Đề tài Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa

+ Một là: phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Đây là giải pháp có tính thời đại. Cần lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài trên các mặt: kinh tế, môi trường, công nghệ, theo hướng bảo đảm lợi thế so sánh và chủ quyền của nước ta. + Hai là, hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, về sức lao động và các điều kiện vật chất kỹ thuật khác cho sản xuất. Cần tạo các điều kiện để tăng nhanh tính cơ động của các nguồn nhân lực. Nhà nước chủ động điều tiết và kiểm soát các nguồn nhân lực thông qua kế hoạch đào tạo và các quy chế về tiền lương, về thuế thu nhập và luật lao động-cần hình thành nhanh chóng thị trường. +Ba là, thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cần tiếp tục thực hiện tự do hoá giá cả và thương mại hoá trong nền kinh tế, tăng cường năng lực quản lý của Nhà nước đối với cơ chế thị trường. Đây là một trong những giải pháp có ý nghĩa gần như quyết định đối với lĩnh vực hình thành và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. + Bốn là, lực chọn chính sách khoa học, công nghệ vì mục tiêu phát triển. Cần quan niệm khoa học và công nghệ là biến số có ý nghĩa chiến lược của sự phát triển. Tiêu chuẩn quan trọng để lựa chọn cơ cấu công nghệ và tính phù hợp và tính hiệu quả. Hướng công nghệ được lựa chọn ở tầm quốc gia là công nghệ điện tử, tin học công nghệ sinh học và gia công nguyên liệu. Hướng công nghệ này sẽ khắc phục được sự khan hiếm các nguồn lực và đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, trong đó lao động trí tuệ trở thành đặc trưng nổi bật. Giải pháp này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo và tài năng, tận tuỵ với sự nghiệp xây dựng đất nước thành công theo con đường xã hội chủ nghĩa.

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o chính bản thân người sản xuất mà là để thoả mãn nhu cầu càng tăng của thị trường đã tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của sản xuất hàng hoá. Đối với sản xuất hàng hoá thì người tiêu dùng được coi là “Thượng đế” được quyền tự do lựa chọn những hàng hoá phù hợp với nhu cầu và có khả năng thanh toán và thị hiếu của mình trên cơ sở là chất lượng và giá cả của hàng hoá. Nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao thì kích thích sản xuất phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Kinh tế hàng hoá cạnh tranh ngày càng gay gắt. yêu cầu của cạnh tranh đòi hỏi những đơn vị sản xuất hàng hoá phải thường xuyên quan tâm tới tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm để hạ giá thành... mục đích thu lợi nhuận được nhiều hơn. cũng chính từ cạnh tranh, chạy theo lợi nhuận sẽ làm cho lực lượng sản xuất có những bước tiến bộ lâu dài và vững chắc trong quá trình sản xuất. Cũng trong nền kinh tế hàng hoá, do sản xuất xã hội ngày càng phát triển, quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng mở rộng, cho nên sản phẩm hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng, việc giao lưu văn hoá, kinh tế giữa các vùng, các địa phương, các đơn vị kinh tế và các quốc gia ngày càng phát triển. Đời sống vật chất, tinh thần và văn hoá của nhân dân ngày một được nâng cao. Những tiền đề tạo cơ sở cho quá trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá Qua những ưu điểm của nền kinh tế hàng hoá ta thấy sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự nhiên phát triển đến trình độ là xuất hiện những tiền để của kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử, những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá -tiền tệ tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất hiện những tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hoá. Mỗi bước nhảy vọt của kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, trong quá trình vận động và phát triển, kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên va khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội độc lập. Quá trình xuất hiện, vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra với sự tác động mạnh mẽ của những tiền đề sau: +Phân công lao động xã hội. +Sự độc lập tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất +Lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. +Hệ thống thông tin và giao thông vận tải Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành nghề sản xuất khác nhau. Do phân công lao động xã hội cho nên mỗi người chuyên làm một việc trong một ngành nghề nhất định và chuyên sản xuất ra một hoặc một số sản phẩm nhất định. Những nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau cho cuộc sống. Để thoả mãn nhu cầu của mình, những người sản xuất phải nương tựa vào nhau, trao đổi và quan hệ với nhau. Phân công lao động xã hội làm nảy sinh những mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất với nhau. Do có phân công lao động xã hội và sự độc lập tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất, cho nên quan hệ giữa những người sản xuất là quan hệ mâu thuẫn, họ vừa liên hệ, phụ thuộc vào nhau vừa độc lập với nhau. Để giải quyết những mâu thuẫn này buộc họ phải trao đổi dựa trên cơ sở giá trị, nghĩa là dựa trên cơ sở trao đổi ngang giá. Sản xuất hàng hoá ra đới khi trao đổi trở thành tập quán và là mục đích của sản xuất. Như ta thấy phân công lao động xã hội phát triển từng nào thì quan hệ trao đổi cũng được mở rộng và ngày càng phong phú, phức tạp hơn nhiều. Phân công lao động xã hội phát triển cũng hấp dẫn tới sự ra đời của ngành thương nghiệp, đôi khi thương nghiệp ra đời thì phân công lao động xã hội và quan hệ trao đổi có sắc thái mới. Cũng chính nhờ thương nghiệp phát triển làm cho sản xuất và lưu thông hàng hoá cùng với lưu thông tiền tệ được phát triển nhanh chóng. Đó là nguyên nhân của sự mở rộng quan hệ trao đổi giữa các vùng, đồng thời liên kết những người sản xuất lại với nhau, tập trung họ chạy theo sự phát triển nhanh chóng của kinh tế hàng hoá. Quan hệ trao đổi được mở rộng và phát triển đòi hỏi hệ thống giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũng phải mở rộng và phát triển. Đây chính là cơ sở vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi, mở rộng thị trường. 2.Những bước chuyển biến từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. a.Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường và kinh tế hàng hoá ở trình độ phát triển. kinh tế thị trường chính là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Khi kinh tế hàng hoá phát triển điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao hàm các yếu tố đầu vào của sản xuất. Sức chứa của thị trường và cơ cấu của thị trường được mở rộng và ngày càng hoàn hảo hơn. mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Đến khi đó thì kinh tế hàng hoá mới được coi là kinh tế thị trường. b.Kinh tế thị trường hình thành trên những điều kiện sau đây Kinh tế thị trường hình thành và phát triển được là nhờ vào những điều kiện cơ bản sau đây. -Sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Chúng ta phải khẳng định rằng sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động là một sự tiến bộ lịch sử. Con người lao động được tự do, người lao động có quyền làm chủ khả năng lao động của mình và là một chủ thể bình đẳng trong các mối quan hệ làm ăn, sản xuất với người khác. Sự hoạt động của quy luật giá trị đã từng dẫn tới sự phân hoá những người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo. Sự phân hoá này diễn ra chậm chạp, cho nên cần phải có sự can thiệp bạo lực của Nhà nước để thúc đẩy sự phân hoá này diễn ra nhanh hơn. Cũng chính từ sự phân hoá giàu nghèo tới một giới hạn nhất định đã làm nảy sinh hàng hoá lao động và thị trường sức lao động. Nhờ sự xuất hện của hàng hoá lao động và thị trường sức lao động mà tiền tệ không chỉ đơn thuần là phương tiện lưu thông mà còn trở thành phương tiện làm tăng giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế xã hội. Cùng với sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động dẫn tới sự hình thành thị trường các yếu tố sản xuất một cách hoàn chỉnh. Khi đó kinh tế thị trường ra đời. Phải tích luỹ được một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vốn đề tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhuận. Khi có lợi nhuận thì mới kích thích sự sản xuất phát triển, nó mới trở thành động lực thực sự Như ta đã bắt kinh tế thị trường là kinh tế của tiền tệ, cho nên vai trò của đồng tiền vô cùng quan trọng. Nhưng để hình thành được nền kinh tế thị trường cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển. Không thể có được kinh tế thị trường nếu như hệ thống tài chính, tín dụng cùng ngân hàng còn quá yếu ớt và đơn giản. Không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh. Sự hình thành nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, trên cơ sở đó mới đảm bảo được lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ được thuận lợi dễ dàng, mới tăng được phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi. Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước. Riêng đối với nước ta đây là điều kiện có tính quyết định để hình thành nền kinh tế thị trường. Nhờ có ngân hàng và hàng hệ thống pháp luật đã tạo ra môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. đồng thời Nhà nước sử dụng biện pháp hành chính cần thiết để phát huy những ưu thế và hạn chế những mặt tích cực của thị trường. Nhà nước thực hiện chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc kết hợp công bằng xã hội với hiệu quả kinh tế xã hội. Nhà nước còn thực hiện sự điều tiết nhằm giải quyết hài hoà quan hệ giữa tăng trươngr kinh tế và công bằng xã hội. Với sự tác động của những tiêu đề trên, nền kinh tế thị trường được xã hội hoá cao, các quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ hàng hoá tiền tệ và nó được tiền tệ hoá. Chính vì vậy mà những quy luật của kinh tế thị trường được phát huy tác dụng một cách đầy đủ. Những đặc trưng của kinh tế thị trường. 3.Những đặc trưng chung của kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu cầu khách quan, nhằm phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Quá trình đó phù hợp với xu thế của thời đại và xu thế của nhân dân ta. Trong quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường thưo định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải đòi hỏi những đặc điểm của mô hình kinh tế hướng tới. Đã có nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế thị trường. Chẳng hạn, mô hình kinh tế thị trường xã hội của cộng hoà liên bang Đức, kinh tế thị trường mang màu sắc Trung quốc... khi xxét đều kinh tế thị trường, nền kinh tế thị trường các nước đang và đã trải qua đều mang những đặc trưng sau đây. Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. đây là một đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị truờng. đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại kinh tế hàng hoá. đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu môij tại của nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ, năng động. Hai là: trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Nguời ta tự do mua, bán hàng hoá. Trong đó người mua chọn người bán. người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. đặc trưng này phản ánh tính ư việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên. Ba là: giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là sự biểu hiện thành tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hoá. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, người bán luôn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn mua với giá thấp. đối với người bán, giá cả phải bù đắp được chi phí và có doanh lợi. Chi phí sản xuất là giới hạn dưới, là phần cứng của giá cả, cón danh lợi càng nhiều càng tốt. Đối với người bán, giá cả phải phù hợp ới lợi ích giới hạn của họ. Bốn là: cạnh tranh là một tất yếu cuẩ kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở những đưon vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để nhằm thu lợi nhuận sưu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông. Năm là: kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Mỗi đặc trưng trên đây phản ánh một khía cạnh của mô hình kinh tế thị trường. II. Thị truờng và cơ chế thị trường 1.Thị trường và cạnh tranh thị trường. a.Thị trường: Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nó ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do đó mà có nhiều cách thức định nghĩa về thị trường. Theo nghĩa ban đầu thì thị trường gắn liền với một địa điểm nhất định. Nó là nơi diễnn rra quấ trình trao đổi, mua bán hàng hoá. Thị trường có tính không gian vàthời gian. Theo nghĩa này, thị trường có thhể là hội chợ các địa dư hoặc các khu tiêu thụ phân theo các mặt hàng, ngành hàng. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú; thị trường được mở rộng. Nếu hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn. nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm mội giới. Tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Khi nói tới thị trường chúng ta phải nói tới các yếu tố cấu thành thị trường đó là hàng và tiền (H và T) người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau. Từ đó hình thành các quan hệ hàng hoá tiền tệ, mua bán, cung cầu và giá cả hàng hoá. Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh, tự do mua bán, thuận mua vừa bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng. Nhưng trong thực tế thì có nhiều thuật ngữ để biểu hiện khaí niệm thị trường như: thị trường bán buôn, thị trường bán lẻ, thị trường hàng tieu dùng, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường sức lao động ... Ngoài ra mỗi loại hàng hoá lại có thị trường riêng của nó: như thị trường gạo, thị trường muối, thị trường lãi ... sở dĩ như vậy là vì trao đổi trở nên thường xuyên, phạm vi và quy mô ngày càng mở rộng. Mọi hàng hoá đều phải thông qua trao đổi mới đến được tiêu dùng. Có trao đổi, có cung, cầu là có thị trường. Mỗi loại hàng hoá hoặc dịch vụ đều Có một thị trường tương ứng. ở mỗi thị trường này người ta có thể đưa ra các số liệu thống kê về tổng cung, tổng cầu và giá cả thị trường. Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều cách phân loại thị trường khác nhau. Chẳng hạn, dựa vào các hình thức lưu thông hàng hoá, người ta đã phân chia thị trường thành: thị trường vật tư cung ứng kỹ thuật, thị trường hàng tiêu dùng. Dựa vào quan hệ sở hữu, người ta chia thị trường thành thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Chúng ta có thể sơ lược về cách phân chia thị trường như sau: Thị trường thứ nhất là thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ: ở thị trường này người ta mua bán những tư liệu sinh hoạt như lương thực, thực phẩm, vải vóc, quần áo, các phương tiện sinh hoạt trong gia đình...Những hàng hoá tiêu dùng ngày càng chiều theo đà phát triển của kinh tế hàng hoá. Ngoài những hàng hoá hữu hình còn có những hàng hoá vô hình được coi là dịch vụ như: sửa chữa, may vá. Nhìn chung, ở thị trường hàng hoá và dịch vụ người ta mua bán những sản phẩm là kết quả của sản xuất, nên thị trường này được gọi là thị trường đầu ra. Thị trường thứ hai là thị trường các yếu tố sản xuất. Trên thị trường này người ta mua, bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất như các loại nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, sức lao động... Thị trường này được gọi là thị trường đầu vào. Để phân chia được như trên là dựa trên cơ sở chủng loại hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường, dựa vào sự phát triển của phạm trù hàng hoá. Hàng hoá phát triển và mở rộng đến đâu thì thị trường phát triển và mở rộng đến đến đó. Khi nói đến thị trường thì chúng ta phải nói đến vai trò của nó. Như phần trên đã nghiên cứu thì kinh tế hàng hoá gắn liền với thị trường, sản xuất cho thị trường, tiêu dùng phải thông qua thị trường. Thị trường là trung tâm của quá trình tái sản xuất. Sản xuất là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động theo quan hệ tỉ lệ nhất định. Quan hệ tỉ lệ này tuỳ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất. Nếu kỹ thuật tiến bộ thì một lượng sức lao động nhất định sẽ vận hành được nhiều tư liệu sản xuất hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn. Để sản xuất cần có các yếu tố sản xuất. Thị trường chính là nơi cung cấp các yếu tố đó đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường. Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, để bán. Thị trường lại là nơi tiêu thụ các hàng hoá cho các doanh nghiệp. Thông qua thị trường giá trị hàng hoá được thực hiện và các doanh nghiệp thu hồi được vốn. b. Sự cạnh tranh trên thị trường Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông. Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm. Cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, người bán với những người bán, người mua với những người mua. Hình thức và biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh chínhh là lợi nhuận. Sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm dành phần sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi cho mình để thu lợi nhuận cao. Cạnh tranh là môi trường tồn tại của nền kinh tế thị trường. Nó đòi hỏi chủ thể kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả năng thắng lợi trên thị trường. Đối với nước ta việc cạnh tranh trên thị trường là hết sức quan trọng, có cạnh tranh thị trường mới làm cho quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng đẩy lùi những nhược điểm, cái lạc hậu cổ hũ trong nền sản xuất kinh tế. Nhờ cạnh tranh thị trường mà chất lượng, số lượng hàng hoá được nâng cao rõ rệt, trình độ kỹ thuật phát triển cao, nhanh chóng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhưng trong cơ chế thị trường phải có sự quản lý vĩ mô của ngân hàng mới làm cho cạnh tranh mang tính lành mạnh, dữ được bản sắc văn hoá của dân tộc ta. 2.Cơ chế thị trường Khái niệm về cơ chế thị trường Khi nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường là một khái niệm rộng sau đây là một số khái niệm về cơ chế thị trường dựa trên kinh tế chính trị học Mác-Lênin “Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường, động lực và quy luật phân phối sự vận động của thị trường” (Kinh tế chính trị học. NXB Sự thật, Hà Nội 1993, trang 65). “Cơ chế thị trường là thiết chế kinh tế chi phối ý chí và hành động của người sản xuất và người tiêu dùng, người bán và người mua thông qua thị trường và giá cả”( Nghiên cứu lý luật số 4, 1991, trang 34) “ Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các doanh nghiệp tác động qua lại lẫn nhau trên thị trường để xác định vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai?”(Lý luận hiện đại về kinh tế thị trường. NXB Hà Nội 1992 trang 88). Cũng có thể khái quát cơ chế thị trường chính là “bộ máy” kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quy luật giá trị-quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sự hoạt động của quy luật giá trị có biểu hiện: giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị thị trường của hàng hoá. Nghĩa là sự hình thành giá cả trên thị trường phải dựa trên cơ sở giá trị thị trường. Ngoài giá trị thị trường, sự hình thành giá cả thị trường còn phải chịu tác động của quan hệ cung cầu hàng hoá. Tính quy luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong tác động của quan hệ cung cầu được biểu hiện. Cung cầu trong cơ chế thị trường Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường còn nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn giá trị thị trường. Sự vận động của giá cả thị trường cũng có tác động tới quan hệ cung cầu hàng hoá. Nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó giảm xuống, nó sẽ kích thích mức cầu, làm cho mức cầu thị trường của loại hàng hoá này tăng lên. Đồng thời giá cả giảm xuống. Ngược lại, nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên, nó sẽ kích thích mức cung làm cho mức cung giảm xuống. Ngược lại nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên, đồng thời hạn chế mức cầu làm cho mức cầu giảm xuống. Như vậy có thể nhận biết được quan hệ cung cầu qua giá cả thị trường. Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường là những biểu hiện của những người bán và những người mua cũng như quan hệ giưã những người sản xuất và những người tiêu dùng. Trên thị trường người bán luôn bán hàng hoá của mình với giá cao, còn người mua thì lại luôn luôn muốn mua hàng hoá với giá thấp. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả thị trường là kết quả của sự thoả thuận giữa người mua với người bán. Cũng thông qua sự biến động của giá cả thị trường, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều tiết sản xuất hàng hoá được hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế. Nếu giá cả của hàng hoá trong một ngành kinh tế nào đó tăng lên thì ngành đó sẽ thu hút lao động xã hội, làm cho quy mô sản xuất của ngành này tăng lên. Ngược lại, nếu giá cả của hàng hoá có xu hướng tăng lên sẽ làm cho những người sản xuất hàng hoá thu được nhiều lợi nhuận hơn. Điều này tạo ra động lực thúc đẩy những người sản xuất hàng hoá khai thác những khả năng tiềm tàng, tranh thủ giá cả cao, mở rộng quy mô sản xuất có xu hướng ngược lại, nghĩa là giá cả giảm xuống sẽ làm cho quy mô sản xuất thu hẹp lại. Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị trường. Theo C.Mác, những nhà kinh doanh dưới CNTB “ ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì giới tự nhiên ghê sợ chân không”. Giá cả trong cơ chế thị trường Thông qua sự biến động của giá cả thị trường, quy luật giá trị còn có tác dụng điều tiết lưu thông hàng hoá, nghĩa là chi phối luồng vận động của hàng hoá. Hàng hoá sẽ được vận chuyển từ những thị trường có giá thấp đến thị trường có giá cả cao. Khả năng tách rời giá trị của giá cả không phải là nhược điểm của quy luật giá trị mà trái lại nó là vẽ đẹp riêng biệt của quy luật giá trị: là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Nếu giá cả của hàng hoá luôn ngang bằng với giá trị của nó thì không có sự hoạt động của quy luật giá trị, nói khác đi điều đó cũng có nghĩa là phủ định của quy luật giá trị. Trong giai đoạn tự do cạnh tranh, vì giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất (giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân) cho nên hoạt động của quy luật giá trị trong giai đoạn này có thể biểu hiện: giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá cả sản xuất. Còn đối với giai đoạn độc quyền, sự hoạt động của quy luật giá trị có biểu hiện mới giá cả thị trường lên xuống xung quanh giá cả độc quyền. Giới hạn thấp nhất của giá cả thị trường là chi phí sản xuất (C+V) giá cả phải bù đắp được chi phí sản xuất. Giới hạn trên của giá cả tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thị trường. Người bán phải biết bán với giá cao, nhưng giá cao quá sẽ có lợi cho đối thủ cạnh tranh vì người mua luôn muốn mua với giá thấp. Giá bán cao quá sẽ mất khách hàng, hàng hoá khó tiêu thụ, bước chuyển hoá thành tiền không thực hiện được. Vì vậy giới hạn trên của giá cả chính là nhu cầu có khả năng thanh toán của người mua. Qua đó ta có thể sơ lược về chức năng của giá cả thị trường như sau: -Chức năng thông tin: giá cả là phương tiện phát tín hiệu thông qua đó các doanh nghiệp biết được mình cần phải sản xuất những loại hàng hoá gì để thu được lợi nhuận cao, giá cả thấp sẽ không hấp dẫn các nhà kinh doanh. -Giá cả làm cân bằng cung cầu nếu các nguồn lực được sử dụng hợp lý. -Giá cả làm chức năng phân phối và phân phối lại của các tấng lớp dân cư trong xã hội -Giá cả là phương tiện nối liền hàng hoá với tiền tệ, người sản xuất với người tiêu dùng. nói tới cơ chế thị trường là nói tới cơ chế tự vận động của thị trường theo những quy luật nội tại của nó: quy luật nội tại, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật lưu thông tiền tệ xác định khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhằm đảm bảo sự hoạt động nhịp nhàng của cơ chế thị trường. Việc thừa hoặc thiếu đều dẫn tới tác động tiêu cực. Nếu thiếu tiền, hàng hoá không lưu thông được. Nếu thừa tiền sẽ gây nên tình trạng lạm phát, giá cả hàng hoá tăng vọt. Thị trường bất ổn định. Vậy chúng ta có thể nói sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường là yêu cầu khách quan đối với những xã hội còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Coi nhẹ hay bỏ qua vai trò của kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân sâu xa thất bại trên lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy mà cơ chế thị trường được phát hiện khá sớm. Cơ chế thị trường được coi là “ bàn tay vô hình” điều tiết sự vận động của nền kinh tế hàng hoá. 3.Những ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường và sự cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước. Những ưu điểm của cơ chế thị trường -Khi cơ chế thị trường phát triển thì kích thích mạnh việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động. Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ. Cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng. Sở dĩ như vậy là vì: trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và đưa ta sớm nhất sẽ thu được lợi nhuận nhiều nhất. Điều đó tất yếu đòi hoải phải năng động thường xuyên. Trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú đa dạng. Do vậy, nó tạo điều kiện thuận lợi choviệc thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên xã hội. b, Những nhược điểm của cơ chế thị trường. Ngoài những ưu điểm của có chế tf thì nó cũng không ít những nhược điểm hạn chế như sau. * Trước hết phải nói tới những bệnh gắn liền với sự hoạt động của cơ chế thị trường đó là: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát, phân hoá giầu nghèo và gây ô nhiễm môi trường sống nghiêm trọng. Khủng hoảng sản xuất “thừa” là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trường phát triển. ở đây do mức cung hàng hoá vượt mức cầu có khả năng thanh toán cho nên dẫu đến tình trạng dư thừa hàng hoá. Nguyên nhân của tình trạng đó là do mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẩn này được thể hiện ở tính cao độ trong từng doanh nghiệp với tính vô chính phủ trên toàn bộ nền sản xuất xã hội. Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn mâu thuẩn vơi ssức mua có hạnm của quần chúng. Mâu thuẩn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Gắn liền với khủng hoảng kinh tế là nạn thất nghiệp của người lao đọng, đây là một căn bệnh nan giải của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường tạo ra sự phân hoá giai cấp, do đó nó cũng làm tăng thêm mâu thuẩn giai cấp. Tác động của kinh tế thị trường đã dẫn đến tình trạng một số người phát tài giầu có, còn một số người khác bị phá sản trở thành những người làm thuê. Sự đối kháng về kinh tế là cơ sở của đấu tranh giai cấp. Một khuyết tật của cơ chế thị trường cần thiết phải kể đến là gây ô nhiểm môi trường sinh tái, tàn phá đất đai, rừng đầu nguồn, khí thải công nghiêp làm cho nhiệt độ của trái đất ngày càng nóng lên. Chỉ do chạy theo lợi nhuận trước mắt mà không tính toán đến hiểm hoạ đang đe doạ toàn nhân loại. Tóm lại, cơ chế thị trường tác động điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Chi phối sự vận động của cơ chế thị trường. Những sự điều tiết đó mang tính chất mù quáng. Hơn nữa các chr thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích riêng của mình, cho nên sự vận động của cơ chế hị trường tất yếu dẫn tới những mâu thuẩn và xung đột có người giầu lên lại có người ngjèo đi. Cạnh tranh khó tránh kkhỏi sự lừa gạt, phă sản và thất nghiệp ... thị trường tất cả đã gây nên tình trạng không bình thường trong quan hệ kinh tế và dẫn tới sự mất ổn định xã hội. Vì vậy, xã hội đòi hỏi phải có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức đố vơi ssự vận động của cơ chế thị trường. Đóa là lý do cần thiết lập vai trò quản lý của Nhà nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. ở nước ta sự quản lý của Nhà nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội, sự công bằng và hiệu quả cũng như làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao. III - KINH Tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và sự vận động của nó ở Việt Nam. 1. Bản chất sản xuất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đứng trước một thực trạng là: Đất nước đã và đang từng bước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nữa phong kiến với trình đoọ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Nhưng tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Với đặc điểm xuất phát thâp như trên, có thể nhận xét rằng: Nền kinh tế nước ta không hoang toàn là nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, nhưng cũng chưa phải là nền kinh tế hàng hoá nghĩa đầy đủ. Mặt khác do sự đổi mới về mặt kinh tế nền kinh tế nước ta cũng không còn là nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói thực trạng nền kinh tế nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, còn mang nặng tính chất tự cung, tự cấp và chịu sự ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tâph trung quan lưu bao cấp. Thực trạng đó biều hiện ở các mặt sau đây. a. Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp. Sự yếu kémn của nền kinh tế hàng hoá nước ta đựoc biều hiện ở nhưtngx dấy hiêuỷ có tính chất đặc trưng dưói đây. Trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém Hệ thông kết cấy hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế. Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Từ điển xuất phát thấp, nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấyh kinh tế cả nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp, hiện tượng độc canh cây lúa vẫn còn tồn tại, ngành nghề chưa phát triển. Từ đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay tuy cơ cấy kinh tế ngành và cơ cấy kinh tế đuợc coi là hợp lý và hiệu quả. Một cơ cấu kinh tế đựoc coi là hợp lý và hiêu quả khi nó phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật khách quan, khi nó cho phép khia thác mọi năng lực của đất nước và thực hiện được sự phân công, hợp tác quốc tế. Chưa có thị trường đúng theo nghĩa nó. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta đã được hình thành và phát triển. Xem xét một cách khái quát về thị trường ở nước ta trong những năm vừa qua thì thâý thị trường ở nước ta còn là thị trường ở trình độ thấp. Tính chất của nó còn hoang sợ. Dung lượng thị trường còn thiếu và có phần tối loạn. Chúng ta mới từng bược có thị trường hàng hoá nói chung, trược hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường. về cơ bản nước ta vấn chưa có thị trường sức lao động hoặc chỉ mới có thị trường này ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với hình thức thuê mướn còn thô sơ. Trong khu vực kinh tế Nhà nước về cơ bản vẫn sử dụng chế độ lao động theo biên chế. Chúng ta chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn, hoặc chỉ mới có thị trường này ngoài khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay trả, mua bán còn thô sơ khu vực kinh tế Nhà nước vẫn sử dụng lãi suất, tỷ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định. Chưa có lãi suât, tỷ giá và tín dụng thực sự thưo cơ chế thị trường . Thực trạng trên đây của thị trường nước ta là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách quan đó là trình độ phát triển của phân công lao động xã hội còn thấp. Nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp. Còn về mặt chủ quan, là do những nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Một thời gian khá dài ở nước ta đã tồn tại quan niệm cho rằng những tư liệu sản xuất lưu chuyển trong noọi bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hoá đặc biệt. Nó không được mua bán một cách tự do và sở dĩ như vậy là vì vai trò đặc biệt quan trọng của nhưngx tư liệu sản xuất. Nếu tư liệu sản xuất rơi vào tay tư nhân, nó sẽ trở thành phương tiện nô dịch của người khác. Sức lao động tiền vốn cũng được quan niệm không phải là hàng hoá .. v.v. Mặt khác do quản lý theo chiều dọc theo chức năng của từng ngành (công nghiệp, nông nghiệp, vận tải, nội thương, ngoại thương...) một cách máy móc, cho nên đã dẫn tới hiện tượng cửa quyền, cắt đứt mối quan hệ tự nhiên giữa các ngành, dẫn đến thị trường bị chia cắt và manh mún. Năng xuất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp. Phần này phản ánh tổng hợp thực trạng kinh tế hàng hoá còn kém phát triển. Do trình độ cơ sửa vật chất kỹ thuật và công nghệ còn thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém; cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước chưa phát triển ... cho nên năng xuất lao động xã hội và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở nước ta tất yếu vẫn còn thấp. b. ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy vơi scơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong nền thập kỷ vừa qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực tiến hoạt động kinh tế đã chứng minh mô hình này công nghiệp hoá hiện đại hoá nhiều nhược điểm. Nó gần như đối lập với kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường. Hai cơ chế kinh tế cũ và mới (cơ chế tập trung quan liêu bao cấp được gọi là cơ chế cũ, còn cơ chế thị trường được goị là cơ chế mới) có nhiều điểm khác nhau căn bản là ở chỗ: cơ chế cũ hình thành trên cơ sơ thu hẹp hoặc gần như xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ, làm cho nền kinh tế vị hiện vật hoá. Cơ chế mới hình thành trên cơ sơ rnở rộng quan hệ hàng hoá tiên tệ. ở cơ chế cũ, đó là cơ chế lệnh kế hoạch, kèm theo lệnh giá cả, tài chính tiền tệ theo quy tắc cấp phát, giao nộp nhằm thực hiện kế hoạch. ở cơ chế mới là cơ chế kế hoạch kinh doanh, tài chính kinh doanh, tín dụng kinh doanh phục vụ nhu cầu mua bán của các chủ thể sản xuất theo nguyên tắc hạch toán kinh tế. Như vậy, trong cơ chế cũ các phạm trù giá cả tài chính, lưu thông tiền tệ là những phạm trù vốn có của kinh tế hàng hoá mặc dù có được sử dụng nhưng chỉ là hình thức. Có thể tóm tắt đặc trưng cơ bản của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trên hai góc độ: quan hệ tổ chức hành chính và quan hệ kinh tế. Về quan hệ tổ chức hành chính đó là cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập trung nhưng lại được điều hành bởi nhiều đầu mối của các chức năng (công nghiệp, nông nghiệp. v. v ...) điều đó chẳng khác gì một dàn nhạc có nhiều nhạc trưởng. Kiểu quản lý như vậy nó mang tính chất phân tán. Về quan hệ kinh tế, cơ chế tập trung quan liêu vao cấp thể hiện quan hệ giáo nộp, thu mua, cấp phát. Sản xuất và kinh doanh đực tiến hành gần như khu vức hành chính quan liêu bao cấp hết sức nặng nề. Điều này được thể hiện như sau. Làm mất sức mạnh của tổ chức thống nhất theo kế hạch trước hết đối với kinh tế Nhà nước. Sự chỉ huy tập trung và theo nhiều mối đã gò bó gây ta sự vướng mắc. Từ đó cơ chế tập trung đã trở thành bần lực và buông lỏng cho thực tế tự phát. Làm suy yếu, triệt tiêu động lực kinh tế, thậm chí gây ra tác động như khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng gây thiệt hại cho những người tích cực, tạo môi trường cho lãng phí, gây thất thoát tài sản quốc gia. Cản trở mục tiêu ổn định, cải thiện đời sống phát triển sản xuất trong điều kiện tồn tại cơ chế giao nộp và cấp phát, dù có nói nhiều về quy luật giá trị thì đó cũng chỉ là hình thức.Việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá là một tất yếu lịch sử, cho nên sự hạn chế quan hệ hàng hoá và quy lụt giá trị trở thành sự cản trở tiền bộ kinh tế, kìm hãm nhân tố mới, Do đó làm cho Nhà nước không thể làm chủ những quá trình kinh tế khách quan mặc dù trong tay Nhà nước có thực lực kinh tế to lớn. Vì vậy đại hôi lần thứ VII của đảng ta khẳng định “xoá bỏ triệt để cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luận, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động ... thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới”(1) c. Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị truờng có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ sự phân tích thực trạng của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có thể rút ra kết luận: thực hiện chất của quả trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình kết hợp giữa nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chính C.Mác đã coi sự phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất phát và là điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất lớn Tư bản chủ nghĩa. Nội chiến kết thục, Lê Nin cũng chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP). Về thực chất, đó là sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần khơi dậy sự sống động của nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có đặc điểm khác với các nước đông ÂU và Liên Xô cũ. Những nước này có nền kinh tế phát triển. Nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không có (1) cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Tính tự nhiên, tự cấp tự túc như nền kinh tế nước ta, vì vậy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trước hết là quá trình chuyển nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mặt khác ở nước ta cũng đã tồn tại mô kinh tế chỉ huy vơi scơ chế kế hoạch hoá tập trung. Cơ chế này đã được phân tích ở trên. Nó gần như đối lập với cơ chế thị trường. Kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường được coi là trung tâm củ sản xuất và toàn bộ quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu vao cấp hình thầnh động bộ coeư chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Quá trình chuyển kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới. Kinh tế “đóng”, “khép kín” thường gắn với nền kinh tế phong kiến, gắn với sản xuất nhỏ mang tính cục bộ, địa phương củ nghĩa và với tình trạng bế quan toả cảng. Chính sự suất hiện và phát triển của sản xuất hàng hoá đã phá vỡ các quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã khẳng định: kinh tế hàng hoá làm cho thị trường dân gắn bó và hoà nhập với thị trường thế giới. Chính giao lưu hàng hoá đã làm cho các quan hệ kinh tế được mở rộng khỏi hàng hoá đã làm cho các quan hệ kinh tế được mở rộng khỏi phạm vi quốc gia, đã thúc đầy nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Kinh tế mở là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà bất kỳ một quốc gian nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện nước ta, bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong cuộc đấu tranh dành độc lập tự chủ do trước đây một lần nữa sống động trong công cuộc phát triển đất nước với bối cảnh và điều kiện mới. Trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta có nhiều đổi mới quan trong chúng ta đã chuyển biến quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong những năm gần đây, thực hiện về quan điểm kinh tế đối ngoại nói trên hoạt động kinh tế quốc tế nước ta đã có những tiến bộ lớn. Xuất khẩu hàng hoá tằng nhanh với nhịp độ trên 20% hàng năm, bảo đảm nhập khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu, cải thiện dần cán cân thanh toán quốc tế. Chúng ta đã nhanh chóng khắc phục được những hẫng hụt về nguông vốn và thị trường từ các nước SNG và đông ÂU. Hàng hoá xuất khẩu của nước ta đã tìm được những thị trường mới trong khu vực Đông Nam á và Tây Âu. Nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng tăng nhanh đáng kể. Trong khi hoà nhập vào thị trường thế giới và đầy mạnh hoạt động ngoại thương cần áp dụng có hiệu quản lợi thế so sánh. Từ đó cân nhắc quyết định cụ thể xem xét nền sản xuất và cung ứng cho thị trường khu vực và thị trường thế giới những loại hàng hoá nào, với số lượng bao nhiêu. Từ đó xác định rõ quy mô sản xuất cho thích hợp. ở nước ta, lợi thế so sánh đã bắt đầu được phát huy. Cần khẳng định bản sắc dân tộc và xác định khu vực mới tạo điều kiện tốt để hội nhập. Lợi thế so sánh của nước ta được thể hiện ở các mặt sau dây: Nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong phú, nguồn nhân lực khá dồi dào với tiền công thấp; vị trí địa lý lãnh thổ thuận lợi đồng thời Nhà nước đã có chính sách đầu tư hấp dẫn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó chúng ta tiếp tục coi trọng thị trường truyền thống, nhanh chóng thâm nhập vào thị trường mới mở rộng thị trường khu vực, cải tiến cơ cấu xã hội theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ lệ xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, nông lâm thuỷ sản... Chú ý phát triển dịch vụ, vận tải hàng không, thông tin viễn thông quốc tế... 2.Các giai đoạn hình thành kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quan hệ phức tạp, có nhiều khó khăn. Không nên quan niệm giản đơn và nóng vội cần phải tuân thủ những tính quy luật của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Quá trình đó trải ua các giai đoạn sau. a.Giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về lịch sử thì giai đoạn này được bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử rất quan trọng là Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VI kháo IV tháng 9 năm 1979. Về mặt lôgic giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và cũng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất. Nội dung của giai đoạn này chủ yếu là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. *Những giải pháp chủ yếu thực hiện trong giai đoạn này Một là: hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ. Thừa nhận thành phần kinh tế tư nhân và thị trường tự do là bộ của nền kinh tế quốc dân và của thị trường xã hội. Đảm bảo quyền tự chủ về tài chính cho các cơ sở kinh tế Nhà nước để những cơ sở này được chủ động phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá Nhấn mạnh lợi ích cá nhân người lao động và lợi ích của các đơn vị sản xuất cơ sở. Thực hiện nghị quyết hội nghị trung ương VI, sản xuất được bung ra kể cả sản xuất của cả quốc doanh tập thể, tư nhân. Tuy nhiên trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá vẫn chưa có những thay đổi đáng kể. + Hai là: đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị trường. + Ba là: chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu có tính đa dạng nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất được coi là một điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hoá. ở nước ta để khắc phục tình trạng vô chủ, lãi giả, lỗ thật trong các doanh nghiệp Nhà nước, để tạo ra sự tự do kinh tế và hình thành nhiều nhà kinh doanh giỏi thích ứng về cơ chế thị trường, tất yếu phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Nó bắt đầu từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và xu hướng chung của thế giới. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, chúng ta đã điều chỉnh cơ cấu sở hữu theo những bước sau đây: Phát huy hình thức kinh tế hộ nông dân, thợ thủ công bằng cách tạo thị trường cho chúng, trước hết là thị trường nông thôn rộng lớn. Xây dựng khu vực kinh tế công cộng với chức năng là đảm bảo sự ổn định và là cơ sở cho sự phát triển các thành phần kinh tế. Khu vực kinh tế công cộng tập trung những ngành kinh tế then chốt: năng lượng, dầu khí, hệ thống giao thông vận tải, thông tin, an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường... cơ cấu của khu vực kinh tế này không phải là cố định nhưng nó phải luôn luôn có trình độ công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý tốt. Hình thành và phát triển các công ty cổ phần. Đây là xu thế khách quan của nền kinh tế thị trường. ở nước ta hình thức công ty cổ phần còn phát sinh từ quá trình điều chỉnh khu vực Nhà nước. +Bốn là: đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc sang quan hệ kinh tế theo chiều ngang. Trong các chính sách kinh tế chúng ta đặc biệt quan tâm tới chính sách giá cả. Đã từng bước thực hiện tự do hoá gía cả. Thực chất Của việc điều chỉnh giá cả ở nước ta trong những năm 80 là thay cơ chế hai giá bằng cơ chế một giá, cơ chế 2 giá thực chất là hai cơ chế xử lý giá cả. b. Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa Như ở đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Quan điểm này đã được tái khẳng định rõ hơn ở đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng ta. Nội dung chủ yếu của giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ tạo điều kiện tiền đề cho kinh tế hàng hoá phát triển. *Những giải pháp để thực hiện thành công giai đoạn này. +Một là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo đảm cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tăng trưởng và phát triển, đảm bảo sự ổn định của hệ thống kinh tế quốc dân cũng như sự ổn định về mặt chính trị-xã hội, bảo đảm côngh bằng xã hội và sự bền vững về môi trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo đảm phát triển tăng trưởng đồng bộ và cân đối tạo điều kiện thúc đẩy những ngành trọng điểm mũi nhọn nhằm tạo ra tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dẫn đến sự giải phóng sức lao động xã hội, trong sản xuất, khai thác có hiệu quả những tiềm năng của đất nước, thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để tạo ra những việc làm cho người lao động. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đáp ứng tối đa nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước, đồng thời sự hạn chế và phát triển tự phát chạy theo lợi nhuận trước mắt phá huỷ môi trường sinh thái trong quá trình kinh doanh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải tạo điều kiện thực hiện nền kinh tế mở, tranh thủ những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại nhằm đưa lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. +Hai là: chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các yếu tố của thị trường, phát huy những ưu thế và động lực của thị trường, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. + Ba là: hoàn thiện và tăng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ nhằm tạo nguồn vốn thực hiện việc đầu tư vốn theo mục tiêu phát triển, phân phối lại thu nhập quốc dân tạo lập sự ổn định về tiền tệ, về giá cả và tỷ giá hối đoái, qua đó tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với cơ chế thị trường. + Bốn là, bồi dưỡng và dầo tạo cán bộ quản lý kinh tế theo yêu cầu của kinh tế thị trường. Đây là một giải pháp liên quan đến nhân tố con người-động lực phát triển của kinh tế xã hội. Chúng ta đã kế hợp giữa việc mở rộng quy mô đào tạo nhân tài. Việc đào tạo những cán bộ quản lý doanh nghiệp không chỉ chú ý đáp ứng nhu cầu của khu vực kinh tế Nhà nước mà còn phải quan tâm tới khu vực ngoài quốc doanh cũng như kinh tế nông thôn và miền núi, hải đảo. +Năm là, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước nhằm phát huy những ưu thế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường c.Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. nội dung của giai đoạn này là tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế tạo lập cơ sở kinh tế cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường phát huy tác dụng một cách đầy đủ, phát triển kinh tế trong nước hoà nhập với kinh tế thế giới. Nhữn giải pháp chính thức thực hiện trong giai đoạn này. + Một là: phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Đây là giải pháp có tính thời đại. Cần lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài trên các mặt: kinh tế, môi trường, công nghệ, theo hướng bảo đảm lợi thế so sánh và chủ quyền của nước ta. + Hai là, hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, về sức lao động và các điều kiện vật chất kỹ thuật khác cho sản xuất. Cần tạo các điều kiện để tăng nhanh tính cơ động của các nguồn nhân lực. Nhà nước chủ động điều tiết và kiểm soát các nguồn nhân lực thông qua kế hoạch đào tạo và các quy chế về tiền lương, về thuế thu nhập và luật lao động-cần hình thành nhanh chóng thị trường. +Ba là, thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cần tiếp tục thực hiện tự do hoá giá cả và thương mại hoá trong nền kinh tế, tăng cường năng lực quản lý của Nhà nước đối với cơ chế thị trường. Đây là một trong những giải pháp có ý nghĩa gần như quyết định đối với lĩnh vực hình thành và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. + Bốn là, lực chọn chính sách khoa học, công nghệ vì mục tiêu phát triển. Cần quan niệm khoa học và công nghệ là biến số có ý nghĩa chiến lược của sự phát triển. Tiêu chuẩn quan trọng để lựa chọn cơ cấu công nghệ và tính phù hợp và tính hiệu quả. Hướng công nghệ được lựa chọn ở tầm quốc gia là công nghệ điện tử, tin học công nghệ sinh học và gia công nguyên liệu... Hướng công nghệ này sẽ khắc phục được sự khan hiếm các nguồn lực và đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, trong đó lao động trí tuệ trở thành đặc trưng nổi bật. Giải pháp này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo và tài năng, tận tuỵ với sự nghiệp xây dựng đất nước thành công theo con đường xã hội chủ nghĩa. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10244.doc
Tài liệu liên quan