Đề tài Cơ chế điều hòa vốn ở tổng công ty giấy Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong năm 1999 như Công ty Giấy Việt Trì, Công ty Văn phòng phẩm Hồng Hà, Nhà máy In và văn hoá phẩm Phúc Yên,.với sự chỉ đạo kịp thời của Tổng công ty: Khai thác tiềm năng của từng đơn vị phối hợp với việc điều hòa, hỗ trợ kịp thời toàn diện giữa các đơn vị để tháo gỡ khó khăn nên đã đạt được những kết quả khả quan: Công ty giấy Việt Trì đạt 134% kế hoạch sản lượng bằng 129,9% thực hiện năm 1999; Công ty Văn phòng phẩm Hồng Hà đạt 120,1% kế hoạch sản lượng bằng120,8% thực hiện năm 1999; Nhà máy In và văn hóa phẩm Phúc Yên đạt 126,7% kế hoạch doanh thu bằng 136,7% thực hiện năm 1999,. Hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị thành viên trong trong toàn Tổng công ty đều tăng. Toàn Tổng công ty không có đơn vị phát sinh lỗ, đặc biệt Công ty giấy Tân Mai, một trong những con chim đầu đàn của ngành giấy, năm 2000 tuy sản xuất hòa vốn nhưng có mức phấn đấu cao để không phát sinh lỗ theo dự kiến đầu năm.

doc79 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1194 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ chế điều hòa vốn ở tổng công ty giấy Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công ty Giấy là có hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên đang gặp khó khăn ( Bảng 8, 9,10). 2.2 Một số tồn tại sơ bản của cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam Song song với những kết quả đạt được trong công tác điều hòa vốn, sử dụng vốn, Tổng công ty còn có những tồn tại cần khắc phục sau: - Công tác điều hòa vốn mang nặng tính chủ quan: Thực tế hoạt động điều hòa vốn ở Tổng công ty chưa tương xứng và chưa đủ đáp ứng được cho việc sử dụng vốn có hiệu quả. Điều hòa vốn vẫn còn mang tính hình thức với khối lượng chưa nhiều. Người quyết định điều hòa vốn chủ yếu là TGĐ Tổng công ty dựa trên những nhận định mang tính chủ quan. Điều này xuất phát từ việc còn thiếu những quy định cụ thể từ phía Nhà nước cũng như từ phía Tổng công ty về trách nhiệm, phạm vi cũng như những cơ sở để tiến hành điều hòa vốn. Điều này làm giảm khá lớn hiệu quả của việc điều hòa vốn. - Chưa có phương pháp đánh giá hiệu quả công tác điều hòa vốn: Tổng công ty có hạn chế rất lớn trong công tác tài chính nói chung cũng như trong công tác điều hòa vốn nói riêng. Đó là vì Tổng công ty chưa có bất cứ hình thức theo dõi, kiểm tra nào về tính hiệu quả của quyết định điều hòa vốn. Do vậy, Tổng công ty không có cơ sở để rút kinh nghiệm cho những công việc tiếp theo và lại tạo ra những kẽ hở về quản lý rất nghiêm trọng. - Chưa xây dựng được hệ thống thông tin tài chính nội bộ để hỗ trợ cho công tác điều hòa vốn: Như ta đã biết khi nền kinh tế càng phát triển, doanh nghiệp càng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thì một hệ thống thông tin tài chính nội bộ càng trở nên cần thiết. Đây cũng là điều kiện còn thiếu ở Tổng công ty Giấy Việt Nam. Vì vậy, Tổng công ty không kịp thời nắm bắt được tình trạng tài chính của các doanh nghiệp để có những quyết sách kịp thời. - Theo quy chế tài chính của Tổng công ty Giấy, Tổng công ty được điều động một tỷ lệ nhất định trong các quỹ tài chính được trích hàng năm của các doanh nghiệp thành viên để hình thành nên các quỹ tài chính tập trung của Tổng công ty, sử dụng theo đúng mục đích của các quỹ đó. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, việc trích lập và sử dụng các quỹ tài chính tập trung ở Tổng công ty Giấy không được thực hiện. Các quỹ không được tập trung về Tổng công ty mà vẫn để lại ở các đơn vị thành viên. Sở dĩ có chuyện này xảy ra bởi vì ngay cả nhiều đơn vị thành viên cũng không thể trích lập được các quỹ này vì hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả không cao, sản xuất chỉ hòa vốn hoặc lãi không đáng kể thì không thể trích quỹ theo mức trích mà Tổng công ty quy định. Vì vậy, vai trò của cơ chế điều hòa vốn trong việc sử dụng các Quỹ tài chính tâp trung ở Tổng công ty không phát huy được hiệu quả. Trong quy chế tài chính của Tổng công ty quy định mức trích nộp các quỹ tài chính là như nhau đối với toàn bộ các doanh nghiệp thành viên trong Tổng công ty. Thực tế, có những doanh nghiệp thành viên do có điều kiện thuận lợi khách quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh, lãi lớn nên việc trích lập các quỹ tài chính theo quy định không gặp phải khó khăn gì. Hơn nữa, do Tổng công ty không huy động tập trung các quỹ tài chính ở các đơn vị thành viên nên ở những đơn vị này lượng vốn trong các quỹ tài chính còn chưa sử dụng là rất lớn. Ngược lại, ở những đơn vị thành viên gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc trích lập các quỹ tài chính khó có thể thực hiện với mức trích mà Tổng công ty yêu cầu hoặc số vốn trích ra không đáng kể so với nhu cầu sử dụng thực tế. Vì vậy, thực tế nhiều đơn vị luôn trong tình trạng thâm hụt các quỹ. Như vậy, vai trò điều hòa vốn của Tổng công ty trong việc sử dụng phương thức trích lập và sử dụng các quỹ tài chính tập trung chưa thực sự hiệu quả: doanh nghiệp cần sử dụng vốn thì lại thiếu, doanh nghiệp chưa cần sử dụng đến thì lại thừa. Chương III Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế Điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam I. quy hoạch đầu tư phát triển ngành công nghiệp giấy và quan điểm cơ bản trong công tác điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt nam 1. Quy hoạch đầu tư phát triển ngành công nghiệp Giấy Việt Nam Phát triển ngành công nghiệp hàng tiêu dùng nói chung và ngành giấy nói riêng là một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa giáo dục, nâng cao dân trí, phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, tăng tích luỹ, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đầu tư phát triển ngành công nghiệp giấy là đầu tư phát triển một ngành kinh tế kỹ thuật có hiệu quả kinh tế xã hội thiết thực phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Trong sự nghiệp đổi mới, đầu tư phát triển ngành công nghiệp giấy là hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, bởi vì ngành công nghiệp giấy Việt Nam có những tiền đề hết sức thuận lợi cho sự phát triển lâu dài: Tiềm năng nguồn lực phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam Việt Nam có nguồn nguyên liệu tự nhiên phong phú và rất đa dạng là cơ sở thuận lợi để phát triển sản xuất giấy. Mức tiêu dùng giấy bình quân đầu người ở nước ta hiện nay chỉ khoảng 3 - 3,5 kg và nằm trong khu vực thị trường châu á, ngành giấy Việt Nam đứng trước một triển vọng to lớn để mở rộng thị trường và phát triển sản xuất. Chi phí nhân công của sản xuất công nghiệp giấy Việt Nam so với thế giới và khu vực đang ở mức tương đối thấp. Đội ngũ lao động tương đối đông đảo, được đào tạo có hệ thống ở trong và ngoài nước, có kinh nghiệm, có kỹ năng và trình độ cần thiết để tiếp thu kiến thức kinh tế, kỹ thuật và quản lý mới nhằm khai thác có hiệu quả năng lực sản xuất hiện nay và các công trình đầu tư mới trong tương lai. Môi trường đầu tư thuận lợi Vị trí của Việt Nam ngày càng được các nước quan tâm chú ý và dần trở thành một vị trí kinh tế chiến lược ở vùng Đông Nam á. Việt Nam đã thiết lập quan hệ với hầu hết các nước, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho quá trình đầu tư. Nền kinh tế Việt Nam đã cơ bản ra khỏi khủng hoảng và liên tục tăng trưởng, tình hình chính trị xã hội ổn định, đời sống nhân dân được nâng cao. Việt Nam là một nước đông dân, tương lai sẽ trở thành một thị trường hàng hóa lớn của khu vực và thế giới. Dự báo nhu cầu giấy của Việt Nam đến năm 2010 Tổng nhu cầu giấy các loại 1 200 000 tấn Giấy văn hóa (34%) 405 000 tấn Giấy bao bì (60%) 720 000 tấn Giấy khác (6%) 75 000 tấn Bảng 14: Dự báo nhu cầu giấy giai đoạn 2000 - 2010 Chỉ tiêu 2005 2010 1. Dân số (triệu người) 86 92 2. Mức tiêu thụ giấy (kg/người) 9,3 13,0 3. Nhu cầu giấy các loại (tấn) 800 000 1 200 000 - Giấy viết, in 185 000 250 000 - Giấy báo 115 000 155 000 - Giấy bao bì 450 000 720 000 - Giấy khác 50 000 75 000 Nguồn: Phòng kế hoạch sản xuất kinh doanh Tổng công ty Giấy Việt Nam 1.1. Định hướng mục tiêu Định hướng mục tiêu tổng quát phát triển công nghiệp giấy đến năm 2010 là khai thác và phát triển các nguồn lực, đổi mới và hiện đại hóa công nghệ, kết hợp hài hòa giữa đầu tư chiều sâu, mở rộng các cơ sở hiện có và xây dựng các công trình mới, giữa phát triển sản xuất chế biến và phát triển vùng nguyên liệu, giữa nhu cầu tiêu dùng và sản xuất, xuất nhập khẩu, tăng năng lực sản xuất về sản lượng và chất lượng, tăng sức cạnh tranh, đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, bảo vệ môi trường, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát triển cao hơn sau này. Mục tiêu phát triển ngành công nghiệp giấy đến năm 2010 là phát triển và nâng cao hiệu quả các nguồn lực nhằm thoả mãn 85 - 90% nhu cầu tiêu dùng giấy: Tổng sản lượng giấy sản xuất năm 2010 là 1 050 000 tấn, bao gồm: - Giấy văn hóa ( 35% ) 370 000 tấn - Giấy bao bì ( 60% ) 630 000 tấn - Giấy khác ( 5% ) 50 000 tấn 1.2. Quy hoạch đầu tư phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam đến năm 2010 Quy hoạch đầu tư phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam - Đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, thiết bị và đầu tư mở rộng các cơ sở sản xuất hiện có: để tồn tại và phát triển phải tập trung đầu tư nâng cấp và mở rộng nhà máy giấy hiện có với mục tiêu nâng cao hệ số huy động công suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đến năm 2010 đạt sản lượng 600000 tấn, gia tăng sản lượng so với năm 1996 là 450000 tấn. Tổng số vốn đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng là 743 triệu USD. - Đầu tư xây dựng nhà máy mới: quá trình đầu tư xây dựng nhà máy mới sẽ tạo điều kiện nhanh chóng tiếp thu công nghệ hiện đại, tiết kiệm nguồn lực, tạo sức cạnh tranh, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của sản xuất và tiêu dùng trên thị trường nội địa và hướng tới thị trường khu vực. Quy hoạch đầu tư phát triển vùng nguyên liệu giấy Theo tính toán, sản lượng giấy có thể sản xuất từ nguyên liệu hiện có và sẽ trồng sau đầu tư của toàn bộ các vùng sản xuất nguyên liệu là 1250000 tấn. Tổng số vốn đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu ước tính là 320 triệu USD, trong đó đầu tư cho các vùng nguyên liệu mới là 185 triệu USD. Vốn đầu tư và nguồn vốn - Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: Tổng số vốn đầu tư XDCB đến năm 2010 ước tính là 2591 triệu USD - Nguồn vốn: Nguồn vốn khấu hao cơ bản: Ước tính tổng số nguồn vốn KHCB tái đầu tư giai đoạn 1997 - 2010 khoảng 2610 tỷ đồng ( tương đương 210 triệu USD ). Số vốn còn phải huy động thêm là 2400 triệu USD. Vì vậy phải tìm kiếm các nguồn vốn khác để thực hiện quy hoạch đầu tư phát triển ngành giấy. Dự tính: + Vay vốn ưu đãi XDCB của Nhà nước 500 triệu USD. + Vay vốn ưu đãi đầu tư dài hạn của các tổ chức tín dụng quốc tế 500 triệu USD. + Kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án xây dựng nhà máy mới theo phương thức liên doanh hoặc đầu tư trực tiếp 1400 triệu USD. Đầu tư phát triển khoa học công nghệ Hướng tới mục tiêu năm 2010, ngành công nghiệp giấy Việt Nam phải dựa vào chiến lược hiện đại hoá công nghệ phát triển bền vững với những định hướng sau: - Hoàn thiện và phát triển công nghệ bột hoá nhiệt cơ, đa dạng hoá nguyên liệu sử dụng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. - Nghiên cứu ứng dụng công nghệ dung môi hữu cơ nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm ô nhiễm môi trường. - Loại bỏ dần công nghệ tẩy trắng sử dụng Clo phân tử và hợp chất Clo, tiến tới công nghệ tẩy trắng hoàn toàn không sử dụng Clo, giảm thiểu nước thải, khép kín chu trình. - Phát triển công nghệ sản xuất giấy sử dụng nguyên liệu giấy loại, giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. - ứng dụng công nghệ thông tin, tự động hoá điều chỉnh quá trình công nghệ, vận hành thiết bị, giám sát chất lượng và quản lý quá trình sản xuất. - ứng dụng công nghệ sinh học, vật lý và hoá học xử lý chất thải giảm ô nhiễm môi trường. 2. Các căn cứ và quan điểm cơ bản của Tổng công ty Giấy Việt Nam trong công tác điều hòa vốn 2.1. Các căn cứ tiến hành điều hòa vốn - Quy chế tài chính đối với các Tổng công ty nhà nước, Luật DNNN. - Quy chế tài chính của Tổng công ty Giấy Việt Nam được ban hành như một điều khoản trong điều lệ hoạt động. - Thực trạng và hiệu quả của việc huy động vốn và sử dụng vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam. 2.2. Các quan điểm cơ bản - Tổng công ty Giấy Việt Nam là một DNNN, hạch toán theo hình thức tập trung, có nhiệm vụ tiếp nhận và giao lại cho các đơn vị thành viên sử dụng vốn Nhà nước giao một cách có hiệu quả, có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. - Tổng công ty có trách nhiệm làm tròn các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước. - Việc điều hòa vốn thực hiện trên nguyên tắc có hiệu quả: Đơn vị được nhận vốn phải thực sự là đơn vị cần vốn và sử dụng có hiệu quả hơn so với đơn vị phải giảm vốn, việc giảm vốn không làm ảnh hưởng xấu tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị giảm vốn. - Việc thực hiện điều hòa vốn phải dựa trên nguyên tắc hợp lý: nguyên tắc hợp lý ở đây là việc bảo đảm sự hợp lý, hài hòa giữa lợi ích chung của toàn Tổng công ty với lợi ích riêng của bản thân mỗi doanh nghiệp thành viên. Các doanh nghiệp thành viên cũng phải là các pháp nhân kinh tế độc lập, tự chủ và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động kinh doanh của mình, do vậy cần bảo đảm việc điều hòa vốn không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên cũng như trách nhiệm dân sự của doanh nghiệp đối với các chủ nợ, các đơn vị kinh tế. - Điều hòa vốn dựa trên cơ sở phát huy tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp, khai thác mọi tiềm năng cho sản xuất kinh doanh. Sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn để phát triển sản xuất, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, nhờ đó tăng tích luỹ từ DNNN. II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 1.Tiến tới thành lập công ty tài chính, công ty bảo hiểm ngành giấy Vai trò của công ty tài chính, công ty bảo hiểm ngành đã được thành lập đối với hoạt động tài chính của một số Tổng công ty đã và đang đóng vai trò hết sức quan trọng. Việc thành lập một công ty thuộc loại này, đặc biệt là công ty tài chính sẽ giúp đỡ rất nhiều cho việc điều hòa vốn, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ở các Tổng công ty. Với cơ chế hoạt động năng động của mình, công ty tài chính tự đảm nhiệm chức năng điều hòa vốn một cách có hiệu quả và hợp lý, không còn mang tính chất bắt buộc, khiên cưỡng như hiện nay. Tổng công ty Giấy Việt Nam cũng đã có đề án thành lập công ty tài chính nhưng cho đến nay vẫn chưa hội đủ điều kiện để thành lập. Ta hãy xem xét một số kết quả sơ bộ mà các công ty tài chính trong các Tổng công ty nhà nước đã đạt được trong thời gian qua: Về huy động vốn Có thể nói, trong phạm vi hoạt động của mình, các công ty tài chính đã rất cố gắng tích cực mở rộng các hình thức huy động vốn với mức độ khẩn trương, vừa đáp ứng được nhu cầu về vốn của Tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên, vừa bảo đảm tính hiệu quả cao trong nhiệm vụ huy động vốn. Trong năm 1999, Tổng công ty Dệt may đã phê duyệt 56 dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt may với số vốn đầu tư lên tới 419 tỷ đồng, trong khi đó theo kế hoạch chỉ vay được 266 tỷ từ nguồn ngân sách, còn lại 144 tỷ được giao cho công ty tài chính Dệt may tìm kiếm. Trên cơ sở nghiên cứu các dự án, Tổng công ty Dệt may giao cho công ty tài chính Dệt may tiến hành, chỉ sau 2 tháng hoạt động, đến cuối năm 1999, số vốn mà công ty tài chính Dệt may huy động được là hơn 100 tỷ đồng, trong đó huy động tiền gửi của các doanh nghiệp thành viên và cán bộ công nhân viên trong nội bộ Tổng công ty là 2,3 tỷ, chiếm 2,3% vốn vay; của các tổ chức tín dụng là 18,4 tỷ, chiếm 18,4% tổng số vốn huy động. Công ty tài chính Bưu điện thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam cũng mới chính thức đi vào hoạt động cuối tháng 11 năm 1998 nhưng cho đến nay công ty cũng đã huy động vốn đủ cho tất cả các dự án được Tổng công ty giao vay với mức độ khẩn trương và hiệu quả, trong đó công ty đã hoàn chỉnh phương án huy động vốn cho 152 dự án đã đăng ký vay với số tiền lên tới 248 tỷ đồng, cho tới cuối năm 1999, công ty đã huy động được 197 tỷ đồng. So với hai công ty đàn anh là công ty tài chính Dệt may và công ty tài chính Bưu điện, công ty tài chính Cao su thuộc Tổng công ty Cao su Việt Nam mặc dù khó khăn hơn nhưng cũng đã cố gắng hoàn thành kế hoạch huy động vốn, giúp ngành Cao su thực hiện mục tiêu phát triển 80000 ha cao su vào năm 2000 thay vì năm 2005. Đến hết năm 1999, số vốn mà công ty tài chính Cao su huy động được là 76,8 tỷ, còn lại là huy động từ các doanh nghiệp thành viên cũng như cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty. Các công ty tài chính trong các Tổng công ty nhà nước cho đến nay cũng đã từng bước hoàn chỉnh phương án huy động vốn. Công ty tài chính Bưu điện đã có phương án phát hành trái phiếu cho công ty, làm đại lý phát hành cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên. Trong năm 1999, công ty tài chính Bưu điện đã trình Tổng công ty Bưu chính Viễn thông phương án phát hành trái phiếu Bưu điện huy động vốn từ cán bộ công nhân viên. Tổng công ty Dệt may cũng cho ra đời hình thức sổ tiết kiệm tại chỗ để thu hút vốn dư thừa của các doanh nghiệp trong ngành nhằm khắc phục khó khăn về vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Song song với những hoạt động đó, các công ty tài chính cũng đã nhanh chóng thiết lập và mở rộng quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, đồng thời có kế hoạch tăng dần vốn điều lệ để có đủ điều kiện quan hệ với các định chế tài chính nước ngoài. Về sử dụng vốn Trên cơ sở cân đối nguồn vốn huy động được và căn cứ vào kế hoạch của Tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên, cho đến cuối năm 1999 công ty tài chính Dệt may đã cho vay gần 150 tỷ đồng, đạt mức dư nợ bình quân gần 48 tỷ. Tất cả các dự án vay vốn, Tổng công ty đều áp dụng mức lãi suất hợp lý trên cơ sở lãi suất huy động với khung lãi do TGĐ Tổng công ty cho phép thực hiện. Công ty tài chính Bưu điện với số vốn điều lệ là 70 tỷ đồng đã phát huy được thế mạnh về vốn, cho đến nay đã có 152 dự án đăng ký vay qua công ty tài chính với số tiền gần 248 tỷ. Tổng số vốn mà công ty đã cho các nhà máy, xí nghiệp trong Tổng công ty vay vốn lưu động là 13 tỷ đồng. Có thể nói, trong điều kiện việc huy động vốn của các Tổng công ty nhà nước còn gặp rất nhiều khó khăn thì sự hoạt động tích cực của các công ty tài chính đã phần nào gánh bớt trách nhiệm nặng nề này cho Tổng công ty. Trong khi nền kinh tế còn khó khăn, vốn ngân sách còn hạn chế, vốn tích luỹ còn thấp thì việc vay vốn trung và dài hạn qua các Ngân hàng thương mại đã gặp phải rất nhiều khó khăn, chính vì thế các Tổng công ty đều không hoàn thành được kế hoạch đặt ra. Cùng với sự cố gắng của ngành, các công ty tài chính mặc dù còn non trẻ nhưng đã nhập cuộc một cách nhanh chóng, chung sức với Tổng công ty cố gắng thực hiện được mục tiêu đề ra và đã đạt được những kết quả rất khích lệ. Bên cạnh đó, các công ty tài chính đã phần nào hoàn thành những nhiệm vụ trong chức năng của mình. Công ty tài chính Bưu điện đã hoàn thành phương án trọn gói cổ phần hóa cho công ty xây dựng Bưu điện và thực hiện xúc tiến triển khai nghiệp vụ làm đại lý phát hành cổ phiếu cho công ty xây dựng Bưu điện, từ đó tạo tiền đề cho hoạt động đại lý phát hành cho các đơn vị trong Tổng công ty khi có yêu cầu cổ phần hóa. Đây là một cố gắng không nhỏ của công ty tài chính Bưu điện trong việc góp phần thúc đẩy cổ phần hóa trong DNNN theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, các công ty tài chính cũng đã có nhiều hoạt động trong việc tư vấn về quản lý cho các đơn vị, hướng dẫn các đơn vị trong việc thực hiện thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị, thanh toán,...Đây là vấn đề xưa nay không được coi trọng đúng mức của các DNNN. Theo thống kê sơ bộ, các thiết bị công nghệ của các DNNN còn lạc hậu so với thế giới từ 2-3 thế hệ. Do đó, nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ bản, đổi mới các thiệt bị công nghệ còn rất cao, trong khi các DNNN của chúng ta lại thường bị “hớ” trong các hợp đồng mua bán công nghệ. Việc các công ty tài chính thực hiện các dịch vụ này đã góp phần giúp các doanh nghiệp thành viên Tổng công ty đầu tư có trọng điểm và có hiệu quả hơn. Về quản lý tiền mặt Các công ty tài chính đã cố gắng hoàn thiện và trình Tổng công ty phê duyệt kế hoạch về quản lý tiền mặt của Tổng công ty. Đây là vấn đề còn khá mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Mỗi doanh nghiệp trong một thời điểm nào đó sẽ có một lượng tiền mặt nhàn rỗi. Tâm lý của các doanh nghiệp là găm tiền vì nghĩ rằng khoảng thời gian nhàn rỗi của số tiền đó không nhiều, lại không muốn cho Nhà nước vay vì cơ chế lãi suất không phù hợp, trong khi đó lại có những doanh nghiệp thành viên vào thời điểm đó rất cần vốn lưu động. Đó là một điều rất lãng phí, đặc biệt là đối với một Tổng công ty. Nếu cho phép các công ty tài chính được quản lý số tiền đó, với khả năng của mình công ty Tài chính sẽ có kế hoạch điều hoà vốn giữa các doanh nghiệp thành viên một cách có hiệu quả đồng thời có kế hoạch đầu tư sinh lợi cao, vừa có lợi nhuận vừa đảm bảo khả năng thanh toán. Về lợi nhuận Do mới đi vào hoạt động nên khó có thể nhận định về hiệu quả hoạt động của các công ty tài chính trong các Tổng công ty nhà nước. Mặc dù vậy, nhìn vào kết quả kinh doanh của các công ty tài chính, có thể đánh giá sơ bộ rằng những kết quả đó khá tương xứng với phạm vi hoạt động của công ty tài chính. Chưa thể đưa ra những nhận xét đánh giá về hiệu quả hoạt động của các công ty tài chính của các Tổng công ty thông qua các chỉ tiêu phân tích tài chính vì các công ty này mới đi vào hoạt động được hơn 2 năm, hoạt động kinh doanh chưa đi vào hoạt động, nhưng có thể nhận định rằng các công ty tài chính trong các Tổng công ty nhà nước đã phần nào thể hiện được ưu thế “bạo” vì nguồn tài chính lớn của mình cũng như sự nhập cuộc, thích ứng nhanh chóng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, một lĩnh vực được coi là có độ rủi ro cao nhất trong các hoạt động kinh doanh. Việc thành lập và đi vào hoạt động của công ty tài chính ngành Giấy là đòi hỏi cấp thiết cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động điều hòa vốn nói riêng của Tổng công ty Giấy Việt Nam. 2. Ban hành chính sách công khai và cụ thể về kế hoạch cũng như phương thức điều hòa vốn Tuy cơ chế điều hòa vốn đã được quy định trong quy chế tài chính do Bộ tài chính cũng như Tổng công ty ban hành, song những quy định này còn chung chung và quá sơ sài. Trong đó không quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các đối tượng trong công tác điều hòa vốn. Vì vậy, hoạt động điều hoà vốn còn mang năng tính chủ quan, kém hiệu quả. Đôi khi tình trạng tiêu cực xảy ra như những công ty biết “ưu ái”, “khéo chiều” thì không bị rút vốn hoặc được tăng vốn, ngược lại thì bị rút vốn, dẫn đến những trường hợp điều vốn từ doanh nghiệp làm ăn có lãi và bảo toàn được vốn sang doanh nghiệp thua lỗ, mất vốn,...Do vậy, tình trạng quan liêu cửa quyền là không tránh khỏi, các doanh nghiệp thành viên muốn có vốn để sản xuất kinh doanh ít nhiều phải “ lễ lạt” thì mới được xem xét và “lễ’ càng nặng thì càng có cơ hội được phê chuẩn. Để khắc phục tình trạng trên, Tổng công ty Giấy cần xem xét những biện pháp sau: - Phải có kế hoạch điều hòa vốn một cách công khai và cụ thể. Chính sách điều chỉnh cơ chế điều hòa vốn phải được quy định cụ thể trong điều lệ của Tổng công ty. - Thực hiện điều hòa vốn phải có kế hoạch cụ thể, tạo sự chủ động sắp xếp lại hoạt động sản xuất kinh doanh cho các đơn vị thuộc diện điều chỉnh. Có như vậy hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị này mới được duy trì, ổn định. - Điều hòa vốn phải thực hiện trên những nguyên tắc nhất định, đó là nguyên tắc hiệu quả của việc điều hòa vốn, nguyên tắc hợp lý giữa lợi ích chung của Tổng công ty với lợi ích cục bộ của các doanh nghiệp thành viên. - Trong hoạt động điều hòa vốn, nên hạn chế việc ghi tăng, giảm vốn mà nên áp dụng phổ biến phương thức vay trả trực tiếp ( khi chưa có công ty tài chính ngành ). Dĩ nhiên, lãi suất này cần được quy định một cách hợp lý, tạo sức hút tối đa cho hoạt động tài chính của Tổng công ty. 3. Đầu tư vào các doanh nghiệp thành viên kinh doanh có hiệu quả, tránh lãng phí đồng vốn, mặt khác bảo đảm sự phát triển đồng đều giữa các doanh nghiệp thành viên Trong nền kinh tế thị trường, với sự điều tiết tự nhiên, vốn được đưa tới nơi thực sự cần và có thể sử dụng nó một cách có hiệu quả nhất. Điều này tạo nên sự cân đối hợp lý giữa cung và cầu về vốn, động thời xác định mức chi phí chung cho thị trường. Tuy nhiên, trong các Tổng công ty, các đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau và với Tổng công ty về mặt quản lý tài chính. Tổng công ty với chức năng tài chính của mình, nhận vốn nhà nước giao rồi giao lại cho các doanh nghiệp thành viên hoặc sử dụng quỹ của mình để đầu tư cho các doanh nghiệp thành viên kinh doanh. Nếu Tổng công ty có quyết định đúng đắn thì sự tác động của Tổng công ty sẽ mang lại hiệu quả, bằng không sẽ là một sự lãng phí gấp đôi đồng vốn đang rất cần thiết để mở rộng khả năng sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Mặc dù vây, việc phân phối, điều hoà vốn ở Tổng công ty không phải khi nào cũng đạt được hiệu quả cần thiết. Thực tế, trong Tổng công ty có những doanh nghiệp có vốn lớn, năng suất thấp, lợi nhuận kém và ngược lại, một số công ty có quy mô vốn nhỏ nhưng rất hiệu quả. Như vậy là vấn đề đầu tư vốn chưa hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này, Tổng công ty cần thực hiện ngay các biện pháp sau: - Xem xét cấp vốn trên cơ sở tính hiệu quả của doanh nghiệp: Tổng công ty cần phải đánh giá một cách khoa học các dự án, phương án cần vốn của các đơn vị. Khi cấp vốn phải theo dõi hiệu quả sử dụng vốn và đòi hỏi những cam kết sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả. - Giảm số lượng và khối lượng các trường hợp cấp vốn để cứu các doanh nghiệp bị thua lỗ quá lâu. Các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ không được khuyến khích, phấn đấu phát triển khi họ phải “ nuôi ” quá nhiều và quá lâu các đơn vị như thế này. - Tránh tiêu cực trong việc xem xét cấp vốn: doanh nghiệp “lễ nặng” thì được cấp và ngược lại. Song song với việc cố gắng đầu tư cho các doanh nghiệp lớn, Tổng công ty cũng cần quan tâm đầu tư cho các doanh nghiệp khác, tạo sự phát triển đồng đều giữa các doanh nghiệp trong toàn Tổng công ty, vì có tạo được sự phát triển đồng đều tương đối giữa các doanh nghiệp thành viên, Tổng công ty mới có thể phát triển nhanh và ổn định. Đây là một việc làm khó khăn với một nguồn vốn bị giới hạn. Nhìn chung, trước mắt Tổng công ty cần có các thay đổi sau: - Xem xét, điều chỉnh lại năng lực chuyên môn cũng như khả năng quản lý của bộ máy điều hành ở các đơn vị. - Đánh giá chính xác năng lực, thế mạnh của từng đơn vị thành viên để có hướng sản xuất kinh doanh hợp lý. - Kiên quyết xoá bỏ các đơn vị thành viên thua lỗ quá lâu. - Quan tâm đầu tư cho các doanh nghiệp thành viên còn chưa có hiệu quả với sự theo dõi sít sao của Tổng công ty về phương hướng đầu tư, cách thức cũng như hiệu quả đầu tư để loại bỏ tình trạng bị cụt vốn. 4. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác điều hòa vốn Hoạt động điều hòa vốn là bộ quan trọng nhất của hoạt động tài chính trong các Tổng công ty. Nó bảo đảm hoạt động đầu tư cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giải quyết tốt nhất nhu cầu cho vay cũng như sử dụng vốn trong nội bộ Tổng công ty. ở Tổng công ty Giấy Việt Nam cũng vậy, điều hoà vốn chiếm một mảng khá quan trọng và thường xuyên trong các hoạt đông tài chính của Tổng công ty. Tuy nhiên, một điều không hợp lý ở đây là Tổng công ty không hề tiến hành theo dõi, đánh giá hiệu quả của công tác điều hòa vốn. Tổng công ty tiến hành điều hòa vốn nhưng mới chỉ dừng ở đó. Tổng công ty giao tiền cho các đơn vị cần nhưng lại không theo dõi xem họ dùng nó như thế nào thì sớm hay muộn nó cũng không phát huy được hiệu quả, thậm chí còn bị hụt đi theo kiểu “hết rồi lại xin”. Đối với mỗi quyết định tài chính của Tổng công ty, đã làm thì nên xem xét, tính đến hiệu quả của nó. Có như vậy mới không làm lãng phí đồng vốn giới hạn của mình. Thực tế hiện nay Tổng công ty thậm chí còn chưa có những phương pháp đánh giá hiệu quả công tác điều hòa vốn. Vì vậy, Tổng công ty nên áp dụng những phương pháp sau: - Đối với việc điều động tài sản: Sau khi quyết định chuyển tài sản từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp kia, Tổng công ty phải tiến hành theo dõi, đánh giá hiệu quả sử dụng ở các doanh nghiệp mới bằng cách so sánh năng suất, hiệu quả của tài sản cố định so với năng suất hiệu quả của nó khi vẫn còn ở doanh nghiệp cũ. Nếu máy móc đó tạo ra nhiều lợi nhuận hơn thì khi đó mới có thể kết luận việc điều hòa vốn mới có hiệu quả. - Đối với việc sử dụng các quỹ tài chính tập trung: Tổng công ty nên huy động tập trung theo mức quy định từ các quỹ tài chính của các đơn vị thành viên để hình thành nên các quỹ tài chính tập trung của Tổng công ty. Có như vậy, Tổng công ty mới phát huy được vai trò của việc sử dụng phương thức trích lập và sử dụng các quỹ tài chính tập trung trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên gặp khó khăn. Việc sử dụng các quỹ tài chính hiện nay ở các đơn vị thành viên trong Tổng công ty Giấy chủ yếu là cho công tác khen thưởng, phúc lợi. Như vậy, việc sử dụng quỹ để mở rộng đầu tư phát triển chưa được coi trọng. Do đó, việc huy động tập trung các quỹ tài chính về Tổng công ty càng trở nên cần thiết hơn, giúp Tổng công ty có kế hoạch sử dụng các quỹ tài chính một cách hợp lý, chú trọng đầu tư cho các đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh. - Đối với nguồn vốn vay luân chuyển nội bộ: Giống như đối với tài sản cố định, Tổng công ty cũng cần đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của đơn vị nhận vốn vay so với hiệu quả ở đơn vị cho vay để có quyết định cho vay đúng đối tượng. 5. Xây dựng hệ thống thông tin tài chính nội bộ Xây dựng một hệ thống thông tin tài chính nội bộ hoạt động có hiệu quả là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong các TĐKD lớn trên thế giới. Nó giúp cho các TĐKD nắm được tình trạng cân đối và sử dụng vốn của các doanh nghiệp thành viên để có kế hoạch điều hòa vốn. Việc theo dõi chỉ tiến hành qua sổ sách nên Tổng công ty chưa có khả năng quản lý sít sao thực trạng tài chính của mỗi doanh nghiệp thành viên ở từng thời điểm nên không có được những quyết định tài chính kịp thời, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác điều hòa vốn. Hệ thống thông tin tài chính này còn giúp cho Tổng công ty nắm bắt được diễn biến và xu hướng thị trường sản phẩm giúp nhà quản lý ra quyết định kinh doanh đúng đắn. Với những lý do trên, việc tổ chức và vận hành một hệ thống thông tin tài chính nội bộ là đòi hỏi hết sức bức thiết. Về hình thức tổ chức, có thể tiến hành như sau: - áp dụng công nghệ máy tính vào quản lý, trước hết là tổ chức nối mạng giữa văn phòng Tổng công ty với các Phòng Tài chính - Kế toán của các doanh nghiệp thành viên. Nhờ đó, Tổng công ty có thể theo dõi liên tục khả năng cũng như nhu cầu tài chính của các đơn vị để có những điều chỉnh kịp thời. - Bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ tài chính cũng như khả năng vận hành các máy móc bổ trợ cho đội ngũ cán bộ nhân viên tài chính. 6. Kết hợp sự quản lý, điều tiết về vốn của Tổng công ty với việc đẩy mạnh phân cấp quản lý vốn và tự chủ tài chính đối với các đơn vị thành viên Theo điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của các Tổng công ty nhà nước thì Tổng công ty nhà nước là đối tượng được nhà nước giao vốn, đất và các nguồn lực khác để quản lý và sử dụng thống nhất trong toàn Tổng công ty. Trên cơ sở đó, Tổng công ty có trách nhiệm giao lại cho các đơn vị thành viên tổ chức sản xuất kinh doanh, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ do Nhà nước giao. Trong quá trình điều hành sản xuất kinh doanh, luôn luôn xuất hiện những yêu cầu phải bố trí, sắp xếp, điều chỉnh lại tiền vốn, lao động, máy móc,... giữa các doanh nghiệp thành viên trong Tổng công ty cho phù hợp với yêu cầu của từng điều kiện cụ thể. Vì vậy, Tổng công ty phải tiến hành điều hòa vốn. Trong quá trình điều hòa vốn, Tổng công ty bị kẹt giữa hai vấn đề: Một là để quá trình này phát huy hiệu quả, Tổng công ty phải tăng cường quản lý, điều tiết vốn nhằm đạt được mức cân đối vốn hợp lý nhất trong nội bộ Tổng công ty. Hai là Tổng công ty đồng thời phải tạo điều kiện để doanh nghiệp được tự chủ trong mọi hoạt động nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Thực tế hiện nay ở Tổng công ty, sự quản lý, điều tiết nhiều khi quá nặng nề ảnh hưởng rất lớn đến tính chủ động trong quản lý và sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên. Nói chính xác hơn, Tổng công ty can thiệp quá sâu vào hoạt động tài chính của các doanh nghiệp thành viên, trong khi đó lại xảy ra tình trạng buông lỏng quản lý trong hoạt động điều hòa vốn. Để khắc phục tình trạng này, Tổng công ty Giấy cần giải quyết hài hòa các vấn đề sau: Thứ nhất: cần theo dõi chặt chẽ tình hình tài chính của các doanh nghiệp thành viên và của bản thân Tổng công ty. Thứ hai: cần theo dõi, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cũng như công tác điều hòa vốn của Tổng công ty. Thứ ba: Tổng công ty cần tham gia vốn với các đơn vị thành viên nhằm góp phần nâng cao trách nhiệm của Tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên. 7. Cổ phần hóa một số doanh nghiệp vừa và nhỏ của Tổng công ty Với nhu cầu lớn về vốn cho chiến lược phát triển ngành giấy trong thời gian tới, để công tác điều hòa vốn đạt được hiệu quả thì Tổng công ty Giấy Việt Nam cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn. Cổ phần hóa là bước đi cần thiết và đúng đắn để nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thành viên, thực hiện tốt chủ trương huy động vốn từ mọi nguồn của Tổng công ty, đồng thời giảm bớt gánh nặng trong công tác điều hòa vốn của Tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên. Về đối tượng cổ phần hóa, các công ty hạch toán độc lập hội đủ những điều kiện sau thì nên cổ phần hóa: Một là có quy mô vừa và nhỏ. Hai là có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Ba là không thuộc diện doanh nghiệp phải giữ 100% vốn sở hữu Nhà nước. 8. Xây dựng chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp giấy Việt Nam a - Phát triển nguồn nhân lực là một tất yếu khách quan Ngành công nghiệp giấy Việt Nam bước vào thiên niên kỷ mới với những vận hội mới của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Ngành giấy Việt Nam đứng trước cơ hội tăng trưởng về quy mô sản lượng và nâng cao sức cạnh tranh để hòa nhập vào ngành giấy khu vực. Ngoài những thách thức lớn về vốn đầu tư cần được tháo gỡ, ngành giấy Việt Nam đang đứng trước những thách thức nan giải về sự bất cập của nguồn nhân lực. Trong những năm 1960, đội ngũ lao động ngành giấy đông đảo, được đào tạo có hệ thống ở các trường, lớp trong và ngoài nước và hiện nay đã trở thành cán bộ quản lý, chuyên gia kinh tế kỹ thuật, thợ đầu đàn ở các đơn vị trong toàn ngành. Nhưng lực lượng lao động chủ lực này đang ngày càng mai một, một số đã hưu trí. Một số nhà máy đang lâm vào tình trạng mất cân đối về cơ cấu ngành nghề, thiếu hụt lao động chuyên ngành trầm trọng. Đội ngũ lao động ngành giấy ngày càng già đi theo năm tháng và hẫng hụt lớp người thay thế. Theo báo cáo thống kê năm 1996, cơ cấu độ tuổi trên 40 tuổi chiếm tỷ rất cao trong đội ngũ lao động toàn ngành. Vì vậy, ngành công nghiệp giấy đứng trước đòi hỏi cấp bách phải nhanh chóng xây dựng đội ngũ lao động vững mạnh, đủ sức giải quyết những mục tiêu chiến lược của quy hoạch phát triển. Muốn vậy phải củng cố và nâng cao năng lực hoàn thành nhiệm vụ của lực lượng lao động hiện có. Đó là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển, một chỉ tiêu thách thức hết sức ngặt nghèo. Thách thức đó chỉ có thể vượt qua nếu được sự quan tâm thích đáng của Nhà nước, sự ủng hộ tích cực của các cơ quan hữu quan và khi đó đào tạo phát triển nguồn nhân lực phải trở thành quốc sách trong phạm vi quốc gia và trong toàn ngành. Từ đó hình thành một hệ thống chính sách đào tạo phù hợp, tập trung được sự phối hợp có hiệu quả của các ngành liên quan, các đơn vị đào tạo và sử dụng. b - Củng cố và hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực Đào tạo cán bộ đại học và trên đại học Tổng công ty Giấy Việt Nam cần phối hợp với các trường đại học, các viện nghiên cứu, các cơ quan chức năng trong nước và ngoài nước để mở rộng quy mô một cách hợp lý, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý điều hành các lĩnh vực, đặc biệt chú trọng công tác đào tạo chuyên ngành giấy, kết hợp đào tạo mới với đào tạo lại, đa dạng hóa các hình thức đào tạo. Đào tạo cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật Tổng công ty Giấy Việt Nam phối hợp với các trường trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề của Bộ công nghiệp, đặc biệt là các trường chuyên ngành giấy, mở rộng các hình thức đào tạo tập trung, đào tạo tại chỗ, đào tạo bổ túc tay nghề,.... xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi, công nhân lành nghề, nâng cao hiệu quả đào tạo, sản xuất nhiều sản phẩm mới đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Hoàn thiện chính sách tổng thể thu hút và phát triển nguồn nhân lực Xây dựng chính sách tổng thể thu hút và phát triển nguồn nhân lực hướng tới mục tiêu gắn kết sản xuất và đào tạo, đào tạo và sản xuất, đào tạo và đầu tư, tăng khả năng thu hút lao động vào các trường dạy nghề, trung học và đại học chuyên ngành; củng cố và khuyến khích đội ngũ lao động hiện nay yên tâm công tác, phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 9. Phát hành trái phiếu công trình để huy động vốn Trong những năm tới, để thoả mãn nhu cầu cho đầu tư xây dựng cơ bản, ước tính Tổng công ty cần số vốn đầu tư như sau: - Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: Tổng số vốn đầu tư XDCB đến năm 2010 ước tính là 2591 triệu USD - Nguồn vốn: Nguồn vốn khấu hao cơ bản: ước tính tổng số nguồn vốn KHCB tái đầu tư giai đoạn 1997 - 2010 khoảng 2610 tỷ đồng( tương đương 210 triệu USD ). Số vốn còn phải huy động thêm là 2400 triệu USD. Vì vậy phải tìm kiếm các nguồn khác để thực hiện quy hoạch đầu tư phát triển ngành. Dự tính: + Vay vốn ưu đãi XDCB của Nhà nước 500 triệu USD. + Vay vốn ưu đãi đầu tư dài hạn của các tổ chức tín dụng quốc tế 500 triệu USD. + Kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án xây dựng nhà máy mới theo phương thức liên doanh hoặc đầu tư trực tiếp với số vốn là 1400 triệu USD. Việc đầu tư hàng năm một lượng vốn lớn như vậy sẽ gây ra không ít khó khăn cho Tổng công ty Giấy trong công tác huy động vốn, và do đó ảnh hưởng tới hiệu quả công tác điều hòa vốn. Để đảm bảo huy động đủ vốn cho mục tiêu đầu tư phát triển, theo em việc huy động vốn bằng trái phiếu công trình là một khả năng rất lớn mà Tổng công ty Giấy nên tiến hành vì những lý do sau: Thứ nhất: Tổng công ty dù mới thành lập năm 1995 và đã đi vào hoạt động nhưng có nền móng vững chắc là các doanh nghiệp thành viên đã thành lập từ trước với thời gian tương đối dài. Quy mô nhân sự khá lớn, thu nhập bình quân của CBCNV trong toàn Tổng công ty ngày càng được nâng cao. Vì vậy, khả năng thu hút vốn nhàn rỗi của CBCNV cũng như của các doanh nghiệp thành viên làm ăn có hiệu quả là rất cao. Thứ hai: lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn. Theo ước tính hiện nay, lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư là khoảng 60000 tỷ đồng vậy mà chỉ 7% được gửi dưới hình thức tiết kiệm, còn lại lại là mua vàng, ngoại tệ, đất đai và giữ tiền mặt (10%). Trong khi đó, nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng lại thiếu vốn gay gắt, và đó cũng không phải là ngoại lệ với các Tổng công ty nhà nước. Nếu có thể huy động một phần nguồn tiền này dưới hình thức phát hành trái phiếu công trình thì sẽ giải quyết được đáng kể nhu cầu về vốn của Tổng công ty. Thứ ba: Khi nền kinh tế đi vào ổn định, niềm tin của các nhà đầu tư và của dân chúng tăng lên, khi đó các đối tượng này rất cần nơi đầu tư vốn trung và dài hạn có khả năng sinh lời cao. Đối với họ, chứng khoán của các Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 90/TTg và Quyết định 91/TTg có độ an toàn cao, độ rủi ro chỉ nhỉnh hơn rủi ro của trái phiếu kho bạc nhưng khả năng sinh lợi lại rất cao, do hầu hết các Tổng công ty này đều nắm giữ những huyết mạch chính của nền kinh tế. Thứ tư: cùng với đà phát triển của nền kinh tế, của tự do hóa và toàn cầu hóa thương mại, nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều và khả năng thu hút được một lượng vốn lớn từ nguồn này là khá thực tế. Tuy nhiên, để làm được việc này đòi hỏi Tổng công ty Giấy phải xây dựng được một chiến lược hoàn chỉnh đối với việc huy động vốn bằng trái phiếu, nắm bắt được hướng phát triển của thị trường, đề ra các biện pháp cụ thể và thích ứng với từng giai đoạn. Trong chiến lược huy động vốn bằng việc phát hành trái phiếu công trình, Tổng công ty Giấy cần phải đạt được những mục tiêu: ă Phải xác định được số vốn cần huy động từ việc phát hành là bao nhiêu, chiếm tỷ trọng như thế nào trong tổng số vốn đầu tư. Việc xác định tỷ trọng vốn vay bằng trái phiếu là rất quan trọng. Trái phiếu là công cụ huy động vốn dài hạn, do vậy độ rủi ro của trái phiếu lớn hơn rất nhiều so với độ rủi ro của các công cụ tài chính ngắn hạn khác ( do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như rủi ro thị trường, rủi ro kinh doanh,...). Vì vậy, lãi suất trái phiếu phải lớn hơn, phải tương xứng với nó thì mới có độ hấp dẫn với các nhà đầu tư. Việc huy động vốn từ trái phiếu phải trả một chi phí khá lớn và chi phí này tỷ lệ thuận với thời gian đáo hạn của trái phiếu. Huy động vốn từ việc phát hành trái phiếu nếu bị lạm dụng sẽ gây ra những khoản lãi phải trả hàng năm rất lớn, nếu không thanh toán kịp thời sẽ phải chịu lãi suất cao hơn và làm ảnh hưởng đến uy tín của Tổng công ty. Vì vậy, việc xác định được một cơ cấu trái phiếu phát hành hợp lý là rất quan trọng, vừa thỏa mãn nhu cầu về vốn đầu tư, vừa tránh cho Tổng công ty khỏi những gánh nặng nợ do việc sử dụng quá nhiều trái phiếu không cần thiết. ă Lập danh sách các công trình cần huy động vốn bằng trái phiếu vì trên thực tế không phải bất kỳ công trình nào cũng nên tài trợ bằng trái phiếu. Một công trình được tài trợ bằng trái phiếu phải hội đủ một số điều kiện sau: Công trình có thời gian xây dựng và hoàn vốn ngắn: Để vốn từ trái phiếu công trình phát huy tối đa tác dụng, đem lại hiệu quả cao nhất cho người phát hành thì trái phiếu phải có thời gian đủ dài để tài trợ cho công trình một cách hiệu quả nhất và quan trọng là thời gian xây dựng công trình phải chiếm một tỷ lệ thích hợp so với thời gian đáo hạn của trái phiếu. Yêu cầu này chủ yếu xuất phát từ mục đích tránh cho công trình phải thanh toán toàn bộ gốc và lãi trái phiếu trong khi công trình đang xây dựng dở dang, thu nhập của công trình chưa có. Khi yêu cầu này được thỏa mãn, tiền thanh toán cho trái phiếu được tính vào chi phí và thu nhập của dự án. Đối với các dự án có thời gian xây dựng lâu, thời gian hoàn vốn dài, nếu phát hành trái phiếu có thể không đem lại hiệu quả tích cực như dự kiến mà lại gây ra gánh nặng tài chính cho công trình và phải dùng vốn đầu tư cho công trình hoặc một phần vốn trái phiếu để trả nợ. Công trình có tính khả thi cao: Tính khả thi của công trình đóng vai trò rất quan trọng. Nếu một dự án không hiệu quả, thua lỗ thì tình hình càng trầm trọng khi sử dụng nợ. Lúc này nợ không còn đóng vai trò tích cực làm đòn bẩy tài chính nữa mà sẽ tác động ngược lại làm thua lỗ ngày càng trầm trọng hơn. ăXác định lãi suất trái phiếu: Đối tượng chủ yếu của trái phiếu là các nhà đầu tư, các tổ chức kinh tế xã hội, các tầng lớp dân cư trong và ngoài nước. Với một thời gian và độ rủi ro nhất định, nếu có lợi nhuận hợp lý (cao hơn các chứng khoán có cùng thời gian và độ rủi ro), các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ tiền mua trái phiếu của Tổng công ty. Vì vậy, lãi suất trái phiếu đóng vai trò thành công hay thất bại của việc phát hành. Lãi suất trái phiếu công trình phải bám sát lãi suất trái phiếu kho bạc có cùng thời hạn và phải được xác định dựa trên độ rủi ro của nhà phát hành và tính hiệu quả của dự án đầu tư. III. Một số kiến nghị với nhà nước nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt các giải pháp đề ra. 1. Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước Hiện nay, công tác hỗ trợ tài chính cho các DNNN vẫn còn nhiều vấn đề chưa hoàn chỉnh. Trong khâu lập kế hoạch, do mới chỉ lập kế hoạch hỗ trợ tài chính chung cho doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là bổ sung vốn lưu động, trợ giá và hỗ trợ lãi suất tiền vay mà chưa có kế hoạch cho các khoản trợ cấp và hỗ trợ nguồn vốn trả nợ. Trong khâu cấp phát, việc cấp phát để hỗ trợ các khoản tài chính cho các DNNN thường cũng rất chậm so với nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp. Trong khâu quyết toán thường thực hiện chậm so với yêu cầu và thậm chí không duyệt mà chỉ căn cứ trên báo cáo tài chính công khai của doanh nghiệp. Trong xây dựng kế hoạch cấp vốn cho các DNNN còn quá nhiều các cơ quan tham gia ( cục quản lý vốn địa phương, Bộ chủ quản, Tổng công ty xét cho các doanh nghiệp thành viên, Tổng cục quản lý doanh nghiệp, Vụ ngân sách Nhà nước). Công tác lập và kiểm tra báo cáo tài chính của các DNNN được thực hiện chưa nghiêm. Do thiếu sự kiểm tra nên nhiều DNNN đã lập báo cáo tài chính không trung thực để xin hỗ trợ tài chính, do vậy công tác hỗ trợ tài chính chưa đảm bảo chính xác. Để tăng cường hơn nữa hiệu quả của công tác hỗ trợ tài chính cho các DNNN, đề nghị trên cơ sở kế hoạch ngân sách nhà nước đã bố trí hỗ trợ tài chính cho các DNNN hàng năm, Bộ Tài chính giao cho Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước chịu trách nhiệm tổ chức xét duyệt, phân bổ và cấp phát cho các DNNN có nhu cầu và chịu trách nhiệm về sự cấp phát trên, tránh hiện tượng chồng chéo như hiện nay. Việc xét duyệt hỗ trợ tài chính cho các DNNN phải căn cứ vào báo cáo tài chính đã có sự kiểm tra của cơ quan quản lý vốn và tài sản nhà nước và cơ quan thuế. Hơn nữa, việc bố trí kế hoạch ngân sách cần phải chi tiết và đầy đủ các khoản hỗ trợ đã được quy định gồm các khoản trợ cấp, trợ giá, các khoản hỗ trợ lãi suất tiền vay, các khoản hỗ trợ trả nợ,... 2. Kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn ngân sách Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính là để nâng cao trách nhiệm của DNNN trong việc sử dụng các nguồn vốn nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Hiện nay, tỷ lệ thu sử dụng vốn ngân sách thấp hơn mức lãi suất cho vay của ngân hàng, đồng thời nếu DNNN kinh doanh thua lỗ thì không phải nộp thu sử dụng vốn ngân sách, do đó các DNNN có thể làm sổ sách không trung thực để trốn và chiếm dụng tiền nộp sử dụng vốn ngân sách. Việc nâng tỷ lệ thu về sử dụng vốn ngân sách ngang bằng với lãi suất cho vay vốn trên thị trường là để nâng cao trách nhiệm sử dụng vốn ngân sách của các DNNN, góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều hòa vốn của các Tổng công ty Nhà nước và đưa lại hiệu quả kinh tế cao cho toàn xã hội. 3. Kiến nghị phục vụ chương trình đầu tư phát triển của Tổng công ty Giấy Việt Nam Chính sách đầu tư phát triển Giấy là mặt hàng đặc biệt mang tính chất xã hội. Về mặt quốc sách, Nhà nước cần xác định công nghiệp giấy là một trong những ngành công nghiệp cơ bản quan trọng. Do đó, Nhà nước cần thực hiện chính sách ưu tiên đầu tư cho ngành giấy như sau: - Cho vay vốn ODA đầu tư phát triển công nghiệp chế biến và vùng nguyên liệu giấy. - Cho vay vốn đầu tư tín dụng dài hạn trong nước với mức lãi suất thấp. - Những dự án lớn (trên 50 triệu USD) được Nhà nước ghi vào công trình trọng điểm quốc gia. Chính sách nguyên liệu Chính phủ sớm phê duyệt quy hoạch tổng thể vùng nguyên liệu giấy và cơ chế, chính sách vùng nguyên liệu giấy làm cơ sở phát triển các vùng nguyên liệu. Khuyến khích nước ngoài đầu tư trồng rừng nguyên liệu giấy với chính sách ưu đãi, như giá thuê đất thấp, chu kỳ khai thác cây lần thứ nhất không phải nộp thuế,... Cho phép ngành giấy được đầu tư qua giá bán sản phẩm, khoảng 5% nếu có lãi để có thêm vốn trồng rừng phát triển nguồn nguyên liệu giấy. Chính sách tài chính, chính sách thuế. Cho phép ngành giấy giữ lại lãi trước thuế để đầu tư. Tạm thời từ nay đến năm 2006, Nhà nước không thu thuế doanh thu đối với các sản phẩm giấy. Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ tài chính bảo lãnh ngành giấy vay vốn nước ngoài để đầu tư cho các dự án đã được Chính phủ phê duyệt. Không phụ thu tiền điện đối với ngành giấy. Chính sách bảo hộ Nhà nước tiếp tục duy trì thuế nhập khẩu đối với mặt hàng giấy in, giấy in báo, giấy viết và hạn chế nhập khẩu các mặt hàng này cho đến năm 2006 để ngành giấy có thời gian đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị,... tiến tới tham gia AFTA. Chính sách khoa học công nghệ và đào tạo Nhà nước tăng vốn hoạt động khoa học công nghệ và thay đổi cơ chế quản lý sử dụng nguồn vốn đối với ngành giấy theo hướng chuyển về ngành quản lý. Doanh nghiệp ngành giấy được trích 2-5% doanh thu để đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ. Nhà nước ưu tiên phân phối nguồn tài trợ của nước ngoài để đào tạo và chuyển giao công nghệ ngành giấy. Nhà nước tiếp tục cử đi đào tạo ở nước ngoài, tăng suất học bổng đào tạo hàng năm đối với các kỹ sư và công nhân kỹ thuật ngành giấy. Kết luận Được thành lập từ năm 1995 với nòng cốt là các doanh nghiệp riêng rẽ, mọi thứ đối với Tổng công ty Giấy Việt Nam còn rất mới mẻ. Trong quá trình hoạt động, Tổng công ty Giấy đã gặp không ít khó khăn. Mặc dù vậy, nhờ có chủ trương đúng đắn, kế hoạch phát triển hợp lý, Tổng công ty Giấy Việt Nam đã biết vượt quá khó khăn, vươn lên trở thành một trong những Tổng công ty hàng đầu của Việt Nam, làm lợi cho Nhà nước hàng năm hàng chục tỷ đồng, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, ngành giấy ngày nay đã bước tới “ngưỡng” của chính mình, đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với khu vực và thế giới, phải đối mặt với thực trạng yếu kém, gai góc để tồn tại hay không tồn tại: đó là sức mạnh cạnh tranh trong cơ chế thị trường, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập AFTA. Vì vậy, Tổng công ty Giấy Việt Nam phải không ngừng nỗ lực đổi mới toàn diện để tồn tại và phát triển, đặc biệt chú trọng công tác quản lý tài chính, trong đó có công tác điều hòa vốn. Để đạt được điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Tổng công ty Giấy và các Bộ, ngành liên quan mà trước hết là các vấn đề về chính sách tài chính. Trong quá trình thực tập tốt nghiệp, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em đã chọn cho mình một đề tài nghiên cứu, đó là cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam, với hy vọng rằng qua đó sẽ giúp em bổ sung, hoàn thiện thêm các kiến thức đã học ở trường. Mặc dù đã rất cố gắng, song do sự hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên trong chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Một lần nữa, em rất mong nhận được sự góp ý, sự chỉ bảo quý giá của các thầy, cô trong việc hoàn thiện chuyên đề này. Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cô giáo Nguyễn Thị Bất và các cô, chú ở Tổng công ty Giấy Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Tài liệu tham khảo 1. Kinh tế học David Begg, NXB Thống kê - 1994 2. Kinh tế học Paul Samuelson, NXB Chính trị quốc gia - 1998 3. Thành lập và quản lý các Tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam Nguyễn Đình Phan, NXB Chính trị quốc gia - 1994 4. Giáo trình tài chính doanh nghiệp Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ, NXB Thống kê - 1998 5. Quy chế tài chính mẫu của các Tổng công ty Nhà nước 6. Quy chế tài chính của Tổng công ty Giấy Việt Nam 7. Báo cáo Tài chính của Tổng công ty Giấy Việt Nam năm 1998, 1999, 2000 8. Kế hoạch phát triển đến năm 2010 Tổng công ty Giấy Việt Nam 9. Luận văn tốt nghiệp 10. Tạp chí tài chính 11. Tạp chí Thông tin tài chính. 12. Tạp chí Kinh tế phát triển, Đầu tư,..

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0044.doc
Tài liệu liên quan