cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo thì việc phân bổ vốn ODA đã có xu thế cân đối hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, ODA chủ yếu tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là địa bàn thu hút ODA lớn nhất, chiếm gần 30% số vốn ODA ký kết nhưng chủ yếu tập trung vào tam giác kinh tế gồm 3 tỉnh Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Vùng đồng bằng Sông Cửu Long thu hút được một lượng đáng kể vốn ODA và phân bổ tương đối đồng đều giữa các tỉnh trong vùng. Còn vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ không có lợi thế về nhiều mặt, trong đó nguồn vốn ODA thu hút cũng ít. Khoảng 200 dự án với tổng vốn ODA hơn 3 tỷ USD đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, chiếm 14.4% tổng mức ODA cam kết. Các dự án ODA đã góp phần cung cấp nguồn tín dụng cho nông dân, tạo ra các ngành nghề phụ, phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, cung cấp nước sạch, phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học. 2.3. Nguồn vốn huy động qua thị trường vốn quốc tế Để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế, Nhà nước ta rất coi trọng việc huy động nguồn vốn trên thị trường vốn quốc tế. Ngày 25/10/2005, Việt Nam phát hành lượng trái phiếu đầu tiên trị giá 750 triệu USD ra thị trường vốn quốc tế và được đánh giá là khá thành công ( trái phiếu của Vinashin ). Sau đợt phát hành, đã có nhiều doanh nghiệp "nhăm nhe" đưa trái phiếu của mình ra thị trường quốc tế và Bộ Tài Chính luôn khẳng định sẽ hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện kế hoạch phát hành. Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã trình Chính phủ và được đồng ý về nguyên tắc kế hoạch phát hành 800 triệu USD trái phiếu doanh nghiệp (TPdoanh nghiệp) ra thị trường quốc tế. Đầu tháng 6/2007, BTC đã kiến nghị Chính phủ thông qua Nghị quyết phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế với thời hạn từ 15 đến 20 năm (hiện tại được mở rộng thời hạn huy động từ 10 đến 30 năm) cho Tập đoàn Dầu khí, Tổng công ty Hàng hải, Tổng công ty Sông Đà và Lilama vay lại để đầu tư các dự án... Hiện có ba hình thức phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế: thứ nhất, Chính phủ phát hành trái phiếu rồi lựa chọn doanh nghiệp đầu tư (như đã làm với Vinashin); hình thức thứ hai là doanh nghiệp phát hành, Chính phủ bảo lãnh và thứ ba là doanh nghiệp tự phát hành. Theo ý kiến của các chuyên gia, hình thức thứ nhất và thứ hai là phù hợp với các doanh nghiệp VN vì doanh nghiệp có thể dựa vào năng lực và hệ số tín nhiệm của Chính phủ đã được các nhà đầu tư quốc tế công nhận mà không phải thực hiện lại các bước đi phức tạp từ đầu như tiếp xúc với các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm và thực hiện quảng bá, xúc tiến với các nhà đầu tư... Mặc dù nhận thức rõ các lợi ích có thể đem lại từ phát hành trái phiếu quốc tế, song hiện nay, việc phát hành loại trái phiếu này đang gặp phải rất nhiều khó khăn trước mắt. Kế hoạch phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế từ tháng 6/2007 đã bị hoãn lại, và vẫn chưa có doanh nghiệp nào tiếp tục thực hiện được hoạt động này. Sự thận trọng có lẽ bắt nguồn từ bối cảnh kinh tế toàn cầu, đặc biệt là nền kinh tế Mỹ gặp khó khăn, thị trường tài chính quốc tế tạm rơi vào tình trạng trầm lắng khiến các nhà đầu tư Mỹ cũng như các nước khác có phần dè dặt hơn trong việc tham gia đầu tư vào trái phiếu của các quốc gia khác. Về phía bản thân các chủ thể trong nước, rõ ràng, để phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế thì hiện tại doanh nghiệp vẫn đang gặp các trở ngại nhất định về định giá hệ số tín nhiệm, về năng lực tài chính, về khâu kiểm toán... Điều quan trọng nhất lúc này là các doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị tất cả các điều kiện phát hành và chờ đến khi thị trường phục hồi trở lại sẽ chớp lấy thời cơ. doanh nghiệp Việt Nam phải xác định được nhà đầu tư vào trái phiếu là ai để công bố công khai kế hoạch phát hành, mục đích huy động vốn, tình hình hoạt động... một cách minh bạch. Đây là điều kiện tối cần thiết để đẩy nhanh tiến trình thâm nhập thị trường vốn quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó tạo tiền lệ mở đường cho phát hành cổ phiếu và niêm yết quốc tế. 2.4.Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế Trong tình hình nguồn vốn ODA có nguy cơ biến mất khi Việt Nam đạt mục tiêu thoát khỏi nhóm các nước nghèo vào năm 2010. Việc tìm nguồn vốn mới thay thế nguồn vốn này là một nhu cầu cấp thiết, đòi hỏi phải xúc tiến ngay, trong đó nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế cũng được tính đến. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận với nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế, chúng ta vẫn chưa có những chính sách rõ ràng trong việc thúc đẩy huy động và sử dụng nguồn vốn này. Trong hai năm 2007 – 2008, diễn biến kinh tế vĩ mô của Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt là lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán điều chỉnh sâu và kéo dài, một số quỹ đầu tư có biểu hiện rút vốn ra khỏi thị trường chứng khoán, đặc biệt là bán ra một lượng đáng kể trái phiếu  thì khối chi nhánh ngân hàng nước ngoài lại tiếp tục đầu tư mạnh vốn vào nền kinh tế Việt Nam. Việc đầu tư này bao gồm cả cho vay vốn trực tiếp các dự án, các khách hàng đang hoạt động tại Việt Nam, việc đầu tư vốn thông qua nâng tỷ lệ sở hữu tại các định chế tài chính của Việt Nam lẫn việc mở chi nhánh mới. Điều này cho thấy tầm nhìn dài hạn cũng như những đánh giá độc lập vào tương lai của nền kinh tế Việt Nam trong cả trung và dài hạn. Thế mạnh lớn nhất của khối ngân hàng nước ngoài là hoạt động ngoại tệ, thể hiện rõ nhất  là vốn ngoại tệ. Từ đầu năm 2008 đến nay, thị phần tín dụng ngoại tệ của khối chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam tiếp tục tăng nhanh. Số liệu thống kê từ 26 ngân hàng nước ngoài với 36 chi nhánh đang hoạt động tại Việt Nam được công bố mới đây cho thấy, tính đến hết tháng 8/2008, dư nợ cho vay vốn bằng ngoại tệ của khối ngân hàng này đã tăng 77% so với cùng kỳ năm 2007.  Mức tăng này được đánh giá là cao nhất trong toàn hệ thống ngân hàng ở Việt Nam (mức tăng chung là 25,8%). Dư nợ cho vay vốn ngoại tệ của khối chi nhánh ngân hàng nước ngoài chiếm 30,2% tổng dư nợ cho vay của toàn bộ các NHTM và TCTD đang hoạt động tại Việt Nam. Mặc dù mức tăng dư nợ có tốc độ cao nhưng chất lượng tín dụng của khối chi nhánh ngân hàng nước ngoài vẫn rất tốt, nợ không đủ tiêu chuẩn của khối này chỉ chiếm 1,1% tổng nợ USD. Nguyên nhân dư nợ ngoại tệ tăng nhanh trước hết là do nhu cầu của khách hàng đang hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng vay vốn ngoại tệ của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chủ yếu là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Trong 8 tháng đầu năm 2008, số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng tới mức kỷ lục, đạt con số cao nhất từ trước tới nay. Số vốn đó triển khai thực hiện tại Việt Nam có tỷ trọng lớn là vay tại chính các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.  Tiếp đến là các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, nhưng đều là khách hàng có uy tín, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thị trường tiêu thụ bền vững. Số vốn USD này của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài giúp các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng nguồn hàng xuất khẩu. Nguyên nhân thứ hai là do nguồn vốn ngoại tệ của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong 8 tháng đầu năm vẫn rất dồi dào, không bị ảnh hưởng bởi vấn đề thanh khoản như vốn nội tệ của các ngân hàng trong nước. Nguồn vốn ngoại tệ này, ngoài việc huy động tại Việt Nam,  chiếm tỷ trọng khá là huy động từ nước ngoài để cho vay các doanh nghiệp tại Việt Nam. Nguyên nhân thứ ba là dư nợ cho vay nói chung và dư nợ cho vay ngoại tệ nói riêng của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không bị khống chế bởi hạn mức tín dụng, đó là tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay của số đông NHTM trong nước không được vượt quá 30% trong năm 2008 để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát của Chính phủ. Nên trong khi các NHTM trong nước hạn chế cho vay thì khối chi nhánh ngân hàng nước ngoài tiếp tục mở rộng cho vay vốn ngoại tệ các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có uy tín và đáp ứng được các điều kiện vay vốn ngoại tệ theo quy định. Nguyên nhân thứ tư là lãi suất cho vay vốn USD, các doanh nghiệp ở Việt Nam thời gian qua có nhiều thời điểm lên trên 10%/năm, hiện nay bình quân cũng xoay quanh mức 8%/năm, một số khoản vay bao gồm cả gói dịch vụ có lãi suất thấp hơn, bình quân gấp gần 3 lần lãi suất trên thị trường tiền tệ quốc tế, cụ thể là lãi suất Libor và Sibor hiện nay chỉ xoay quanh khoảng 3%/năm. Bởi vậy trong khi các NHTM trong nước cho vay với lãi suất cao, thì các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đưa ra mức lãi suất thấp hơn, hấp dẫn hơn, nhưng có khoảng cách khá so với lãi suất trên thị trường quốc tế. 2.5. Mối quan hệ giữa đầu tư trong nước và nước ngoài, những bất hợp lý còn tồn tại Trong tình hình triển khai các dự án nước ngoài hiện nay, vốn góp bằng tiền hoặc bằng hiện vật của phía Việt Nam là rất ít, trong đó giá trị vốn góp chủ yếu là quyền sử dụng đất chiếm 90%, 8 – 9% là giá trị nhà xưởng, tài sản khác và tiền chỉ co 1 -2%. Giá nhà đất ở Việt Nam hiện nay quá cao cũng là một nguyên nhân khiến các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại. Vì vậy Việt Nam cần phải có biện pháp mở rộng vốn đối ứng từ phía các doanh nghiệp Việt Nam: Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cho phép các doanh nghiệp nâng cao khả năng tài chính để góp vốn với các lien doanh nước ngoài thay vì chủ yếu dựa vào quyền sử dụng đất như hiện nay. II. Cơ cấu vốn đầu tư. 1. Đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN Đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn NSNN chiếm tỷ trọng cao nhất. Đây là cốt lõi của đầu tư phát triển toàn xã hội, có vai trò quan trọng trong việc định hướng các thành phần kinh tế với các loại nguồn vốn ngoài NSNN để đầu tư phát triển phục vụ các mục tiêu KT – XH đã được Đảng và Nhà nước xác định trong qua trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Bảng : tỷ lệ đầu tư XDCB trong tổng chi NSNN. ( đơn vị : tỷ đồng ) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Chi ĐTPT 29624 40236 45218 59629 66115 79199 88341 Chi XDCB 26211 36139 40740 54430 61746 72842 81078 Tỷ lệ ( % ) 88,42 89,81 90,09 91,28 93,39 91,97 91,78 Nguồn : Tổng cục thống kê Căn cứ vào bảng trên ta thấy, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản không ngừng tăng lên cả về giá trị tương đối và tuyệt đối . Nếu như năm 2002 vốn XDCB là 26211 tỷ đồng ( 88,42% ) thì đến năm 2006 đã tăng lên hơn 3 lần ( 81087 tỷ đồng). Tuy nhiên trong thời gian qua, do quá chú trọng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã tập trung đầu tư quá nhiều cho cơ sở hạ tầng nên dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún, đồng thời nảy sinh nhiều vấn đề về hiệu quả kinh tế - xã hội, thất thoát lãng phí lớn. Điều này dẫn đến bố trí vốn cho các dự án đầu tư vượt quá khả năng. Theo báo cáo của Viện Khoa học tài chính dẫn nguồn Kiểm toán Nhà nước năm 2007, đã có rất nhiều dự án phải kéo dài thời gian đầu tư hơn so với quy định. Một số dự án chuyển tiếp không được bố trí vốn như Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 14 dự án đang được thực hiện đầu tư có nhu cầu vốn 636 tỉ đồng nhưng không được giao vốn năm 2006. Có dự án khối lượng dở dang lớn như dự án mở rộng, cải tạo trụ sở Bộ Công thương triển khai từ năm 2002 đến nay chưa hoàn thành. Liên đoàn Lao động VN duyệt 17 dự án năm 2003, tổng dự toán 191 tỉ đồng nhưng không có nguồn vốn đảm bảo nên hầu hết không triển khai được. Dự án xây dựng trường Đại học KTQD, khi thiết kế không tuận thủ tiêu chuẩn xây dựng gây lãng phí ngân sách hàng tỷ đồng ... 2. Vốn đầu tư cho giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ Bảng : Tỷ trọng vốn đầu tư cho GD – ĐT và KHCN Đơn vị % Năm GD - ĐT KH - CN Tổng 2000 4.02 1.25 5.27 2001 3.65 1.14 4.79 2002 2.94 0.35 3.29 2003 2.98 0.65 3.63 2004 2.96 0.62 3.58 2005 2.94 0.68 3.62 2006 3.27 0.63 3.9 2007 2.76 0.63 3.39 Dựa vào bảng số liệu trên ta thấy tỷ trọng vốn đầu tư dành cho KH – CN và GD – ĐT vẫn còn khá khiêm tốn và chưa tương xứng với mức độ quan trọng của lĩnh vực này trong nền kinh tế quốc dân. Trong một số năm gần đây,đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo tăng lên đáng kể mặc dù tỷ trọng của nó trong cơ cấu đầu tư không tăng.Chi cho giáo dục và đào tạo chủ yế từ các nguồn ngân sách nhà nước( chiếm 18% tông chi NSNN ); và đã huy động được nhiều nguồn vốn khác để phát triển giáo dục thông qua việc phát hành công trái giáo dục, đóng góp của dân cư, của doanh nghiệp, vốn từ bên ngoài. Cơ sở vật chất của ngành đã được tăng cường, đặc biệt là đối với vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Khoa học công nghệ đã tập trung hơn vào nghiên cứu ứng dụng, phục vụ các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều thành tựu khoa học công nghệ mới được ứng dụng trong các ngành xây dựng, công nghiệp, nông nghiệp..., đã tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng cao, có sức cạnh tranh, phục vụ xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. III. Cơ cấu đầu tư theo ngành. Nhìn chung cơ cấu đầu tư theo ngành chưa có nhiều chuyển biến tích cực nên hệ quả của đầu tư chưa phải mức thoả đáng. Ngành công nghiệp có chuyển biến tích cực với tỷ trọng tăng từ 22% lên xấp xỉ 40%. Ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn, phù hợp và tạo thuân lợi cho việc thực hiện công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên ngành nông nghiệp chưa được đầu tư thoả đáng nên chưa có chuyển biến nhiều, hệ quả của đầu tư đối với sự chuyển biến của ngành nông nghiệp đó là hình thành nên một số ngành mới, lĩnh vực mới. Vốn đầu tư thực tế phân theo ngành kinh tế Đơn vị: tỷ đồng Ngành, lĩnh vực 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Nông, lâm nghiệp 17218 13629 14605 17077 18113 20079 22323 24853 Thủy sản 3715 2513 2934 3143 4850 5670 7764 9047 Công nghiệp khai thác mỏ 9588 8141 7964 11342 22477 26862 30963 46982 Công nghiệp chế biến 29172 38141 45337 51060 58715 68297 80379 98019 Công nghiệp điện 16983 16922 20943 24884 31983 37743 43550 61770 Xây dựng 3563 9046 10490 11508 11197 13202 16043 20136 Công nghiệp sửa chữa 3035 7953 11962 14763 15659 18359 20154 22592 Khách sạn, nhà hàng 4453 2975 3847 4230 5549 6628 8613 9899 Vận tải 19913 26999 32398 38226 39381 48252 58410 79495 Tài chính, ngân hàng 1303 2018 1120 1983 1800 2174 3295 4375 Khoa học công nghệ 1883 1936 695 2546 3266 Tư vấn, kinh doanh tài sản 4031 1735 2612 3605 5025 5705 6920 12034 Giáo dục đào tạo 6084 6225 5882 7118 8614 10097 13234 14402 Các hoạt đông Tổng 151183 170496 200145 239246 290927 343135 404712 521700 Khối ngành 1996 -2000 2001- 2004 2005 – 2007 1996 - 2007 Tổng vốn đầu tư xã hội 100 100 100 100 1. Chia ra Công nghiệp 36,1 40,6 40,7 39,13 Nông nghiệp 13,7 9,1 8,1 10,3 Dịch vụ 50,2 50,3 51,2 50,57 2. Chia ra Khối ngành sản xuất kinh doanh 54,7 54,8 55,1 54,87 Khối ngành kết cấu hạ tầng 45,3 45,2 44,9 45,13 Nguồn: Niên giám thống kê và tổng hợp của tác giả Theo số liệu thống kê ỏ trên, ta thấy trong thời gian qua, nguồn vốn cho đầu tư phát triển chủ yếu tập trung cho lĩnh vực công nghiệp ( 39,13% ) và dịch vụ ( 50,57% ). Đây là những lĩnh vực quan trọng đóng góp chủ yếu vào cơ cấu tổng sản phẩm kinh tế quốc dân: Công nghiệp chiếm 41% GDP, dịch vụ 38,1%. Mặc dù vậy chính sách của nhà nước trong giai đoạn này vẫn chú ý đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp vì nước ta hiện nay, nông dân vẫn chiếm tỷ lệ lớn và nông nghiệp nông thôn có vị trí rất quan trọng trong quá trình phát triển., tỷ lệ gia tăng vốn đầu tư trong lĩnh vực này là 13,2%/ năm; đầu tư cho lĩnh vực KHCN, giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa tăng 15,2%/năm, nên tỷ trọng vốn đầu tư cho các lĩnh vực này đã đạt tương ứng là 12,7% và 8,1%; ngoài ra còn đầu tư cho hạ tầng giao thông vận tải và thông tin liên lạc 8,2%, các ngành khác khoảng 20,7%. Cơ cấu vốn đầu tư theo khối ngành kinh tế cũng có sự dịch chuyển mạnh. Tỷ trọng vốn đầu tư khối ngành sản xuất kinh doanh tăng lên, trong khi khối ngành kết cấu hạ tầng giảm đi. Nguyên nhân là do chính sách thắt chặt quản lý nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước nhằm hạ nhiệt nền kinh tế, giảm áp lực lạm phát trong thời gian gần đây. IV. Cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ. Như đã nghiên cứu ở trên, cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ có thể là đầu tư theo lãnh thổ phát triển hoặc đầu tư theo vùng lãnh thổ kinh tế. Bảng : Cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ. Loại vùng 1996 – 2000 2001 – 2004 1996 – 2004 Vùng phát triển 62.7 61.6 62.1 Các vùng còn lại 37.3 38.4 37.9 Chung cả nước 100 100 100 Và bảng : Cơ cấu đầu tư theo vùng kinh tế. Loại vùng 1996 – 2000 2001 - 2004 1996 – 2004 Trung du và miền núi phía Bắc 7 7.1 7.05 Đồng bằng Bắc bộ 28.3 27.7 28 Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 16.4 17.4 16.9 Tây Nguyên 4.1 4 4.05 Đông Nam bộ 31.1 30.6 30.95 Đồng Bằng sông Cửu Long 12.9 13.2 13.05 Như vậy, có thể nhận thấy rõ sự bất cân đối về đầu tư giữa các vùng. Hai vùng Đồng Bằng Bắc bộ và Đông Nam bộ là hai vùng thu hút vốn đầu tư nhiều nhất, đáng kể nhất và hai vùng này cũng là hai vùng có đóng góp vào GDP cao ( 60 – 65%). Không chỉ có vốn đầu tư nói chung mà thu hút đầu tư nước ngoài FDI cũng như vốn ODA của hai vùng là rất lớn nên tạo ra sự chênh lệch đáng kể đối với các vùng khác đặc biệt là vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên. Theo số liệu năm 2007, phân bổ vốn ODA và FDI cho 7 vùng kinh tế nước ta là: Địa phương Phân bổ vốn ODA (%) Vốn đăng ký ( triệu USD) Đồng bằng sông Hồng 17 26728 Trung du và miền núi phía Bắc 5 3169 Bắc Trung Bộ 5 2084,6 Duyên hải Nam Trung Bộ 13 8349,3 Tây nguyên 4 1183,8 Đông Nam Bộ 10 50837,9 Đồng Bằng sông Cửu Long 8 4057,9 Có thể thấy hai vùng kinh tế trọng điểm là đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ với nhiều điều kiện tự nhiên, kinh tế thuận lợi cũng như tiềm lực kinh tế sẵn có luôn dẫn đầu trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài và 80,5 % vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào hai vùng này (Đồng bằng sông Hồng là 27.7% còn Đông Nam Bộ là 52.8%). Trong khi đó gần 20% vốn đầu tư nước ngoài được phân bổ cho 5 vùng còn lại. Điều đó đã tạo ra sự chênh lệch quá lớn về nguồn vốn đầu tư, gây mất cân đối trong cơ cấu đầu tư giữa các vùng lãnh thổ. Tuy Nhà nước đã có nhiều ưu đãi cho các vùng khó khăn để tạo điều kiện cho các vùng này thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhưng hiệu quả huy động vốn ở các vùng này còn thấp, chưa phục vụ phát triển kinh tế được cho các vùng. Vấn đề đặt ra là Nhà Nước phải đưa ra những chính sách phù hợp để các vùng phát huy được tối đa lợi thế, thu hút được ngày càng nhiều vốn đầu tư đồng thời chính sách phân bổ vốn ngân sách nhà nước, vốn ODA…của chính phủ phải công bằng đối với tất cả các vùng. Chương III: Những giải pháp cơ bản về thu hút, phân bổ và sử dụng nguồn vốn đầu tư để chuyển dịch cơ cấu đầu tư và đạt được cơ cấu đầu tư hợp lý. I. Kế hoạch phát triển kinh tế đến năm 2010 - Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong giai đoạn 2006 – 2010 là 7,5 – 8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/ năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 theo giá thành hiện tại đạt khoảng 1050 – 1100 USD. - Chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý. Đến năm 2010, cơ cấu ngành trong GDP: Khu vực nông nghiệp khoảng 15 – 16%, công nghiệp và xây dựng 43 – 44%, dịch vụ 40 – 41%. - Kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/ năm. - Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách đạt 21 – 22%. - Vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 40% GDP Mục tiêu cụ thể được phản ánh chi tiết trong bảng dưới đây Bảng 16 : Một số chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 Chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện 2001 - 2005 Kế hoạch 2006 - 2010 Tăng trưởng kinh tế % 7,5 7,5 – 8,0 Nông, lâm, ngư nghiệp % 3,6 3,0 – 3,2 Công nghiệp % 10,2 9,5 – 10,2 Dịch vụ % 6,9 7,7 – 8,2 Tốc độ tăng giá trị sản xuất Nông, lâm, ngư nghiệp % 5,5 4,5 Công nghiệp % 15,7 15,2 – 15,5 Dịch vụ % 7,6 8,3 – 8,7 GDP theo giá hiện hành ( đến năm cuối) Tổng GDP theo VND Nghìn tỷ VND 838,5 1694 – 1760 GDP quy theo USD Tỷ USD 53,1 94 – 98 GDP bình quân đầu người USD 640 1050 – 1100 Cơ cấu kinh tế ( đến năm cuối ) Nông, lâm ,ngư nghiệp % 20,7 15 – 16 Công nghiệp % 40,8 43 – 44 Dịch vụ % 38,5 40 – 41 Xuất nhập khẩu Tổng kim ngạch xuất khẩu Tỷ USD 110,2 243 – 254 Tốc độ tăng xuất khẩu % 17,0 16,0 Tổng kim ngạch nhập khẩu Tỷ USD 130,4 286,5 Tốc độ tăng nhập khẩu % 19,0 14,5 Đầu tư phát triển ( theo giá 2005 ) Tổng đầu tư phát triển 5 năm Tỷ USD 84,6 139,4 Tổng đầu tư phát triển/ GDP % 37,5 40,0 Nguồn: Văn kiện Đại hôi Đảng X II. Hạn chế trong đầu tư phát triển 2000 – 2007 (1) Chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế. Nhiều bộ, ngành và địa phương chưa chú trọng huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước mà chủ yếu vẫn trông chờ vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn có nguồn gốc ngân sách cho, chưa đủ sức thu hút được nhiều các nguồn vốn khác tham gia đầu tư, đặc biệt là khu vực tư nhân nên đã hạn chế rất lớn về quy mô đầu tư, nhất là đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những hạn chế, chưa phục hồi được tốc độ huy động cao như những năm trước đây. Hầu hết các dự án được cấp giấy phép gần đây đều có quy mô nhỏ; môi trường đầu tư tuy được cải thiện nhiều, nhưng mức độ cạnh tranh so với các nước trong khu vực chưa cao và còn nhiều bất cập như: một số chính sách hay thay đổi và khó dự báo trước; có tình trạng cạnh tranh chưa hợp lý trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các địa phương. Khối lượng giải ngân nguồn vốn ODA đạt thấp so với kế hoạch, hàng năm chỉ đạt khoảng 80-90% mức đề ra. Sau 10 năm kêu gọi nguồn vốn ODA, đến nay mới giải ngân được 13,5 tỷ USD trên tổng số 25 tỷ USD cam kết; tỷ lệ giải ngân giảm dần qua các năm, khối lượng giải ngân đạt thấp do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân chủ quan như chậm giải phóng mặt bằng, các Bộ ngành và địa phương bố trí không đủ vốn đối ứng, năng lực của các ban quản lý dự án ODA còn thấp, thủ tục chưa hài hoà trong và ngoài nước... (2) Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa hiệu quả Trong nông nghiệp: chủ yếu vẫn tập trung đầu tư vào thủy lợi (chiếm khoảng 70% vốn đầu tư của ngành), mà chưa chú ý nhiều đến đầu tư nhằm nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp như đầu tư phát triển khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp, đầu tư cho hệ thống giống cây trồng, vật nuôi, chế biến nông sản, mạng lưới cơ sở hạ tầng phát triển nông nghiệp. Chưa quan tâm đúng mức đến công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn do chưa đầu tư tương xứng để phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, phát triển trang trại, làng nghề truyền thống nhằm chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp. Ngành thủy sản có mức tăng trưởng cao, nhưng đầu tư vào lĩnh vực này còn khiêm tốn. Trong công nghiệp: cơ cấu đầu tư cho công nghiệp chiếm 43% trong tổng số đầu tư toàn xã hội là thấp, chưa đủ để phát triển và cơ cấu lại ngành công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp để có thể hội nhập, trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt; hiện tượng đầu tư theo phong trào, theo lợi nhuận trước mắt còn tồn tại, lãng phí vốn, tài nguyên, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chưa chú trọng đầu tư phát triển ngành cơ khí, đầu tư công nghiệp đóng tầu, chế tạo máy công cụ, máy phục vụ nông nghiệp, chế biến nông sản... Đầu tư chưa gắn chặt với chuyển giao công nghệ và phát triển công nghệ cao, hạn chế khả năng cạnh tranh của một số lĩnh vực công nghiệp chế biến. Về giao thông vận tải: chủ yếu vẫn tập trung vào giao thông đường bộ (chiếm trên 70% vốn đầu tư của ngành), trong đó lại tập trung chủ yếu hệ thống đường quốc lộ; hệ thống đường giao thông nông thôn, vùng kinh tế khó khăn chưa được đầu tư thoả đáng để phát huy hiệu quả chung; đầu tư phát triển phương tiện vận tải còn ở mức thấp. Đầu tư cho lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực còn ở mức thấp, chưa gắn chặt với chiến lược phát triển các ngành kinh tế, các vùng kinh tế. Cơ cấu vùng: mặc dù những năm qua đã cố gắng điều chỉnh cơ cấu đầu tư giữa các vùng, nhưng tỷ lệ đầu tư của các vùng miền Núi phía Bắc, Duyên hải Miền Trung, vùng Tây Nguyên vẫn còn ở mức khiêm tốn (chỉ ở mức từ 8 đến 12% tổng mức đầu tư toàn xã hội), vốn đầu tư vẫn tập trung cao ở các vùng Đồng bằng sông Hồng (khoảng 24%) và vùng Đông Nam bộ (khoảng 27%). Đầu tư cho các công trình liên vùng, liên tỉnh còn kém, bị chia cắt theo địa giới hành chính địa phương. Các công trình, dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giải ngân chậm, thời gian thực hiện dự án kéo dài, nợ quá hạn, lãi đến hạn trả chưa trả được có xu hướng tăng, ảnh hưởng đến cân đối nguồn vốn; chất lượng công tác thẩm định các dự án vay vốn tại hệ thống Quĩ Hỗ trợ phát triển còn nhiều bất cập so với yêu cầu, đặc biệt là dự báo sự biến động của thị trường, ảnh hưởng lớn đến việc xác định hiệu quả của dự án. (3) Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển Chất lượng các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn, chưa có đủ các căn cứ vững chắc, nhất là các thông tin về dự báo, nhất là dự báo tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp... Quản lý nhà nước về quy hoạch còn nhiều yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là phân công, phân cấp không rõ ràng, thiếu một khung pháp lý đầy đủ cho việc lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn đề liên quan đến công tác quy hoạch trong phạm vi cả nước; thiếu kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch. Nhiều cơ quan nhà nước, nhiều cá nhân có trách nhiệm chưa quan tâm đúng mức và chưa nhận thức đúng đắn về công tác quy hoạch, trách nhiệm đối với công tác quy hoạch chưa đủ tầm... Quy trình kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân chưa được thể chế hoá; phương pháp lập quy hoạch chưa thống nhất; thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình lập các quy hoạch ngành, nên xảy ra tình trạng chồng chéo và không ăn khớp giữa quy hoạch ngành, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh; thiếu quy chế phê duyệt thống nhất. Nhận thức về quy hoạch trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế còn nhiều điểm chưa thống nhất; việc phân định nội dung cũng như phạm vi giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng còn nhiều điểm chưa rõ. Các quy hoạch ngành, tuy đã xác định rõ hơn những ngành thuộc loại quy hoạch "mềm" và quy hoạch "cứng", nhưng ngay đối với các ngành sản phẩm chủ lực cần được lập quy hoạch cũng chưa được xác định ở cấp nhà nước. Nguyên nhân của tình hình nêu trên có nhiều nhưng trước hết phải kể đến công tác điều tra cơ bản chưa đủ, thông tin phục vụ nghiên cứu quy hoạch thiếu, lực lượng nghiên cứu quy hoạch hạn chế; công tác dự báo và xử lý liên ngành, liên vùng yếu; công tác chỉ đạo quy hoạch chưa đúng mức. Quy hoạch ngành và quy hoạch vùng, quy hoạch của từng tỉnh ít gắn kết với nhau. Quy hoạch phát triển ngành chưa thể hiện cụ thể trên các địa bàn lãnh thổ của các tỉnh, thành phố. Mặt khác trong khi có một số quy hoạch ngành đã thể hiện trên lãnh thổ nhưng quy hoạch tỉnh, thành phố chưa căn cứ vào quy hoạch ngành bố trí trên lãnh thổ của mình. Trong quá trình thực hiện quy hoạch, một số ngành, một số địa phương còn tuỳ tiện thay đổi mục tiêu của quy hoạch sau khi đã được Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nhiều quy hoạch sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt đã không kịp thời triển khai các quy hoạch cụ thể, quy hoạch chi tiết để tiến hành đầu tư, dẫn tới có tình trạng quy hoạch "treo". Việc thẩm định, kiểm tra, giám sát quy hoạch còn yếu, có trường hợp quy hoạch có chất lượng thấp vẫn được thông qua. (4) Bố trí đầu tư còn dàn trải Nhìn chung, bố trí vốn đầu tư còn rất dàn trải, phân tán thể hiện ở tất cả các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước. Những năm gần đây đã có tiến bộ bước đầu (tập trung hơn cho các dự án thuộc nhóm A); tuy nhiên nhiều Bộ, ngành và nhiều địa phương vẫn còn tình trạng bố trí vốn chưa tập trung, chủ yếu là đối với các công trình, dự án nhóm B và C. Nguyên nhân của tình trạng trên là: Về trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương: Nhu cầu đầu tư còn có khoảng cách rất lớn so với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước, khi bố trí cụ thể bị căng kéo bởi quá nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, khi xem xét để quyết định dự án đầu tư mới chưa nghiêm chỉnh chấp hành đúng các quy định trong việc xét duyệt một dự án đầu tư. Nhiều dự án chưa được xem xét kỹ, hiệu quả, tính khả thi thấp. Trên thực tế, số lượng dự án các Bộ, ngành và địa phương phê duyệt đã không phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách hàng năm của Nhà nước. Ngoài ra, trong việc bố trí, phân bổ vốn đầu tư cho các dự án, không loại trừ có trường hợp do nể nang, do quan niệm vốn ngân sách là phải chia đều giữa các huyện, xã, dẫn đến tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải còn tiếp diễn. Về trách nhiệm của các cơ quan quản lý: còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng. Việc phân cấp quản lý trong đầu tư và xây dựng cho các Bộ, ngành và địa phương đã thực hiện tương đối mạnh. Tuy nhiên, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện tại thiếu các chế tài, những quy định cụ thể (kể cả biện pháp hành chính) nhằm kiểm soát và hạn chế được việc phê duyệt dự án đầu tư tràn lan, kém hiệu quả. Công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa đáp ứng được các yêu cầu theo quy định, một mặt do đội ngũ cán bộ chưa được chuẩn bị chu đáo, cán bộ nghiệp vụ còn thiếu kinh nghiệm, năng lực còn hạn chế, chưa có hệ thống thông tin phục vụ hoạt động giám sát. Mặt khác, lãnh đạo ở một số Bộ, ngành và địa phương cũng chưa nhận thức đầy đủ được vị trí, vai trò của công tác giám sát, đánh giá đầu tư trong quản lý đầu tư nói chung. (5) Lãng phí, thất thoát trong đầu tư còn lớn. Lãng phí, thất thoát trong đầu tư và xây dựng vẫn còn là vấn đề nổi cộm hiện nay. Còn có những biểu hiện tiêu cực trong quản lý đầu tư và thi công công trình. Chất lượng ở một số công trình còn thấp, gây lãng phí và kém hiệu quả trong đầu tư. Nguyên nhân của tình trạng lãng phí thất thoát trong đầu tư có nhiều, thể hiện ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư; hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý đất đai chưa đồng bộ; chưa xác định rõ vai trò đại diện chủ sở hữu của Nhà nước; phân công, phân cấp chưa rõ ràng. Ngay từ khâu tính toán, xác định tổng mức vốn đầu tư cho dự án chưa quan tâm sâu sát tới việc tiết kiệm vốn đầu tư; nhiều dự án thiết kế phô trương hình thức, không phù hợp với thực tế sử dụng. Sử dụng đơn giá, định mức không theo quy định làm tăng khối lượng vốn đầu tư, tăng dự toán công trình. Còn những biểu hiện tiêu cực trong quản lý và thi công công trình, nhiều dự án không làm đúng thiết kế, chủ đầu tư và bên thi công móc nối, thoả thuận khai tăng số lượng, điều chỉnh dự toán rút tiền và vật tư của công trình. Nhiều dự án đầu tư không theo quy hoạch, điều tra khảo sát thị trường không kỹ, chưa quan tâm sâu sát đến đầu ra của sản phẩm, dự án hoàn thành nhưng không phát huy được hiệu quả. Ngoài ra, trình độ năng lực quản lý, điều hành của các chủ đầu tư, của ban quản lý dự án, các tổ chức tư vấn còn yếu kém cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư. Chất lượng của các tổ chức tư vấn đầu tư còn thấp; khi xây dựng dự án và thiết kế kỹ thuật lập tổng dự toán chưa dựa vào các quy chuẩn, đơn giá, định mức... gây nên lãng phí lớn. Năng lực của các chủ đầu tư không phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý; không kiểm tra, giám sát được các tổ chức tư vấn, các nhà thầu. Công tác giám sát thi công còn mang tính hình thức. (6) Tình hình nợ đọng trong đầu tư và xây dựng còn là vấn đề bức xúc. Nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức xúc hiện nay, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách, chưa được xử lý dứt điểm. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình thực hiện vượt kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành và địa phương vẫn tiếp diễn và có xu hướng tăng (sau khi rà soát lại, số nợ vẫn còn trên 5 nghìn tỷ đồng, Trung ương khoảng 2 nghìn tỷ đồng, địa phương khoảng 3 nghìn tỷ đồng). Nguyên nhân của tình trạng nợ đọng: Khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn rất hạn hẹp, chỉ đáp ứng được từ 40-50% nhu cầu; do sự cấp bách phải thực hiện một số mục tiêu quan trọng của các địa phương, một số công trình, dự án thuộc các ngành thủy lợi, giao thông phải khẩn trương thi công ngay trước mùa mưa lũ, phải vay mượn hoặc ứng trước vốn để thi công. Do đặc thù của các công trình, dự án thuộc hạ tầng giao thông, thủy lợi, bên A, cơ quan cấp phát vốn, cơ quan kiểm toán khó kiểm tra, kiểm soát về khối lượng thi công, đơn giá và định mức trong dự toán được duyệt, nên nhiều nhà thầu tích cực ứng trước vốn để thi công. Các Bộ ngành, các tỉnh, thành phố còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành còn thiếu những chế tài, biện pháp cụ thể nhằm kiểm soát và hạn chế việc phê duyệt dự án đầu tư tràn lan như hiện nay. Nhiều Bộ, ngành và địa phương còn tư tưởng nể nang, dễ dàng đối với các chủ đầu tư trong việc vay mượn vốn, cho phép các nhà thầu ứng trước vốn để thi công các công trình, dự án. Trong quá trình điều hành kế hoạch, phát hiện thực hiện vượt vốn, các cơ quan quản lý chưa kịp thời can thiệp để có biện pháp xử lý. (7) Các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển còn chậm được sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay. Công tác quản lý đầu tư và xây dựng còn nhiều thiếu sót, buông lỏng. Mặc dù Chính phủ đã thực hiện phân cấp mạnh cho cấp Bộ ngành, tỉnh và thành phố theo quy định tại Nghị định 07/CP; tuy nhiên, công tác giám sát đầu tư, giám sát thi công chưa chặt chẽ, thiếu chế tài cụ thể để quy rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể. Cơ chế tín dụng đầu tư ưu đãi còn nhiều bất cập: đối tượng cho vay dàn trải, mở rộng quá mức; lãi suất cho vay thấp, kéo dài thời gian trả nợ, khoanh nợ, dùng ngân sách để trả nợ vay. Hiện tồn tại nhiều mức lãi suất trong tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, gây phức tạp trong quản lý, đồng thời dễ phát sinh tiêu cực. Về hình thức tín dụng, chủ yếu vẫn là cho vay theo dự án, hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư mới được áp dụng. (8) Những tồn tại trong công tác đấu thầu Việc nhận thức công tác Đấu thầu còn nhiều hạn chế cả về nội dung đấu thầu, quy trình, trình tự và các quy định khác. Một số cán bộ thuộc đơn vị Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo đầy đủ, thiếu kinh nghiệm nên còn nhiều hạn chế trong triển khai công tác đấu thầu. Nhiều chủ dự án chưa chủ động, chỉ dựa vào ý kiến của tư vấn, không xem xét kỹ kết quả trước khi trình duyệt, dẫn đến những sai sót không đáng có trong quá trình thực hiện. Cấp có thẩm quyền chưa chỉ đạo sát sao, quản lý công tác đấu thầu chưa chặt chẽ. Nhiều trường hợp không thực hiện đúng Quy chế Đấu thầu như mở thầu chậm, chỉ định thầu vượt mức cho phép, tổ chức đấu thầu mang tính hình thức, đặc biệt là hình thức đấu thầu hạn chế... Chất lượng các công tác phục vụ cho đấu thầu (trực tiếp hoặc gián tiếp) như chất lượng của báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán còn thấp. Một số trường hợp xây dựng dự toán quá thấp gây khó khăn trong quá trình xét kết quả trúng thầu, phải chào lại giá, phải điều chỉnh dự toán làm kéo dài thời gian. Nhiều trường hợp thiết kế ban đầu không chuẩn xác, trong quá trình thực hiện phải thay đổi bổ sung dẫn đến làm tăng giá trị hợp đồng, kéo dài thời gian thực hiện. Đây cũng là yếu tố dẫn tới lãng phí thất thoát trong đầu tư xây dựng. Trong một số trường hợp chỉ định thầu thì dự toán cao là cơ sở ký hợp đồng sẽ có thể dẫn đến thất thoát. Hiện nay còn thiếu các quy định về chế tài, trách nhiệm lập và duyệt đối với báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, dự toán. Các quy định trong một số hợp đồng thầu quá đơn giản, chưa đủ chặt chẽ, chưa gắn trách nhiệm giữa Chủ đầu tư và nhà thầu, dồn sức ép vào một phía, thiếu các điều kiện chi tiết gây khó khăn cho thực hiện. Một số nội dung trong Quy chế Đấu thầu chưa được cụ thể hoá về: mẫu hoá các nội dung trong quá trình đấu thầu, hình thức áp dụng; quy định về khiếu nại trong đấu thầu. Công tác đào tạo trong đấu thầu còn bất cập, thiếu các Trung tâm đào tạo thường xuyên cán bộ về đấu thầu, làm giảm hiệu quả triển khai công tác này. (9) Tồn tại trong giám sát và đánh giá đầu tư Công tác giám sát và đánh giá đầu tư chưa được tất cả các Bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức và thực hiện nghiêm túc theo quy định; chỉ có khoảng 30% các đơn vị Bộ, ngành, 40% các tỉnh, thành phố có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Đối với việc giám sát và đánh giá đầu tư của các chủ đầu tư còn rất hạn chế, chỉ có 30% các chủ dự án sử dụng vốn ngân sách có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Chất lượng các báo cáo về đánh giá đầu tư còn sơ sài, chưa đủ các thông tin cần thiết để tổng hợp báo cáo. Công tác giám sát nói chung còn chưa thường xuyên, bị động và chủ yếu tổng hợp từ các báo cáo theo quy định, chưa có tác dụng phát hiện kịp thời và xử lý các vi phạm. Công tác giám sát cộng đồng chưa được chú trọng. (10) Thanh, quyết toán công trình còn chậm do thủ tục phức tạp. Việc giải ngân, thanh toán khối lượng vốn đầu tư hoàn thành còn chậm, chủ yếu do các thủ tục thanh toán phức tạp, công tác nghiệm thu của các chủ đầu tư và các ban quản lý công trình còn chậm. Chất lượng công tác tư vấn thiết kế chưa đảm bảo yêu cầu, nên trong quá trình triển khai thi công đã phát sinh nhiều khối lượng không được chủ đầu tư bổ sung kịp thời, ảnh hưởng đến công tác thanh toán. Các chủ đầu tư, nhất là chủ đầu tư, các ban quản lý dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước chưa khẩn trương cùng các nhà thầu hoàn tất các thủ tục nghiệm thu, thanh quyết toán. Nhiều công trình, dự án đã hoàn thành nghiệm thu, đưa vào sử dụng trong nhiều năm nhưng không quyết toán công trình. III. Những giải pháp thúc đẩy việc thu hút, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam - Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa các giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vốn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Việc phát hành trái phiếu, công trái nội tệ và ngoại tệ cần phải được xem xét và điều chỉnh để có thể huy động được nguồn vốn hiệu quả nhất về phía cả nhà nước và người dân. Nhà nước huy động được nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển còn nhân dân được hưởng lợi ích trực tiếp từ lãi suất, lợi ích gián tiếp là hiệu quả đầu tư. -Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án, cần tránh đầu tư dàn trải là giải pháp rất quan trọng. Yêu cầu này cần được thực hiện chặt chẽ đối với ngân sách trung ương. Đầu tư phải đúng mục đích, phục vụ đúng nhu cầu cần thiết của địa phương cũng như cả nước. Sử dụng vốn đầu tư phải tuân thủ theo đúng kế hoạch đã được đề ra để tránh tình trạng sử dụng vốn dàn trải, không hiệu quả, thất thoát vốn - Rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đối với đầu tư trong đó phân định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành, địa phương trong quản lý và sử dụng vốn; Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới để giúp các đối tượng đầu tư hiểu đúng, hiểu rõ và tuân thủ đúng luật. - Ban hành quy chế cho phép các địa phương tự chủ trong quy hoạch kinh tế vùng, miền. Có các chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa nhằm đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế của những vùng này, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng kinh tế. - Tăng cường đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là nông nghiệp, vì đây là ngành chịu nhiều sức ép nhất khi Việt Nam gia nhập WTO. - Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Gắn liền với việc huy động vốn, chúng ta có thể học hỏi được các công nghệ quản lý hiện đại để nâng cao trình độ quản lý, điều hành các nguồn huy động vốn như ngân hàng, thị trường chứng khoán…nhờ đó mà thúc đẩy sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước. - Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước, như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, đổi mới thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của thị trường vốn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của Việt kiều, vốn đầu tư của người dân trong thành lập và bỏ vốn kinh doanh,... cần được thực hiện theo hướng vừa thúc đẩy các kênh xúc tiến đầu tư, mời gọi đầu tư, vừa cải tiến các quy trình, thủ tục, vừa chống tiêu cực, phiền hà, nhưng phải giám sát chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, chống các hoạt động lừa đảo hay tiêu cực khác. Kết luận Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được một số thành quả đáng khích lệ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Hoạt động đầu tư cũng theo đó mà được cải thiện cả về số lượng và chất lượng đặc biệt là lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Những tín hiệu khởi sắc hơn trong tình thu hút vốn đầu tư trong vài năm gần đây tạo một tâm lý lạc quan và tin tưởng vào những chính sách đúng đắn Đảng và Nhà nước. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng em đã chủ quan đưa ra một số nhận xét và giải pháp trong việc thúc đẩy và hoàn thiện cơ cấu đầu tư ở Việt Nam, tuy nhiên do trình độ có hạn, chúng em không tránh khỏi có một số thiếu sót. Hy vọng các thấy cô giúp đỡ để bài viết trở nên hoàn thiện hơn. Em cũng xin chân thành cảm ơn : TS. Từ Quang Phương TS. Phạm Văn Hùng Đã giúp đỡ chúng em hoàn thành đề án này Nhóm thực hiện: Nhóm 5 Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế đầu tư – Bộ môn Kinh tế đầu tư, trường Đại học KTQD Bộ tài chính - Ủy ban Kinh tế và ngân sách quốc hội Một số luận cứ khoa học chuyển dịch cơ cấu đầu tư - Đề tài nghiên cứu cấp bộ. Bộ môn Kinh tế đầu tư, trường đại học kinh tế quốc dân. Thời báo kinh tế Việt Nam Niên giám thống kê – Tổng cục thống kê. www. Cia.gov www. mof.gov.vn WB – Báo cáo phát triển Việt Nam WB – Hội nghị các nhà tư vấn tài trợ cho Việt Nam Việt báo.com Tài liệu hội thảo “ Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước“ Webbste: Đảng Cộng sản Việt Nam Báo Nhân dân Bộ Kế hoạch và đầu tư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docco_cau_dau_tu_va_co_cau_dau_tu_hop_ly_phan_tich_khai_quat_co_cau_dau_tu_o_viet_nam_0781.doc
Tài liệu liên quan