Chúng ta đang bắt đầu một thiên niên kỷ mới, một thiên niên kỷ hội nhập và tăng trưởng kinh tế. Khi tham gia vào thị trường thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các DNNN phải chấp nhận cạnh tranh khốc liệt. Để có chỗ đứng, các DNNN buộc phải cải cách. CPH ra đời thật đúng lúc chứng tỏ đây là một biện pháp đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan.
28 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá các doanh nghiệp của Nhà nước tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
Cổ phần hoá tuy(CPH) đã tiến hành được một thời gian nhưng những hiểu biết về nó còn hạn chế đối với sinh viên . Nói đến CPH là nói đến một yêu cầu bức thiết của cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) – một trong những nhiệm vụ quan trọng được đề ra trong công cuộc đổi mới kinh tế và là một đòi hỏi khách quan để chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Kể từ lúc bắt đầu tiến hành CPH, Quốc hội đã ban hành rất nhiều nghị quyết về CPH các DNNN nhưng thực tế cho thấy những chủ chương đó mới chỉ được triển khai ở các bộ, nghành và các doanh nghiệp có liên quan chứ chưa được phổ biến một cách sâu rộng. Chính vì vậy nghiên cứu CPH DNNN là một phương pháp tiếp cận tốt nhất để hiểu thế nào là CPH cũng như tình hình CPH ở nước ta trong thời gian qua.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết được kết cấu thành 3 phần:
I - Sự cần thiết CPH một bộ phận DNNN ở Việt Nam
II - Thực trạng CPH DNNN trong thời gian qua
III - Quan điểm và các giải pháp đẩy mạnh CPH DNNN trong thời gian tới.
phần nội dung
I - sự cần thiết cph một bộ phận dnnn ở việt nam.
1/ thực chất của cph:
1.1.Khái niệm cph:
Trước xu thế phát triển ngày càng cao của thị trường thế giới và những yêu cầu của nền kinh tế “mở” thì mô hình hoạt đông cứng nhắc của các DNNN không còn phù hợp đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam.Trên thế giới, xu thế CPH đã diễn ra rất mạnh mẽ từ những năm 80, CPH có thể hiểu là việc chuyển một DNNN thuộc sở hữu nhà nước thành công ty cổ phần thuộc sở hưũ tập thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu đầu tư và phát triển.
1.2.Bản chất CPH:
CPH chính là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển đổi từ sở hữu toàn dân sang sở hữu tập thể.Thực ra đây là một công cụ huy động vốn đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp .
1.3.Mục tiêu CPH các DNNN:
Theo nghị định 44/1998/NĐ-CP, CPH DNNN có hai mục tiêu chính là huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp và tạo điều kiện đưa người lao động có cổ phần làm chủ, tạo động lực cho sản xuất kinh doanh.Về mặt lý thuyết là vậy nhưng thực tế cho chúng ta thấy CPH còn có rất nhiều mục tiêu khác :
Thứ nhất, thực hiện CPH là trực tiếp góp phần thực hiện chủ chương của Đảng và Nhà nước trong việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Thứ hai, các DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài nhờ CPH mà giảm bớt gáng nặng cho ngân sách.Do tình trạng trì trệ, làm ăn không có hiệu quả mà các doanh nghiệp náy đã và đang được bao cấp bởi ngân sách, CPH là con đường ngấn nhất vừa bảo toàn vốn cho nhà nước, vừa giúp doanh nghiệp vẫn tồn tại và phát triển.
Thứ ba, CPH hình thành những tiền đề cho sự phát triển của thị trường vốn, huy động được nguồn vốn trong dân để đưa vào sản xuất kinh doanh, đây chính là động lực kinh tế làm tăng năng năng suất lao động
Ngoài ra, CPH còn tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển.Qua thực tiễn tiến hành công tác CPH, chúng ta thấy CPH cũng có những ưu nhược điểm riêng.Bốn ưu điểm dễ thấy nhất đó là:
+ Tạo khả năng chuyển hoá các xí nghiệp có quy mô lớn, giá trị tài sản cao.
+Tạo điều kiện để công tác quản lý trong doanh nghiệp chặt chẽ hơn, có hiệu quả hơn.
+Vừa duy trì các quan hệ kinh tế sẵn có, vừa mở rộng thêm thị trường.
+Thu hút vốn đầu tư (cả trong và ngoài nước), đổi mới kỹ thuật tăng hiệu quả sản xuất.
Ba nhược điểm khó khắc phục nhất mà các doanh nghiệp mắc phải là :
- Dễ gây tình trạng tập trung cổ phần vào tay một số
cá nhân có chức có quyền.
Tạo ra lực lượng thất nghiệp tương đối lớn .
Nguy cơ có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước và các cơ quan Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp.
2/ Thực trạng dnnn ở việt nam:
Vì sao Nhà nước không chỉ khuyến khích lập các công ty cổ phần mới mà còn đẩy mạnh chuyển đổi các DNNN thành các công ty cổ phần ?Đó là do hầu hết các DNNN sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lãi ít hoặc không có lãi hoặc lỗ, độ rủi ro lớn, không có sức hấp dẫn đầu tư từ bên ngoài nên gánh nặng cho ngân sách rất lớn.Các DNNN hoạt động kém hiệu quả là do:
Hệ thống pháp luật chưa thích ứng với cơ chế thị trường. Nguyên nhân này cũng xuất phát từ việc chuyển đổi cơ chế kinh tế tập trung sang cơ chế thị trường nhưng hệ thống pháp luật thì chưa sát thực.
Tính tự chủ bị hạn chế, người lao động chỉ biết tham gia vào sản xuất và nhận tiền công chứ không có quyền đóng góp ý kiến vào việc sản xuất cái gì, như thế nào…hay một kế hoạch của doanh nghiệp.
Các DNNN không có các yếu tố kích thích phải nâng cao hiệu quả sản xuất .
Nguyên nhân DNNN hoạt động kém hiệu quả thì có nhiều nhưng dễ thấy nhất là về quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực quản lý tài chính. Sự quản lý còn lỏng lẻo dẫn đến thất thoát rất nhiều cho công quỹ và thất thu.
3/ Sự cần thiết phải cph:
Với số trang thiết bị lạc hậu, nguồn tài chính hạn hẹp, các DNNN hầu như không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và đổi mới công nghệ cũng như sản phẩm.Ngân sách Nhà nước không có khả năng cấp vốn và bao cấp các doanh nghiệp như trước đây.Các ngân hàng cho vay cũng phải có các điều kiện bảo đẩm như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn.Hầu hết các doanh nghiệp ở trong tình trạng không có vốn nhưng cũng không có cách nào để huy động. Đối mặt với khó khăn đó, CPH được coi là một giải pháp nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn cho các doanh nghiệp để đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ.
Vì vậy đây là lựa chọn tất yếu có tính khách quan. CPH là một nội dung quan trọng trong công cuộc đổi mới. CPH sẽ thu hút được một nguồn vốn nhất định trong công nhân viên tại doanh nghiệp và ngoài xã hội, tạo ra một động lực trong quản lý và phát huy tốt hơn tính sáng tạo, cần cù của người lao động. Việc làm của người lao động được đảm bảo tốt hơn nên doanh thu, lợi nhuận và các khoản nộp ngân sách, tích luỹ vốn của doanh nghiệp và chính thu nhập của người lao động
sẽ tăng lên.Chuyển đổi hình thức sở hữu với quy chế quản lý mới, người lao động sẽ phát huy ý thức kỷ luật, tự giác, chủ động, tinh thần tiết kiệm trong lao động góp phần làm cho hiệu quả trong sản xuất kinh doanh ngày càng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân mình, công ty, Nhà nước và xã hội.
CPH giúp phân bổ lại nguồn vốn cho các doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ.Vì như ở Việt nam hiện nay, việc CPH các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả là rất khó khăn, do đó cần phải sử dụng nguồn vốntừ việc bán cổ phần của các doanh nghiệp CPH để vực lại những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.Đó chính là phương thức của doanh nghiệp được CPH.
Một vai trò quan trọng nữa của CPH là tạo điều kiện cho sự ra đời của thị trường chứng khoán.Quá trình CPH là quá trình định gia tài sản, bán cổ phiếu và DNNN đổi tên thành công ty cổ phần.Người đầu tư vào cổ phiếu của công ty cổ phần tự chịu trách nhiệm về vốn đầu tư.Giá trị cổ phiếu công ty cổ phần có thể được bán trên một thị trường gọi là thị trường chứng khoán (giai đoạn đầu ở nước ta gọi là Trung tâm giao dịch chứng khoán).Nhờ có sự ra đời của thị trường chứng khoán mà vốn đầu tư vào cổ phiếu vào công ty cổ phần trở nên linh hoạt hơn.Người sở hữu cổ phiếu có thể chuyển vốn đầu tư dài hạn thành vốn ngắn hạn khi bán cổ phiếu của mình trên thị trường này.Như vậy thị trường chứng khoán có tác động lại tích cực là thúc đẩy CPH.
Về lâu dài, cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, công ty cổ phần sẽ là một hình thức công ty có khả năng nhất trong việc thu hút vốn với khối lượng lớn trong thời gian ngắn.Điều này có được là do sự hấp dẫn của phương thức đầu tư chứng khoán, nhất là đầu tư cổ phiếu. Đặc biệt việc chuyển nhượng trái phiếu và cổ phiếu làm cho hình thức này có tính linh hoạt cao.Hình thức này còn huy động được khối lượng lớn số vốn ngắn hạn và chuyển vốn ngắn hạn thành vốn dài hạn.Ngoài ra, sự phát triển của thị trường chứng khoán còn cho phép các công ty cổ phần thu hút vốn từ nước ngoài vì ít mạo hiểm hơn so với đầu tư trực tiếp vào sản xuất kih doanh.
Tóm lại, CPH DNNN và thị trường chứng khoán vừa duy trì được sự ổn định của doanh nghiệp đồng thời vừa tạo nên sự linh hoạt trong đầu tư.Trong nền kinh tế thị trường, đây được coi là phương pháp hữu hiệu nhất để cải tổ các DNNN đồng thời vẫn củng cố được vai trò của khu vưc kinh tế Nhà nước.
II - thực trạng cph dnnn ở việt nam trong
thời gian qua.
Trước những yêu cầu mới ngày càng cao của thị trường và sự phát triển thần kỳ của khoa học,kỹ thuật thì muốn hội nhập và phát triển, các công ty phải có lượng vốn đầu tư rất lớn mà không một cá nhân, tổ chức nào có thể đáp ứng được.Trong điều kiện thực tiễn của Việt nam, các DNNN nắm phần lớn các nghành trọng yếu mà hiệu quả hoạt động lại kém, công nghệ lạc hậu đòi hỏi có sự cải cách cho phù hợp
Nắm bắt được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã chọn con đường cải cách DNNN bằng hình thức CPH.Đó là chuyển DNNN thành công ty cổ phần nhằm mục tiêu huy động vốn, thay đổi phương thức quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động.
1.1. Giai đoạn 1:
a/ Cơ sở pháp lý:
Ngày 08/06/1992, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ra quyết định 202/C T nhằm triển khai thí điểm CPH ở một số DNNN.Đây là bước đi đầu tiên đánh dấu công cuộc cải cách DNNN ở Việt nam.
Quyết định 203/C T chọn 7 doanh nghiệp thí điểm:
1. Nhà máy xà phòng Việt nam (Bộ Công nghiệp).
2. Nhà máy Diêm Thống Nhất (Bộ Công Nghiệp).
3. Xí nghiệp Nguyên vật liệu Chế biến thức ăn gia súc.
4. Xí nghiệp dệt may LeGaMex (Tp Hồ Chí Minh).
5. Xí nghiệp sản xuất bao bì (Tp Hà Nội).
6. Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương Mại).
7. Xí nghiệp chế biến gỗ Lạng Long Bình (Bộ Nông nghiệp).
Ngày 04/03/1993, Thủ tướng Chính Phủ đã ra chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến CPH DNNN và các giải pháp đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối vơí DNNN.
Mục tiêu của giai đoạn này là thử nghiệm CPH ở một số DNNN để rút ra kinh nghiệm và mở rộng diện CPH sau này .
Đối tượng CPH là các DNNN kinh doanh trong các nghành thông dụng: nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ.
Phương thức tiến hành: chuyển một phần sở hữu Nhà nước dưới dạng bán cổ phần DNNN sang sở hữu tư nhân.Sau đó, doanh nghiệp hoạt động theo luật công ty.
b/ Những nhận định chung:
Dường như chính sách CPH còn thận trọng nên mới CPH được các DNNN có quy mô nhỏ.
Các DNNN đã CPH tính đến 31/12/1995
TT
Tên doanh nghiệp
Ngày CPH
Tổng vốn
(triệu đồng)
Cơ cấu vốn(%)
NN
CNVC
Cổ đông
ngoài
1
Đại lý Liên hiệp vận chuyển
01/07/93
6200
18
33.1
48.9
2
Cơ điện lạnh Tp Hồ Chí Minh
1/10/ /93
16000
30
50
20
3
Giầy Hiệp An
1/10/93
6769
30
50
20
4
Chế biến hàng XK Long An
1/7/95
3540
30.2
48.6
21.2
5
Công ty chế biến thức ăn gia súc
1/7/95
7912
30
50
20
Nguồn: Ban chỉ đạo Trung ương đổi mới doanh nghiệp
Qua bảng số liệu trên ta thấy giai đoạn thí điểm ở Việt Nam chưa có sự tham gia của thể nhân hoặc pháp nhân nước ngoài.Sau khi CPH, các doanh nghiệp vẫn giữ được ổn định và có chiều hướng phát triển tốt.Sự phát triển đó được biểu hiện ở việc tăng lao động, tăng doanh thu điển hình là:
@ Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển sau 3 năm thực hiện CPH :
ó Tổng số lao động năm 1993 từ 90 người đến
tháng 6/1996 tăng lên 285 người.
ó Doanh thu năm 1995 tăng hơn 4 lần so với năm 1993
ó Lãi cổ tức tăng 30%/năm.
@ Công ty cổ phần Cơ điện lạnh thành phố Hồ Chí Minh:
Tổng số lao động tăng từ 3345 người (1993)
lên 494 người (1995).
Doanh thu tăng gần 3 lần.
Lãi cổ tức tăng 24%/ năm.
@ Công ty cổ phần Giầy Hiệp An:
J Số lao động tăng từ 403 lên 430 người.
Doanh thu tăng 3 lần.
Lãi cổ tức đạt : 47.6%/năm.
Tuy nhiên, CPH tiến hành quá chậm.Trong suốt 4 năm (1992-1996) ở nước ta chỉ có 18 doanh nghiệp với số vốn hạn hẹp (doanh nghiệp lớn nhất chỉ đạt 20 tỉ đồng, doanh nghiệp nhỏ nhất là 0.4 tỉ đồng) được CPH.Qua nghiên cứu và thăm dò ý kiến một số nhà khoa học, các nhà quản lý, các doanh nghiệp, ta thấy nguyên nhân của tình trạng này có nhiều song tập trung chủ yếu vào 5 nguyên nhân cơ bản sau:
Chủ trương và các văn bản luật chưa cụ thể và bảo đảm tính sát thựcđể các DNNN có thể triển khai nhanh chóng.
- Do quyết tâm của các DNNN chưa cao. Điều này thể hiện ngay trong lãnh đạo từng doanh nghiệp còn lo sợ mất quyền lực, chức tước và lợi ích.Từ đó dẫn đến việc chỉ đạo, phối hợp của các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể không đồng bộ và thống nhất.Mặt khác, phía công nhân lo sợ mất việc làm, giảm thu nhập.
- Thiếu kinh nghiệm trong CPH, các vấn đề kỹ thuật phức tạp.Do các hướng dẫn của cấp trên còn thiếu tính thực tế nên khi gặp các vướng mắc thì lúng túng không biết xử lý thế nào cho đúng.Thêm vào đó, chế độ kiểm toán không đầy đủ, việc định giá tài sản, giá đất, giải quyết các khó khăn còn hạn chế.
Tuy vậy, giai đoạn này đã để lại nhiều bài học quý cho việc xây dựng các chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện công tác CPH cho các giai đoạn sau.
1. 2. Giai đoạn 2: mở rộng CPH (5/1996-5/1998):
a/ Cơ sở pháp lý:
Nghị định 28/CP được Thủ tướng Chính Phủ ký vào ngày 7/5/1996. Đây là văn bản chính thức đầu tiên về CPH có phạm vi áp dụng rộng rãi trong cả nước .
Ưu diểm của nghị định này là xác định này là xác định rõ mục tiêu của CPH, nguyên tắc tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp , điều kiện và hình thức tiến hành CPH, đặc biệt chương III được dành nguyên để qui định những ưu đãi đối với doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp CPH.
Quyết định 01/CPH của Bộ trưởng,Trưởng Ban chỉ đạo Trung Ương CPH về việc ban hành qui trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần .
Thông tư 50/ TC - TCDN (30/8/1996) của Bộ Tài chính hướng dẫn những vấn đề về tài chính, bán cổ phần và phát hành cổ phần
Ngoài ra còn có quyết định 548/TTg ngày 13/8/1996 của thủ Tướng chính phủ về việc thành lập các ban chỉ đạo CPH thông tư 17/LĐTBXH, thông tư ngày 07/90/1996 của bộ lao động Thương Binh và xã hội hướng dẫn chính sách đối với người lao động .Đến ngày 20/4/1998 có chỉ thị 20/1998/C T-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ về đẩy mạnh, sắp xếp và đổi mới DNNN.
Đối tượng CPH là các doanh nghiệp thuộc nhóm các DNNN cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu. Chính Phủ yêu cầu từng Bộ, địa phương và Tổng công ty 91 trong kế hoạch CPH phải lựa chọn ít nhất 20% số DNNN không cần duy trì 100% vốn Nhà nước để thực hiện CPH. Mở rộng CPH không chỉ có các DNNN vừa và nhỏ mà còn có cả DNNN lớn và vốn trên 10 tỷ đồng trong đó Nhà nước không cần nắm 100% vốn.
Thời kỳ này đã mở rộng ra 3 hình thức thức tiến hành:
- Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, chỉ phát hành thêm cổ phiếu.
- Bán một phần DNNN.
- Tách một bộ phận DNNN để tiến hành CPH.
b/ Kết quả thu được:
Trong vòng 2 năm đã CPH được 25 doanh nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh là Đơn vị dẫn đầu cả nước về CPH; Hà Nội trong năm 1997 chỉ CPH được 1 doanh nghiệp, chậm nhất trong cả nước.
Danh mục một số DNNN tiêu biểu đã CPH ở giai đoạn này:
TT
Tên doanh nghiệp
Ngày CPH
Tổng vốn
(triệu đồng)
Cơ cấu vốn
NN
CNVC
Cổ đông ngoài
1
Công ty xe khách Hải Phòng
1/9/96
2915
30
70
0
2
Công ty đầu tư sản xuất
1/7/96
356
0
100
0
3
Xí nghiệp ong mật Tp Hồ Chí Minh
1/7/96
2500
30
18.5
51.5
4
Khách sạn Sài Gòn
1/7/96
1800
40
40
20
5
CTCP DL Bảo Lộc
1/1/98
4300
23
12
65
6
Công ty bông Bạch Tuyết
5/11/97
11370
30
57
13
7
CTCP Thanh Tâm Thành phố Huế
10/4/98
1800
22.7
28.2
49.1
8
Tập thể SX hoá mĩ phẩm Sài Gòn
1/1/97
6400
35
50
15
Nguồn: Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp
Cổ phần hoá đã thay đổi được phương thức quản lý, từ phương thức quản lý kiểu quan liêu, bao cấp,nay đội ngũ lãnh đạo được bầu chọn có trách nhiêm cao hơn, quyền lợi và nghĩa vụ gắn với nhau hơn.
Doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của cổ đông nên họ kiểm soát được thu chi chặt chẽ hơn thông qua Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát của công ty. Do đó, tình trạng lãng phí của công (theo kiểu của “chùa”), lãng phí tài sản của doanh nghiệp giảm một cách tối thiểu.
Theo tổng kết 18 doanh nghiệp cổ phần đến giữa năm 1997, ban CPH DNNN đã đánh giá một số chỉ tiêu tiến bộ:
ỷ Vốn bình quân tăng : 45%/năm.
Doanh thu tăng bình quân : 56.9%/năm.
Lợi nhuận tăng bình quân : 70.2%/năm.
Việc làm tăng bình quân : 98%/năm.
Thu nhập người lao động tăng bình quân tăng: 20%/năm.
Nộp ngân sách Nhà nước bình quân tăng : 98%/năm.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu : 191%/năm.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn : 74.6%/năm.
( Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 241- tháng 6/1998 ).
Nói chung trong giai đoạn này, việc CPH không còn xa lạ nữa, cán bộ lãnh đạo cũng như công nhân viên chức đã hiểu được mục tiêu, lợi ích của CPH nhiều hơn, tốt hơn so với trước kia. Do đó, tư tưởng CPH được thống nhất hơn, người lao động phấn khởi, tinh thần được củng cố.Tuy nhiên, quá trình CPH nhìn một cách tổng thể vẫn còn một số mặt yếu cơ bản sau:
Thứ nhất, các doanh nghiệp chưa có kế hoạch phát triển sản xuất, kinh doanh lâu dài và hiệu quả. Nhiều công ty cổ phần thuiưà vốn không biết dùng vào việc gì và phải đem vốn cho vay.
Thứ hai, tiến trình CPH diễn ra vẫn chậm, số lượng doanh nghiệp được CPH còn quá ít, nghị định 28/CP chưa hoàn thiện để đẩy nhanh CPH. CPH chậm chap nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là các văn bản điều chỉnh quá trình CPH thiếu cụ thể, thiếu đồng bộ và không bắt kịp tình hình thực tế. Sau một thời gian thực hiện, Nghị định 28/CP đã bộc lộ rất nhiều yếu kém như không giải quyết được hoặc giải quyết quá cứng nhắc các vấn đề phát sinh, chẳng hạn: vấn đề giải quyết lao động dư thừa, vấn đề xác định giá trị doanh ngiệp, ưu đãi cho người lao động, chưa rõ tiêu chí nào xác định trường hợp nào doanh nghiệp thuộc diện di dời, mắc nợ ; tiêu chí nào xác định lao động mghèo trong doanh nghiệp ,…Các nghị định của Chính phủ và các Bộ nghành về việc sửa đổi, bổ sung ban hành còn chậm, thiếu đồng bộ gây tâm lý e ngại cho các doanh nghiệp trước khi tiến hành CPH. Đó là tâm lý muốn “lội nước theo sau”, nghĩa là muốn CPH sau để rút kinh nhiệm và được hưởng nhiều ưu đãi hơn. Quy trình CPH lại rườm rà, quá nhiều thủ tục phiền phức, tốn kém. Đặc biệt tất cả các chi phí cho CPH lại do doanh nghiệp chịu nên không khuyến khích doanh nghiệp CPH.
Mặt khác, do Nhà nước chưa có biện pháp mạnh mẽ, chưa kiên quyết coi CPH là nhiệm vụ bắt buộc mà lại chờ sự tự nguyện của các doanh nghiệp của các địa phương. Hơn nữa, bộ máy cồng kềnh trong quản lý làm giảm tính linh động trong việc ra quyết định CPH ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình CPH. Chẳng hạn các cán bộ trong ban chỉ đạo CPH do kiêm quá nhiều chức nên không tháo gỡ kịp thời những vướng mác cho doanh nghiệp, còn Ban chỉ đạo trung ương về CPH lại không có thẩm quyền quyết định trực tiếp các kế hoạch CPH.
Một nguyên nhân rất quan trọng mang tính quyết định đó là từ phía doanh nghiệp và người lao động: lãnh đạo sợ mất chức, công nhân sợ mất việc, mất nguồn ưu đãi và bao cấp, một số cán bộ năng lự yếu kém thì sợ bị sa thải…
Thứ ba là tổ chức đứng ra thực hiện chưa rõ ràng. Ban CPH gồm nhiều tổ chức như : Bộ Tài chính, Tổng Liên Đoàn Lao Động, Bộ Công nghiệp, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Lao Động Thương Binh và xã hội… nên việc thống nhất ý kiến rất khó khăn. Thêm vào đó, một số văn bản chỉ đạo chưa cụ thể, chưa khẳng định trách nhiệm rõ ràng của từng bộ, từng địa phương.
Thứ tư, việc tuyên truyền vận động CPH với công nhân viên chức chưa tốt, tập thể ban lãnh đạo nhiều doanh nghiệp chưa thực sự ủng hộ CPH đã gây ra không ít khó khăn cho tiến trình thực hiện các chủ chương, Nghị quyết của Đảng và Chính Phủ.
Qua giai đoạn này, chúng ta đã thu được nhiều bài học quý giá để CPH diễn ra tốt hơn trong các giai đoạn sau.
1. 3. Giai đoạn 3: đẩy mạnh CPH (từ tháng 7/1998 đến nay)
a/ Cơ sở pháp lý:
Ngày 29/6/1998 Chính Phủ ban hành nghị định số 44/CP với mục tiêu mở rộng chế độ cho CPH. Nghị định 44/CP đã ban hành một phụ lục kèm theo danh sách các DNNN đã được sắp xếp và phê duyệt của Thủ Tướng, chỉ rõ DNNN nào cần giữ lại 100% vốn Nhà nước, doanh nghiệp nào sẽ CPH, cần CPH ngay… Điều này vừa cải tiến được thủ tục hành chính, vừa khắc phục được tình trạng thiếu rõ ràng của văn bản luật. Cùng ngày, Chính Phủ ra Quyết định 111/CP thành lập Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp T.W trên cơ sở hợp nhất hai ban chỉ đạo T.W về sắp xếp DNNN và Ban chỉ đạo T.W CPH với đại diện các bộ liên quan.
Ngày 18/07/1998, Bộ Tài Chính ra thông tư số 104/1998/TT- BTC về vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 19/8/1998 Bộ Tài Chính có công văn số 3138TC/TCDN hướng dẫn sửa đổi một số điểm trên thông tư trên.
Ngoài 3 phương thức tiến hành CPH như đã nêu trong ND28/CP còn thêm hình thức bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Cùng với mở rộng phương thức tiến hành, đối tượng cũng tăng lên gồm tất cả các doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư, không phân biệt quy mô vốn và lao động.
b/ Kết quả bước đầu:
Năm 1998 được mệnh danh là “năm của CPH”. Tuy chưa đạt tới chỉ tiêu CPH 150 doanh nghiệp nhưng số doanh nghiệp cổ phần đã tăng nhanh. Tính đến ngày 31/12/1998, cả nước đã có 116 doanh nghiệp được CPH. Năm 1999, chỉ tiêu đặt ra là phải CPH được 400 DNNN. Một số doanh nghiệp lớn đã tham gia vào CPH như Tổng công ty xăng dầu, Hãng hàng không Việt Nam. Do cải thiện hệ thống chính sách về CPH nên các cổ đông nước ngoài cũng đã tham gia như: Công ty cổ phần cơ điện lạnh, công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An, Công ty cổ phần đồ hộp Hạ Long, công ty may Bình Minh. Tính đến tháng 5/1999 số doanh nghiệp được CPH đã lên đến 130 doanh nghiệp. Mặc dù tốc độ CPH đã được đẩy nhanh hơn so với các năm trước song so với chỉ tiêu đặt ra thì còn rất chậm. Cuối năm 1999 CPH được 250 DNNN.
Tính đến ngày 15/8/2000, các nước đã CPH được 369 bộ phận doanh nghiệp với tổng số vốn là 1920 tỷ đồng (Tăng 12% so với trước khi cổ phần), bằng 1,6% tổng số vốn Nhà nước trong các DNNN. Nhìn chung, các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng công nhân viên của các doanh nghiệp đều tăng so với trước. Một nét mới bđó là cùng với quá trình CPH Đảng và Chính Phủ chủ trương đổi mới một số DNNN đầu tư một phần vốn lập công ty cổ phần mới. Đén ngày 15/8/2000, DNNN đầu tư vốn thành lập 297 công ty cổ phần mới với tổng số vốn Nhà nước là 868.8 tỷ đồng, chiếm 46% vốn điều lệ. (Theo : Nghiên cứu kinh tế số 18 tháng 9 năm 2001).
Có thể nói, CPH cho đến nay đã và đang thực hiện vai trò huy động nguồn vốn trong và ngoài doanh nghiệp để đầu tư phát triển, ổn định việc làm, đời sống người lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy đã thực hiện được 10 năm và đã đạt được những kết quả bước đầu khả quan nhưng cũng không ít hạn chế, không ít các vấn đề còn tồn tại cần được quan tâm, giải quyết.
III - quan điểm và các giải pháp đẩy mạnh CPH DNNN trong thời gian tới.
1/Quan điểm:
Nói đến quan điểm về CPH, trước hết ta phải khẳng định CPH không phải là tư nhân hoá. Hầu hết các học giả nước ngoài khi xem xét quá trình cổ phần hoá DNNN đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn, đó là quá trình tư nhân hoá. Hầu hết người lao đông quan niệm CPH với tư nhân hoá. Đây là hai quá trình khác nhau. CPH là một nội dung đa dạng hoá sở hữu, là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu của một chủ thể thành sở hữu của nhiều chủ thể, trong đó Nhà nươc là một chủ sở hữu. Còn tư nhân hoá là chuyển sở hữu Nhà nước thành sở hữu tư nhân, Nhà nước không tham gia là chủ sở hữu một phần vốn và tài sản nào.
Qua phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của các của các doanh nghiệp nhà nước sản xuất kém hiệu quả, ta thấy CPH là con đường tối ưu để các doanh nghiệp này tồn tại và phát triển. Việc đẩy mạnh CPH nói chung cũng được Đảng và Nhà nước ta khẳng định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) là: "Triển khai vững chắc và tích cực CPH DNNN để huy động thêm vốn tạo động lực thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả, vốn huy động được dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh "(trang 246). CPH là công cụ huy động vốn đạt hiệu quả cao. Thực chất của vấn đề CPH là tối ưu hoá việc huy động vốn từ các nguốn vốn nhàn rỗi thay thế cho các nguồn vốn huy động khó khăn hoặc đang giảm sút như : huy động vốn qua ngân hàng, đầu tư nước ngoài…. Quan điểm này cần được phổ biến sâu rộng đến các chủ thể có khả năng mua cổ phiếu.
Đứng trên góc độ người lao động thì CPH chính là một cơ hội để vươn lên làm chủ sản xuất. Động lực này thúc đẩy người lao động làm việc hăng say hơn, năng suất và chất lượng cao hơn. Do đó, CPH phải tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, có như vậy thì mới phát triển được sản xuất.
Tiến trình CPH trong thời gian qua rất chậm so với mục tiêu đề ra trong mỗi giai đoạn. Hiện nay ở nước ta có khoảng 5700 DNNN trong đó chỉ có 30% là hoạt động hiệu quả. Vì thế, bên cạnh việc sát nhập, giải thể, chúng ta sẽ tiến hành CPH hết chỉ để lại khoảng 1000 - 1200 (20% - 25%) doanh nghiệp chủ chốt có tầm quan trọng chiến lược. Mục tiêu chung về CPH đặt ra là từ năm 2001 - 2003 sẽ CPH được 1300 - 1500 doanh nghiệp, từ năm 2004 - 2005 sẽ CPH được 1200 - 1300 doanh nghiệp . Để đạt được mục tiêu đó, một loạt các giải pháp được đưa ra bàn luận rất sôi nổi trên báo chí, truyền hình,…trong thời gian qua. Đó là giải pháp về :
a/ Thể chế:
Muốn tiến trình CPH diễn ra tốt, trước hết Quốc hội phải xem xét ban hành luật hoặc pháp lệnh CPH DNNN. Các pháp lệnh này cần thực tế và cụ thể hơn nữa để các doanh nghiệp dễ dàng tham gia CPH mà không còn vướng mắc. Trong thời gian qua, các cơ quan, Bộ nghành đã ban hành quá nhiều văn bản về CPH theo trình tự : văn bản mới, văn bản hướng dẫn, văn bản sửa đổi, bổ sung,…gây tâm lý lo sợ không bắt kịp chủ trương của Chính Phủ. Hơn nữa, các văn bản về sửa đổi, bổ sung lại ban hành quá chậm, chưa sát thực gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp CPH. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Chính Phủ nên xem xét từng trường hợp để xây dựng một bộ luật về CPH làm cơ sở vững chắc cho việc triển khai CPH, nên cho thêm một số ưu đãi và cụ thể hoá một số vấn đề như :
- Xác định rõ người lao động nghèo và cho luôn một số cổ phần (khoảng 5% giá trị doanh nghiệp) sau đó tiến hành bán rộng rãi ra công chúng.
- CPH là hình thức để huy động vốn nên không bán chịu cổ phiếu gây ứ đọng vốn.
Hàng năm nên trích khoảng 20% tổng quỹ tiền lương để đưa vào tài khoản của công nhân dùng để mua cổ phần của công ty, dành một số cổ phần thưởng cho những cá nhân , đơn vị xuất sắc đối với hoạt động của công ty. Bộ luật mới ra đời phải đảm bảo tạo ra một môi trường pháp lý thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế vì hiện nay DNNN vẫn còn được nhiều ưu đãi hơn và một số cán bộ quản lý ở các nghành vẫn coi doanh nghiệp đã CPH là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên còn phân biệt đối xử. Những nghiên cứu, sửa đổi các quy định về CPH phải phù hợp với tình hình mới, với Luật doanh nghiệp .
Cách thức xác định đối tượng thực hiện CPH cần linh hoạt và mềm dẻo hơn để tránh sự ép buộc (CPH không tự nguyện) . Muốn vậy, trước khi CPH cần có sự trao đổi, giải quyết vướng mắc tư tưởng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp .
Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp nêu trong nghị định 44/CP đã đảm bảo không gây nên những thất thoát tài sản và vốn của Nhà nước và tạo tiền đề tài chính thuận lợi cho doanh nghiệp sau CPH. Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện cần chú ý một số vấn đề như : xác định hợp lý những tồn đọng tài chính mà công ty cổ phần có thể kế thừa từ DNNN, thật sự tôn trọng ý kiến của các chuyên gia trong việc đánh giá giá trị thực tế của các tài sản; có hướng dẫn cu thể việc xác định chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, hướng dẫn cụ thể về việc xử lý nợ khó đòi, lập dự phòng nợ khó đòi.
DNNN đã CPH cũng cần được quan tâm hơn nữa. Sau khi CPH các
DNNN sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn vì vậy các cấp lãnh đạo phải có trách nhiệm giúp doanh nghiệp vượt qua những khó khăn ban đầu này. Hoạt động của DNNN sau CPH có nhiều đổi mới vì vậy Chính Phủ cần ban hành quy chế hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng, các tổ chức đoàn thể trong công ty.
b/ Tổ chức chỉ đạo:
Ban hành và sửa đổi các pháo lệnh một cách hoàn chỉnh đã khó, đưa những pháp lệnh đó vào thực tế còn khó hơn. Chính Phủ là cơ quan có nhiệm vụ tổ chức, triển khai cụ thể Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, IX. Trên cơ sở các pháp lệnh đã ban hành, Chính Phủ tổ chức giao cho các Bộ, nghành có thẩm quyền, chỉ đạo việc triển khai CPH. Song song với việc ban hành chính sách đối với các doanh nghiệp đã CPH, Chính Phủ cần tăng cường công tác quản lý với các doanh nghiệp này, tập trung chỉ đạo trên các mặt : định hướng, chiến lược, quy hoạch phát triển theo nghành kinh tế, kỹ thuật và trên địa bàn lãnh thổ, quản lý phần vốn Nhà nước trong công ty, thuế và các khoản ưu đãi.
Củng cố hệ thống tổ chức chỉ đạo thực hiện bằng cách kiện toàn các ban đổi mới quản lý doanh nghiệp từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tổng công ty 91. Các ban này phải là cơ quan giúp Chính Phủ, Bộ, các nghành, Tổng công ty 91 triển khai thực hiện tốt quá trình đổi mới và phát triển DNNN, quá trình CPH.
Đưa ra một số giải pháp cụ thể cho từng loại doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính và quản lý, doanh nghiệp thừa lao động sau CPH. Những giải pháp ở tầm vĩ mô này rất quan trọng vì nó trực tiếp giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn.
2. Các giải pháp:
& Giải pháp cho các doanh nghiệp còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý:
DNNN được phân thành 4 nhóm :
Nhóm doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về tài chính.
Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
Nhóm doanh nghiệp thua lỗ kéo dài (3 năm trở lên).
Ba nhóm đầu thuộc diện CPH, còn nhóm thua lỗ kéo dài sẽ áp dụng các biện pháp sát nhập với các đơn vị khác rồi CPH, hoặc bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoài doanh nghiệp hoặc cho phá sản. Việc thành lập các quỹ hỗ trợ CPH là một giải pháp quan trọng giúp các DNNN gặp khó khăn về tài chính. Chức năng chính của quỹ này là hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp.
Nguồn vốn của quỹ có thể hình thành từ 3 nguồn chính :
- Tiền thu từ việc bán cổ phiếu thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Vốn trợ cấp từ ngân sách Nhà nước.
Vốn tài trợ lần đầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (chủ yếu là vốn vay ưu đãi).
Hình thức hỗ trợ của quỹ rất hay :
+ Kế thừa hoặc mua lại nợ của doanh nghiệp .
+ Cho doanh nghiệp vay với cơ chế và lãi suất ưu đãi đẻ trả nợ trước khi CPH.
Với các nhiệm vụ :
Q Hỗ trợ tài chính để xử lý vấn đề lao động trước và sau CPH.
Q Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tước khi CPH.
Q Trợ giúp kỹ thuật, tư vấn về tài chính cho các DNNN CPH.
Quỹ không những giải quyết nhiều khó khăn cho doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm ăn có lãi.
Tham gia vào cơ chế thị trường thì phải nhận thức rõ khâu quản lý là khâu có tính chất quyết định. Một người quản lý tốt phải nắm bắt chính xác tình hình của doanh nghiệp , khi có thua lỗ phải biết cách chuyển hướng sản xuất kinh danh, khôi phục lại doanh nghiệp . Chính vì vậy việc lựa chọn người quản lý không phải dễ dàng. Ơ nước ta hiện nay, công tác đào tạo nghành quản trị kinh doanh vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Đây là một vấn đề cần được xem xét, giải quyết để có thể theo kịp sự phát triển của nền kinh tế.
& Giải pháp cho vấn đề dôi dư lao động trong doanh nghiệp sau khi tiến hành CPH :
Dôi dư lao động sau CPH là một trong những mặt trái của quá trình cải cách doanh nghiệp. Theo ước tính, tổng số lao động đang làm việc trong các DNNN vào khoảng 1,8 triệu người, nhưng tỉ lệ lao động được đào tạo nghề chỉ chiếm 10% - 12%, số còn lại chủ yếu là lao động phổ thông. Tình trạng này do tuyển lao động tràn lan, bất chấp trình độ nghề nghiệp và hiệu quả sản xuất trong giai đoạn trước. Cùng với việc chú trọng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì việc làm tất yếu của các doanh nghiệp là giảm bớt số lao động dư thừa, không đủ trình độ. Với kế hoạch giảm 1/3 số lượng DNNN, sẽ có khoảng 500.000 đến 620.000 người lao động mất việc làm trong đó có khoảng 40% số lao động ở độ tuổi dưới 40 . Theo báo Tài chính Doanh nghiệp số tháng 10 năm 1998 bài " Lao động dôi dư - hướng giải quyết " của tác giả Đặng Quyết Tiến, giải quyết vấn đề lao động dôi dư là một vấn đề phức tạp nhưng không thể né tránh. Nó đòi hỏi có sự hợp tác từ cả hai phía là doanh nghiệp và Chính Phủ , các Bộ nghành có liên quan. Trong đó, doanh nghiệp trực tiếp đưa ra hướng giải quyết, các cơ quan Nhà nước chỉ hỗ trợ , giúp đỡ và tháo gỡ những vướng mắc giữa doanh nghiệp với người lao động. Nội dung các giải pháp được tác giả nêu ra bao gồm :
* Đối với doanh nghiệp :
+ Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư. Đối với số lao động còn lại có nhiều hướng giải quyết như : tái sử dụng sau khi đã đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang nghành nghề mới.
+ Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện có tại doanh
nghiệp, có thể lấy từ : quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc,
quỹ đào tạo của đơn vị…
* Đối với Nhà nước nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ gián
tiếp :
+ Hỗ trợ trực tiếp : hỗ trợ một phần kinh phí cho doanh nghiệp ( có thể
lấy từ quỹ CPH DNNN ). Những hỗ trợ này nên tập trung vào việc đào
tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động, hỗ trợ cho người lao
động trong thời gian mới mất việc làm.
+ Hỗ trợ gián tiếp : là hỗ trợ về cơ chế chính sách cho người lao động, tín dụng, thuế sản xuất kinh doanh.
Về lâu dài khi nền kinh tế phát triển, sẽ có nhiều nghành đòi hỏi công nhân có tay nghề, trình độ chuyên môn. Vì vậy đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho người lao động là giải pháp vừa mang tính sách lược, vừa mang tính chiến lược.
Thực tế cho thấy nhiều DNNN CPH sau khi đi vào sản xuất kinh doanh ổn định thì thường có nhu ccầu tuyển dụng thêm lao động, những lao động đó phải là người có tay nghề, đã qua đào tạo. Nếu chúng ta không chuẩn bị ngay từ bây giờ thì tình trạng “thừa việc, thiếu người” trong nhiều doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ càng trầm trọng hơn.
Công tác chỉ đạo không thể bỏ qua việc quản lý nguồn vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp sau khi CPH. Sở dĩ phải chú ý đến vấn đề này vì sau khi CPH, cơ cấu vốn của doanh nghiệp thay đổi, phát sinh nhiều vấn đề mới. Mặt khác, công ty cổ phần mới hình thành chắc chắn còn nhiều bỡ ngỡ, các cơ quan chức năng cần giám sát, cố vấn để các doanh nghiệp ổn định được ngay từ những bước đầu tiên.
Để ổn định và phát triển sản xuất, Chính Phủ nên cho phép tư nhân trong và ngoài nước thành lập công ty tư vấn và dịch vụ cổ phần. Những công ty này sẽ tư vấn cho lãnh đạo doanh nghiệp cũng như những công nhân quyền lợi và nghĩa vụ đối với doanh nghiệp CPH như : tiến hánh CPH như thế nào, cơ cấu cổ phần Nhà nước giữ lại bao nhiêu,… Theo bài "Hình thành công ty đầu tư và dịch vụ CPH - một biện pháp đẩy mạnh tiến trình CPH" của thạc sĩ Nguyễn Quyết Chiến trên tạp chí "Phát triển kinh tế" số 90 năm 1998, công ty cổ phần đầu tư và dịch vụ CPH là một chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường sẽ phản ánh được giá trị thực tế của doanh nghiệp. Những công ty này sẽ làm trung gian cho các nhà đầu tư, tạo tâm lý an tâm cho những cổ đông còn đang băn khoăn. Công ty cũng sẽ xây dựng phương án CPH, tiến hành đấu thầu với các ban chỉ đạo CPH, Quỹ hỗ trợ CPH để xác định giá trị doanh nghiệp một cách chính xác và khách quan. Sau khi CPH, công ty tư vấn sẽ hỗ trợ việc quản lý doanh nghiệp, định hướng thị trường tiêu thụ. Nếu doanh nghiệp cần thêm vốn đầu tư, công ty cũng có thể cho vay hay đứng ra bảo đảm cho doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng hay hướng dẫn doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn… Với những ưu điểm trên, việc thành lập các công ty này trực sự góp phần vào tiến trình đẩy mạnh CPH DNNN.
Hiện nay nhiều công ty tài chính nước ngoài rất quan tâm đến hoạt động CPH. Họ muốn tham gia vào hoạt động này song chưa có đối tác để họ có thể tiếp cận. Thông qua công ty, chúng ta sẽ huy động vốn đầu tư đang chững lại thì việc mở thêm một kênh thu hút vốn nước ngoài là rất quan trọng.
Giải pháp cho những tồn tại về mặt tư tưởng:
Theo phân tích ở trên, những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những trở lực lớn nhất, đầu tiên trong việc tiến hành CPH ở bất cứ một DNNN nào.
Quán triệt tư tưởng xem CPH là phương thức huy động vốn tối ưu và hiệu quả nhất.
Xét ở góc độ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ, thiếu vốn khiến các hoạt động trở nên cầm chừng rất kém hiệu quả, không có khả năng mở rộng và phát triển sản xuất. Tại sao các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là DNNN luôn kêu là thiếu voón nhưng hàng năm một lượng tiền khổng lồ từ nguồn tích luỹ trong nước vẫn được đưa ra nước ngoài ? Nguyên nhân của tình trạng trên rất dễ hiểu là do các DNNN hoạt động kém hiệu quả nên các nhà đâù tư còn e dè sợ đồng tiền mình đầu tư sẽ không có hiệu quả, không sinh lời. Để vay được vốn Ngân hàng doanh nghiệp gặp phải rất nhiều khó khăn như : phải thế chấp , làm thủ tục giấy tờ có xác nhận của cấp nọ cấp kia .v.v. Các khoản cho vay thường có thời hạn ngắn, lãi xuất cao nên sau khi kinh doanh và trả lãi Ngân hàng thì lãi thực không còn bao nhiêu. Trong khi đó , việc mở rộng liên doanh với nước ngoài cũng còn nhiều bất cập do những bất đồng về ngôn ngữ , quyền lợi và các thủ tục giấy tờ. Vì vậy phải quản triệt tư tưởng : Xem cổ phần hoá là phương thức huy động vốn tối ưu và hiệu quả nhất . CPH mở ra một cánh cửa đầu tư thuận lợi và dễ dàng , huy động được một lượng vốn không lãi xuất, không kỳ hạn. Các doanh nghiệp nên chủ động đăng ký cổ phần hoá để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao trách nhiệm của người lao động tạo cơ sở cho sự phát triển ổn định và bền vững.
Giải đáp những thắc mắc cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và những người có liên quan trước khi CPH.
Cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp phải ý thức một cách rõ ràng CPH là một yêu cầu tất yếu khách quan. Kinh nghiệp của các doanh nghiệp đã CPH cho thấy CPH càng sớm càng có lợi do Nhà nước còn dành nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp , doanh nghiệp có điều kiện hơn trong việc ổn định tổ chức sản xuất kinh doanh. Họ cũng cần hiểu rằng , CPH là vì lợi ích của các doanh nghiệp của chính họ . Sau khi tiến hành CPH họ sẽ hoàn toàn độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Đây là cơ hội cho những người có thực lực, những doanh nghiệp mạnh sẽ vươn lên khẳng định mình . Còn đối với những người kém năng lực, những doanh nghiệp yếu thì phải nhận ra là đã đến lúc phải tự vươn lên hoàn thiện mình nếu không muốn bị đào thải theo quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Các cơ quan chức năng có trách nhiệm làm rõ cho người lao động hiểu rõ những lợi ích mà họ được hưởng khi tiến hành CPH. Đồng thời phải làm cho họ thấy được những trách nhiệm mà họ sẽ phải gánh vác, những rủi ro có thể xảy ra để họ có nỗ lực, quyết tâm hơn.
Các phương tiện thông tin đại chúng góp phần rất đắc lực để hỗ trợ việc tuyên truyền các mục tiêu trên. Tuyên truyền qua đài, báo, vô tuyến đặc biệt là những tờ báo có uy tín, đài phát thanh và truyền hình trung ương. Chương trình thời sự cũng như những bộ phim, những câu chuyện truyền thanh là những chương trình thu hút được rất nhiều khán giả.Việc đưa tin về các công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả, những buổi phỏng vấn trực tiếp trên đài truyền thanh, truyền hình về chủ trương CPH chắc chắn sẽ đóng góp rất nhiều trong việc tuyên truyền cho đông đảo công chúng các chủ trương của Đảng và Nhà nước về CPH. Qua đây, doanh nghiệp cũng tác động được đến các cổ đông tiềm năng ngoài doanh nghiệp .
Ngoài ra, để công tác phổ biến, tuyên truyền được đều đặn và kịp thời, các cơ quan chức năng nên tổ chức các lớp tập huấn cho những cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp như Giám đoóc, lãnh đạo Đảng, lãnh đạo công đoàn trong doanh nghiệp. Qua những đợt tập huấn như vậy, những chủ trương mới về CPH của Chính Phủ sẽ được cập nhật hơn, các doanh nghiệp tiếp thu nhanh và chính xác hơn. Ngược lại, những đóng góp của các lãnh đạo doanh nghiệp cũng góp phần bổ sung những kinh nghiệm sát thực cho các cơ quan chức năng trong việc sửa đổi, bổ sung các chính sách về CPH.
Đối với những hành động chây ỳ có ý cản trở việc thực hiện chủ trương CPH cần có những chế tài xử lý nghiêm minh. Những thành phần này chủ yếu là những cán bộ lãnh đạo sợ mất chức hoặc những người năng lực kém sợ mất chỗ làm. Thiết nghĩ, cần xử lý nghiêm minh những trường hợp này, có như vậy vai trò chỉ đạo của các cơ quan, tổ chức mới được đảm bảo, trên cơ sở đó tiến hành đẩy nhanh các công đoạn của quy trình CPH.
Phê phán và khắc phục triệt để tư tưởng ỷ lại vào bao cấp của Nhà nước :
Trong cơ chế thị trường đang dần hình thành ở nước ta hiện nay, ỷ lại vào bao cấp của ngân sách chẳng khác nào tự loại mình ra khỏi cuộc đua. Thời gian trước kia, các DNNN được hình thành một cách ồ ạt không quan tâm đến việc có hoạt động hiệu quả hay không. Chính công tác quản lý lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, chặt chẽ, không đi sâu đi sát tình hình đã tạo ra một bộ mấy cồng kềnh, ỳ ạch chuyên dựa vào bao cấp của ngân sách. Tư tưởng này đã ăn sâu vào một bộ phận lớn doanh nghiệp. Vì vậy cần có những cải cách kịp thời và đúng đắn để xoá dần tư tưỏng trên. Tuy rằng sau một thời gian nữa, họ cũng sẽ hiểu ra quy luật của cơ chế thị trường nhưng sẽ thiệt hại mất rất nhiều tài sản của Nhà nước, cản trở công cuộc đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh. Chính vig vậy cần phải nhanh chóng làm cho họ hiểu đuợc CPH là một biện pháp giúp họ vươn lên, tự đứng ra chịu trách nhiệm về những quyết định của mình.
Những giải pháp nêu trên chưa phải là những giải pháp tốt nhất nhưng nếu thực hiện được chúng thì nhất định sẽ đẩy nhanh được quá trình cải cách các DNNN nói chung và CPH nói riêng.
Kết luận
Chúng ta đang bắt đầu một thiên niên kỷ mới, một thiên niên kỷ hội nhập và tăng trưởng kinh tế. Khi tham gia vào thị trường thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các DNNN phải chấp nhận cạnh tranh khốc liệt. Để có chỗ đứng, các DNNN buộc phải cải cách. CPH ra đời thật đúng lúc chứng tỏ đây là một biện pháp đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan.
CPH là một vấn đề phức tạp vì đa dạng hoá sở hữu là một quá trình đi ngược lại với những chính sách của chúng ta trước đây. Quốc hữu hoá một doanh nghiệp tư nhân có khi chỉ cần một sắc lệnh nhưng CPH một DNNN thì không đơn giản chút nào. Để thực hiện thành công mục tiêu CPH 4000 DNNN, chắc chắn chúng ta sẽ sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, chúng ta không được nóng vội, chủ quan đối với sự nghiệp CPH để tránh gấp phải những cạm bẫy của thị trường. Điều quan trọng ở đây là chúng ta phải kết hợp hài hoà được yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Nói đến yếu tố chủ quan là ta nói đến tư tưởng, khả năng của con người, sự nỗ lực của các cấp lãnh đạo và bản thân doanh nghiệp. Yếu tố khách quan chính là các điều kiện vật chất, bối cảnh kinh tế, xã hội, môi trường pháp lý. Ngoài ra, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm CPH của các nước đi trước. Tiếp nhận có chọn lọc các bài học kinh nghiệm sẽ giúp chúng ta rất nhiều, tránh được những sai lầm có thể mắc phải.
Danh mục tài liệu tham khảo
1/ Nghị định 28/CP về chuyển DNNN thành công ty cổ phần ngày 7/5/1996.
2/ Thông tư số 50/TC - TCDN ngày 30/8/1996.
3/ Nghị định 44/1998/NĐ - CP 29/6/1998.
4/ Nghị định 103/1999/NĐ - CP ngày 10/9/1999.
5/ Tạp chí cộng sản số 13,17 (năm 1998); số 18 năm 2001.
6/ Nghiên cứu kinh tế số 241 tháng 6/1998, số tháng 11/1998.
7/ Báo tài chính doanh nghiệp số tháng 4,5 năm 1998.
8/ Tạp chí phát triển kinh tế số 89,90 tháng 3/1998, Số 32 tháng 9,10/1999.
9/ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7,8,9.
10/ Thời báo kinh tế Việt Nam số 27 ngày 4/4/1998.
11/ Tạp chí Tài chính số tháng 5/1997.
12/ Tạp chí Ngân hàng số 20 tháng 10/1998.
13/ Tạp chí Thương mại số 14/1998.
14/ Báo đầu tư ngày 7/1/1999.
15/ Ngoài ra còn lấy số liệu từ tài liệu của Tổng cục quản lý vốn và tài sản; Ban chỉ đạo trung ương đổi mới doanh nghiệp .
mục lục
Trang
Lời nói đầu
1
Phần nội dung
2
I. Sự cần thiết CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
2
1. Thực chất của cổ phần hoá
2
2. Thực chất doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
3
3. Sự cần thiết phải cổ phần hoá
4
II. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua
6
1.1. Giai đoạn 1
6
1.2. Giai đoạn 2
9
1.3. Giai đoạn 3
13
III. Quan điểm và các giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới
15
1. Quan điểm
15
2. Các giải pháp
19
Giải pháp cho các doanh nghiệp còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý
19
Giải pháp cho vấn đề dôi dư lao động trong doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hoá
20
Giải pháp cho những tồn tại về mặt tư tưởng
22
Kết luận
26
Danh mục tài liệu tham khảo
27
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0970.doc