Qua tìm hiểu một số mặt trong " Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam " đã cung cấp cho chúng ta những lí luận quý báu đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế mới giai đoạn hiện nay. Việc thực hiện tìm hiểu về công tác cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước sẽ giúp không chỉ để chúng ta thật sự hiểu về nó mà còn cho chúng ta nền tảng, cơ sở đối với hoạt động thực tiễn trong tương lai.
Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay mà cổ phần hoá là nhiệm vụ trung tâm. Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là biện pháp hữu hiệu để chuyển đổi và tăng cường khả năng hoạt động của doanh nghiệp theo đòi hỏi khách quan của đổi mới nền kinh tế.
25 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Cải cách chế độ sở hữu và cơ chế quản lý cần tiếp thu những kinh nghiệm của Trung Quốc tránh rập khuôn, tránh ồ ạt không hiệu quả như ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
- Công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cẩn phải được sự ủng hộ và tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân - quần chúng nhân dân là yếu tố quyết định sự thành bại của công tác cổ phần hoá.
- Cần thường xuyên và chặt chẽ trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động cổ phần hoá trong từng doanh nghiệp, tránh hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn, không cụ thể và không đem lại hiệu quả thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Trên đây là một số điểm cơ bản rút ra từ thực tiễn cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở một số nước Đông Âu, Liên Xô và Trung Quốc, chúng ta cần tiếp thu những kinh nghiệm quý báu này đồng thời chủ động đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn cổ phần hoá của nước nhà trong thời gian tới để có những điều chỉnh cho phù hợp.
3. Điều kiện cần cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước không phải được tiến hành trong thời gian ngắn mà lại là cả một quá trình lâu dài cho nên điểm khởi đầu của quá trình là hết sức quan trọng; một số điều kiện cần đề ra cho cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước:
- Một là: Phải có cơ sở pháp lý và cơ sở phương pháp luận cho việc chuyển hoá sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước. Cơ sở pháp lý đó là cụ thể hoá hình thức và phương pháp cổ phần hoá bằng hệ thống các chính sách, đường lối, chủ trương và pháp luật. Cần đưa cổ phần hoá thành những luật, những nghị định, nghị quyết, chỉ thị, thông tư …cụ thể, chặt chẽ để khi tiến hành không gặp phải những vướng mắc và khó khăn. Cơ sở phương pháp luận cho việc chuyển hoá sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước là hệ thống các lý luận về tất yếu, biện pháp, công việc, kinh nghiệm của cổ phần hoá được trình bày như thế nào ? Đây là những chỉ dẫn, định hướng cụ thể cho công tác cổ phần hoá.
- Hai là: phải lập chương trình tiến hành cổ phần hoá bao gồm: các quá trình chuyển đổi sở hữu, phân loại tài sản và doanh nghiệp Nhà nước, cải cách cơ chế quản lý ngân hàng, trình tự kiểm kê và định rõ nguồn tài sản. Các chương trình này nhằm đáp ứng đòi hỏi trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước; cho nên việc soạn thảo chúng phải thống nhất tránh mâu thuẫn và phải được nghiên cứu cụ thể.
- Ba là: Phải có sự quan tâm của Chính phủ và phải có sự hiểu biết, ủng hộ của quần chúng nhân dân; đây là yếu tố quyết định nhất cho việc tiến hành cổ phần hoá. Bởi vì chỉ có Nhà nước lãnh đạo đúng đắn, nhân dân đồng tình ủng hộ thì việc tiến hành cổ phần hoá mới đạt kết quả cao cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
- Bốn là: phải có cả nguồn lực trong lẫn ngoài nước. Đây là yếu tố quan trọng cho công tác cổ phần hoá: bởi huy động vốn trong nước là nền tảng cho cổ phần hoá nhưng nguồn vốn nước ngoài lại là cơ hội để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc huy động vốn trong và ngoài nước phải phù hợp lẫn nhau, tránh tình trạng mất cân bằng gây ra sự phụ thuộc về kinh tế - chính trị.
Nhận thức đầy đủ về điều kiện cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước có tác dụng to lớn trong công tác thực thi có hiệu quả cao và đáp ứng được những chính sách, chiến lược đã đề ra trong công cuộc chuyển đổi cơ chế kinh tế, Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
II. Doanh nghiệp Nhà nước ở Viêt Nam và thực trạng cổ phần hoá.
1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang nền kinh tế thị trường.
11 Đặc điểm các doanh nghiệp Nhà nước của ta trước khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Các doanh nghiệp Nhà nước ở ta được hình thành từ những năm 1954 ( ở miền Bắc ) và 1975 ( ở miền Nam ). Do được hình thành sớm hơn so với điều kiện thực tế không cho phép của hoàn cảnh đất nước lúc bâý giờ: chiến tranh kéo dài, tỷ trọng Nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất cao trong nền kinh tế, Công nghiệp và tiểu thủ Công nghiệp nhỏ bé; sự tích luỹ trong dân cư và ngân sách Nhà nước quá eo hẹp nên dẫn đến việc hình thành doanh nghiệp Nhà nước mang rõ nét những đặc điểm sau:
+ Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều có quy mô nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biểu hiện ở số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn. Theo báo cáo của bộ tài chính về các chỉ tiêu chủ yếu năm 1992, cả nước có trên 2/3 số doanh nghiệp Nhà nước có số lượng lao động dưới 200 người ( chiếm 4% so với doanh nghiệp có số lao động trên 100 người ); có khoảng 5-6% số lao động trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước trên toàn bộ lao động xã hội. Do thực hiện chế độ bao cấp đối với các doanh nghiệp Nhà nước nên đã không thúc đẩy được quá trình sản xuất, kinh doanh phát triển; gây ra tình trạng " lãi giả mà lỗ thật " nên quá trình quay vòng của đồng vốn không có hiệu quả, không tích luỹ được thêm vốn để mở rộng quy mô sản xuất. Trong khi đó Nhà nước lại đề ra các chỉ tiêu kinh tế quá cao, không phù hợp được với khả năng của doanh nghiệp; thêm vào đó là cơ chế quản lý kém tập trung và đúng đắn, làm cho cơ cấu giữa các doanh nghiệp Nhà nước và trong từng bộ phận donah nghiệp bị phân tán không tạo nên khả năng phát triển đồng bộ, toàn diện và hợp lý cho các doanh nghiệp này.
+ Trình độ Khoa học - Kĩ thuật và Công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp thường rất lạc hậu so với cùng thời kì ở các nước phát triển trên thế giới và ngay cả so với các nước Xã hội chủ nghĩa khác. Ngoài một số ít doanh nghiệp Nhà nước ( khoảng 18% ) được đầu tư sau năm 1986 thì phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước được thành lập từ rất lâu nên có trình độ Khoa học - Kĩ thuật và Công nghệ rất thấp. Các doanh nghiệp Nhà nước thời kì đầu đổi mới có trình độ khoa học - công nghệ và trang thiết bị lạc hậu so với các nước từ 30-40 năm; vẫn còn nhiều doanh nghiệp sử dụng kĩ thuật, máy móc từ những năm 30 hay trước đó. Việc hình thành các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam được sự giúp đỡ của rất nhiều các nước xã hội chủ nghĩa nên phần lớn kĩ thuật và công nghệ có sự khác biệt lớn dẫn đến tính đồng bộ thấp. Do các doanh nghiệp Nhà nước đều nằm trong tình trạng xuống cấp trầm trọng như vậy thì việc thất bại trong cạnh tranh là tất yếu và nhất là khi chuyển sang kinh tế thị trường việc trụ vững của các doanh nghiệp Nhà nước ở thị trường nội địa và thế giới đã là rất khó rồi thì nói gì đến việc tăng trưởng và phát triển nhanh được.
+ Sự phân bố bất hợp lý giữa ngành và vùng kinh tế. Sự phân bố của các doanh nghiệp Nhà nước trong các ngành kinh tế còn chưa thực sự hợp lý: trong đó chỉ chú trọng đến thành lập và tổ chức các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong các ngành chủ chốt ( như luyện kim, cơ khí, chế tạo, hoá chất vật liệu xây dựng...) nhưng lại ít chú ý đến lĩnh vực nông,lâm nghiệp, các ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ. Thêm vào đó là sự phân bố không đồng đều giữa các vùng kinh tế," nơi thừa nơi thiếu ". Các doanh nghiệp Nhà nước phần lớn chỉ được tổ chức ở một số vùng kinh tế trọng điểm ( như Hà Nội,Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Việt Trì, Thái Nguyên …)
dẫn đến sự chênh lệch về nguồn lực, vốn và thu nhập khá lớn giữa các vùng kinh tế với nhau: Nơi có nhiều khu công nghiệp phát triển thì đời sống dân cư và xã hội cao hơn nơi không có hoặc ít. Vì vậy, sự phân bổ hợp lý của các doanh nghiệp Nhà nước theo ngành và vùng kinh tế cũng nói nên phần nào hiệu quả của tổ chức và quản lý của Nhà nước.
Đặc điểm của sự hình thành các doanh nghiệp Nhà nước trong thời kì trước khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế được thể hiện ra bên ngoài nền kinh tế những nét sau:
+ Mức tăng trưởng hằng năm thấp, trong khi đó: tỉ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội cao gấp 1,5 lần, chi phí sáng tạo ra một đồng thu nhập quốc dân cao gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân,và mức tiêu hao vật chất của các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta cho một đơn vị tổng sản phẩm xã hội thường cao gấp 1,3 lần so với mức trung bình trên thế giới. Ví dụ: mức tiêu hao vật chất so với thế giới đối với sản phẩm cơ khí bằng 1,3 -1,8 lần, phân đạm bằng 2,35 lần; kéo theo mức tiêu thụ năng lượng của doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta cũng cao hơn so với mức trung bình thế giới: trong sản xuất giày gấp 1,26 lần, hoá chất cơ bản bằng 1,44 lần, than bằng 1,75 lần, phân đạm bằng 1,83 lần …
+ Các chỉ tiêu kinh tế do Nhà nước đặt ra cho doanh nghiệp Nhà nước phần lớn không đạt được: Một phần là chất lượng ssản phẩm rất thấp và không ổn định - chỉ có 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, 65% để tiêu dùng trong nước và khoảng 20% còn lại là sản phẩm kém chất lượng. Chính vì vậy, thường gây nên hiện tượng hàng hoá ứ đọng với khối lượng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lưu động cuả toàn xã hội.Một phần là hệ số sinh lời trong khu vực kinh tế Nhà nước rất thấp: hệ số sinh lời của vốn lưu động tính chung chỉ đạt 7%/năm trong đó ngành giao thông vận tải đạt 2%/năm, ngành công nghiệp khoảng 3%/năm, ngành thương nghiệp đạt 22%/năm.
+ Tình trạng lạm phát không có xu hướng giảm mà ngày càng gia tăng và giữ ở mức cao. Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước hết sức thấp: Nhà nước dành 70% vốn đầu tư ngân sách của toàn xã hội cho hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước nhưng chúng chỉ tạo được từ 340-35% tổng sản phẩm xã hội; mặc dù, khu vực kinh tế Nhà nước sử dụng hầu hết lao động có trình độ cao và phần lớn số vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Số doanh nghiệp thua lỗ chiếm tỷ trọng lớn: theo thống kê thì năm 1990 có 4584 đơn vị thua lỗ trên số 12084 cơ sở quốc doanh ( chiếm 30% tổng số các doanh nghiệp Nhà nước ); các đơn vị thua lỗ này có giá trị tài sản cố định bằng 38% tổng giá trị tài sản của toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước và với 787300 lao động trong tổng số 2590000 lao động ( chiếm 32,9% số lao
động của toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước ). Việc làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp Nhà nước đã gây ra tổn thất to lớn cho ngân sách Nhà nước và thực sự là gánh nặng đối với ngân sách: gây ra bội chi ngân sách triền miên trong nhiều năm qua. Thêm vào đó, Nhà nước lại phải bù giá, bù lương, bù chênh lệch ngoại thương và hàng loạt các khoản bao cấp khác cho các doanh nghiệp Nhà nước. Chỉ tính riêng giai đoạn 1985-1990 tỷ lệ thâm hụt ngân sách thường xuyên ở trên mức 30%; tài sản, tiền vốn của Nhà nước giao cho doanh nghiệp phần lớn là không được bảo tồn và phát triển: hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước mới chỉ bảo toàn được vốn lưu động, còn vốn cố định thì mới bảo toàn được ở mức 50% so với chỉ số lạm phát. Hai ngành chiếm giữ vốn lớn nhất là công nghiệp và thương nghiệp ( 72,52% ), lại là hai ngành có tỷ lệ thất thoát vốn lớn nhất ( 16,41% và 14,95% ). Ngoài ra, hiện tượng vòng vo trong nợ nần dẫn đến mất khả năng thanh toán; do quản lý tài chính của Nhà nước chậm được đổi mới và nạn tham nhũng, lãng phí diễn ra ở mức báo động…
Tuy nhiên, từ khi chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường ( năm 1986), bộ mặt nền kinh tế ở nước ta đang dần thay đổi ngày càng tiến bộ và đang đạt được những kết quả bước đầu hết sức khích lệ.
12. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau đây:
+ Do ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, mô hình Chủ nghĩa xã hội được áp dụng không phù hợp, chiến tranh kéo dài … Các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành và phát triển trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp kéo dài: với chính sách cấp phát - giao nộp làm cho doanh nghiệp mất đi quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh; cho nên khi chuyển sang kinh tế thị trường thì cả một khu vực kinh tế Nhà nước đồ sộ, cồng kềnh bộc lộ tất cả những yếu kém về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước; cơ cấu chắp vá,không đồng bộ và xơ cứng trong việc thích nghi cơ chế mới. Hơn nữa, ta lại áp dụng một cách máy móc mô hình xây dựng Xã hội chủ nghĩa của Liên Xô và Đông Âu, trong khi đó nước ta lại có những đặc điểm hết sức khác biệt dẫn đến sự khập khiễng của nền kinh tế. Chiến tranh kéo dài cũng là một gánh nặng, sức cản lớn cho nền kinh tế: chiến tranh đã tàn phá nền kinh tế của ta kiệt quệ và đẩy nền kinh tế thụt lùi, không phát triển được. Chính vì lẽ đó, mà doanh nghiệp Nhà nước của ta hoạt động kém hiệu quả và không tạo động lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
+ Do nguồn lực ban đầu cho phát triển kinh tế còn hạn hẹp, lực sản xuất yếu kém; chưa khai thác được tiềm năng phong phú của nền kinh tế. Nước ta phát triển đi lên Xã hội chủ nghĩa từ một nước thuộc địa nủa phong kiến nền kinh tế lạc hậu nghèo nàn; phần lớn dân cư tập trung trong lĩnh vực sản xuất Nông nghiệp ( hơn 80% dân số ), cộng với sự bóc lột vơ vét của bọn thực dân phong kiến. Bởi vậy, xuất phát điểm của nền kinh tế là quá thấp, chưa có khả năng để vực dậy nền kinh tế vốn đã ốm yếu què quặt. Sự hạn hẹp của nguồn lực cho nền kinh tế gắn liền với sự yếu kém của lực lượng sản xuất - mà biểu hiện rõ nét nhất là ở kết cấu hạ tầng cơ sở của nền kinh tế: thường ở dưới mức trung bình so với các nước đang phát triển. Đây thực sự là lực cản đối với sự tăng trưởng và phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Phải kể đến ở đây trước là hệ thống đường giao thông: cả nước mới có 32595 km đường sắt, nhưng chủ yếu là đường khổ rộng 1m đang trong tình trạng lạc hậu và xuống cấp trầm trọng; đường quốc lộ có tới 47% đường xấu không đạt tiêu chuẩn quốc gia; cảng biển và sân bay thiếu cả về số lượng và chất lượng; các công trình đạt tiêu chuẩn quốc tế còn rất ít. Không những thế, trình độ khoa học - công nghệ và đội ngũ cán bộ lành nghề ở nước ta quá thấp so với các nước trong khu vực. Ngoài ra, sự yếu kém của nền kinh tế còn thể hiện ở trình độ khai thác tiềm năng của nền kinh tế, cụ thể: chưa có tích luỹ nội bộ, chưa có khả năng chi trả số nợ đến hạn trả và quá hạn trả, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp còn quá thấp, lãi xuất vay cao; trong khi khả năng của sản phẩm và kinh nghiệm kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới còn yếu kém. Các nguồn lực tiềm năng của ta rất nhiều và phong phú: con người, tài nguyên, thị trường … còn chưa được tận dụng triệt để và phát hiện ra; cho nên các tiềm năng đó có nguy cơ bị lãng quên hoặc lãng phí, không đem lại hiệu quả cho tăng trưởng nhanh nền kinh tế đất nước nói chung và các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng.
+ Trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế kém, hệ thống pháp luật và chính sách chưa thực sự hoàn chỉnh, còn chồng chéo, cồng kềnh, mâu thuẫn. Trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng ở nước ta còn yếu kém trên nhiều phương diện: Một là hệ thống pháp luật còn chưa rõ ràng trong phân định chức năng quản giữa các ngành, các cấp, các doanh nghiệp; thể hiện ở chỗ các ngành luật còn chưa thống nhất gây hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau. Hai là hệ thống các chính sách từ Trung ương xuống địa phương chưa đồng bộ, có nhiều khe hở - để cho kẻ cơ hội dễ lộng hành -; nhiều chính sách đã cũ, lỗi thời không còn phù hợp với điều kiện mới vẫn được áp dụng. Ba là công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thi hành pháp luật còn qua loa, đại khái, chưa tạo được môi trường kinh doanh trong sạch; đồng thời sự phân bổ của các cơ quan này về chức năng, nhiệm vụ chưa được rõ ràng, mạch lạc …
+ Do sự thiếu cương quyết, chậm chạp trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường nên các doanh nghiệp bị cô lập, không được đặt trong cạnh tranh, không gắn với thị trường.Chính sự thiếu cương quyết và chậm chạp trong quy định chế độ sở hữu tài sản của doanh nghiệp Nhà nước khi chuyển sang cơ chế thị trường đã dẫn đến nhiều hậu quả xấu cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp về sau; thêm vào đó là sự thiếu minh bạch, công bằng trong phân phối thu nhập và quản lý tài sản Nhà nước chưa chặt chẽ dẫn đến thất thoát, lãng phí của cải Nhà nước.
+ Các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta do yếu tố lịch sử để lại và đóng vai trò quan trọng, chủ đạo đối với nền kinh tế phát sinh nên đòi hỏi đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là một tất yếu khách quan. Đây là một việc làm rất khó, đòi hỏi tốn thời gian nên chúng ta cần phải đi những bước đi phù hợp và có hiệu quả.
2. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
Quá trình tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta được thực hiện từ đầu những năm 1990 cho đến nay được diễn ra làm hai giai đoạn, nhưng sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối vì đây là quá trình phát triển liên tục, không ngừng, không có sự tách biệt:
21. Giai đoạn thử nghiệm 1992 - 1995.
Chủ trương về thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được nêu lần đầu tiên tại Nghị quyết hội nghị làn thứ 2 BCHTW khoá VII (tháng 11 năm 1991 ) và tiếp đó là Quyết định số 202 / CT ngày 08/06/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ) về hướng dẫn thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần; Chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
a) Những mặt đã đạt được:
Trên cơ sở số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã đăng kí, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã ra Quyết định số 203 /CT ngày 08/06/1992 chọn 7 doanh nghiệp Nhà nước do Chính phủ chỉ đạo thí điểm, nhưng thực tế mới có 5 doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang công ty cổ phần:
- Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ giao thông vận tải ( năm 1993)
- Công ty cơ điện lạnh thuộc UBND thành phố Hồ Chí Minh ( năm 1993 ).
- Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp ( năm 1994 ).
- Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An ( năm 1995 ).
- Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn ( năm 1995 ).
Tuy số lượng doanh nghiệp Nhà nước tiến hành cổ phần hoá còn ít ( mới chỉ có 5 doanh nghiệp ) nhưng đã cho thấy sự đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong thực hiện chủ trương cổ phần hoá. Giai đoạn thí điểm này diễn ra tương đối ngắn cho nên việc đánh giá kết quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước còn khó khăn và chưa sát thực; nhưng nhìn chung từ việc cổ phần hoá 5 doanh nghiệp này đã phần nào tạo được cơ sở, nền tảng vững chắc cho giai đoạn sau.
b) Những mặt hạn chế, tồn tại:
Qua thí điểm cổ phần hoá 5 doanh nghiệp Nhà nước nói trên, có thể đúc rút được một số kinh nghiệm cho thời gian tiếp theo trên cơ sở những mặt còn hạn chế và tồn tại:
- Thứ nhất, tiến trình cổ phần hoá tiến triển rất chậm, thể hiện ở số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá mới chỉ dừng lại ở 5 doanh nghiệp. Quá trìng này diễn ra chậm là do: Về phía Nhà nước, chưa thực sự cương quyết và quyết tâm trong tiến hành điều chỉnh các văn bản hướng dẫn chỉ đạo công tác cổ phần hoá; cộng với sự lúng túng, thiếu thống nhất trong xử lý các doanh nghiệp được chọn cổ phần hoá, không biết đưa doanh nghiệp theo hướng nào ?. Về phía doanh nghiệp, còn bị động, trông chờ, ỉ lại vào Nhà nước; một số cán bộ lãnh đạo của doanh nghiệp chưa thấy được sự cần thiết của việc cổ phần hoá, đa số lo ngại mất quyền lợi địa vị; người lao động lo lắng về đời sống, sợ mất việc làm, sợ giảm thu nhập do vậy không hăng hái tiến hành cổ phần hoá.
- Thứ hai: nhìn chung các doanh nghiệp chưa có các phương án phát triển sản xuất thật hiệu quả, chưa tìm ra phương án đầu tư mới. Điển hình là Đại lí liên hiệp vận chuyển thừa vốn không biết dùng vào đâu.
- Thứ ba: quan điểm về cổ phần hoá vẫn chưa thống nhất, đặc biệt là các cấp bộ, tỉnh sợ cổ phần hoá rồi sẽ không còn gì để quản lý nữa. Vẫn tồn tại quan niệm " Cổ phần hoá đồng nghĩa với tư nhân hoá ". Nhà nước chưa có biện pháp mạnh mẽ thực hiện đúng quyền chủ sở hữu của mình, còn trông chờ sự tự nguyện nơi các doanh nghiệp, chủ trương cổ phần hoá dàn đều không tập trung vào các vùng trọng điểm.
- Thứ tư: công tác tuyên truyền, vận động đối với cán bộ, công nhân viên doanh nghiệp cổ phần hoá chưa thật tốt, người lao động vẫn không thoả mãn với những gì mà mình nhận được. Thêm vào đó, các tổ chức thực thi cổ phần hoá chưa rõ ràng và phân tán ở nhiều cấp, ngành gây sự trùng lắp mâu thuẫn nhau.
- Thứ năm: Kiểm toán chưa thực sự thực hiện được chức năng của mình do: chi phí kiểm toán rất cao, chỉ kiểm toán được hạch toán của doanh nghiệp chứ chưa xác định được giá trị doanh nghiệp; một số doanh nghiệp miền Nam chưa giải quyết được các văn bản pháp lý gây ách tắc cho quá trình cổ phần hoá.
- Thứ sáu: Vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá cũng còn gặp không ít khó khăn và đã kéo dài lịch trình cổ phần hoá thậm chí làm cho cổ phần hoá nhiều khi không thực hiện được. Cộng với các quy định về chế độ đối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá chưa rõ ràng, có phần phân biệt đối xử.
- Thứ bảy: cản trở lớn đối với các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá là thị trường chứng khoán; do chưa có thị trường chứng khoán nên việc thu hồi vốn đầu tư khi cần thiết sẽ trở nên khó khăn hơn. Bởi vì, thị trường chứng khoán tồn tại như là một tất yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của các công ty cổ phần; nó vừa là điểm hẹn vừa là môi trường để cho các doanh nghiệp này cạnh tranh.
Những hạn chế trong công tác cổ phần hoá giai đoạn thí điểm cần được khắc phục và kiểm soát trong giai đoạn mở rộng tới nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá phát triển hơn nữa.
22.Giai đoạn mở rộng từ 1996 đến nay.
Để điều chỉnh những hạn chế tồn tại giai đoạn thí điểm trước đó, Nhà nước đã ban hành 3 Nghị định mới thay cho các văn bản trước đó: Nghị định số 28/Cp ngày 07/05/1996 về " Chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần ", Nghị định số 25/CP ngày 26/03/1997 về " Sửa đổi một số điều của Nghị định 28/Cp " và Nghị định số 44/1998 NĐ-CP ngày 29/06/1998 về " Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần ". Các văn bản pháp qui liên tục được đổi mới tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
a) Những thành tựu đạt được:
Từ 1996 đến nay, việc ban hành Nghị định 44/CP ngày 29/06/1998 đã tạo động lực mạnh mẽ hơn cho doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần; cũng như đơn giản hoá một số thủ tục liên quan. Tính đến cuối năm 1999, cả nước đã chuyển được 370 doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần ( trong đó thời điểm cuôí năm 1998 và năm 1999 là diễn ra mạnh mẽ hơn cả ). Hầu hết các doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần đều cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng rõ rệt:
- Vốn điều lệ ( kể cả vốn Nhà nước ) tăng bình quân 19,06%/năm.
- Doanh thu: tăng bình quân 46%/năm.
- Lợi nhuận: tăng bình quân 44%/năm.
- Các khoản nộp ngân sách: tăng bình quân 82%/năm.
- Tỷ suất lợi nhuận năm 1997 trên vốn sở hữu ( gồm vốn góp ban đầu và vốn tích luỹ ) là 44%.
- Số người lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng bình quân 30%/ năm.
- Thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3%/năm.
Ngoài ra,người lao động có cổ phần trong công ty còn được chia lợi tức trên vốn góp cổ phần từ lợi nhuận sau thuế 22-24%/ năm ( nếu gửi tiết kiệm thì tối đa cũng chỉ được 12% năm ).
Có được các kết quả tương đối cao trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp cho tới nay là do công tác này đã đạt được một số thành công nhất định:
- Cổ phần hoá đã làm thay đổi phương thức quản lý, chế độ bình bầu chọn giám đốc, hội đồng quản trị và các chức danh lãnh đạo của doanh nghiệp đã làm cho đội ngũ này có trách nhiệm cao hơn; quyền lợi và trách nhiệm gắn với nhau hơn, việc trả công lao động cũng rất rõ ràng và minh bạch; vấn đề làm chủ tập thể của các cổ đông được phát huy cao độ.
- Tình trạng lãng phí của cải, tài sản giảm đi rất nhiều: vấn đề ăn nhậu, xa hoa không còn, tiền phong bao giảm … Bởi vì, các khoản chi trong công ty đều được quy định rõ ràng ở điều lệ các công ty ( cụ thể nhất là chi tiếp khách).
- Người lao động rất phấn khởi, hăng say lao động và sáng tạo hơn trong sản xuất; bởi khi thực hiện cổ phần hoá thì phần lớn thu nhập của họ tăng lên rất nhiều. Không khí lao động - sản xuất mới đã dần được thiết lập trong từng công ty.
- Tài sản của doanh nghiệp Nhà nước được đánh giá lại chính xác hơn so với giai đoạn trước đó. Lâu nay tài sản thuộc các doanh nghiệp Nhà nước bị đánh giá thấp, khấu hao trích nộp thấp, không đủ bù đắp vốn để tái đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất, nhưng nay được đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn.
Sau khi cổ phần hoá Nhà nước thu lại một nguồn vốn đáng kể và thu ngân sách cũng tăng, tạo nguồn lực mới cho phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác.
- Giá trị cổ phiếu tại các doanh nghiệp sau cổ phần hoá ngày càng tăng: bình quân từ 2-3 lần, dẫn tới số lượng người tham gia mua cổ phiếu tại các doanh nghiệp cũng tăng, thúc đẩy sự thành lập thị trường chứng khoán ở nước ta.
- Nhà nước ta ngày càng tiến bộ rõ rệt trong công tác chỉ đạo cổ phần hoá, tư tưởng được thống nhất, có nhiều biến đổi lớn trong đường lối và chính sách phát triển kinh tế - xã hội; do đúc rút được nhiều kinh nghiệm quý báu và hạn chế những nhược điểm trong công tác lãnh đạo.
b) Bài học kinh nghiệm cho tương lai.
Gần 10 năm thực hiện cổ phần hoá đã cho chúng ta những bài học và kinh nghiệm vô cùng quý báu cho thời gian tới. Từ thực tiễn cổ phần hoá giúp ta
nhận thức đúng đắn hơn cho sự nghiệp cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước thời gian tiếp theo:
- Tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước trên cơ sở khắc phục những hạn chế và tồn tại; phát huy những mặt đã đạt được của cổ phần hoá.
- Thấy được vai trò và công tác chỉ đạo của Đảng và Nhà nước là hết sức quan trọng, có ảnh hưởng to lớn tới cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
- Nguồn vốn trong nước huy động được từ việc bán cổ phiếu và nguồn vốn nhận đầu tư nước ngoài là yếu tố có tác động lớn tới việc mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ tại công ty cổ phần.
- Tài nguyên và môi trường ngày càng phải được chú trọng hơn nữa trong sử dụng và khai thác; tận dụng hợp lý và tránh lãng phí các nguồn lực là cơ hội để phát triển kinh tế - xã hội bền vững và lâu dài.
- Xem xét và vận dụng những thành tựu khoa học - kĩ thuật và công nghệ, con người, quản lí..là nền tảng cho sự phát triển mạnh mẽ hơn của doanh nghiệp cổ phần.
Tất cả những kinh nghiệm được rút ra cần được nhận thức sâu sắc và phát huy hoặc hạn chế những khuyết điểm của giai đoạn trước. Luôn luôn đưa nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa - để cổ phần hoá phục vụ cho sự nghiệp Xã hội chủ nghĩa chứ không đáng mất hoặc làm đổ vỡ được - trong đó kinh tế Nhà nước không mất đi vai trò chủ đạo.
3. Khó khăn và vướng mắc khi chuyển hoá doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
Do ta mới thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong vài năm gần đây nên quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp còn gặp một số khó khăn và vướng mắc trong quá trình thực thi:
Thứ nhất: là những vướng mắc về nhận thức - tư tưởng và về cơ chế chính sách.
- Về nhận thức tư tưởng: Từ phía Nhà nước, các cán bộ lãnh đạo còn một số ít chưa muốn tiến hành cổ phần hoá, vì cho cổ phần hoá sẽ mâu thuẫn với định hướng Xã hội chủ nghĩa hay cổ phần hoá rồi thì mình sẽ quản lý ở lĩnh vực gì đây ? Ngoài ra, các nhà lãnh đạo còn lo sẽ bị mất quyền lợi hay địa vị mà họ hiện đang nắm giữ … ở phía doanh nghiệp, các cán bộ lãnh đạo còn e ngại mất cương vị gắn liền với những quyền lợi về vật chất và tinh thần; ở người lao động chưa thực sự hiểu rõ những vấn đề liên quan tới công ty cổ phần, sợ mất việc làm hoặc giảm thu nhập: Đối với doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, cán bộ công nhân viên không muốn có sự thay đổi hay xáo động trong lúc này vì sợ mất đi hiện trạng rất tốt này; ngược lại ở doanh nghiệp đang gặp khó khăn lại nảy sinh sự lo ngại không còn trợ giúp của Nhà nước, công ty sẽ không tránh khỏi giải thể …
- Về cơ chế chính sách:
+ Những quy định về ưu đãi với doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần chưa thể hiện rõ việc tạo động lực khuyến khích, trợ giúp doanh nghiệp Nhà nước tiến hành cổ phần hoá khi trên thị trường diễn ra cạnh tranh gay gắt. Cũng là những chính sách về ưu đãi, đối với người lao động cũng nảy sinh những điều chưa sát với thực tế; mặc dù, Nhà nước có quy định giá bán cổ phiếu cho công nhân trong doanh nghiệp thấp hơn 30% so với bán ra ngoài, nhưng không phải người lao động nào cũng đủ năng lực tài chính để mua cổ phiếu ưu đãi. Các quy định về ưu đãi chỉ mang tính chất bình quân không có sự phân biệt theo ngành, lĩnh vực và theo vùng là sự bất hợp lý.
+ Việc quy định những cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp không được mua cổ phiếu quá mức bình quân chung của người lao động đã gây nên bất lợi trong huy động vốn, gây nên tâm lý hoài nghi khi những người có vốn hoặc cán bộ chủ chốt chỉ mua ở mức hạn chế …
+ Việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá gặp nhiều vướng mắc liên quan đến việc xác định giá trị còn lại của tài sản, xử lý công nợ, xử lý tài sản không phù hợp với công ty cổ phần. Trong đánh giá giá trị doanh nghiệp thường nảy sinh mâu thuẫn giữa doanh nghiệp với Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp. Mặt khác, việc giải quyêt các tồn đọng tài chính giữa doanh nghiệp và cơ quan tài chính còn chưa thực sự rõ ràng và thích hợp gây nhiều mâu thuẫn làm kéo dài công tác cổ phần hoá.
- Thứ hai: vướng mắc liên quan đến tổ chức quá trình cổ phần hoá và kĩ thuật soạn thảo hồ sơ cổ phần hoá.
+ Về tổ chức quá trình cổ phần hoá, đây là công việc hoàn toàn mới mẻ; Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Nhà nước các cấp và Ban đổi mới quản lý của doanh nghiệp không tránh khỏi lúng túng trong thực hiện những công việc khác nhau của quy trình cổ phần hoá. Thành phần của các ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Nhà nước phần lớn đều là các cán bộ hoạt động có tính chất kiêm nhiệm, chưa có đầu tư nghiên cứu cần thiết cho công tác cổ phần. Còn các cán bộ quản lý doanh nghiệp thì cùng một lúc thực hiện hai việc: vừa lo quản lý sản xuất, kinh doanh và vừa lo thực hiện các công việc của cổ phần hoá. Thêm vào đó là việc chọn các công ty tiến hành cổ phần hoá và ra quyết định cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp Nhà nước này của các cơ quan chủ quản lại có thể vấp phải phản ứng từ phía doanh nghiệp chưa quyết tâm thực hiện; còn nếu chờ các doanh nghiệp tự nguyện tiến hành cổ phần hoá thì quá chậm trễ và lề mề.
+ Về việc soạn thảo phương án kinh doanh và điều lệ công ty cổ phần, đây là
công việc không kém phần phức tạp và khó khăn. Việc thiếu kinh nghiệm, cộng với thiếu thông tin trong điều kiện hoạt động mới của doanh nghiệp dẫn
đến khó khăn trong việc đề ra các phương án kinh doanh cho doanh nghiệp. Thường thì các phương án kinh doanh được soạn thảo ra còn sơ sài, ít có giá trị thực tế …
+ Về điều lệ công ty cổ phần, việc xác định dự thảo về điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần gặp nhiều khó khăn trong áp dụng Bản điều lệ mẫu. Sự chậm trễ trong điều chỉnh và thi hành các điều lệ công ty cổ phần cũng sẽ gây những khó khăn nhất định cho các doanh nghiệp cổ phần trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
III. Quan điểm và giải pháp để thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta trong thời gian tới.
1. Mục tiêu và đối tượng trong cổ phần hoá.
11.Mục tiêu.
Từ sau tiến hành thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định rõ cho mình những mục tiêu cụ thể và xuyên suốt:
- Mục tiêu thứ nhất: là phải chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Bằng cách chuyển hoá sở hữu này sẽ buộc phải chuyển gần hết các chức năng quản lý cho chủ sở hữu mà lâu nay bộ máy Nhà nước đã phải đảm đương. Được giải phóng khỏi nhiệm vụ quản lý doanh nghiệp, Nhà nước và các cơ quan chủ quản sẽ tập trung vào những việc đặc trưng của quản lý ở tầm vĩ mô. Hơn nữa, việc chuyển hoá sở hữu còn tạo điều kiện để ràng buộc người lao động trong doanh nghiệp với sự nghiệp sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng " của chùa không ai xót " như hiện nay.
- Mục tiêu thứ hai: là phải huy động được một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để phát triển sản xuất kinh doanh. Tăng vốn, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh là hai việc làm căn bản của quá trình cổ phần hoá; trên cơ sở huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, tạo thêm việc làm, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước.
- Mục tiêu thứ ba: là tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, bằng cách bán cổ phần cho cán bộ công nhân viên đã phần nào giải quyết được vấn đề nâng cao thu nhập cho người lao động và cũng là động lực khuyến khích người lao động hăng say, sáng tạo hơn trong quá trình sản xuất.
Ba mục tiêu trên đều nhằm vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp Nhà nước, giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước, xoá bỏ độc quyền Nhà nước tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô của mình. Ngoài ba mục tiêu cơ bản đã trình bày, cổ phần hoá góp phần thực hiện các mục tiêu khác như: thực hiện phân phối thu nhập trong xã hội đồng đều hơn; tạo dựng và phát triển một thị trường tài chính, chứng khoán hoàn chỉnh; hay đưa nền kinh tế thoát khỏi hệ thống kế hoạch hoá tập trung …
12. Đối tượng.
Để thuận lợi cho tiến trình cổ phần hoá, doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta được chia thành hai nhóm cấu thành chính:
+ Nhóm các doanh nghiệp Nhà nước không tiến hành cổ phần hoá: là các doanh nghiệp mà trong điều kiện hiện nay cần phải giữ lại hình thức doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn: Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực an ninh và quốc phòng ( như sản xuất vũ khí, thuốc nổ và các phương tiện thu phát sóng); Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế hay thuộc về cơ sở hạ tầng có tính chất nền tảng giúp cho các ngành khác phát triển; Các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực cần thiết cho quốc kế dân sinh nhưng các thành phần kinh tế khác không đầu tư vì không có lãi như lĩnh vực thuộc về công cộng, giáo dục, y tế, truyền thông …
+ Nhóm đối tượng chính của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là các doanh nghiệp thuộc các ngành, các lĩnh vực xét thấy không cần thiết phải duy trì hình thức sở hữu Nhà nước; các doanh nghiệp Nhà nước đang trong tình trạng làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán và không thuộc phương diện Nhà nước trợ cấp … Vì đây là nhóm đối tượng chính trong cổ phần hoá và chiếm tỷ lệ cao trong tổng số doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay, cho nên khi tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp thuộc nhóm này cần phải được sự định hướng, quy định cụ thể và chỉ đạo sát sao của Chính phủ và các bộ chủ quản.
2. Một số quan điểm cơ bản trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Từ thực tiễn cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn thí điểm và giai đoạn mở rộng cho thấy việc xác định rõ quan điểm cơ bản có tính chất chỉ đạo trong giai đoạn tiếp theo. Một số quan điểm chủ yếu cần đề cập trong cổ phần hoá:
* Quan điểm thứ nhất: Cổ phần hoá không làm suy giảm vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước. Việc lựa chọn những doanh nghiệp Nhà nước để
chuyển thành công ty cổ phần phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá, tuy là quá trình chuyển một phần sở hữu Nhà nước thành các hình thức sở hữu khác nhưng không vì thế làm mất đi vai trò quan trọng vốn có của thành phần kinh tế Nhà nước; trái lại cổ phần hoá còn đề cao vai trò của kinh tế Nhà nước. Quá trình cổ phần nhằm làm giảm số lượng doanh nghiệp Nhà nước nhưng đồng thời tăng chất lượng trong các doanh nghiệp Nhà nước còn lại. Khu vực kinh tế Nhà nước luôn giữ vai trò định hướng, điều tiết và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển nhưng đồng thời là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước và là phương tiện để Nhà nước quản lý sự hoạt động trong nền kinh tế.
* Quan điểm thứ hai: Quá trình cổ phần hoá biến người công nhân thành người sở hữu cổ phần. Cổ phần hoá không thể tập trung quyền lực trong tay bất cứ một cá nhân hay tổ chức độc quyền nào; mà cổ phần hoá phải đi đôi với đa dạng hoá hình thức sở hữu; trong đó chú ý đến người công nhân và quần chúng nhân dân vì đây là bộ phận chủ yếu tác động thực hiện đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá, nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Việc lựa chọn các doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá thuộc thẩm quyền và chức năng của Nhà nước với tư cách là người sở hữu chứ không tuỳ thuộc vào ý kiến của giám đốc và tập thể người lao động trong doanh nghiệp. Trên cơ sở nguyên tắc này, Nhà nước điều chỉnh và phân loại các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá một cách chủ động, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế đất nước và có lợi nhất cho cả Nhà nước lẫn doanh nghiệp. Nhà nước có thể sắp xếp và phân chia doanh nghiệp thành 3 loại: Loại doanh nghiệp Nhà nước không chuyển thành công ty cổ phần vì ở những ngành những lĩnh vực Nhà nước cần có sự kiểm soát và độc quyền; loại doanh nghiệp Nhà nước có thể chuyển thành công ty cổ phần nhưng chưa đủ điều kiện thuận lợi do quy mô quá lớn hay đang là nguồn thu chủ yếu của ngân sách; loại doanh nghiệp, Nhà nước ưu tiên chuyển thành công ty cổ phần là những doanh nghiệp có quy mô vừa phải, đang trong tình trạng làm ăn kém hiệu quả nhưng có triển vọng khi chuyển sang công ty cổ phần.
+ Giải quyết được dứt điểm tồn đọng về tài chính và lao động là hết sức quan trọng khi chuyển các doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Các vấn đề về tài chính có thể bao gồm: các tài sản chờ thanh lý; các tài sản mất mát, thiếu hụt , cần phải truy cứu trách nhiệm rõ ràng và kết luận dứt khoát về cách giải quyết; các khoản nợ phải đòi, phải trả; hay các nguồn vốn liên doanh, liên kết cần được thống kê và báo cáo đầy đủ …
Đây là quan điểm chỉ rõ vai trò và chức năng của Nhà nước trong chỉ đạo công tác cổ phần hoá và quản lý các doanh nghiệp Nhà nước. Giữ vững quyền lực Nhà nước là yếu tố đảm bảo thực hiện cổ phần hoá một cách có hiệu quả, phù hợp với chủ trương, đường lối Đảng và Nhà nước đã đề ra.
* Quan điểm thứ tư: Tất cả tài sản của doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước và được quyết định bởi Nhà nước trong đánh giá tài sản. Mọi tài sản của doanh nghiệp đều thuộc sở hữu Nhà nước, trừ quỹ phúc lợi xã hội của tập thể là phần tiền lương không chia để lại cho mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cùng hưởng. Phần "vốn tự có " của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay thực chất là phần lợi nhuận và quỹ khấu hao được Nhà nước cho phép giữ lại để tái sản xuất mở rộng, nên đương nhiên là thuộc về Nhà nước và trở thành vốn cổ phần của Nhà nước trong công ty cổ phần sẽ được hình thành. Điều này là hợp lý khi xét về mặt pháp lý trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp khi tất cả các khoản nợ và có của doanh nghiệp đều thuộc về Nhà nước. Mặt khác, dựa trên bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cần xác định các mục tiêu chủ yếu và cụ thể đối với từng doanh nghiệp được lựa chọn cổ phần hoá. Việc xác định giá trị của các doanh nghiệp Nhà nước để tiến hành cổ phần hoá phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành: giá trị hữu hình và giá trị vô hình nhằm kết hợp các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp một cách có hiệu quả. Các công việc cụ thể trong việc đánh giá tài sản doanh nghiệp Nhà nước đều phải được các bộ chủ quản Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp thực hiện trên cơ sở các quyết định cụ thể mà Nhà nước đã đề ra.
* Quan điểm thứ năm: Các công ty cổ phần hoạt động trong khuôn khổ Luật Công tyvà việc bán cổ phần ở các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá cần phải công khai, rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu cho mọi người. Sau khi trở thành công ty cổ phần, các doanh nghiệp bắt buộc phải hoạt động trong khuôn khổ Luật Công ty; chỉ có hoạt động trong một khuôn khổ như vậy thì mới đảm bảo cho các công ty hoạt động có hiệu qủa và thuận lợi cho việc quản lý của Nhà nước. Bên cạnh việc áp dụng các luật đối với công ty cổ phần, Nhà nước không chỉ chú trọng thu hồi vốn mà còn phải chấp nhận một khoản phí tổn nhất định ( đó là những khoản phí tổn cần thiết mà ở nước nào cũng có như những chi phí bảo hiểm, trợ cấp cho người lao động bị mất việc làm và tìm kiếm nghề mới, những chi phí do bán giá thấp nhằm ưu đãi những tầng lớp dân cư nhất định theo những mục tiêu chính trị, xã hội của Chính phủ,những chi phí cho bộ máy thực hiện và các cơ quan môi giới, tư vấn, quảng cáo …). Đối với việc bán cổ phiếu cần áp dụng các biện pháp thực hiện công khai, rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu đối với công chúng, trong đó áp dụng kết hợp một trong ba phương pháp bán cổ phần sau: Bán cho các đối tượng xác định trước, bán rộng rãi cho mọi đối tượng và bán cho nội bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Việc bán cổ phiếu có thể được bán trực tiếp tại trụ sở chính và các chi nhánh của doanh nghiệp hoặc uỷ thác cho các ngân hàng, các công ty tài chính làm đại lý …
Những quan điểm trong cổ phần hoá là cơ sở lý luận chủ yếu trong việc thực hiện đường lối, chủ trương đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước một cách đúng đắn và có hiệu quả nhằm phát triển kinh tế đất nước.
3. Phương hướng và giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
31. Phương hướng.
Để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và đảm vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần, cần phải giải quyết một số điểm sau:
- Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước phải khẩn trương tiến hành tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp này theo hướng tinh giảm, theo đúng tinh thần Nghị định số 50/CP ngày 28/08/1996 của Chính phủ. Trên cơ sở kết quả của cổ phần hoá giai đoạn trước cần phải tiến hành nhân rộng quy mô chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế phải thông nhất được quyền hạn và trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ. Chỉ có trên cơ sở thống nhất những yếu tố trên mới tạo ra được sự tận tâm với công việc. Khi quyền hạn quá lớn mà trách nhiệm, nghĩa vụ không tương xứng thì người ta sẽ lợi dụng quyền hạn để mưu lợi cá nhân. Ngược lại, khi nhiệm vụ và nghĩa vụ nặng nề mà không có đủ quyền hạn, lợi ích không tương xứng thì người ta sẽ không tích cực, hăng say công tác. Bởi vậy, cần phải tiếp tục điều chỉnh, khắc phục tính chồng chéo của các quy định pháp lý nhằm có một cơ chế quản lý kinh tế hiện đại và hiệu quả.
- Hoàn chỉnh hệ thống thị trường đồng bộ và tương đối ổn định. Hiện nay, hệ thống thị trường trong và ngoài nước đang gây sức ép lớn đối với sự hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy, sự ổn định và củng cố thị trường là việc làm quyết định trực tiếp tới sự sống còn của các doanh nghiệp; mà sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước là hết sức quan trọng. Nhưng trái lại, các doanh nghiệp cần phải chủ động làm chủ thị trường trong nước, chiếm lĩnh thị trường mới bên ngoài thì mới có cơ hội thuận lợi để thực hiện được các hợp đồng kinh tế với nước ngoài, chủ động trong các hoạt động xuất nhập khẩu.
- Bồi dưỡng đào tạo đội ngũ giám đốc và quản lý kinh tế trong các công ty cổ
phần có năng lực. Do các quá trình kinh tế đang vận động rất nhanh và phức tạp đòi hỏi các quyết định quản lý phải kịp thời, chính xác và có tính toàn diện cao. Mọi kinh nghiệm quản lý dù rất sâu sắc và quý báu vẫn không thể thay thế được những hiểu biết sâu rộng về các quy luật kinh tế, các hình thức quản lý kinh tế hiện đại. Bởi vậy, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp là một yêu cầu khách quan và cấp bách đề ra trong giai đoạn hiện nay.
- Phấn đấu đặt mức tăng trưởng kinh tế cao. Đây là phương hướng chủ đạo trọng phát triển nền kinh tế đất nước: Cổ phần hoá thực chất phải đem lại hiệu quả trong xây dựng nền kinh tế mới - nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nâng cao thu nhập cho quần chúng nhân dân, thay đổi bộ mặt đất nước là những mục tiêu không xa rời của tăng trưởng kinh tế.
32. Những giải pháp:
Cổ phần hoá là một trong những nội dung chủ yếu của việc tổ chức sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước trong hình thành nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tuy bước đầu, cổ phần hoá đã đem lại những kết quả hết sức to lớn nhưng còn thấp so với yêu cầu đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước. Để thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tiếp theo cần có một số giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc và khó khăn đã nêu ở trên:
* Hoàn thiện xác định giá trị doanh nghiệp và giải quyết những tồn đọng về tài chính. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp cần đảm bảo nguyên tắc giá cả của thị trường, không gây thất thoát tài sản của Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả. Một số biện pháp cụ thể:
- Phân loại tài sản của Nhà nước trong doanh nghiệp để có biện pháp xử lý thích hợp, có sự thoả thuận giữa Nhà nước và doanh nghiệp: tránh gây thất thoát lãng phí hay mâu thuãn trong chuyển đổi hình thức sở hữu.
- Xác định rõ ràng những tồn đọng tài chính của doanh nghiệp Nhà nước mà công ty cổ phần sẽ tiếp nhận, có thể xoá bỏ những khoản nợ khó đòi hay thâm hụt thanh toán do nguyên nhân khách quan ( như lạm phát, thay đổi tỷ giá hối đoái, khủng hoảng tài chính - tiền tệ …).
- Tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp cũng cần được đổi mới bằng việc thu hút những chuyên gia thực sự có năng lực vào việc đánh giá tài sản và đề cao vai trò đại diện doanh nghiệp, tránh mâu thuẫn trong công tác đánh giá tài sản doanh nghiệp.
* Tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng đồng bộ hơn cho tổ chức và hoạt động của Công ty cổ phần ; đồng thời Nhà nước cần phải đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và đổi mới tổ chức chỉ đạo công tác cổ phần hoá:
- Cần đơn giản hoá các thủ tục và trình tự thành lập công ty cổ phần nhằm tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá. Hơn nữa, hệ thống luật áp dụng đối với công ty cổ phần cần thông thoáng, cụ thể nhưng vẫn đảm bảo nghiêm minh và định hướng của Nhà nước, nhằm đem lại cho doanh nghiệp một môi trường kinh doanh thuận lợi: Hình thành và sớm đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động vì đây là môi trường quan trọng giúp công ty cổ phần tạo vốn khi thành lập và tăng vốn trong quá trình hoạt động.Nhà nước cần tránh sự phân biệt đối xử đối với từng loại doanh nghiệp mà cần tạo ra sự công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhau; đồng thời luôn chú trọng công tác hướng dẫn thi hành các điều khoản về công ty cổ phần trong Luật doanh nghiệp mới có hiệu lực thi hành từ 01/ 01/ 2000 và tổ chức tốt công tác tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân.
- Đổi mới tổ chức chỉ đạo cổ phần hoá là yếu tố quyết định nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước: Nhà nước cần chủ động trong việc chuyển đổi và sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước mà cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước không trên cơ sở chờ đợi sự tự nguyện của các doanh nghiệp, kết hợp giữa chỉ định lẫn tuyên truyền vận động. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước một cách linh hoạt, cụ thể và có hiệu quả cao. Hoàn thiện các văn bản mẫu về hướng dẫn phương án kinh doanh và Điều lệ Công ty cổ.
* Hoàn thiện chính sách ưu đãi với người lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện tốt nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Để tạo điều kiện để cho người lao động làm chủ doanh nghiệp và được hưởng những khoản ưu đãi khi tham gia lao động trong công ty cổ phần cần dựa trên cơ sở thâm niên và mức độ cống hiến của họ. Ngoài ra, cần phải có sự điều chỉnh các tiêu chuẩn xác định đối tượng ưu đãi theo mức sống, mức giá sinh hoạt của các vùng khác nhau; sử dụng có hiệu quả của Quỹ hỗ trợ cổ phần hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước trong giải quyết lao động dư thừa: bằng cách hỗ trợ kinh phí đào tạo lại, trợ cấp cho người lao động tự nguyện thôi việc …Xoá bỏ quy định ràng buộc khống chế tối đa cổ phần mà cán bộ chủ chốt được mua nhằm thực hiện mục tiêu huy động vốn và có điều tiết hay hỗ trợ thu nhập giữa những người lao động.
Nắm chắc phương hướng và giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn tăng nhanh tốc độ chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước là yếu tố có ý nghĩa quan trọng nhằm những mục tiêu và định hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Đây là công tác có tính chất chuyển giao đổi mới
nền kinh tế sang giai đoạn mới hoạt động có hiêụ quả, phát triển nhanh và bền vững đối với nền kinh tế giai đoạn hiện nay và tương lai.
Kết luận
Qua tìm hiểu một số mặt trong " Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam " đã cung cấp cho chúng ta những lí luận quý báu đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế mới giai đoạn hiện nay. Việc thực hiện tìm hiểu về công tác cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước sẽ giúp không chỉ để chúng ta thật sự hiểu về nó mà còn cho chúng ta nền tảng, cơ sở đối với hoạt động thực tiễn trong tương lai.
Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay mà cổ phần hoá là nhiệm vụ trung tâm. Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là biện pháp hữu hiệu để chuyển đổi và tăng cường khả năng hoạt động của doanh nghiệp theo đòi hỏi khách quan của đổi mới nền kinh tế.
Trong đổi mới nền kinh tế từ Kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước bằng cách đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước; đây là việc làm cấp bách và chủ yếu nhằm duy trì và định hướng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những thời gian tiếp theo. Để luôn giữ vững và phát triển chế độ Xã hội chủ nghĩa trong yêu cầu mới hiện nay thì định hướng Chủ nghĩa xã hội trong hệ thống chính trị và kinh tế - xã hội là việc làm cần thiết.
Chúng ta hãy nhận thức đúng đắn đối với không chỉ hoạt động cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước mà còn cần có sự bao quát cả nền kinh tế nói chung. Đối với mỗi sinh viên cần phải cố gắng tiếp thu và học hỏi không ngừng bởi họ chính là lớp người kế cận và duy trì một đất nước Việt Nam phát triển, định hướng Chủ nghĩa xã hội và một xã hội công bằng, văn minh sau này. Bản thân em cũng tự cảm thấy mình cần cố gắng hơn nữa trong học tập, nghiên cứu để có thể trở thành người có ích cho cộng đồng và xã hội, cùng xây dựng đất nước./.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo: Mai Hữu Thực đã giúp em hoàn thành đề án này!
Đề tài:
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35022.doc