Đề tài Cơ hội và thách thúc của thương mại hàng hoỏ (Cụ thể ngành da giầy) trong bối cảnh gia nhập WTO

Theo đề xuất của các doanh nghiệp giày da, trước mắt Chính phủ cần xem xét lại quy định miễn thuế nhập khẩu cho các nguyên phụ liệu tạm nhập tái xuất, vốn đó làm khú cho nguyên phụ liệu trong nước về đầu tư và cạnh tranh giá thành, vỡ một phần lớn nguyờn phụ liệu tạm nhập đó được tuồn ra ngoài thị trường. Đó cũng là rào cản khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài có ý định đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu Việt Nam đó phải chuyển hướng đầu tư sang Trung Quốc. Muốn chủ động được sản xuất như Trung Quốc trong khi nguồn nguyên liệu trong nước vẫn cũn thiếu thỡ chỳng ta phải quan tõm cú chớnh sỏch và chiến lược đối với nguồn nguyên liệu. Mặc dù trong những năm qua, ngành cũng đó có nhiều cố gắng và đưa nguyên liệu tăng từ 10% lên 20-30%, thậm chí hiện nay là 50-60% nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho ngành giày da trong nước, đặc biệt là đối với các loại da giày chất lượng cao. Trong thời gian tới sẽ phải khuyến khích đầu tư nước ngoài vào khu vực sản xuất trong nước đối với vấn đề nguồn nguyên liệu cho ngành giày da, đồng thời mở rộng hơn nữa sự lan toả sang các thị trường.

doc51 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ hội và thách thúc của thương mại hàng hoỏ (Cụ thể ngành da giầy) trong bối cảnh gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liệu 2D, sau đó hoàn thiện phần giày từ đế ngoài đến đế trong, gót và khuôn đều được tạo ra rất dễ dàng. Giầy thể thao vẫn là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt nam với 381 tri đôi, trị giá 2,63 tỷ USD chiếm 73 % tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành, giầy nữ với số lượng 87 triệu đôi đạt trị giá 538 triệu USD chiếm gần 15% . Giầy vải vẫn tiếp tục được duy trì , đặc biệt các loại giầy vải cao cấp thêu, in nổi và các loại giầy vải có mũ từ da được nhiều khách hàng quan tâm. Năm 2006 đạt 25 triệu đôi, trị giá 217 triệu USD chiếm 6,4 % tổng kim ngạch. Tuy số lượng giầy vải không tăng so với 2005 song giá trị XK lại lớn hơn, điều đó cho thấy DN Việt nam đã XK giầy vải cao cấp thay thế các loại giầy vải thấp cấp như trước đây. Các loại khác như: dép đi trong nhà, sandal, dép đi biển đạt 75 triệu đôi, trị giá 202 triệu USD chiếm 5,6% tổng kim ngạch XK. Cho đến nay dòng sản phẩm giầy dép xuất khẩu có lợi thể cạnh tranh của Việt nam là hang tầm trung và tầm cao, tập trung vào 4 loại chính: Giầy thể thao mặt hang chủ lực, giầy vải, giầy da nam nữ và dép các loại. Đến hết năm 2006, toàn ngành đã trang bị trên 750 dây chuyền đồng bộ sản xuất các loại giầy dép hoàn chỉnh với công suất 715 triệu đôi/năm, theo thống kê trong 10 đôi giầy tiêu thụ trên thế giới có tới 2 đôi sản xuất tại Việt nam vì vậy Việt nam vẫn tiếp tục được xếp vào thị trường sản xuất giầy dép của thế giới chỉ đứng sau Trung quốc và Ấn độ ở khu vực châu á. Năng lực sản xuất các ngành da giầy Việt Nam năm 2006 Số đôi (triệu đôi) số tiền (USD) tỷ trọng thể thao 381 2,63 tỷ 73% Giày nữ 87 538 triệu 15% Giày vải 25 217 triệu 6,4% Các loại giày dép khác 75 202 triệu 5,6% 1. 2. Thị trường EU: Là một trong những ngành xuất khẩu chiếm tỉ trọng cao của nền kinh tế ,từ năm 2000 đến 2006 ,ngành da giầy luôn đạt kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước với mức tăng bình quân 18% năm và đạt ở mức cao nhất là 3,59 tỷ USD vào năm 2006 ,xấp xỉ 10% kim ngạch xuất khẩu .Giai đạo 2005-2006 ,do tá đọng của vụ kiện chống phá giá các loại dàu mũi da cá xuất sứ từ Việt Nam ,Trung Quốc xuất khẩu sang EU ,tình hình sản xuất của ngành da giầy có chững lại ,nhưng nhìn chung 6 năm qua ,toàn ngành đã có tốc độ phát triển cả về số lượng ,chất luượng và chủng loại. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam đạt 3,59 tỷ USD, tăng bình quân 0,403 tỷ USD/ năm trong giai đoạn 2001-2006. Thị trường chủ yếu của ngành đến nay vẫn là các nước thuộc EU, chiếm trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hiện tại, Việt Nam đứng thứ hai sau Trung Quốc về xuất khẩu giày dép sang EU và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU Đối với Mỹ :Mỹ là thị trường nhập khẩu giày dép lớn thứ hai của Việt Nam với tốc độ nhập khẩu gia tăng mạnh trong thời gian qua, đặc biệt từ sau khi Việt Nam ký kết Hiệp định song phương với Mỹ và sau khi Việt Nam chính thức gia nhập Sản lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ tiếp tục gia tăng với kim ngạch XK năm 2006 đạt 802 triệu USD tăng 30% so với năm 2005, chủ yếu do các công ty 100% vốn nước ngoài, liên doanh, một vài công ty lớn của Việt Nam gia công xuất khẩu những thương hiệu lớn như NIKE, Addidas, Rebook…và XK qua hệ thống kênh phân phối chính của Mỹ, một số các DN có quy mô nhỏ tự sản xuất mẫu mã và chào hàng trực tiếp tới các nhà nhập khẩu qua các hội chợ triển lãm tại . Mỹ hiện đang bước đầu triển khai song kết quả vẫn còn rất hạn chế. Các sản phẩm xuất khẩu chính vào thị trường này là giầy thể thao, giầy da nam nữ, dép đi trong nhà, dép đi biển. v.v... Ngoài ra, thị trường Nhật với thị phần XK chiếm hơn 3% vào năm 2006 và các thị trường khác (20%) vẫn duy trì ở mức như những năm trước đây, các đối tác Nhật đang có xu hướng tìm kiếm các đối tác thuộc da và SX giầy tại Việt nam. Trong thời gian tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam, với các sản phẩm xuất khẩu chính là giày thể thao, giày da nam nữ. Theo Trung tâm Thông tin Thương mại (Bộ Thương mại), Việt Nam đã vượt qua Mỹ để trở thành nhà cung cấp giày dép lớn thứ ba (sau Trung Quốc và Italia) tại thị trường Hồng Công. Thị truờng khác :Theo Bộ Thương mại, kim ngạch xuất khẩu giày da trong tháng 7/2005 ước đạt 11,5 triệu USD, tăng gần gấp đôi so với mức kim ngạch trung bình trong 6 tháng đầu năm 2005 và tăng 20% so với cùng kỳ năm 2004. Trong đó, xuất khẩu giày sang thị trường Hà Lan tháng 7/2005 đạt khoảng 1,5 triệu USD, tăng 2 lần so với tháng 6/2005. Tuy nhiên, mức kim ngạch này mới chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm 2004. Giá xuất khẩu trung bình sang Hà Lan cao hơn 1 USD/đôi so với mức giá cùng kỳ năm 2004. Xuất khẩu giày da sang thị trường Đài Loan cũng tăng nhẹ đều trong 2 tháng trở lại đây và đạt trên 1,5 triệu USD trong tháng 7/2005, tăng gấp 2 lần so với kim ngạch trong tháng 7/2004. Đơn giá xuất khẩu sang thị trường Đài Loan đạt mức trung bình cao nhất 25 USD/đôi, cao hơn 0,7 USD/đôi so với mức giá trung bình trong tháng 4. Nhật Bản cũng có xu hướng tăng nhập khẩu giày da từ Việt Nam, đặc biệt là giày da có chất lượng tốt. 4 tháng đầu năm 2005, xuất khẩu giày da sang thị trường Nhật Bản đạt gần 700 nghìn USD. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang Nhật Bản trong 3 tháng trở lại đây đều đạt trên 500 nghìn USD/tháng. Xuất khẩu sang nhiều thị trường khác như Anh, Canada cũng đang trong xu hướng tăng. 1.3.   Tình hình nhập khẩu: * Nguyên phụ liệu và da thuộc thành phẩm: Năm 2006 nhập khẩu da thuộc đạt 545 triệu USD với sản lượng 377 triệu Từ năm 2000 ngành công nghiệp sản xuất giầy dép phải nhập khẩu từ 80 -85% nguyên phụ liệu của thế giới, qua một quá trình phát triển đến 2006, riêng sản xuất giầy thể thao với sản lượng chiếm tới 70% sản xuất thì đã chủ động được 70% nguyên liệu tại chỗ. Các nhà máy sản xuất đế, thuộc da, nhựa…. trong nước đã có thể cung ứng đầy đủ. Các DN chỉ phải nhập khẩu những nguyên vật liệu có hàm lượng chất xám cao như Da cao cấp của Ý và một số loại nguyên phụ liệu đặc chủng của Hàn quốc, Đài loan. Như vậy qua 5 năm ngành đã giảm việc nhập khẩu nguyên phụ liệu từ 80% xuống còn 60%. Máy móc thiết bị: Chủ yếu vẫn phải nhập khẩu từ các nước như Ý, Hàn quốc, Đài loan và Trung quốc. Năm 2006 tổng kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị là 57 triệu USD. 1.4.Mở rộng hợp tác Các doanh nghiệp theo đó cũng đang có chiều hướng phát triển thuận lợi hơn bằng cách chuyển hướng thị trường xuất khẩu. Ngoài thị trường cộng đồng châu Âu, VN đang tiến tới những thị trường đầy tiềm năng khác như Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Malaysia, Brazil... “VN có điểm yếu là vật tư nguyên liệu không dồi dào nhưng đổi lại có thế mạnh về sức lao động tốt và rẻ. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp thử sức và dấn tới nhiều thị trường khác”. Ngày 24/10/2006 đã diễn ra buổi hội thảo giao lưu giữa các doanh nghiệp Trung Quốc và các doanh Nghiệp Việt Nam. Đoàn doanh nghiệp Trung Quốc gồm 40 người dẫn đầu là các Viện Trưởng Viện Nghiên cứu Da giày Trung Quốc, Chủ tịch Hội Da Giày Trung Quốc, Chủ tịch Hội đồng Quản Trị Cty TNHH Da Tấn Giang và các Giám đốc đại diện các doanh nghiệp đến từ 12 tỉnh của Trung Quốc như Triết Giang, Tấn Giang, Quảng Đông,… với mục đích tìm kiếm cơ hội đầu tư về lĩnh vực ngành da bò, da heo. Bên cạnh đó, các Doanh nghiệp Trung Quốc muốn tìm hiểu về thuế, đất đai, các chính sách ưu đãi, luật đầu tư ở Việt Nam,… và muốn giúp các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng công nghệ xử lý da của Trung Quốc. Buổi hội thảo đã diễn ra thành công tốt đẹp, phía Việt Nam các doanh nghiệp cũng đang tham khảo giá cả da heo, và tìm hiểu thêm về công nghệ phía doanh nghiệp bạn. Sau buổi làm việc này đoàn Trung Quốc sẽ ra miền Bắc tìm hiểu các doanh nghiệp ngành da giày ở đây 1.5.X úc ti ến th ư ơng m ại Hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM) và phát triển thị trường được Hiệp hội và các DN quan tâm, đặc biệt từ năm 2003 với sự hỗ trợ của Chính phủ thông qua Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia, có thể thấy: Trong hơn 2 năm qua, Hiệp hội đã tổ chức gần 15 đoàn các DN tham gia trưng bầy sản phẩm và khảo sát thị trường tại Đức, ý, Pháp, Mỹ, Trung Quốc với sự tham gia của trên 200 lượt DN trong phạm vi cả nước. Kết quả các hoạt động nêu trên đã giúp các DN tiếp cận trực tiếp với các khách hàng tiềm năng, giới thiệu quảng bá các sản phẩm và nâng cao hình ảnh DN, nắm bắt sâu hơn nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng ở từng khu vực khác nhau trên thị trường quốc tế. Các DN đã chú trọng tới việc chuẩn bị mẫu mã, các bộ sưu tập mới để trưng bày tại các gian hàng tham gia, có tính toán kỹ về giá cả, chi phí thực hiện các đơn hàng để ký kết hợp đồng ngay tại hội chợ. Sự hiện diện của các DN, gian hàng chung của Hiệp hội đã tạo dựng được hình ảnh ngành CN Da- Giầy VN trên thị trường quốc tế và tại hội chợ. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế: Mẫu mã chưa phong phú, chưa có các bộ sưu tập ấn tượng và các sản phẩm còn đơn giản, đôi khi trùng lặp, khâu trang trí chưa thực sự ấn tượng, nổi bật... Hai năm qua, Hiệp hội đã tổ chức được 10 khóa đào tạo về thiết kế và phát triển sản phẩm, marketing, kinh doanh, xuất nhập khẩu và các khóa dành cho các DN vừa và nhỏ hướng tới để các DN vượt qua các rào cản, đảm bảo thực hiện những yêu cầu của các nhà nhập khẩu (về môi trường, an toàn sức khoẻ và thực hiện tốt TNXHDN). Hiệp hội tập trung công tác đào tạo vào 2 đối tượng chính: Đội ngũ cán bộ thiết kế và phát triển sản phẩm, đội ngũ marketing, XNK và kinh doanh giỏi. Hai lực lượng này là nhân tố quyết định giúp cho việc đáp ứng mẫu mã và thời hạn giao mẫu chào hàng. Song hành với các hoạt động trên, công tác thông tin tuyên truyền, quảng bá sản phẩm và giới thiệu hình ảnh DN cũng đã được ý thức và quan tâm... 2.Những khó khăn tồn tại 2.1.Mẫu mã nguyên liệu-thương hiệu Theo LEFASO, tổng lực lượng ngành giày dép cả nước hiện có trên 270 doanh nghiệp với 500.000 lao động, chưa kể các cơ sở nhỏ và hộ gia đình. Năm 2004 kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành da giày Việt Nam đạt 2,19 tỷ USD, tăng trên 20%  so với năm 2003. Tuy nhiên, niềm ưu tư lớn nhất lâu nay của ngành giày da Việt Nam vẫn là sự nghèo nàn về mẫu mã và thiếu thốn về thương hiệu. Năm ngoái, 11 gian hàng giày Việt Nam tham gia hội chợ Duseldorf tại Đức, đã phải lép vế trước trên 200 gian hàng của người khổng lồ Trung Quốc. Mẫu giày Việt Nam hầu như na ná nhau, giá lại cao hơn của Trung Quốc 20-30%. Từ trước đến nay, các sản phẩm giày được sản xuất trong nước chủ yếu theo mẫu mã nước ngoài và xuất hiện trên thị trường quốc tế dưới nhãn hiệu của các nước khác. Do vậy, vấn đề then chốt có tính chất quyết định tới sự phát triển của ngành giày là phải tạo dựng được một lực lượng thiết kế mẫu chuyên nghiệp, có đủ năng lực, trình độ tự thiết kế được khách hàng trong và ngoài nước chấp nhận”.   Theo nhận xét của giới kinh doanh da giày, trên thị trường thế giới không hề thấy bóng dáng một đôi giày mang nhãn hiệu Việt Nam. Một trong những nguyên nhân cơ bản, theo các doanh nghiệp là do ngành da giày Việt Nam hiện chỉ làm hàng gia công xuất khẩu chứ chưa trực tiếp xuất dưới thương hiệu của mình 2.2.Đội ngũ thiết kế Đươc đánh giá là nước có nguồn lao động dồi dào tuy nhiên chủ yếu lao động thủ công ,thiếu hẳn một lực lưỡng thiết kế, là ngành duy nhất không có trường lớp đào tạo kỹ thuật hay cử nhân thiết kế tạo mẫu. Hiện nay ngành giày thiếu vắng hẳn một lực lượng là những kỹ sư phác họa, mỹ thuật công nghiệp. Thiếu đội ngũ này thì không thể nào nói đến có được các mẫu mã sáng tạo, thời trang, không thể cạnh tranh với hàng các nước, càng không thể nói đến các thương hiệu nổi tiếng như Nike, Adidad... Hiện tại, chỉ có một số rất ít nhân viên học mỹ thuật công nghiệp ra và làm việc tại các phòng kỹ thuật của doanh nghiệp, như công ty giày An Lạc, 32, Công ty Xuất nhập khẩu da giày Sài Gòn… Theo nhận xét của LEFASO, đội ngũ thiết kế tạo mẫu giày hiện nay ở ta còn rất thiếu và yếu. Gọi là các “nhà tạo mẫu” cho sang trọng, nhưng phần lớn xuất thân từ công nhân, sau thời gian làm các dây chuyền sản xuất, được lựa chọn bồi dưỡng tại chỗ để làm ở bộ phận ra mẫu và phát triển sản phẩm. Những nhân viên này không được đào tạo có bài bản chuyên về thiết kế tạo mẫu giày, một số khác chỉ được tiếp thu trực tiếp qua các chuyên gia, các khóa ngắn hạn do doanh nghiệp cử đi học. Hiện tại, nhu cầu về đội ngũ này ở các doanh nghiệp rất lớn. Chỉ riêng ở Công ty Biti’s Đồng Nai, đội ngũ cán bộ thiết kế, tạo mẫu, kỹ thuật viên tới trên 100 người. Các doanh nghiệp khác có quy mô lớn cần có số lượng tương tự. 2.3 Tình hình xuất khẩu-nhập khẩu Tuy nhiên, xuất phát từ nội tại sản xuất nhiều năm qua, ngành da giày Việt Nam còn nhiều tồn tại chưa được khắc phục. Dù là nước xuất khẩu lớn, nhưng các doanh nghiệp ngành da giầy Việt Nam chủ yếu sản xuất và xuất khẩu theo phương thức gia công, không chủ động được nguồn nguyên liệu, bị hạn chế về vốn và công nghệ. Khoảng 60% nguyên vật liệu, hóa chất vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó, đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc, đã xây dựng được ngành công nghiệp hỗ trợ như ngành sản xuất nguyên phụ liệu và các trung tâm phát triển mẫu mốt nằm cạnh các khu công nghiệp sản xuất giầy dép, rất thuận lợi cho việc đáp ứng nhu cầu triển khai mẫu mã mới của khách hàng. Với những thuận lợi đó, Trung Quốc hiện đang chiếm lĩnh thị phần thống trị tại các thị trường lớn như 83,5% tại Mỹ, hơn 64% tại EU. Đây thực sự là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp ngành giầy Việt Nam. Đối với thị trường nội địa, sản phẩm giày dép do các doanh nghiệp trong nước sản xuất đang phải cạnh tranh với giày da giá rẻ nhập lậu từ Trung Quốc. Ngoài ra, còn có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất giày trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. So với các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có ưu thế hơn về vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý sản xuất, kỹ thuật công nghệ, tiếp thị xuất khẩu... Vì vậy, sản phẩm của họ có lợi thế cạnh tranh hơn sản phẩm của doanh nghiệp trong nước về chất lượng, giá trị và thị trường xuất khẩu. Theo số liệu thống kê, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện chiếm trên 55% tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm giày dép. Ngoài những thách thức và áp lực trong cạnh tranh, mức thuế 10% mà EC đang áp dụng đối với mặt hàng giầy mũ da xuất xứ Việt Nam (từ tháng 10/2006) đã khiến nhiều doanh nghiệp ngành da giầy gặp khó khăn trong đàm phán, tiếp nhận các đơn hàng mới và đứng trước nguy cơ bị mất đơn hàng, mất luôn cả khách hàng. 90% trong tổng doanh thu xuất khẩu da giày 2,8 tỷ USD năm 2004 bắt nguồn từ gia công cho đối tác nước ngoài. Tình trạng gia công hàng chẳng những đã làm biến mất thương hiệu da giày Việt Nam trên thương trường quốc tế mà còn ảnh hưởng mạnh đến ngành sản xuất nguyên phụ liệu da giày nội địa Ông Vũ Văn Chầm, Chủ tịch Hội da giày TP HCM nói vui mà chua chát: "Ngành da giày Việt Nam hiện đang bị xâm lăng bởi hàng ngoại, từ nguyên phụ liệu, mẫu mã cho đến giày thành phẩm". Theo ông, ở nước ngoài, giày Việt phải mượn danh thương hiệu khác mới tồn tại được. Trong khi đó, tại thị trường nội địa, cơn lốc giày dép Trung Quốc đang cuốn đi các cơ sở sản xuất nhỏ, kinh doanh theo phương thức tiểu thủ công và đặt ra những thách thức cho các doanh nghiệp da giày lớn. Theo giới kinh doanh da giày, 3 loại nguyên liệu chủ yếu để sản xuất da giày là chất liệu da và giả da; đế; các nguyên liệu phụ trợ như keo dán, chỉ khâu, cúc, nhãn hiệu, gót... thì đến 70-80% là nhập khẩu từ các nước châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc... Riêng đế giày, khâu nguyên phụ liệu được các doanh nghiệp Việt Nam chủ động tốt nhất, cũng chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu sản xuất của ngành nói chung. Chất liệu giả da, đặc biệt được sử dụng nhiều cho giày thể thao, mặc dù chiếm tỷ trọng xuất khẩu gần bằng 50% giá trị da giày xuất khẩu nói chung, cũng sử dụng đến 80% nguyên liệu nhập ngoại. Cũng như nhiều ngành nghề khác, ngành da giày đang phải chịu áp lực giá nguyên liệu đầu vào tăng 30-40% so với năm 2004, nhưng vẫn phải gồng mình chịu đựng chứ không thể tăng giá đầu ra được. "Thậm chí có đơn hàng chúng tôi phải giảm giá chào mới cạnh tranh nổi với đối thủ Trung Quốc", ông Nguyễn Văn Độ, chủ cơ sở giày dép da Hoàng Diệu cho biết. Các doanh nghiệp ngành da cho rằng, nếu giải quyết được vấn đề nguyên vật liệu trong nước thì khả năng cạnh tranh của giày da Việt sẽ cao hơn rất nhiều. Hàng loạt khó khăn đang đặt ra cho giày Việt: xuất khẩu vào thị trường EU giảm 7,5% do khả năng bị EU cắt ưu đãi thuế quan khi kim ngạch xuất vượt quá 20%; hàng Trung Quốc đang lấn sân vào các thị trường chủ lực của giày Việt bằng giá thành và mẫu mã... 10% là mức thuế cao cho sản phẩm giày mũ da VN, khiến các doanh nghiệp (DN) VN phải đối phó với cả 2 vấn đề là cạnh tranh trên thị trường cộng đồng châu Âu và lợi nhuận của DN. Trong đó vấn đề nổi cộm nhất chính là việc tác động đến đời sống của 500.000 lao động đang làm việc trong ngành da giày.Việc Ủy ban châu Âu đưa ra đề nghị mức áp dụng 10% đã làm cho một số nhà máy ở VN phải đóng cửa. Tập đoàn CLACH của Anh đặt hàng gia công ở hầu hết các nhà máy giày tại VN, cũng đang có kế hoạch chuyển hướng đặt hàng gia công sang Indonesia, Thái Lan, Campuchia. Một số nhà máy của Đài Loan đặt tại VN cũng đã bắt đầu mở thêm tại Campuchia để chuẩn bị rút đi nếu không có động thái gì mới cho thị trường giày da Việt Nam III. Cơ hội và thách thức của ngành da giầy trong bối cảnh gia nhập WTO 1.Cơ hội Gia nhập WTO một sân chơi mới, một cơ hội mới đối với nganh da giầy Việt Nam, sẽ có nhiều cơ hội hơn nữa để chúng ta đưa sản phẩm của mình rộng khắp. Theo các doanh nghiệp, việc làm nhiều hơn đang tạo cơ hội cho người lao động tránh xa ngành dệt may. Phó chủ tịch Hội Dệt may - Thêu đan Tp.HCM kiêm Phó chủ tịch Hội Da giày, khái quát 4 thách thức khi thực hiện các cam kết WTO thể hiện ở 4 cấp độ: toàn cầu, quốc gia, ngành và doanh nghiệp. Da giày là một trong hai ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và cũng chịu tác động lớn từ những cam kết vào WTO.Tác động của những cam kết không chỉ từ những thay đổi về thuế nhập khẩu mà còn từ những ảnh hưởng chung của nền kinh tế. Chủ đề không mới, vẫn là những vấn đề liên quan đến Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và thách thức đối với các ngành sản xuất trong nước. Nhưng thông tin về những tác động cụ thể của WTO lên ngành , da giày ngay từ những tháng đầu năm được đưa ra tại Hội thảo “Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam: Tác động đối với ngành dệt may và da giày” (do Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên - MUTRAP và Viện Kinh tế TP Hồ Chí Minh vừa phối hợp tổ chức) ít nhiều có thể giúp doanh nghiệp trong ngành thấy được những khó khăn hiện tại. Trong suốt thập niên trước, mức tăng trưởng kinh tế trung bình của Việt Nam là 7,25%. Rất nhiều nhà kinh tế học dự báo, việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ tạo đà thuận lợi hơn cho thương mại và dòng chảy đầu tư nước ngoài, thậm chí thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam hơn cả Trung Quốc trong năm nay. Trước khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đã có lợi thế hơn nhiều trong cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) so với những quốc gia láng giềng như Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Philippines. Theo Luật gia quốc tế David Luff (Thụy Sĩ), Việt Nam gia nhập WTO, các nhà sản xuất da giày được lợi từ việc sản phẩm xuất khẩu của mình chịu mức thuế nhập khẩu thấp hơn, không bị phân biệt đối xử trong các quy định của các đối tác thương mại, bao gồm cả các biện pháp đảm bảo thương mại công bằng, hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may được loại bỏ hoàn toàn. Khả năng tiếp cận thị trường là kết quả của các nhượng bộ về mức cân bằng thuế quan thỏa thuận được bảo vệ, điều này là sự thật cho dù có vi phạm quy tắc của WTO hay không. Việt Nam có thể bày tỏ những lo ngại của mình lên WTO và có thể tiến hành thủ tục pháp lý theo quy trình giải quyết tranh chấp khi cần thiết để khôi phục sự cân bằng thỏa thuận về quyền tiếp cận thị trường của mình. Việt Nam có thể bảo vệ các lợi ích thương mại của ngành dệt may và da giày, đồng thời tạo môi trường pháp lý ổn định để ngành này có thể lập kế hoạch các hoạt động tiếp thị của mình ra thế giới. Gia nhập WTO da giầy Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ ,nếu trước đây thị trường chủ yếu của Việt Nam là khối EU ,tuy nhiên trong năm 2006 vụ kiện phá giá bị thua thiệt làm da giầy không đạt tiêu chuẩn như dự kiến thì nay khi gia nhập WTO sản phẩm của chúng ta có thể đi rộng hơn ,mở rộng mối quan hệ với 148 nước trong khu vực với vi thế ngang nhau của các thị trường đó,đồng thời do thiết lập được các hiệp định song phương và đa phương làm cho nganh da giầy sẽ có được cạnh tranh công bằng hơn . Việt Nam chính thức là thành viên WTO là một cơ hội lớn để phát triển ngành da giày Việt Nam. Với một thị trường rộng lớn, điều kiện cạnh tranh như nhau, đặc biệt là tại thị trường Bắc Mỹ thì sản phẩm da giày của Việt Nam và Trung Quốc có mức thuế như nhau sẽ giúp da giày Việt Nam có điều kiện tăng nhanh sản lượng xuất khẩu. Chúng tôi dự đoán điều này vì trong thời gian qua sản lượng giày dép xuất khẩu vào đây, đặc biệt là đối với mặt hàng giày thể thao mũ da, tăng khá nhanh. Nhiều khách hàng đánh giá cao đơn hàng từ Việt Nam do chất lượng lao động tốt, chủ yếu là lao động trẻ, có tay nghề, cần mẫn và chịu khó làm để phụ giúp gia đình. Khi Việt Nam gia nhập WTO các ngành hàng xuất khẩu sẽ đứng trước áp lực kiện bán phá giá. Tuy nhiên chúng tôi lại cho rằng ngành da giày sẽ được bảo vệ tốt hơn so với thời gian trước đây, nhờ các nước có muốn kiện cũng phải tuân thủ theo qui định của WTO. Do vậy, không chỉ tăng trưởng của ngành vào thị trường bắc Mỹ tăng 20%-30% trong năm nay và trong năm tới sẽ vẫn giữ được nhịp độ này. Việt nam gia nhập WTO, tạo điều kiện thuận lợi để các DN tiếp nhận những thành tựu và kinh nghiệm tiên tiến của các nước trong WTO về quản lý kinh tế, quản lý sản xuất kinh doanh, về điều hành các mặt của đời sống xã hội. Các DN đã ý thức được sự cần thiết phải thực hiện, triển khai các yêu cầu về công nghệ, quản lý điều hành sản xuất, đạo đức kinh doanh, đảm bảo quyền lợi người lao động, đảm bảo duy trì mối quan hệ bạn hàng, đáp ứng các yêu cầu phát triển và hội nhập. Các cơ chế chính sách của Chính phủ về tháo gỡ thúc đẩy sản xuất, khuyến khích xuất khẩu trong năm 2003 - 2005 và cơ chế 2006 - 2010 tiếp tục phát huy tác dụng, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt các DN xuất khẩu Cơ sở hạ tầng của nhiều DN được đầu tư nâng cấp và đầu tư mới đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, thông thoáng 2.khó khăn Quá trình hội nhập, những thách thức không chỉ đối với các DN xuất khẩu, các DN, các cơ sơ sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: Hàng rào thuế quan rỡ bỏ, các nguyên vật liệu, sản phẩm từ các nước trong khu vực, trên thế giới sẽ được nhập khẩu lưu thông trong nước với giá rẻ hơn, không còn có sự bảo hộ, sự cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Tuy nhiên, trên thực tế trong thời gian qua, các DN đã phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu trốn thuế (hoặc qua biên giới không kiểm soát được Đối với thị trường nội địa, sản phẩm giày dép do các doanh nghiệp trong nước sản xuất đang phải cạnh tranh với giày da giá rẻ nhập lậu từ Trung Quốc. Ngoài ra, còn có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất giày trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. So với các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có ưu thế hơn về vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý sản xuất, kỹ thuật công nghệ, tiếp thị xuất khẩu… Vì vậy, sản phẩm của họ có lợi thế cạnh tranh hơn sản phẩm của doanh nghiệp trong nước về chất lượng, giá trị và thị trường xuất khẩu. Theo số liệu thống kê, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện chiếm trên 55% tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm giày dép Tính cạnh tranh của cả ngành Da - Giầy Việt Nam còn yếu so với các nước xuất khẩu giầy dép trong khu vực, đặc biệt là với nước xuất khẩu giầy lớn (như Trung Quốc) do thiếu khả năng tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn chưa theo kịp các nước và giá không cạnh tranh. Khi Việt nam gia nhập WTO sự cạnh tranh này khốc liệt hơn. 2.1.Đội ngũ lao động Thiếu đội ngũ thiết kế tạo mẫu và phát triển sản phẩm và đội ngũ cán bộ marketing, kinh doanh giỏi - lực lượng chủ yếu quyết định chuyển đổi phương thức sản xuất (Từ gia công sang tự sản xuất toàn bộ), tạo điều kiện để DN có thể giao dịch trực tiếp với khách hàng. Ưu thế của Việt Nam về công lao động vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng đã có những khó khăn và có những biến động lớn; Công tác đào tạo lao động có tay nghề kỹ thuật chưa đáp ứng kịp nhu cầu của sản xuất. Một số doanh nghiệp trong ngành có quy mô không lớn, chưa chủ động tiếp cận được với thị trường, vẫn phải gia công qua các đối tác trung gian nên hiệu quả sản xuất kinh doanh bị hạn chế, sản xuất dễ bị biến động do không có khách hàng truyền thống. Nhiều DN trong ngành chưa sẵn sàng hội nhập, Các rào cản thương mại, hệ thống thuế quan dần được dỡ bỏ có tác động không ít tới sức cạnh tranh của các sản phẩm trong nước, cạnh tranh sẽ càng gay gắt hơn 2.2. Sức ép cạnh tranh Sức ép về các rào cản phi thương mại (Các rào cản kỹ thuật, chính sách bảo hộ của các quốc gia nhập khẩu giầy dép lớn, yêu cầu về thực hiện tốt TNXHDN, yêu cầu về đạo đức kinh doanh…) Sức ép đối với các DN da giầy về lao động, việc làm, thu nhập (Hiện tại lao động trong ngành Da - Giầy có mức thu nhập thấp so với mặt bằng chung) và đảm bảo các chế độ cho người lao động, Ngoài những thách thức và áp lực trong cạnh tranh, mức thuế 10% mà EC đang áp dụng đối với mặt hàng giầy mũ da xuất xứ Việt Nam (từ tháng 10/2006) đã khiến nhiều doanh nghiệp ngành da giầy gặp khó khăn trong đàm phán, tiếp nhận các đơn hàng mới và đứng trước nguy cơ bị mất đơn hàng, mất luôn cả khách hàng. Ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết, sắp tới, các nhà sản xuất hàng dệt may trong nước sẽ phải cạnh tranh khốc liệt khi sản phẩm của nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam, nhất là các thị trường lớn nhua Trung Quốc,Ấn Độ, cơ chế giám sát chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ chính là một trong những rào cản thương mại điển hình của thời kỳ hậu WTO. Ông Ân phân tích, theo cam kết song phương với Hoa Kỳ, các biện pháp hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp cho ngành dệt may đã bị bãi bỏ từ ngày 30-5-2006. Có thể nói, ngành này đang bị đối xử bất bình đẳng hơn các ngành công nghiệp khác trong chính sách hỗ Từ ngày 11/1/2007.Nhóm các sản phẩm dệt may da giày sẽ gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía Trung Quốc và Ấn Độ. Trong thời gian tới, nếu ngành dệt may Việt Nam không tích cực đầu tư làm chủ khâu nguyên liệu (vải, phụ kiện) và thiết kế mẫu mã thì lợi thế cạnh tranh sẽ kém dần đi. Giày dép là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam cũng là những mặt hàng sản xuất của nhiều nước ASEAN và châu Á khác, do đó các doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm cả về chất lượng và giá cả. Ông Anh Ngọc, Trung tâm xúc tiến Thương mại và đầu tư TP.HCM cho rằng: Nếu không đầu tư vào thiết kế mẫu mã thì không thể chủ động sản xuất được, trong khi đó ngành dệt may Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2010 nội địa hóa 10% nguyên phụ liệu. Việc cắt giảm thuế của ngành giày da không làm các doanh nghiệp căng thẳng tuy nhiên áp lực không nhỏ. Theo cam kết, hàng giày dép thuế suất chỉ còn 40% so với 50% theo thuế ưu đãi MFN. Ngành da giày đang phải đối đầu với tình trạng thiếu lao động không chỉ vì Cơ hội sẽ mở rộng cho 40 triệu lao động nhờ việc tham gia mạnh mẽ hơn của khu vực tư nhân. Đồng thời, họ sẽ có cơ hội được đào tạo tốt hơn khi VN cải thiện tính cạnh tranh của mình. Ông Knapp khẳng định các công ty Mỹ sẽ chỉ đầu tư vào những nền kinh tế có chính sách tốt, cởi mở và dựa vào luật pháp. Việc gia nhập WTO của VN sẽ tăng mạnh đầu tư từ các công ty Mỹ vì các nhà đầu tư tin tưởng rằng VN sẽ thực hiện đúng các cam kết gia nhập WTO. Bên cạnh sự kiện này, chính tốc độ tăng trưởng GDP, công nghiệp hóa, lực lượng lao động dồi dào, tình hình chính trị ổn định cũng là những nhân tố thu Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thức rằng vào WTO là một thách thức đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để tồn tại, Hiệp hội Da Giày Việt Nam dự kiến sẽ hình thành có hội ngành hàng nhằm giúp các doanh nghiệp nhỏ phát triển sản phẩm theo một hướng khác, mang tính riêng biệt, nhằm thâm nhập thị trường này. Đó là việc phát triển các sản phẩm siêu cao cấp, sản phẩm có thiết kế độc đáo mà thị trường cần, không chỉ với thị trường quốc tế mà cả với thị trường tiêu dùng trong nước. 2.3.Hệ thống phân phối Khi EC kiện da giày Việt Nam bán phá giá, các DN Việt Nam đã hết sức lúng. Đó là kết quả của việc lệ thuộc quá lớn vào một thị trường. Tỷ lệ xuất khẩu vào EU của ngành giày dép Việt Nam lên đến  60-70%, vì thế khi xảy ra vụ kiện, cả ngành da giày rơi vào thế lao đao. Đó là hậu quả của việc thiếu chiến lược, mà điểm quan trọng là đã không xây dựng được hệ thống phân phối. Ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may thêu đan, cho rằng Chính phủ và các Hiệp hội đã không có những định hướng và cảnh báo cần thiết để các DN xây dựng chiến lược và điều chỉnh. Ngành da giày đã lặp lại bài học của ngành thủy sản với vụ kiện cá tra, cá ba sa và con tôm. Nếu không có chiến lược xây dựng hệ thống phân phối, điều này có thể sẽ tiếp tục xảy ra với ngành thủy sản, nông nghiệp, may mặc và nhiều lĩnh vực xuất khẩu khác. Gia nhập WTO vừa là thời cơ mà cũng là thách thức. Nếu không biết tận dụng thời cơ, thì thách thức sẽ càng lớn. Trong tương lai ai nắm hệ thống phân phối? Đây chính là thách thức lớn cho các DN Việt Nam vốn có truyền thống sản xuất buôn bán nhỏ nay phải mở cửa bước ra sân chơi với toàn cầu, đối diện với làn sóng các tập đoàn bán buôn, bán lẻ với hệ thống phân phối bài bản từ châu Âu tràn sang châu Á và đã xâm nhập thị trường Việt Nam. . Tiến sĩ Trần Du Lịch, Viện trưởng Viện Kinh tế TP.HCM, cho rằng các DN Việt Nam có 4 điểm yếu “khó gỡ”, đó là sản phẩm mẫu mã không hấp dẫn, chất lượng thấp nhưng giá cả lại cao, trong khi đó mạng lưới phân phối lại kém. Đó là những điểm yếu nếu không cải thiện, thì sẽ khó có thể cạnh tranh với những tập đoàn nước ngoài đã có bề dày kinh nghiệm sản xuất và buôn bán hàng trăm năm. Trong 4 khâu của hoạt động sản xuất và bán hàng, có hai khâu quan trọng nhất thì lại rơi vào điểm yếu của các DN Việt Nam, đó là thiết kế mẫu mã và hệ thống phân phối. Một thực trạng hiện nay là các DN Việt Nam phụ thuộc khá lớn vào hệ thống phân phối của các tập đoàn kinh doanh nước ngoài. Điều đó đồng nghĩa với việc bị chi phối về sản xuất. Phân phối chính là sức cạnh tranh, ai nắm được hệ thống phân phối thì sẽ chi phối hoạt động sản xuất. Bà Mai Hồng Quỳ, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Luật TP.HCM chứng minh thực tiễn yếu kém khâu phân phối khi bán hàng vào các nước SNG: Có thể nói Việt Nam nhà cung cấp đầu tiên vào SNG, nhưng sau đó hệ thống phân phối của Trung Quốc đã chiếm lĩnh. Trước đây Liên Xô cũ có hai nhà cung cấp trà lớn nhất là Việt Nam và Ấn Độ, nhưng sau một thời gian trà Việt Nam phải bán sang Ấn Độ, đóng bao bì nhãn mác Ấn Độ rồi xuất sang Liên Xô. Điểm yếu nữa của DN Việt Nam là khả năng liên kết để đáp ứng thị trường thấp. Đã quen với lối sản xuất nhỏ, DN Việt Nam chỉ đáp ứng được những đơn đặt hàng nhỏ. Với những đơn đặt hàng lớn, các DN không theo kịp, trong khi đó cũng không liên kết nhau được để cùng phân phối sản xuất và giữ thị trường. Về điều này, người láng giềng Trung Quốc là điển hình tiêu biểu cho sự liên kết sản xuất và chia sẻ thị trường. Trung Quốc đã thành công khi vào thị trường Mỹ vì ngay bước đầu đã thâm nhập được vào mảng phân phối. III.Giải pháp để nâng cao hiệu quả ngành xuất khẩu ngành da giầy trong bối cảnh hội nhập Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, để giữ vững và mở rộng thị trường trong nước, ngoài nước, các doanh nghiệp tiếp tục tập trung đầu tư chiều sâu tổng thể, ổn định và đưa dần các phần mềm ứng dụng vào sản xuất, tổ chức quản lý sản xuất theo tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, OHS 18000, SA 8000, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội Sáng 6.4, tại Hà Nội, Hiệp hội Da Giày Việt Nam:Để tăng năng lực cạnh tranh, trong thời gian tới, các Doanh nghiệp da giầy Việt Nam cần tập trung xây dựng chiến lược phát triển các sản phẩm có chất lượng cao, có thương hiệu. Các Doanh nghiệp trong nước cần thoát khỏi sự bị động về thiết kế mẫu mốt, đổi mới công nghệ sản xuất giầy và tổ chức lại sản xuất, tạo thế mạnh thực sự trong khâu công nghệ. 1.Vấn đề nguồn nhân lực . Hiện nay, ngành giày da của chúng ta tỷ trọng gia công còn nhiều, cho nên trong thời gian tới chúng ta cần phải giảm dần tỷ trọng này. Muốn làm được điều đó thì trước hết các DN đều phải cố gắng, Hiệp hội giày da VN cũng đã có hướng đào tạo một đội ngũ thợ có tay nghề cao, thợ mẫu và đồng thời đào tạo cán bộ marketing tiếp cận thị trường để hỗ trợ cho các DN. Để thúc đẩy hoạt động của ngành Da- Giầy, một trong những giải pháp quan trọng vẫn là tăng cường xúc tiến thương mại và xây dựng chiến lược đào tạo đội ngũ công nhân chất lượng cao. 2.Nguyên phụ liệu Bà Nguyễn Thị Tòng: Thực trạng nguồn nguyên vật liệu và hệ thống cung ứng của Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế và bức xúc: Hiện tại, phần lớn các loại đế giầy, vải các loại (cho giầy vải), một số nguyên liệu như tấm đế 1, keo dán phụ liệu khác... được đầu tư trong nước. Riêng các loại nguyên liệu mũ giầy (da, giả da, da nhân tạo, da váng tráng PU...) mới sản xuất trong nước một sản lượng rất thấp, phần lớn còn lại phải nhập khẩu (từ Đài Loan, Hàn Quốc và Trung Quốc). Gần đây, một số DN quan tâm đầu tư cho lĩnh vực thuộc da (Công ty Hào Dương, Công ty Priner, Công ty Green Tech...), nâng sản lượng da thuộc trong nước lên đáng kể. Tuy nhiên, khâu chau chuốt, hoàn thiện vẫn còn nhiều hạn chế. Đồng thời với sự gia tăng sản lượng giầy dép xuất khẩu hàng năm, số lượng da thuộc phải nhập khẩu vẫn rất lớn (trên 200 triệu Sqft/năm). Nhiều nguyên liệu nhập khẩu được sản xuất từ Trung Quốc, song giá cả nhập khẩu chính ngạch vẫn rất cao, do đó, các DN phải nhập qua nước thứ 3 (Đài Loan, Hàn Quốc). Hệ thống cung ứng trong nước hiện còn đang rất yếu. Hầu hết nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc đều qua con đường tiểu ngạch. Giá nguyên liệu trong nước còn rất cao. Do đó, việc xây dựng khu giao dịch nguyên liệu Da- Giầy thực sự cần thiết. Nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng chính trong các sản phẩm Da- Giầy (chiếm tới 68-75% tổng chi phí sản xuất hoặc giá thành sản phẩm), do đó nguyên vật liệu có vai trò rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành, gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Điều này đòi hỏi các DN chủ động khi ra mẫu chào hàng, tìm kiếm và khai thác tối đa nguyên liệu trong nước sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí. Đánh giá được khả năng nguồn hàng để cân đối trong qúa trình sản xuất và cam kết giao sản phẩm đúng thời hạn. Chủ động trong chuyển đổi phương thức sản xuất (từ gia công sang tự sản xuất). Hạn chế chi phí phát sinh do thiếu vật tư nguyên liệu, cân đối đồng bộ trong qúa trình sản xuất và giao hàng... 3.Chính sách nhà nước Theo đề xuất của các doanh nghiệp giày da, trước mắt Chính phủ cần xem xét lại quy định miễn thuế nhập khẩu cho các nguyên phụ liệu tạm nhập tái xuất, vốn đã làm khó cho nguyên phụ liệu trong nước về đầu tư và cạnh tranh giá thành, vì một phần lớn nguyên phụ liệu tạm nhập đã được tuồn ra ngoài thị trường. Đó cũng là rào cản khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài có ý định đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu Việt Nam đã phải chuyển hướng đầu tư sang Trung Quốc. Muốn chủ động được sản xuất như Trung Quốc trong khi nguồn nguyên liệu trong nước vẫn còn thiếu thì chúng ta phải quan tâm có chính sách và chiến lược đối với nguồn nguyên liệu. Mặc dù trong những năm qua, ngành cũng đã có nhiều cố gắng và đưa nguyên liệu tăng từ 10% lên 20-30%, thậm chí hiện nay là 50-60% nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho ngành giày da trong nước, đặc biệt là đối với các loại da giày chất lượng cao. Trong thời gian tới sẽ phải khuyến khích đầu tư nước ngoài vào khu vực sản xuất trong nước đối với vấn đề nguồn nguyên liệu cho ngành giày da, đồng thời mở rộng hơn nữa sự lan toả sang các thị trường. Bà Nguyên Thị Tòng: Tôi cho rằng các cơ quan cấp trên cần co chính sách hỗ trợ Ngành thu hút đầu tư vào lĩnh vực nguyên phụ liệu, đặc biệt nguyên liệu mũ giầy (khuyến khích các DN nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này, có các ưu đãi dành riêng cho các DN đầu tư vào lĩnh vực nguyên phụ liệu...). Đồng thời, Chính phủ hỗ trợ để Ngành nhanh chóng xây dựng các khu giao dịch nguyên phụ liệu (tại Hà Nội, TP.HCM, Bình Dương), tạo điều kiện để các DN chủ động khai thác vật tư trong nước, giảm chi phí nhập khẩu, khuyến khích các đối tác đưa nguyên vật liệu vào Việt Nam... Tạo điều kiện để Ngành có điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, ưu tiên cho Ngành được thực hiện các dự án ODA về đào tạo, khuyến khích các đối tác đầu tư vào lĩnh vực này. Hỗ trợ để Hiệp hội và các DN tham gia chương trình XTTM trọng điểm quốc gia giai đoạn 2006-2008, với các nội dung thúc đẩy thiết thực hơn để Ngành hỗ trợ các DN gia tăng kim ngạch XK. Tạo điều kiện để Hiệp hội có đội ngũ cán bộ chuyên trách đảm bảo thực hiện các hoạt động hỗ trợ DN được tốt và hiệu quả hơn. Ngoài ra do chủ yếu các doanh nghiệp Việt Nam là vừa và nhỏ vì thế nên tạo mối quan hệ với ngân hàng nhằm huy đọng đước nguồn vốn và đồng thời thực hiện vay vốn khi tiến hành kinh doanh . Ngoài ra các doanh nhgiệp nói chung và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực da giầy nói riêng cần xem xét cụ thể chính sách của nhà nước trong việc quan hệ với đối tác nước ngoài cũng như trong bối cảnh hội nhập. Quá trình đổi mới khung pháp lý, trong đó có việc làm cho khung pháp lý VN tương thích với luật lệ quốc tế. Quá trình đổi mới phong cách điều hành quản lý kinh tế, đoạn tuyệt với cách quản lý điều hành theo kiểu hành chính bao cấp, thực hiện điều hành quản lý theo cơ chế thị trường. Quá trình đổi mới trang thiết bị công nghệ cho nền kinh tế. Quá trình đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp. Quá trình bài trừ nạn tham nhũng, móc ngoặc; quan trọng hơn là đổi mới tư duy, nhận thức 4.Mở rộng thị trường 4.1.Xúc tiến xuất khẩu da giầy : Để phát triển và mở rộng xuất khẩu hàng da giầy Việt Nam phong thương mại và công nghiệp Việt Nam cần xây dựn hệ thống thông tin thị truờng có khả năng cung cấp nhanh chóng, chính xác các thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp. Coi trọng công tác nghiên cứu dự báo, tổ chức và mở rộng thị trường xuất khẩu cả ở tầm vi mô và vĩ mô. Cùng với biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm da giầy Việt Nam, cần tăng cường mở rông quan hệ, kảh năng tiếp thị của khách hàng. Để tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh xuất khẩu nắm được kịp thời các cơ hội kinh doanh, nhà nước cần tạo điều kiện thuậ lợi cho các doanh nghiệp trong việc mở chi nhánh, văn phòng đậi diện của Việt Nam tại nước ngoài theo tinh thần nghj định số 40/CP . Tăng cường hoạt đọng của thương mại dịch vụ Việt Nam tại nước ngoài, để có thể thông tin tư vấn giúp các doanh nghiệp thâm nhập thị trường nước ngoài. Mở rộng và nhấn mạnh các nội dung kinh tế trong các hoạt động ngoại giao. Nghiên cứu các nội dung xúc tiến xuất khẩuqua các đại diện thương mại và các văn phòng, đại lý buôn bán của Việt Nam tại nước ngoài.Tạo điều kiện để trực tiếp đi khảo sát thị trường thế giới Xây dựng hệ thống xúc tiến thương mại có thể giúp các doanh nghiệp những vấn đè sau: +Thông tin về số lượng chất lượng những mặt hàng đang và cá nhu cầu tiêu thụ lớn +Thông tin nghiên cứu thị trường trong nước và thế giới, giá cả các mặt hàng chủ yếu. +Thông tin về thời tiết, khí hậu và những biến đong đột xuất +Thông tin về những chủ trường, chính sách của chính phủ, bộ thương mại và các bộ khác trong từng thời kì. 4.2.Giải pháp về sản phẩm da giầy xuất khẩu Mục tiêu của ngành da giầy đang từng buớc thay đổi cơ cấu sản xuất sản phẩm theo hướng giảm dần khối lượng gi công, tăng dần khối lượng tiêu thụ trực tiếp và xuất khẩu, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu . Bao gồm việc giữ vững thị trường nội địa và phát triển mạnh thị trường xuất khẩu ngay từ vài năm trước. Nhờ vậy, Công ty đã phát triển thêm được một số thị trường mới ngay trước thời điểm nước ta gia nhập WTO với những đơn hàng xuất sang các thị trường Mỹ, Nam Phi, Pêru, Mêhicô... theo xu hướng không có quota (hạn ngạch). Bên cạnh đó, công ty cũng chuẩn bị tốt về vật tư, phụ liệu để hạn chế nhập khẩu, giảm giá thành, ứng dụng khoa học công nghệ để rút ngắn thời gian, giao hàng đúng hạn cũng là những yếu tố quan trọng góp phần tăng cường sự cạnh tranh. Ông Nguyễn Chí Trung, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Giày Gia Định, đơn vị có gần 2.000 lao động, cũng cho biết công ty ông đã có hướng chuyển thị trường ra khỏi châu Âu và chuẩn bị các đơn hàng của thị trường Nam Mỹ, Nhật, Nam Phi, Mexico..., với việc sản xuất sản phẩm mũ giả da. Ông Nguyễn Văn Cư, Giám đốc Công ty TNHH SX TM Đức Thành, lạc quan cho rằng gần 7.000 công nhân của công ty này vẫn hoạt động bình thường vì đơn hàng gia công tính cho đến thời điểm này công ty vẫn đạt chỉ tiêu đề ra. Hãng Kingmaker cho biết sẽ tăng cường sản xuất giày trẻ em và giày thể thao ở VN nếu EU tiếp tục chính sách bán phá giá đối với giày mũ da (không kể giày trẻ em và giày thể thao mũ da). Người tiêu dùng sau một thời gian sử dụng sản phẩm giày Trung Quốc đã thấy chất lượng không tốt và trở lại dùng sản phẩm trong nước. Nhưng qua đó chúng ta cũng phải nhận thấy là cần học hỏi rất nhiều từ Trung Quốc, xem tại sao họ lại làm giày dép giá lại thấp đến như thế, chỉ vài chục ngàn là có thể mua được một đôi giày đẹp, hợp thời trang. Ngoài ra, các DN đang có chiến lược tổ chức thiết kế, tạo mẫu mã cho giày trong nước, cải tạo, đưa máy móc kỹ thuật vào, giá cả liên tục được cải thiện, chắc chắn trong cuộc cạnh tranh tới đây chúng ta sẽ chiến thắng. Các DN như Biti’s, Vina giày, Giày Thượng Đình… đã bắt đầu chiếm lĩnh thị trường. Dự tính ngay tại thị trường trong nước thời gian tới sẽ có những cuộc cạnh tranh gay go và điều này được đánh giá là rất có lợi cho các DN. Tuy nhiên, ông Thuấn vẫn cho rằng, còn sớm để khẳng định rằng, ngành da giày Việt Nam đã tìm ra được lối thoát. Vụ kiện chống bán phá giá vẫn chưa dừng lại, và trong xu thế hội nhập như hiện nay thì điều đó sẽ còn có thể tiếp tục xảy ra. Do đó, các doanh nghiệp da giày cần rút kinh nghiệm sâu sắc từ vụ kiện, nâng cao hơn nữa tinh thần đoàn kết và tăng cường học hỏi. Theo ông Thuấn, khó có thể nói trước được rằng, liệu việc áp thuế có kéo dài sau hai năm hay không. Vì vậy, các doanh nghiệp da giày cần nhìn nhận chuyện kiện tụng là vấn đề bình thường trong quan hệ thương mại toàn cầu, luôn phải trang bị cho mình sự hiểu biết về luật lệ, hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán, đặc biệt là không cạnh tranh thiếu lành mạnh với nhau để khách hàng nước ngoài có thêm điều kiện ép giá, còn bản thân các doanh nghiệp lại bị rơi vào cảnh kiện tụng. Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ Theo lộ trình hội nhập, năm 2007 thuế nhập khẩu giày dép sẽ được giảm xuống, do vậy các doanh nghiệp trong nước sẽ gặp khó khăn trong cạnh tranh ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Nhìn nhận cái khó của các doanh nghiệp da giày Việt Nam, các chuyên gia nói là nếu tham gia thị trường giày dép với sản phẩm chất lượng cao cấp thì không cạnh tranh được với sản phẩm của nước như Italia, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Đức; còn nếu trong sản phẩm cấp thấp, có chất lượng trung bình thì lại không cạnh tranh được với sản phẩm sản xuất hàng loạt của Trung Quốc. Điều này đã buộc các doanh nghiệp da giày Việt Nam thời gian qua phải chọn hướng làm gia công cho các đối tác nước ngoài mà chưa có nhiều sản phẩm giày trực tiếp vào các thị trường này. Tuy nhiên, ở thị phần có mức giá trung bình đến trung bình khá thì giày dép nội địa của Việt Nam có thể cạnh tranh tốt với hàng ngoại về chất lượng. Vì vậy, nếu cố gắng, ngành da giày sẽ phấn đấu vượt qua và duy trì tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu từ 12 - 15% so với năm 2006 để đạt mức 3,9 - 4 tỷ USD. Nhiều chuyên gia nhận định, trong giai đoạn tiếp theo, ngành da giày cần tập trung đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đổi mới thiết bị và công nghệ để thu hút khách hàng. Đây sẽ là những điểm tựa vững chắc và quan trọng để đứng vững trên thị trường. Hiện nay Bắc Mỹ và EU vẫn là những thị trường nhập khẩu giày lớn nhất thế giới. Năm 2007, ngành da giày phấn đấu tăng xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ lên 40% và giảm ở thị trường EU từ 48% xuống 40%. Ngoài ra, các thị trường Nhật, Nam Mỹ, Trung Đông, Nam Phi, Ôxtrâylia cũng là những thị trường có tiềm năng lớn cần tiếp tục được khai thác và mở rộng. Hiệp hội Da Giày Việt Nam cũng kiến nghị, bên cạnh những nỗ lực của ngành, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách khuyến khích hơn nữa hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; huy động các nguồn lực đầu tư vào các sản phẩm có giá trị xuất khẩu, đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu, thay vì phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu như hiện nay. Đồng thời, ngành cũng cần được tạo điều kiện tham gia chương trình xúc tiến thương mại, các chương trình, đề án nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp da giày tiếp cận thị trường, gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Theo ông Nguyễn Đức Thuấn, Phó chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam, việc áp dụng mức thuế chống bán phá vào thị trường EU (nếu điều này thành sự thật) chỉ mới áp dụng đối với các mã giày có mũ da. Do vậy, các doanh nghiệp cần nghiên cứu chuyển hướng cơ cấu sản phẩm, chú ý sản xuất các sản phẩm bằng các loại nguyên liệu thay thế khác. Các doanh nghiệp này có thế mạnh về tài chính, chủ động đơn hàng và thị trường. Do vậy, khu vực đáng lo ngại và phải có ngay các giải pháp là các DN trong nước. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp trong nước vẫn chỉ làm gia công, không có thông tin thị trường, chưa thể sáng tác mẫu mốt để có những chủng loại sản phẩm mới, không chủ động được nguồn nguyên liệu và không có thương hiệu. Các giải pháp của DN trong nước phải xoay quanh việc tháo gỡ những yếu kém .   Trước diễn biến tình hình như hiện nay, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công nghiệp Bùi Xuân Khu nhấn mạnh rằng dù có hay không có việc EC áp dụng Luật Chống bán phá giá với Việt Nam thì cũng đã đến lúc ngành da giày xuất khẩu Việt Nam cần tính đến bài toán phát triển lâu dài là tái cấu trúc lại cơ cấu sản phẩm, thị trường, đầu tư xây dựng thương hiệu và nguyên phụ liệu… Có ba nhiệm vụ trước mắt mà doanh nghiệp nên chú ý là cần chuyển hướng nhanh sang thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản vì nhu cầu nhập khẩu giày dép của hai thị trường này vẫn đang tăng mạnh. Đặc biệt thị trường Nhật Bản cần các loại giày dép có đế ngoài và mũ giày bằng cao su hoặc plastic, da thuộc hoặc da tổng hợp, dép xốp, dép quai hậu… 5. Kiểm soát chi phí. Theo ông Nguyễn Quang Trung, Phó giám đốc Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), chi phí chỉ có thể được kiểm soát khi DN tuân thủ theo các bước kiểm soát chi phí sau đây. Trước hết, DN phải lập định mức chi phí, cụ thể là định mức cho các khoản chi phí theo những tiêu chuẩn gắn với từng trường hợp cụ thể trên cơ sở phân tích hoạt động của DN. Như vậy, DN phải nghiên cứu các dữ liệu trước đây, đưa ra một sự so sánh chuẩn cũng như căn cứ vào diễn biến giá cả trên thị trường và chiến lược phát triển của công ty. Bước kế tiếp là thu thập thông tin về chi phí thực tế. Công việc này không chỉ là trách nhiệm của phòng kế toán, mà còn phải được sự tham gia của các phòng, ban khác để DN chủ động hơn trong việc xử lý thông tin chi phí. Các chi phí phải được phân bổ thành từng loại cụ thể. Ngoài ra, DN phải phân tích biến động giá cả trên thị trường theo định kỳ, dựa trên những thông tin chi phí thực tế và so sánh với định mức đã thiết lập để dễ dàng xác định sự khác biệt giữa chi phí thực tế với định mức, đồng thời khoanh vùng những nơi phát sinh chi phí biến động. Sau khi điều tra và biết được nguyên nhân biến động chi phí, DN sẽ xác định các chi phí và kiểm soát được từng bộ phận nhân viên. Ông Nguyễn Thế Lộc, giảng viên của Trường Business Edge cho biết, hiện nay, giải pháp thông thường mà các DN áp dụng là cắt giảm các khoản chi phí; duyệt gắt gao từng khoản chi và liên tục nhắc nhở nhân viên tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, cuối cùng, hiệu quả kiểm soát chi phí vẫn không đạt được như mong đợi của DN và nhân viên cho là giám đốc “keo kiệt”. Đặc biệt, vấn đề DN, nhất là những công ty quy mô nhỏ, thường hay gặp phải hiện nay là sự nhầm lẫn giữa việc kiểm soát chi phí với cắt giảm chi phí và sự lúng túng trong xây dựng ý thức tiết kiệm ở nhân viên. Điều này dẫn đến một hệ quả không hay là, DN thường phải loay hoay tốn nhiều thời gian giải quyết phát sinh chi phí ngoài ý muốn. Từ đó, khoảng cách giữa lãnh đạo và nhân viên ngày càng xa. Kết bài Qua nghiên cứu cho thấy ngành da giầy Việt Nam đã có những thay đổi to lớn đặc biệt trong 5 năm gần đây, đó là sự nỗ lực của toàn ngành, đón nhận xu thế chuyển dịch của công nghiệp da giầy thế giới, thị truờng ngày càng mở rộng mặc dù trong năm 2006 vừa qua với việc EU áp dụng tuế chống phá giá đối với ngành dày mũi da nước ta, nhưng da giầy vẫn là một trong 4 ngành xuất khâu trên 3 tỉ USD. Sẽ có nhiều khó khăn hơn nữa trong bối cảnh hội nhập vì thế việc tìm ra những giải pháp để thay đổi phù hợp trong cạnh tranh là một vấn đề cần được chú trọng ở doanh nghiệp.Hơn bao giờ hết sự liên kết giữa các doah nghiệp để tạo thành những tập đoàn da giầy để tạo nên sự mãnh mẽ về thế và lực là một điều cần thiết.Trong bối cảnh hội nhập cố gắng biến những cơ hội thành động lực để phát triển, đó không chỉ là mong muốn của một riêng ai. Một lần nữa xin chân thành sự hướng dẫn của Giảng Viên Ngô Mỹ Hạnh, đã rất nhiệt tình giúp em hoàn thành đề tại này. Tài liệu tham khảo 1.Giáo trình kinh tế thương mại ( Chủ Biên: GS-TS Đặng Đình Đao .GS-TS Hoàng Đức Thân) 2.Tạp chí thương mại ( Các số) 3.Tạp chí kinh tế phát triển ( Các số ) 4.Trang web Bộ Thương Mại ( www. Mot.gov.vn) 5.Giáo trình Marketing ( Chủ Biên :PGS.PTS Trần Minh Đạo ) 6.Đề tài nghiên cứu mã số:1998-78-007 ( Bộ Thương Mại -Viện Nghiên Cứu Thương Mại) 7.Hỏi đáp WTO ( Dự án hỗ trợ thương mại đa biên ) 8.WTO – Thương mại thế giới 9.Trang web ( www.WTo.org)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0005.doc
Tài liệu liên quan