Đề tài Cơ hội và thách thức của các smes Việt Nam trong quá trình hội nhập sau khi Trung Quốc ra nhập WTO

Cuối cùng, những kinh nghiệm gia nhập WTO của Trung Quốc có giá trị tham khảo rất lớn đối với Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập tổ chức thương mại này. Trong tương lai không xa, khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức này, các Smes Việt Nam sẽ thực sự phải tự mình sử dụng những gì đã chuẩn bị từ trước và hi vọng rằng các Smes sẽ chủ động nắm bắt tất cả những cơ hội mà hội nhập đem lại.

doc36 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ hội và thách thức của các smes Việt Nam trong quá trình hội nhập sau khi Trung Quốc ra nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản phẩm cũng là một vấn đề. Công nghệ sản xuất lạc hậu nên năng suất chất lượng chưa cao, cũng vì thế các doanh nghiệp Việt Nam chưa có được sự quan tâm đúng đắn tới mẫu mã sản phẩm mà đây lại là một chiến lược quan trọng của Marketing. Mẫu mã, bao bì sản phẩm của hàng Việt Nam chưa thu hút được sự chú ý mua sắm của khách hàng lại chậm đổi mới. Hàng thủ công mĩ nghệ của Việt Nam chẳng hạn, hàng xuất khẩu năm 2000 đến hơn 300 triệu USD và có rất nhiều khách từ Hồng Công, Nhật Bản rất thích nhưng đến năm sau khi họ trở lại thì họ không kí những hợp đồng giống như năm trước nữa vì hàng không thay đổi mẫu mã nên họ không quan tâm và không mua nữa. Nguyên nhân thứ ba là vấn đề về thương hiệu, khâu quảng cáo tiếp thị của ta chưa tốt nên chưa chiếm lĩnh được thị trường. Đã có nhiều bài học về thương hiệu đối với doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường thế giới như của hãng cà phê Trung Nguyên chẳng hạn. Chúng ta chưa quan tâm thích đáng đến vấn đề này và đã phải trả giá đắt cho nó khi bước đầu hội nhập vào thị trường thế giới. Theo nghiên cứu của một công ty tư vấn thì 60% người tiêu dùng quan tâm đến thương hiệu khi mua sắm. Nhưng hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư cho thương hiệu khoảng 1% doanh số. Trong khi ở các công ty nước ngoài con số này là 5% - 7%. Theo nhận xét của bà Phạm Chi Lan, Phó chủ tịch Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam : "Về cách tiếp thị của các công ty Việt Nam hiện giờ so với mặt bằng chung trong vùng như Tháilan, Inđônêxia, còn thấp hơn rất nhiều. Việt Nam cần có những chiến dịch quảng bá, những quảng bá như Tháilan đã từng quảng bá du lịch chẳng hạn. Nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay Việc đi hội chợ, các triển lãm quốc tế ở các nước thì họ thường đi rất ít. Ngay cả khi đi cũng chưa chọn lọc kĩ để gây ấn tượng mạnh cho mình. Mẫu mã và cánh tiếp cận thị trường là 2 mặt mà doanh ngiệp Việt Nam còn yếu. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay tập trung rất nhiều vào khâu sản xuất ra sản phẩm, nhưng họ chưa chú trọng đầy đủ đến mặt dịch vụ kèm theo , hoặc dịch vụ phục vụ cho việc đưa ra sản phẩm đó được đưa ra một cánh tốt hơn ... ". Thứ hai, Chính sánh của Nhà nước còn chậm thay đổi nên gây ra những cản trở về nhiều mặt. Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước coi thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, giữ vai trò định hướng cho các thành phần kinh tế khác. Vì thế nó nắm các nguồn lực quan trọng nhất và được hưởng những ưu đãi thậm chí được bảo hộ chặt chẽ. Nhưng chính điều này đã làm cho các doanh nghiệp này yếu sức cạnh tranh và không có khả năng hội nhập để đương đầu với sự cạnh tranh trực tiếp của hàng hoá nhập khẩu. Doanh nghiệp Smes của Nhà nước đã và đang bộc lộ những điểm yếu của mình, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, theo báo cáo của Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp thì năm 1998 chỉ có 37% số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, số còn lại thua lỗ nặng. Đến cuối năm 1999, chỉ có 20% số doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn giảm dần : năm 1995 là 19,1%, năm 1997 là 10,6%, năm 1998 là 8%. Năm 1998, công nghiệp Nhà nước chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động và sản xuất ra 48% tổng giá trị sản xuất toàn ngành nhưng chỉ đóng góp 40,7% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp. Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác nữa như năng lực quản lý của doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư thấp, hiệu quả sản xuất kém, sức cạnh tranh của hàng hoá không cao ... Thứ ba, quan trọng nhất là vấn đề bảo hộ . Đây chính là yếu tố làm mất đi sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam , tạo nên sức ỳ trong hội nhập. Hơn nữa Nhà nước ta còn chậm trong vấn đề phổ biến kiến thức hội nhập cho doanh nghiệp, chưa công bố rộng rãi lịch trình cắt giảm thuế để các doanh nghiệp có khả năng chuẩn bị tốt, nâng cao sức cạnh tranh. Còn thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết tới các Bộ, ngành liên quan. Tất cả điều này thể hiện năng lực yếu kém trong quản lý, bộ máy quản lý hoạt động thiếu đồng bộ, không thống nhất. Thứ tư, khó khăn về cơ sở hạ tầng kĩ thuật. Các xí nghiệp công nghiệp chủ lực của Nhà nước chủ yếu kế thừa từ thời Pháp thuộc, ít được sửa chữa, công nghệ sản xuất còn lạc hậu. Hơn nữa lại phân bố không đều, không tận dụng được nguồn lực. Có thể lấy ví dụ ngay trên địa bàn Hà Nội tập trung rất nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp nhưng hiệu quả sản xuất không cao. Các nhà máy chính trên địa bàn như nhà máy cơ khí chính xác, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo ... đã từng hưng thịnh thời kì Pháp thuộc và trong thời bao cấp thì hiện nay sản xuất yếu, cầm chừng vì không phát huy được hiệu quả trong thời kì mới, công nghệ sản xuất thì vẫn như xưa không thay đổi là mấy vì thiếu vốn đầu tư. Một số nơi nhờ có vốn đầu tư nước ngoài mà chúng ta đã xây mới được một số khu công nghiệp trọng điểm nhưng hiệu quả sử dụng không cao, nhiều nơi sản xuất chưa hết công suất thiết kế mà khấu hao máy móc hàng năm thì rất lớn. Hay nói cách khác là hiệu quả sử dụng vốn không cao. Ví dụ về nhà máy giấy của Việt Nam, chỉ sản xuất được khoảng 60% công suất, nhà máy mía đường cũng vậy vấn đề là do khâu cung cấp nguyên liệu không đủ trong khi đó ngay bên ngoài nhà máy, người nông dân lại phải bán rẻ các nguyên liệu này vì không dủ tiêu chuẩn chế biến. Nghịch cảnh này còn ở nhiều nơi khác nữa nếu chúng ta không quan tâm đến việc tìm đầu vào đầu ra trước khi phê duyệt một dự án đầu tư hàng chục tỉ đồng. Đây chính là điều kiện để thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam mà chúng ta không làm tốt thì sẽ thua trong cuộc cạnh tranh về môi trường đầu tư với các nước trong khu vực. Thứ năm, thiếu nguồn nhân lực có trình độ kĩ thuật và trình độ quản lý cao. Chúng ta vẫn nói rằng thế mạnh của chúng ta là có nguồn nhân lực dồi dào giá nhân công lại rẻ nhưng thế có thực sự là thế mạnh không khi mà xu hướng chung trên thế giới hiện nay là tự động hoá, vi tính hoá công đoạn sản xuất, nâng cao trình độ kĩ thuật, chất xám trong sản phẩm ? Câu trả lời ở đây là không. Nếu chúng ta không quan tâm hơn đến đào tạo nguồn nhân lực thì không thể thích ứng với tình hình mới. Hiện nay chúng ta đang thiếu một cách trầm trọng các công nhân kĩ thuật, các nhà quản lý có trình độ chuyên môn cao đặc biệt là trong sản xuất Công nghiệp do những bất cập trong công tác đào tạo và hướng nghiệp. Nhân tố con người chính là nhân tố quyết định trong phát triển kinh tế trong khi nhận thức về vấn đề này chưa đầy đủ, nền giáo dục còn lạc hậu quá nhiều so với Thứ sáu, phải nói rằng Công nghệ của chúng ta còn quá yếu kém, lạc hậu. Trình độ công nghệ của Việt Nam hiện tại tụt hậu khoảng 25 - 30 năm so với Tháilan dẫn đến chi phí cho đầu vào cao hơn từ 30% - 50% so với các đối tác ASEAN khác. Đấy là so sánh với các nước trong khu vực, các nước có trình độ sản xuất khá gần với ta còn như vậy thì nếu so sánh với các nước phát triển ở phương Tây hay Mĩ thì chúng ta sẽ xếp ở hàng thứ bao nhiêu? Và liệu bao giờ chúng ta mới có thể đuổi kịp họ? Tuy rằng nước ta được thiên nhiên ưu đãi với nhiều nguồn tài nguyên phong phú đa dạng nhưng nền Công nghiệp của Việt Nam lại không phát triển đầy đủ, các ngành Công nghiệp chủ yếu là công nghiệp nhẹ và khai khoáng xuất khẩu sản phẩm thô, hàm lượng kĩ thuật trong sản phẩm không cao. Công nghiệp nhẹ với các mặt hàng chủ lục và có ưu thế trong xuất khẩu là hàng may mặc,đồ da giày, thực phẩm ... Còn công nghiệp khai khoáng thì trình độ công nghệ thấp dẫn đến sự khai thác không hợp lý và lãng phí các nguồn lực. Khả năng chế biến nguyên liệu thô khai thác được gần như là không có. Các mỏ dầu khí của ta ở thềm lục địa có trữ lượng lớn đã được Nga hỗ trợ ban đầu rất nhiều trong việc khai thác nhưng chúng ta cũng mới chỉ dừng ở việc xuất khẩu dầu thô với giá rẻ. Hay trong xuất khẩu cà phê cũng vậy, Việt Nam chỉ dừng ở việc xuất khẩu cà phê hạt chứ chưa có đủ trình độ sản xuất cà phê bột, như vậy chúng ta xuất khẩu cà phê hàng năm vào hàng cao trên thế giới nhưng lại phải nhập khẩu àa phê bột từ nước ngoài với giá cao. Như vậy vấn đề tiềm ẩn trong hội nhập kinh tế AFTA là liệu các nước kém phát triển có trở thành nhà cung cấp nguyên liệu thô như thời kì thuộc địa hay không? Không những thế việc phân bố các khu công nghiệp cũng còn nhiều điều bất hợp lý cần phải xem xét và điều chỉnh lại. Thứ bảy, nhận thức của các nhà quản lý doanh nghiệp về vấn đề hội nhập còn hạn chế. Phần lớn, các doanh nghiệp chưa chuẩn bị chu đáo cho quá trình hội nhập, chưa đưa ra được các chính sách, chiến lược thích ứng để tham gia AFTA hay WTO… Khảo sát 66 doanh nghiệp của Báo Sài Gòn Tiếp Thị mới đây cũng cho thấy : chỉ có hơn 1/2 doanh nghiệp có các cuộc họp chính thức bàn luận về AFTA ; hơn 1/2 doanh nghiệp có giao nhiệm vụ chính thức cho các cá nhân hay bộ phận trong công ty nghiên cứu về AFTA. Ngành dệt, da, may, tuy có nhiều doanh nghiệp nghiên cứu về AFTA sớm nhất, nhưng có gần 1/3 tổng số doanh nghiệp cho biết chưa xác định được chính sách và biện pháp đối với AFTA. Tuy nhiên có một số các doanh nghiệp thành công và đã chuẩn bị đầy đủ cho hội nhập . Đó là số doanh nghiệp tìm cách đương đầu hội nhập từ rất sớm và đến nay thì khá bình tĩnh, tự tin, điển hình là Vinamilk. Ngay từ những năm cuối 1999 - 2000, Vinamilk đã có ý thức đưa các sản phẩm sữa, bột dinh dưỡng ... vào các thị trường ASEAN để làm quen trước khi họ vào đến mình. Còn tại sân nhà, Vinamilk đã liên tục đưa ra các sản phẩm mới, chất lượng cao nhưng giá thành thấp so với các sản phẩm nhập, để " đuổi " đối thủ. Mạng lưới phân phối của Vinamilk phủ kín cấp xã. Công ty TNHH Kinh Đô, ngoài việc phủ kín thị trường nội địa, xuất khẩu sang các thị trường ASEAN ... mới đây còn dự định đầu tư một nhà máy sản xuất ngay trên đất Mĩ. Đây là một số doanh nghiệp tiêu biểu thích hợp cho quá trình hội nhập, các kinh nghiệm của mô hình này cần phải được nhân rộng, phổ biến cho các doanh nghiệp khác học tập và chuẩn bị cho tiến trình hội nhập thật tốt. Phần II : Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam 2.1 Khái niệm và cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Vì sự thành đạt của một quốc qia phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Mà trong giai đoạn đầu phát triển của cơ chế thị trường thì doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để nhận biết doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách có cơ sở khoa học, chúng ta hãy đi từ việc xác định doanh nghiệp nói chung. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh, thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng trao đổi hàng hoá trên thị trường theo nguyên tắc tối đa hoá lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp. Hiện nay người ta phân loại doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau, tuỳ theo tính chất hoạt động, ngành kinh tế kỹ thuật, nguồn vốn sở hữu, quy mô doanh nghiệp và tính chất quản lý. Theo ngành nghề kĩ thuật, có doanh nghiệp công nghiệp, nông-lâm-ngư nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ… Theo hình thức sở hữu, có hình thức doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân… Theo cấp quản lý, có doanh nghiệp trung ương, doanh nghiệp địa phương. Theo qui mô, trình độ sản xuất kinh doanh, có doanh nghiệp quy mô lớn, doanh nghiệp quy mô vừa, doanh nghiệp quy mô nhỏ. Ngoài ra, còn các cơ sở sản xuất kinh doanh không chính thức thành lập doanh nghiệp thuộc loại doanh nghiệp “siêu nhỏ”. Theo tính chất hoạt động, tức là theo yêu cầu xã hội và cơ chế thị trường, có doanh nghiệp sản xuất hàng hoá công cộng, không nhằm mục tiêu lợi nhuận là hàng đầu như công ty môi trường đô thị, công ty công viên… và có những doanh nghiệp nhằm mục tiêu lợi nhuận tối đa. Việc phân loại các loại hình doanh nghiệp chỉ mang tính chất tương đối vì trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất tổng hợp, đa ngành hoặc có sự đan xen nhiều chủ sở hữu về tư liệu sản xuất. 2.2 Các tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ Thuật ngữ “doanh nghiệp vừa và nhỏ” ở các nước phương Tây gọi là SME (Small and Medium Enterprise), có nghĩa là các cơ sở sản xuất kinh doanh có qui mô tương đối nhỏ. Nhưng nếu muốn nói một cách chính xác rằng qui mô không lớn lắm đến đâu hoặc qui mô như thế nào thì gọi là “nhỏ” cần phải dựa vào những tiêu thức để xem xét. Việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước thường được cân nhắc đối với từng giai đoạn phát triển kinh tế, tình hình làm việc nói chung trong cả nước và tính chất nền kinh tế hiện hành của nước đó. Việc xác định các doanh ngiệp vừa và nhỏ không có tính chất cố định mà có xu hướng thay đổi theo tính chất những hoạt động của nó, mục đích của việc xác định và mức độ phát triển doanh nghiệp. Tiêu chuẩn được sử dụng để xác định doanh nhgiệp vừa và nhỏ là : Thứ nhất, tổng vốn đầu tư được huy động vào sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, giá trị bằng tiền của sản phẩm bán hoặc dịch vụ, lợi nhuận, vốn bình quân cho một lao động, doanh thu …Để tiện cho việc so sánh quốc tế người ta thường qui đổi ra loại tiền thông dụng trong giao dịch quốc tế như USD… Thứ hai, số lao động được sử dụng thường xuyên, tiêu thức này rất thuận tiện cho việc so sánh quốc tế bởi nó không dễ dàng chịu ảnh hưởng của những khác biệt giữa các quốc gia về mức thu nhập hay những thay đổi trong giá trị đồng tiền nội địa hiện hành qua các thời kỳ khác nhau. Tuỳ thuộc và điều kiện cụ thể của mỗi nước mà người ta quan tâm đến độ lớn của mỗi tiêu thức lao động, tổng vốn đầu tư hoặc doanh thu…trong các ngành, nhóm ngành khác nhau. Hàn Quốc là một nước công nghiệp trẻ, đạt được nhiều thành công chính là từ các Smes, có những tiêu chuẩn phân loại các Smes như sau : Trong lĩnh vực chế tạo, khai thác, xây dựng, doanh nghiệp có dưới 300 lao động thường xuyên và tổng vốn đầu tư dưới 600.000 USD đựơc coi là các Smes, dưới 20 lao động được coi là nhỏ. Trong lĩnh vực thương mại, doanh nghiệp dưới 20 lao động thường xuyên và doanh thu dưới 500.000 USD/năm (nếu là bán lẻ) và dưới 250.000USD/năm (nếu là bán buôn) được coi là các Smes, dưới 5 lao động thường xuyên gọi là nhỏ. Đối với nước ta, khái niệm “doanh nghiệp vừa và nhỏ” đã được các địa phương, các ngành vận dụng một cách khác nhau. Tại Hội thảo “ Phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” tổ chức tại Trung tâm triển lãm Giảng Võ, Hà Nội, đã xuất hiện nhiều cách xác định về doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau : Bảng 2 : Các tiêu thức chủ yếu để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam Phạm vi xác định Qui mô doanh nghiệp Vốn ( tỷ đồng ) Lao Động (Người) Doanh thu hàng năm ( tỷ đồng ) Thành phố Hồ Chí Minh Loại vừa > 1 > 100 > 10 Loại nhỏ < 1 < 100 < 10 Ngân hàng công thương Việt Nam Loại vừa và nhỏ < 18 < 500 < 20 Đồng Nai Loại vừa - - < 100 Loại nhỏ - - Các chuyên gia kinh tế Loại vừa > 0,3 > 50 - Loại nhỏ 0,1 – 0,3 5 - 50 - (-) Không có số liệu Nguồn : Thông tư Liên bộ Bộ lao động –Thương binh và xã hội Tham luận Hội thảo khoa học về doanh nghiệp vừa và nhỏ 2.3 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế quốc dân 2.3.1 SMEs tạo công ăn việc làm cho người lao động Xét trên góc độ giải quyết việc làm thì doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn đóng vai trò quan trọng hơn các doanh nghiệp lớn, đặc biệt trong thời kì suy thoái kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế của các nước công nghiệp phát triển cũng như thời kỳ đầu đổi mới của Việt Nam đã chỉ ra rằng : khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp lớn phải giảm lao động để giảm chi phí sản xuát tới mức có thể tồn tại và phát triển được , vì cầu của thị trường thấp hơn cung của thị trường. Nhưng đối với các doanh ngiệp vừa và nhỏ do đặc tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường nên nó vẫn có thể hoạt động được, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Do đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ không những không giảm lao động mà vẫn có thể thu hút thêm lao động Hội đồng doanh nghiệp nhỏ thế giới cho rằng : “ doanh nghiệp vừa và nhỏ là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp khi mà nền kinh tế suy thoái”. 2.3.2 SMEs tạo ra thu nhập bảo đảm đời sống của người lao động ở Việt Nam tính đến 31/02/1995 cả nước đã có 12.190 công ty, doanh nghiệp tư nhân được hình thành theo luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, trong đó có 8694 doanh nghiệp tư nhân, 104 công ty cổ phần, 3392 công ty trách nhiệm hữu hạn. Ngoài ra còn có hàng triệu các cơ sở kinh daonh dịch vụ, vận tải hộ cá thể. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, vận tải, xây dựng, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút được 3.5 triệu lao động, chiếm 11% tổng số lao động xã hội cả nước, đã đầu tư 4150 tỷ đồng trong tổng số 9100 tỷ đồng đầu tư của khu vực này. Khảo sát 49 doanh nghiệp ở thị xã Hà Đông cuối năm 1999, cho thấy thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp như sau : 10% số doanh nghiệp có thu nhập dưới 200.000 Đ/tháng, 18% số doanh nghiệp có thu nhập từ 200.000 - 300.000 Đ/tháng, 51% các doanh nghiệp có thu nhập từ 300.000 - 400.000 Đ/tháng, 21% số doanh nghiệp có thu nhập từ 400.000 – 450.000 Đ/tháng. Tính chung cho các doanh nghiệp, thì thu nhập bình quân của người lao động đạt 350.000 Đ/tháng. Điều đó phản ánh năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ cao hơn sản xuất cá thể và hộ gia đình nông nghiệp thuần tuý. 2.3.3 Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tận dụng các nguồn lực xã hội Thứ nhất, Về tiền vốn, doanh nghiệp vừa và nhỏ thường khởi sự ban đầu bằng nguồn vốn hạn hẹp của cá nhân, sự tài trợ bên ngoài là hết sức hạn chế. Do dễ khởi sự bằng nguồn vốn ít ỏi nên doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ được đông đảo nhân dân tham gia hoạt động, qua đó thu hút được nguồn vốn trong nhân dân vào sản xuất kinh doanh. Ước tính trên 400.000 doanh nghiệp công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đã thu hút khoảng 25.000 tỷ đồng, chưa kể phần thu hút hàng ngàn tỷ đồng nhàn rỗi khác phục vụ cho nhu cầu ngắn hạn về vốn của doanh nghiệp. Thứ hai, Về lao động, doanh nghiệp vừa và nhỏ thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, ít vốn. Do đó, phần lớn lao động trong khu vực này không đòi hỏi phải có trình độ cao, phải đào tạo nhiều thời gian và chi phí tốn kém, chỉ cần bồi dưỡng hoặc đào tạo ngắn ngày là người lao động có thể tham gia sản xuất trong doanh nghiệp. Thứ ba, Về mặt kỹ thuật, doanh nghiệp Smes thường lựa chọn kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động và khả năng về vốn, họ kết hợp kỹ thuật thủ công với kỹ thuật mà quảng đại quần chúng lao động có thể nhanh tróng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất. Họ ít sử dụng những thiết bị tiên tiến hiện đại đòi hỏi vốn lớn, đào tạo sử dụng lâu, tốn kém kinh phí. Do đó, phần lớn các trang thiết bị của các Smes là sản phẩm trong nước. Thứ tư, Về nguyên vật liệu, doanh nghiệp Smes với nguồn vốn ít, lao động thủ công là chủ yếu, do vậy nguồn nguyên liệu được sử dụng chủ yếu là tại chỗ, thuộc phạm vi địa phương, dễ khai thác, sử dụng, qua đó cũng tạo điều kiện giải quyết việc làm trong khu vực, rất ít doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại. Cuộc khảo sát 1000 doanh nghiệp nhỏ cho thấy 80% nguồn nguyên vật liệu cung ứng cho các doanh nghiệp là ở tại địa phương. 2.3.4 SMEs có tác dụng quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Quá trình phát triển doanh nghiệp Smes cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết và thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp nhu cầu thị trường, đến một mức độ nào đó nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước diễn ra không chỉ ở chiều sâu mà cả ở chiều rộng. Doanh nghiệp Smes phát triển làm cho công nghiệp và dịch vụ phát triển dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày một tốt hơn, đặc biệt là ở vùng nông thôn. 2.4 Những ưu điểm và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình hội nhập 2.4.1 Những ưu điểm Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại và nhanh tróng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của kinh tế thị trường, doanh nghiệp Smes có thể bước vào các thị trường mới mà không hút sự chú ý các doanh nghiệp lớn, và sẵn sàng phục vụ ở các nơi xa xôi nhất hoặc các khoảng trống vừa và nhỏ của thị trường. Chính vì vậy, nó có nhiều điểm mạnh : Thứ nhất, Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường. Doanh nghiệp Smes chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp. Vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng, tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hoặc doanh nghiệp gặp khó khăn, thì dễ dàng thay đổi tình thế, nội bộ dễ thống nhất. Thứ hai, Dễ phát huy bản chất hợp tác. Các Smes chỉ tiến hành một hoặc một vài công đoạn trong quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp với nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị trường, do đó các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến hành hợp tác sản xuất, nếu không sẽ bị đào thải. Thứ ba, Thu hút nhiều lao động, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp. Các Smes, do nguồn vốn ít vì vậy đầu tư vào tài sản cố định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là các nước có lực lượng lao động dồi dào và gía công lao động thấp như nước ta, để tiến hành sản xuất kinh doanh phục vụ dân sinh, và thường họ đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao. Thứ tư, Không có hoặc ít có xung đột giữa nguời lao động và người sử dụng lao động. Do qui mô vừa và nhỏ, sự ngăn cách giữa người lao động và người sử dụng lao động không lớn, và bản thân người chủ, người sử dụng lao động luôn sát với công việc của người lao động, do vậy nếu có xung đột, mâu thuẫn cũng dễ dàng giải quyết. Thứ năm, Có thể phát huy tiềm lực của thị trường trong nước. Sự phát triển của các Smes ở giai đoạn đầu là phương thức tốt để sản xuất thay thế nhập khẩu. Các nước đang phát triển như nước ta, chỉ cần lựa chọn một số mặt hàng để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí và vốn đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua của người dân, từ đó nâng cao năng lực sản xuất và sức mua của thị trường. Thứ sáu, Về tiềm năng phát triển. Qua thực tế sản xuất kinh doanh, mạng lưới các Smes trên khắp mọi miền của đất nước đã đào tạo, sàng lọc các nhà doanh nghiệp, và là nơi đào tạo hữu hiệu nhất. Mặt khác, quá trình phát triển của Smes là quá trình tích tụ vốn, tìm kiếm mở mang thị trường,…để phát triển thành doanh nghiệp lớn. Các Smes có một lợi thế là mới phát triển, quy mô nhỏ bé, tồn tại trong mọi thành phần kinh tế và đang trong quá trình chuyển hoá, do đó có nhiều thuận lợi để phát triển, nó chưa chịu ảnh hưởng lớn của độc quyền và cạnh tranh quyết liệt với nhau cho nên nhu cầu của thị trường còn rộng lớn. Do đó, nếu tận dụng hết khả năng của mình thì chắc chắn các Smes Việt Nam sẽ là một lực lượng nòng cốt cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập nhiều khó khăn và thử thách. 2.4.2 Những hạn chế Sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp Smes đạt hiệu quả thấp diễn ra có tính chất phổ biến trong tất cả các ngành, các loại hình sở hữu, nguyên nhân chính là do giá cả, chất lượng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Loại trừ các yếu tố bên ngoài như buôn lậu tràn lan, sự độc quyền có ảnh hưởng đến giá cả, chất lượng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước của các Smes, thì các yếu tố của môi trường kinh tế – xã hội và bản thân doanh nghiệp Smes tác động nhân quả với nhau dẫn đến yếu kém của nó. Theo cách phân tầng thì có 8 vấn đề ảnh hưởng trực tiếp : Một là, chi phí vận chuyển qua cao. Hai là, vai trò hợp đồng phụ nhận thức chưa đúng. Ba là, thiếu thông tin về thị trường trong và ngoài nước. Bốn là, khó khăn về tài chính. Năm là, công nghệ, kỹ thuật thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém . Sáu là, nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp Smes chưa được đánh giá đúng. Bảy là, nguồn nguyên liệu đầu vào còn thiếu và đôi khi phải dựa vào nhập khẩu. Tám là, sản xuất nguyên vật liệu đầu vào chất lượng cao ở trong nước còn hạn chế. Chín là, hệ thống chính sách không công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp. Đánh giá và nhận ra những mặt yếu của mình và khắc phục nó là một yếu tố quan trọng quyết định thành công. “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng” sẽ là lời khuyên tốt nhất cho các Smes trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức được những khó khăn từ hội nhập và biến những cơ hội có được từ sự chuyển đổi thành hiện thực, nhất định các Smes sẽ thành công. Phần III : Những cơ hội và thách thức đặt ra đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam sau khi Trung Quốc ra nhập WTO. 3.1 ý nghĩa và ảnh hưởng của kinh tế khu vực và thế giới từ sau khi Trung Quốc ra nhập WTO Không phải ngẫu nhiên mà đại diện thương mại Mỹ Robert Zoellick đã nói trong cuộc họp tại Quata vừa qua rằng “ Với việc kết nạp Trung Quốc vào WTO, chúng ta đã thực hiện một bước quyết định trong việc định hình hệ thống kinh tế và thương mại toàn cầu”. Còn cao uỷ thương mại EU Pascal lamy thì nói rằng “Đây là một quyết định lịch sử, một bước tiến lớn nhất của WTO để trở thành một tổ chức mang tính toàn cầu”. Với dân số 1.3 tỷ người, nguồn thu nhập quốc dân 980 tỷ USD, chiếm 3,3% GDP của thế giới, khối lượng ngoại thương về hàng hoá là 474,4 tỷ USD, chiếm khoảng 8% thế giới, Trung Quốc là thị trường tiềm năng về đầu tư và xuất khẩu. Chính vì vậy, trở thành thành viên của WTO, thị trường Trung Quốc sẽ mở rộng hàng hoá của các nước thành viên khác, đồng thời hàng hoá của nước này sẽ tự do thâm nhập vào thị trường thế giới, dẫn đến những biến đổi đáng kể đến cán cân buôn bán thế giới cũng như luồng FDI. Trước hết, Trung Quốc gia nhập WTO sẽ ảnh hưởng tới kinh tế các đối tác chủ yếu của Trung Quốc như các nước OECD, ASEAN, NIE châu á và một số nước thuộc APEC. Các nghiên cứu khác nhau đêu cho thấy nền kinh tế đa số các nước này đều chịu tác động tích cực và khai thác tốt hơn những lợi thế so sánh của mình ở những mức độ khác nhau. GDP của các nước OECD sẽ tăng thêm từ 0,01 đến 0,006% nhờ quá trình tự do hoá thương mại với Trung Quốc. Riêng Mỹ, GDP giảm với mức 0,04% đến 0,02% do thâm hụt thương mại. Bù lại Mỹ tăng xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc. Kết quả điều tra phản ứng của các doanh nghiệp đối với việc Trung Quốc gia nhập WTO ở 12 nước Châu á của tổ chức nghiên cứu rủi ro về kinh tế và chính trị (PERC) tại Singapore cho thấy mức độ tác động khác nhau : 92,3% doanh nghiệp ở hàn Quốc và 85,7% ở Nhật Bản cho rằng Trung Quốc gia nhập WTO có tác động tích cực trong khi con số này là 66,7% ở Thái Lan, 40% ở Singapore và chỉ có 5,7% ở Việt Nam, trong số này đa số là các doanh nghiệp Smes. Đối với các nước ASEAN, việc Trung Quốc gia nhập WTO ảnh hưởng ít nhiều tới nền kinh tế khu vực. Theo nghiên cứu của Ban thư ký ASEAN có thể GDP của đa số các nước đều tăng do xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc và gia tăng xuất khẩu một số mặt hàng mà Trung Quốc mất dần lợi thế cạnh tranh ở những thị trường khác. Về lý thuyết, ASEAN có ít lý do để lo ngại về xuất khẩu khi cạnh tranh trực tiếp với hàng Trung Quốc cùng chủng loại (dệt may, dày dép…) trên cùng thị trường xuất khẩu (Mỹ, EU và Bắc á). Tuy nhiên, một so sánh về 10 sản phẩm xuất khẩu hàng đầu của ASEAN và Trung Quốc cho thấy rằng hàng xuất khẩu của Trung Quốc nhìn chung có tính cạnh tranh cao hơn so với hàng Philippin, Thái Lan và Việt Nam nhưng lại ít cạnh tranh hơn so với hàng Indonesia, Malaysia và Singapore. Chính vì vậy cán cân thương mại của các nước có trình độ phát triển cao hơn trong khối sẽ thặng dư. Chỉ có Lào và Việt Nam là có thặng dư thương mại âm dù khối lượng xuất khẩu vẫn gia tăng với số dương. Có thể nói rằng, trở thành thành viên WTO, với sức mạnh kinh tế kết hợp với sức mạnh chính trị. Trung Quốc sẽ trở thành một trong những thành viên có tiếng nói quyết định, trong tương lai sẽ góp phần hình thành một trật tự kinh tế thế giới mới. 3.2 Những cơ hội và thách thức đối với các SMEs Việt Nam 3.2.1 Những thách thức Không thể phủ nhận một thực tế là nền kinh tế Việt Nam chịu tác động rất lớn từ nền kinh tế trung Quốc. Trước hết là do cơ cấu kinh tế hai nước có quá nhiều điểm tương đồng : nông nghiệp là ngành sản xuất chủ đạo, cùng đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng cường mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mặt khác, với 1350km đường biên giới chung và 6 cửa khẩu, các luồng hàng hoá và dịch vụ có điều kiện thuận lợi để lưu chuyển từ thị trường Trung Quốc sang thị trường Việt Nam và ngược lại. Việc Trung Quốc gia nhập WTO đã có những tác động tới các Smes, cụ thể là : Thứ nhất, tác động tới hàng xuất khẩu của các Smes. Trung Quốc sẽ phải thực hiện cam kết giảm thuế quan và xoá bỏ hạn ngạch. Đối với sản phẩm nông nghiệp, thuế nhập khẩu giảm từ 21% xuống còn 17%, khi không còn được Nhà nước bù lỗ nữa, các nông phẩm của Trung Quốc chắc chắn sẽ tăng giá, mất dần tính cạnh tranh trên thị trường trong nước và như vậy hàng hoá của các nước thành viên WTO do được hưởng ưu đãi về thuế sẽ rẻ đi nhiều, sức cạnh tranh lớn hơn sẽ ảnh hưởng tới thị phần và sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam ở Trung Quốc. Ngoài ra, đang tồn tại một nguy cơ là hiện nay Trung Quốc đã tự trồng được hầu hết các loại hoa quả nhiệt đới mà từ trước tới nay do Việt Nam độc quyền như nhãn, vải thiều, thanh long, chuối, dưa hấu.Các nhà khoa học trung Quốc đã lai tạo được nhiều loại quả trái mùa. ảnh hưởng trước mắt chưa lớn nhưng về lâu dài, khi chúng ta tham gia hội nhập kinh tế, chính những nông sản này sẽ tràn vào nước ta, cạnh tranh trực tiếp với nông sản của các Smes. Với nhóm cao su tự nhiên, để xuất khẩu cao su sang Trung Quốc, các Smes phait cạnh tranh với Thái Lan, Đài Loan và Malaysia. Thao tổng công ty cao su Việt Nam( chiếm khoảng 50% sản lượng và 65% khối lượng xuất khẩu). Tuy nhiên chất lượng cao su còn kém vì sản xuất theo tiêu chuẩn SVR của liên Xô trước đây, trong khi Thái Lan, Đài Loan và Malaysia sản xuất theo tiêu chuẩn ISS của Mỹ. Rõ ràng, ngành cao su cũng đang đứng trước khó khăn cần phải vượt qua là phải giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng tính cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc. Đối với các mặt hàng còn lại như may mặc, giày dép, linh kiện điện tử và máy tính nguyên chiếc, tỉ trọng trong cơ cấu xuất sang Trung Quốc không cao. Xét trong bối cảnh hiện nay, hàng Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt để dành dật thị phần trên thị trường Trung Quốc. Bảng 3 : Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Đơn vị tính :% 1999 2000 2001 ( Sáu tháng đầu năm ) A. Hàng nguyên vật liệu và thực phẩm sơ chế 61,9 75,6 83,6 1. Dầu thô 38,6 48,8 52,7 2. Hải sản 6 14,5 15,9 3. Rau quả 4,2 7,8 9,8 4. Cao su 6 4,3 2,8 5. Hạt đIều 6,3 - 1,7 6. Than 0,4 - 0,6 7. Cà phê 0,4 0,2 0,1 B. Hàng công nghiệp 0,3 0,4 2 8. Hàng may mặc 0,1 0,2 1,3 9. Giày dép 0,2 0,2 0,3 10.Máy tính - - 0,4 Tổng cộng 100 100 100 ( Triệu USD ) (859) (1.534) (794) (- ) Không có số liệu Nguồn : Tổng cục hải quan Thứ hai, tác động tới hàng xuất khẩu của các Smes sang thị trường thứ ba. Do cơ cấu hàng nhập khẩu có nhiều điểm tương đồng nên hàng Việt Nam và Trung Quốc đang cạnh tranh mạnh trên thị trường các nước thứ ba. Những ưu đãi có được từ việc gia nhập WTO sẽ làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc. Trong đó, dệt may, giày dép và hàng điện tử là những mặt hàng bị ảnh hưởng mạnh nhất. Theo Bộ thương mại,chi phí sản xuất một đôi giày ở Trung Quốc là 2-3 USD trong khi ở Việt Nam, chi phí sản xuất một đôi giày tương tự sẽ là 5-6 USD do nguyên vật liệu đầu vào rẻ hơn. các doanh nghiệp của trung Quốc được hưởng quy chế tối huệ quốc khi buôn bán với các đối tác là thành viên của WTO nên sẽ dễ dàng xuất khẩu giầy dép sang các nước này. Thứ ba, tác động tới thị trường nội địa của các Smes.Hàng hoá của Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam sẽ tăng bởi hai lý do. Một là, do được hưởng ưu đãi, một bộ phận hàng hoá của Trung Quốc sẽ có sức cạnh tranh lớn nhờ giá rẻ, chất lượng cao, mẫu mã đẹp, hợp túi tiền và hợp thị hiếu của đa số dân cư Việt Nam (hàng dệt may, giầy dép là ví dụ ). Hai là, do nghĩa vụ thực hiện những cam kết cắt giảm thuế quan và phi thuế quan, một bộ phận hàng hoá khác sẽ gặp nhiều khó khăn trên thị trường Trung Quốc , có nguy cơ trở nên thừa ế, ứ đọng và khi đó thị trường Việt Nam sẽ trở thành mục tiêu xâm nhập của những loại hàng này. Trong số đó, các mặt hàng xe máy, trang thiết bị máy móc, tư liệu phục vụ sản xuất nông nghiệp, rau quả, đồ chơi… Thứ tư, tác động tới nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, do đó làm ảnh hưởng đến đối tác làm ăn của các Smes. Hơn hai mươi năm qua, nhờ thực hiện chính sách cải cách mở cửa mà Trung Quốc đã trở thành quốc gia lớn nhất trong số các nước đang phát triển trong việc thu hút FDI : FDI vào Trung Quốc tăng khá đều đặn và đạt kỷ lục vào năm 2001 với con số 46.877 triệu USD. Trong khi đó FDI vào Việt Nam rất thất thường, đỉnh điểm vào năm 1996 với 8.640 triệu USD từ đó giảm dần cho đến năm 2000, năm 2001 dù có tăng so với năm 2000 song chỉ ở mức khiêm tốn là 2.346 triệu USD. Bảng 4 : Luồng vốn FDI vào Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 1997 – 2001 Đơn vị : Triệu USD Năm Việt Nam (vốn đăng ký) Trung Quốc ( vốn thực hiện ) 1987 – 1992 976,8 4.652 1993 2.589 27.515 1994 3.746 33.787 1995 6.607 35.489 1996 8.640 40.180 1997 4.649 44.236 1998 3.897 44.460 1999 1.567 40.400 2000 1.987 37.000 2001 2.436 46.877 Nguồn : - UNCTAD World Investment Report 1999. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam. Những số liệu trên chứng tỏ rằng trước khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã là điểm thu hút đầu tư mạnh mẽ trên thế giới. Giờ đây, khi là thành viên của tổ chức này, Trung Quốc sẽ có những điểm lợi thế mới về thu hút đầu tư, cạnh tranh gay gắt với Việt Nam trong việc thu hút FDI. Nguồn FDI giảm đồng nghĩa với việc các đối tác làm ăn của các Smes cũng giảm theo. Rất nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng thành phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước làm nguyên liệu đầu vào cho doanh nghiệp mình, điều này tạo điều kiện các Smes phát triển. Ngoài ra, tham gia hội nhập có nghĩa là Nhà nước Việt Nam phải từ bỏ một số khoản thu ngân sách nhất định do giảm thuế nhập khẩu. Việc giảm thu ngân sách có thể ảnh hưởng ngay lập tức tới các doanh nghiệp sản xuất thuộc các ngành sản xuất mang tính chiến lược đang được trợ cấp như ngành phân bón, sản xuất giấy và mía đường. 3.2.2 Những cơ hội Bên cạnh việc phải đối phó với những đe doạ do hàng hoá của Trung Quốc thâm nhập vào thị trường nội địa dễ dàng hơn, các Smes Việt Nam còn gặp phải những khó khăn do cạnh tranh trên thị trường quốc tế tăng lên, ảnh hưởng tới các mặt hàng xuất khẩu của các Smes. Tuy nhiên, các Smes cũng có thể tận dụng tốt những cơ hội to lớn từ hội nhập. Những cơ hội có tính chất lâu dài bao gồm : Thứ nhất, tham gia quá trình hội nhập sẽ tạo sức ép buộc các Smes phải đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tích cực áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ và cung cách làm ăn mới. Hơn nữa, quá trình hội nhập cũng bắt buộc và khuyến khích các Smes tập trung vào những ngành được hưởng ưu đãi lớn và ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức cạnh tranh. Sức ép đòi hỏi các Smes phải đuổi kịp và vượt các doanh nghiệp từ Trung Quốc và các nước trong khối ASEAN về chất lượng mẫu mã, giá cả hàng hoá trong vòng 5-8 năm, nếu không sẽ phá sản và trao thị trường Việt Nam cho các đối thủ cạnh tranh này. Thứ hai, Các Smes có thể hạ gía thành sản phẩm do mua được những nguyên vật liệu đầu vào rẻ hơn. Đây là cơ hội không dễ có được đối với bất cứ một doanh nghiệp nào. Những khó khăn do khan hiếm nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất sẽ bị loai bỏ khi tham gia hội nhập. Nếu các Smes tận dụng tốt cơ hội này, cùng với sự nhanh nhạy của mình, họ có thể vươn lên tồn tại và đứng vững trước những khó khăn mà hội nhập kinh tế mang lại. Thứ ba, doanh nghiệp Smes sẽ trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua cạnh tranh quốc tế. Những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ (đặc biệt là những doanh nghiệp Smes thuộc sở hữu của Nhà Nước) sẽ bị thay thế bởi những doanh nghiệp nước ngoài hay trong nước có đủ khả năng. Và một hệ quả tất yếu là nền sản xuất trong nước sẽ hiệu quả hơn đối với các điều kiện quốc tế thay đổi. Việc hội nhập vào nềm kinh tế các nước trong khu vực, hình thành các dạng liên kết kinh tế quốc tế luôn đưa lại cho mỗi quốc gia thành viên những thuận lợi và những khó khăn, những lợi ích kinh tế khác nhau. Vì vậy, mỗi quốc gia cần tính toán, cân nhắc, lựa chọn để đưa ra các quyết định thích hợp trong quá trình hội nhập nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Trong khi cân nhắc và đưa ra quyết định chống các quan điểm “hội nhập quá nhanh” hoặc “hội nhập từ từ”. Tiến trình hội nhập của mỗi quốc gia ra sao, đIều đó dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ, toàn diện tình hình trong và ngoài nước để có những quyết định đúng đắn và kịp thời. 3.3 Một vài kiến nghị Rõ ràng hội nhập vào nên kinh tế khu vực và thế giới một mặt tạo ra những thách thức đối với nền kinh tế của Việt Nam, một mặt lại tạo ra những cơ hội kinh doanh to lớn. Điều quan trọng là chúng ta phải nhận biết những yếu kém của mình, khắc phục những nhược điểm đồng thời tận dụng tối đa hội nhập kinh tế. ý tưởng cho rằng hội nhập kinh tế có vai trò trung tâm đối với sự phát triển trong tương lai của Việt nam dường như hàm chứa rõ ràng tư duy chiến lược của quốc gia. Tuy nhiên, rõ ràng chưa biết chắc là nên dựa vào những hành động trong quá khứ như thế nào và tiến lên phía trước ra sao để có thể nắm bắt các rủi ro và sự xáo trộn có thể xảy ra. Một số vấn đề không chắc chắn này phản ánh mối lo ngại rằng sự chuyển đổi của Việt Nam sang một nền kinh tế thị trường hội nhập là một “chuyến du hành không có bản đồ ”. Điều này cũng phản ánh một thực tế là các bước tiếp theo trong qua trình đổi phức tạp hơn rất nhiều và đòi hỏi những nỗ lực lớn hơn nhiều về phương diện kỹ thuật và thể chế so với những giai đoạn cải cách trước đó. Ngòai ra, các nhóm trong cộng đồng cho rằng lợi ích kinh tế của mình bị đe doạ và họ phản đối sự thay đổi ngay cả khi điều đó có là lợi ích chung của cả cộng đồng. Tình hình này lại càng thêm phức tạp do mối lo ngại hợp lý về bản chất không hoàn hảo của các thể chế thị trường, cái có thể dẫn đến những kết quả có hại khi tiến hành tự do hoá hơn nữa. Một thông điệp rõ ràng từ kinh nghiệm của các nền kinh tế đang chuyển đổi khác là có nhiều khả năng tối đa hoá được những lợi ích của hội nhập và giảm thiểu những rủi ro. Nhưng điều này đòi hỏi có sự kết hợp đồng bộ từ bộ ba chủ thể của nền kinh tế, đó là : Nhà Nước, bản thân các Smes và Người tiêu dùng. 3.3.1 Về phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ : Nhận thức rõ ràng rằng phụ thuộc nặng nề vào nền kinh tế Trung Quốc, các doanh nghiệp Smes của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn khi Trung Quốc thay đổi chính sách theo hướng bất lợi, các doanh nghiệp cần thực hiện chiến lược đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Cụ thể, mỗi doanh nghiệp xây dựng chiến lược tổng thể về thị trường xuất khẩu và nguồn hàng xuất khẩu trên cơ sở phân tích dự báo nhu cầu của thị trường, đánh giá khả năng cạnh tranh của mặt hàng . Một vấn đề quan trọng nữa là làm thế nào để năng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất Việt Nam không chỉ sang thị trường Trung Quốc mà còn sang các thị trường khác nữa, đặc biệt là các thị trường có những hàng rào kỹ thuật khắt khe như Mỹ và EU. Chính vì vậy, cần huy động sự nỗ lực từ chính bản thân các doanh nghiệp, phát huy tối đa vai trò của các hội, hiệp hội. Hiệp hội sẽ là cầu nối quan trọng giữa Chính phủ và doanh nghiệp để cùng tìm ra những giải pháp cụ thể nâng cao sức cạnh tranh trong nội bộ từng ngành. Bản thân các Smes cũng nên chủ động tìm kiếm sự giúp đỡ từ phía Chính phủ mỗi khi gặp khó khăn. Tránh để tình trạng khi có sự can thiệp của Chính phủ rồi thì đã quá muộn, doanh nghiệp đã thất bại hoặc phá sản . Các doanh nghiệp Smes cũng cần xem xét, đánh giá quy tắc 6M được thực hiện như thế nào trong doanh ngiệp mình, đó là : lao động (Manpower), nguyên vật liệu (Material), máy móc thiết bị (Machinery), tổ chức quản lý (Managerment), vốn (Money), hoạt động marketing ( Marketing). Đây là sáu yếu tố quan trọng bậc nhất, sự thành bại trong quá trình hội nhập của các Smes tuỳ thuộc vào khả năng thực hiện từng yếu tố này tốt đến đâu. Trong thời gian qua, chúng ta đã nói nhiều đến trình độ quản lý yếu kém, máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu, tình trạng thiếu vốn…( 5M đầu tiên) của các Smes và dường như các Smes cũng phần nào khắc phục những hạn chế các yếu tố đó. Tuy nhiên, hoạt động Marketing( chữ M cuối cùng) thì dường như chưa được hầu hết các Smes quan tâm thoả đáng. Vậy nên, giải pháp đưa ra là, các Smes cần xây dựng chiến lược tiếp cận thị trường hợp lý bằng cách tăng cường hoạt động Marketing (tìm hiểu thị trường, nắm bắt thông tin chính xác, đặt văn phòng đại diện, tham gia các hội trợ giới thiệu sản phẩm ở quy mô phù hợp với khả năng, kiên trì giới thiệu sản phẩm, tích cực quảng cáo…) xây dựng những kế hoạch ngắn hạn, trung hạn cho từng mặt hàng ở từng thị trường cụ thể, đặc biệt tránh đối đầu trực tiếp với những mặt hàng của Trung Quốc có sức cạnh tranh lớn hơn. Giải pháp tiếp theo là cần tận dụng tối đa nguồn lực trong nước, sản xuất kinh doanh tiết kiệm, tránh lãng phí, mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản xuất tới mức cho phép. Bởi vì, tiết kiệm một đồng chi phí là thu thêm được một đồng lợi nhuận, điều này rất quan trọng trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Trong thời gian qua, một số doanh nghiệp Việt Nam đã bị lấy mất thương hiệu trên thị trường thế giới do chưa quan tâm lắm tới vấn đề bảo vệ thương hiệu, vì vậy đã phải mua lại chính thương hiệu của mình với chi phí lớn. Do đó, vấn đề xây dựng thương hiệu Việt Nam và bảo vệ thương hiệu cũng cần đựơc các Smes quan tâm hơn nữa, tránh để tình trạng phải thay “tên” đổi “họ” cho doanh nghiệp mình gây ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh . 3.3.2 Về phía Nhà nước : Vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước là hết sức quan trọng trong việc giúp cho các Smes nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung vượt qua những thách thức để tận dụng mọi cơ hội có được từ việc hội nhập kinh tế mang lại, Nhà nước cần : Thứ nhất, tạo môi trường pháp lý thuận lợi bằng cách loại bỏ những văn bản không phù hợp, bất cập, cản trở ngoại thương giữa Việt Nam và các nước trên thế giới, đồng thời ban hành nhiều văn bản mới phù hợp với tình hình hiện nay. Chính phủ cũng nên có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp, dặc biệt là những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh mạnh và có triển vọng trên thị trường. Thứ hai, tạo môi trường kinh doanh thật sự thuận lợi cho sự phát triển của các Smes, các chính sách mà chính phủ đưa ra phải có sự đóng góp ý kiến từ phía các doanh nghiệp, tránh để tình trạng các chính sách mới đưa ra được một thời gian xét thấy bất hợp lý lại đưa ra những chính sách mới. Điều quan trọng nhất là các chính sách, các thay đổi ở tầm vĩ mô (tỷ giá hối đoái, lãi suất…) của nhà nước phải có thể tiên liệu được, tránh gây hoang mang, lo lắng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. Thứ ba, Nhà nước nên hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường nước ngoài thông qua tham tán thương mại ở các Sư quán, cung cấp hoặc bán thông tin cho các doanh nghiệp có nhu cầu thông qua Bộ thương mại, sở thương mại phòng Thương mại và Công nghiệp. Thứ tư, Nhà nước cần phải đối sử bình đẳng với các thành phần trong nền kinh tế, không phân biệt kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể và quy mô của các thành phần. Hỗ trợ các Smes về vốn bằng cách đơn giản hoá các thủ tục vay vốn, thế chấp, mở các khóa đào tạo cán bộ quản lý, tư vấn, giúp đỡ doanh nghiệp đổi mới, chuyển giao công nghệ… Thứ năm, Chính phủ cũng nên tăng cường những biện pháp an ninh biên giới, ngăn chặn nạn buôn lậu đang diễn ra hết sức phức tạp tại các cửa khẩu và những vùng giáp biên. Có như vậy, Chính phủ mới có được một nguồn thu đáng kể từ thuế nhập khẩu, đồng thời ngăn chặn được hàng giả, hàng kém chất lượng tràn lan trên thị trường trong nước đang gây khó khăn cho các doanh ngiệp Smes. 3.3.3 Về phía người tiêu dùng trong nước : Chúng ta đã biết bất cứ một cuộc Cách mạng nào muốn giành thắng lợi thì nó cũng phải được sự hưởng ứng và góp sức của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội ở giai đoạn đó. Vậy nên, “Cuộc cách mạng” chiến thắng những khó khăn từ hội nhập kinh tế của các Smes cũng không thể dành được những thắng lợi hoặc ít nhất là chiếm ưu thế nếu nó không được sự hưởng ứng và ủng hộ của người tiêu dùng trong nước. Sự thật, tâm lý và tập quán tiêu dùng của người Việt Nam là “sính đồ ngoại ”. Vì thế, thật khó khăn cho hàng hoá của các Smes khi phải cạnh tranh bình đẳng đối với hàng hoá nước ngoài. Nhận thức được điều đó, dư luận trong nước đã có thái độ và nhận thức tốt hơn về vấn đề này, những khẩu hiệu như “ Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam ”… đã xuất hiện. ở một chừng mực nào đó, nó sẽ làm thay đổi dù là nhỏ nhất tâm lý tiêu dùng của đại bộ phận dân chúng. Và kết quả là các Smes là những người hưởng lợi nhiều nhất. Sau đây là một số kiến nghị đối với người tiêu dùng trong nước : Thứ nhất, đối với cùng một sản phẩm, nếu chất lượng, mẫu mã, giá thành của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài giống hoặc tương đương nhau thì người tiêu dùng nên ủng hộ các doanh nghiệp nội bằng cách mua hàng của họ. Bởi vì, hiện nay, đã có rất nhiều mặt hàng được đánh giá là hàng Việt Nam chất lượng cao nếu đem so sánh thì không thua kém các mặt hàng cùng loại trong khu vực. Thứ hai, trong quá trình sử dụng, người tiêu dùng nên có những phản hồi về độ thoả mãn đối với sản phẩm của doanh nghiệp như chất lượng sản phẩm, tính năng sử dụng, giá cả, hình thức phân phối, thanh toán, các dịch vụ sau bán… Từ những sự đóng góp chân thành đó, các Smes sẽ tổng hợp và cải tiến sản phẩm của mình ngày càng tốt hơn nữa, phục vụ tối đa hoá nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng. 3.3.4 Vấn đề nâng cao ý thức của cộng đồng Hội nhập sẽ tiếp tục gặp phải sự phản kháng từ những nhóm lợi ích đang trực tiếp hưởng lợi từ việc bảo hộ khỏi sự cạnh tranh. Cũng có thể tiếp tục có sự do dự đối với hội nhập về phía những người lo sợ tác động tiêu cực đối với chủ quyền quốc gia hoặc sợ hội nhập sẽ khuyến khích sự lan tràn các tệ nạn xã hội. Một vấn đề chính trị cơ bản là những người hiện đang được lợi từ các chính sách hiện hành thì biết rõ họ nhận được lợi như thế nào trong khi những người gánh chịu chi phí của những chính sách đó lại không nhận thức được những chi phí mà mình phải gánh chịu. Và một điều dẽ hiểu là con người thường e ngại những gì họ chưa biết. Đó là lý do tại sao việc giáo dục và phổ biến cho công chúng những lộ trình rõ ràng đối với việc thay đổi chính sách trong tương lai là hết sức quan trọng. Kết luận Vừa là nước láng giềng lại có nhiều nét tương đồng về kinh tế, văn hoá và xã hội, Việt Nam ít nhiều chịu ảnh hưởng của việc Trung Quốc là thành viên của WTO. Việc gia nhập này mang lại cho các ngành sản xuất kinh doanh Việt Nam cả cơ hội lẫn thách thức. Mới được phân tích về mặt lý thuyết, những tác động trên cần có thực tế để kiểm nghiệm. Tuy nhiên, qua đó, những hạn chế trong quan hệ thương mại song phương và trong nền kinh tế Việt Nam đã được bộc lộ. Ngay từ bây giờ, cần thực hiện những giải pháp cụ thể và toàn diện nhằm tận dụng tốt những cơ hội và vượt qua những thách thức từ việc Trung Quốc gia nhập WTO. Trước tiên cần hoàn thiện môi trường pháp luật và hệ thống chính sách, tạo điều kiện tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài của Việt Nam nói riêng và trong quan hệ với Trung Quốc nói chung. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần có những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, đầu tư mang tính tiêu cực của các doanh nhân Trung Quốc. Bên cạnh đó, Chính phủ, hiệp hội và các doanh nghiệp cần đặc biệt chú trọng tới việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam để hàng Việt Nam không những đứng vững trên thị trường Trung Quốc mà còn cả thị trường các nước thứ ba. Cuối cùng, những kinh nghiệm gia nhập WTO của Trung Quốc có giá trị tham khảo rất lớn đối với Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập tổ chức thương mại này. Trong tương lai không xa, khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức này, các Smes Việt Nam sẽ thực sự phải tự mình sử dụng những gì đã chuẩn bị từ trước và hi vọng rằng các Smes sẽ chủ động nắm bắt tất cả những cơ hội mà hội nhập đem lại. Tài liệu tham khảo I. Sách tham khảo : 1. Hội nhập kinh tế Việt Nam - ASEAN những đặc trưng, kinh nghiệm và giải pháp. 2. ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam . 3. Tự do hoá thương mại và hợp tác kinh tế ở ASEAN. 4. Bàn về cơ chế quản lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam 5. Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA 6. Việt Nam tiến tới 2010 7. Giáo trình Kinh tế và quản lý Công nghiệp 8. Giáo trình quản trị chiến lược 9. Niên giám thống kê 2000 II. Tạp chí tham khảo : 1. Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 566, ngày 1/11/2001. Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 574, ngày 27/12/2001. Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 18, ngày 25/4/2002. 2. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 28, ngày 6/3/2002. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 909, ngày 13/3/2002. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 943, ngày 13/5/2002. 3. Báo đầu tư số 10, ngày 13/1/2002. 4. Báo Thương mại số 19, ngày 5/3/2002. 5. Báo Sài Gòn giải phóng ngày 13/8/2002. 6. Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương số 3(29), tháng 9/2000. 7. Tạp chí Cộng sản số 16(622), tháng 8/2002. 8. Tạp chí Kinh tế số 28-29, ngày 6/9/2001. 9. Tin Kinh tế thế giới (TTXVN) ngày 06/05/2002. 10. VnExpress ngày 22/03/2002. Trang Web về hội nhập kinh tế của Việt Nam : Và một số trang Web khác như :

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0154.doc
Tài liệu liên quan