Thực hiện tuyên truyền với hình thức đa dạng, phong phú, cần bảo đảm tính dân chủ và cởi mở trong việc trao đổi những vấn đề liên quan đến CPH. Những thắc mắc của người lao động, dù lớn hay nhỏ, phổ biến hay cá biệt đều phải được giải đáp cụ thể, thấu đáo.
Công tác truyên truyền phổ biến vể CPH cần phải được tiến hành trong toàn bộ qua trình cổ phần hoá. Trong suốt quá trình chuẩn bị CPH, xây dựng phương án CPH, tổ chức thực hiện CPH các cấp các ngành chỉ đạo quá trình CPH phải nắm được diễn biến tư tưởng của người lao động, phát hiện kịp thời những băn khoăn vướng mắc của người lao động để có biện pháp giải quyết kịp thời.
Thực hiện xã hội hoá công tác tuyên truyền phổ biến về chủ trương CPH DNNN nói riêng và chủ trương sắp xếp, đổi mới hoạt động của hệ thống DNNN nói chung. Làm sao để mọi doanh nghiệp, mọi nhà quản lý, mọi người lao động cũng đều có thể hiểu rõ về công tác cổ phần hoá.
42 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1583 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phẩn hóa các doanh nghiệp nhà nước thực trạng và giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể làm tư liệu sản xuất trong tay những người sản xuất liên hiệp, tức là chỉ có thể làm sở hữu xã hội của họ, cũng như chúng là sản xuất xã hội của họ.
Chính bản thân những nhà máy hợp tác của công nhân là một Lỗ thủng đầu tiên trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự đối kháng giữa lao động và tư bản đã được xoá bỏ trong phạm vi những nhà máy hợp tác đó; mặc dù ban đầu nó chỉ được xoá bỏ bằng cách biến những người lao động liên hiệp thành những nhà tư bản với chính bản thân mình, nghĩa là cho họ "có thể dùng tư liệu sản xuất” để bóc lột lao động của chính họ.
1.2.3. Các ưu điểm cơ bản của loại hình công ty cổ phần
Lợi thế về huy động vốn
Lợi thế về kiểm soát và sử dụng vốn
Công bằng cho mọi người
Thông tin minh bạch hóa của doanh nghiệp
Tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh công bằng
Thúc đẩy nền kinh tế phát triển
Sự ra đời và phát triển của loại hình công ty cổ phần đánh dấu sự chuyển hướng nền kinh tế từ trạng thái vay mượn chủ yếu qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính. Các công ty cổ phần là nguồn cung cấp sản phẩm cho sự cho sự phồn vinh của thị trường này. Đổi lại, sự thịnh vượng của thị trường tài chính tạo điểu kiện cho các công ty cổ phần sinh sôi nảy nở.
Trải qua thời gian, hình thái công ty cổ phần ngày càng được hoàn thiện, phát triển và đa dạng hoá. Có thể nói công ty cổ phần là một phát minh quan trọng nhất trong lịch sử phát triển, các hình thái tổ chức doanh nghiệp kể từ cuộc cách mạng trong công nghiệp của TBCN, chứ không đơn thuần chỉ là sản phẩm thụ động của sự phát triển nền kinh tế thị trường.
1.3. Các kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới
1.3.1. Cổ phần hóa ở Trung Quốc
Giai đoạn 1984 -1991:
Cổ phần hóa ở Trung Quốc đã được thực hiện từ năm 1984 với sự ra đời của Công ty Cổ phần Hữu hạn Bách hóa Thiên Kiều (Bắc Kinh). Sau đó, trong Văn kiện quan trọng được ban hành tháng 12 năm 1986, Quốc Vụ viện Trung Quốc đã cho phép “Các địa phương có thể chọn ra một vài doanh nghiệp lớn và vừa có điều kiện, thuộc chế độ sở hữu toàn dân để thực hiện thí điểm cổ phần hóa”.Đến cuối năm 1991 có hơn 3000 doanh nghiep được tiến hành cổ phần hóa thành công.
Giai đoạn thứ hai 1992 – nay:
Đến cuối năm 1993, Trung Quốc đã có hơn 3.000 đơn vị thực hiện thí điểm cổ phần hóa.
Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc có hơn 9.200 DNNN đã chuyển thành công ty cổ phần, với tổng số vốn là 600 tỷ NDT, hơn 4.300 công ty cổ phần hữu hạn đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, với tổng số vốn cổ phần đạt 358 tỷ NDT, trong đó 150 tỷ NDT là vốn huy động từ xã hội, 35 tỷ NDT là giá trị cổ phần phát hành trong nội bộ doanh nghiệp, 80 tỷ NDT là vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Từ năm 1993 đến nay, kết quả đạt được trong giai đoạn thí điểm CPH cho thấy, doanh nghiệp hoạt động theo các quy luật kinh tế cơ bản là cách đi đúng đắn và hợp quy luật, Trung Quốc đã thực hiện cổ phần hóa DNNN một cách sâu rộng bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của DN. Lần lựợt “Luật phá sản doanh nghiêp”, “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Các nguyên tắc tài chính doanh nghiệp”, “Điều lệ tạm thời về quản lý phát hành và giao dịch cổ phiếu, “Luật Lao động”, “Luật Công ty”, “Điều lệ quản lý đăng ký công ty”, “Luật Ngân hàng nhân dân Trung Quốc”, “Luật ngân hàng thương nghiệp”, “Luật xí nghiệp hương trấn”…, đã được ban hành và đi vào cuộc sống của doanh nghiệp. Trong đó, hai văn bản có tầm quan trọng đặc biệt là “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” và “Luật Công ty. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” được thông qua ngày 13/4/1998, đã quy định cụ thể về các quyền lợi của DNNN như: Cho phép DN tự sản xuất một số sản phẩm theo yêu cầu của thị trường; có quyền điều chỉnh vật tư được cung ứng theo kế hoạch; có quyền từ chối các nhiệm vụ sản xuất ngoài kế hoạch của các ban, ngành; có quyền tự tiêu thụ sản phẩm làm ra; có quyền lựa chọn đơn vị mua hàng… Có thể thấy, “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” đã đem lại cho các doanh nghiệp nhiều quyền tự chủ hơn trong sản xuất - kinh doanh, góp phần tháo gỡ các ràng buộc về mặt hành chính, trả doanh nghiệp về đúng với vòng quay của thị trường. Để cụ thể hoá “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, ngày 23/7/1992, Trung Quốc đã ban hành “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các DN công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” với nội dung không những tiếp tục nâng cao quyền tự chủ cho DN, mà còn phản ánh xu thế mới trong cải cách, đó là chuyển đổi cơ chế kinh doanh.
Năm 1997, Hội nghị Trung ương 4 khóa XV của Đảng CS Trung Quốc đã đưa ra những luận điểm mới về cải cách thể chế kinh tế, đồng thời đề cập đến một số vấn đề như: Quyền tài sản doanh nghiệp, quản lý điều hành doanh nghiệp, cổ phần hoá… Đối với các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH, Chính phủ Trung Quốc thực hiện một số biện pháp hữu hiệu như: Khuyến khích sáp nhập tài sản, quy phạm hóa việc phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ giúp các DN cải tạo kỹ thuật, mở rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động. Đối với các DN đã CPH, Chính phủ đã tạo điều kiện cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đối với những doanh nghiệp sau khi CPH mà đạt thành tích cao trong sản xuất-kinh doanh, thì sẽ được tạo điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường chứng khoán, được hưởng ưu đãi về tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để thưởng bằng cổ phiếu cho các cán bộ lãnh đạo và CNVC của doanh nghiệp v.v…
Có thể nói, mục đích căn bản của việc thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc là thay đổi chế độ sở hữu tài sản mà ở đó trước đây, Nhà nước luôn giữ vai trò độc quyền, để hình thành nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản trong nội bộ doanh nghiệp, tối ưu hóa kết cấu quản trị doanh nghiệp. Đây là lợi ích căn bản và lâu dài nhất của việc cổ phần hóa các DNNN ở Trung Quốc. Thành quả nổi bật nhất là đến Hội nghị TW 3 khóa XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2004), chế độ cổ phần đã được thực hiện rộng rãi “là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu”.
1.3.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp ở Trung Quốc
-Bán cổ phiếu cho CNVC trong nội bộ doanh nghiệp
-Phát hành cổ phiếu công khai ra xã hội
-Công ty cổ phần hình thành bằng cách nắm giữ cổ phiếu giữa các doanh nghiệp
-Minh bạch giữa các quyền sở hữu pháp nhân, quyền sở hữu cổ phần và quyền kinh doanh
-Chế độ trách nhiệm hữu hạn, tức là trách nhiệm của cổ đông đối với doanh nghiệp là giới hạn theo mức vốn đầu tư
-Mang tính xã hội hóa, thị trường hóa, tiền tệ hóa và chứng khoán hóa quyền sở hữu
-Từ tiến trình cổ phần hóa ở trung quốc ta thấy viêt nam cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hóa.Chỉ mới trong vòng hơn 20 năm mà quy mô vốn hóa của thị trường trung quốc đã khá lớn và tốc độ cổ phần hóa cao.Có thể nói chúng ta bây giờ có điều kiện khá giống so với trung quốc nên chúng ta có thể học một số kinh nghiệm của họ.
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng các DNNN Việt Nam
Các doanh nghiệp Nhà nước ở việt nam được thành lập một cách tràn lan với quy mô nhỏ, hoạt động kém hiệu quả (do ban quản trị kém không có năng lực và nạn tham ô tham nhũng…)
Nhiều DNNN hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, sức cạnh tranh còn thấp, không tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước.
Trình độ công nghệ còn lạc hậu, dưới mức trung bình,doanh nghiep nhà nước có trình độ công nghệ thấp,lạc hậu được nhạp từ nhưngc năm 70 thế kỉ trước năng suát thấp chất lượng không cao không đáp ứng được nhu cầu đổi mới nền kinh tế của đất nước.
2.2. Thực trạng cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua
2.2.1:Khái quát về cổ phần hóa DNNN
-Phân tích các yếu điểm cơ bản trong hoạt động của các DNNN trong suốt thời gian dài, chúng ta thấy rằng việc đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp này là một chủ trương hết sức sáng suốt và phù hợp. Với phương thức cổ phần hóa DNNN, Nhà nước sẽ vừa được nhẹ bớt gánh nặng quản lý vừa tạo động lực để cho các doanh nghiệp hoạt động đạt được hiệu quả cao hơn.
-Xuất phát từ quan điểm trên, từ ngày 29/6/1998, Nghị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ đã có tác động tăng tốc cho giải pháp với 2 mục tiêu:
Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN;
-Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng nền kinh tế của đất nước.
-Từ thực tế hoạt động cổ phần hóa DNNN cho thấy, khi cổ phần hóa, vốn chủ sở hữu DNNN được chuyển đổi thành cổ phần và được bán cho nhiều đối tượng khác nhau như các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp, Nhà nước có thể giữ lại một tỷ lệ cổ phần hoặc không. Như vậy hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ Nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp. Từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức quản lý cũng như phương hướng hoạt động của công ty. DNNN sau cổ phần hóa trở thành công ty cổ phần, sẽ tổ chức hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
-Có thể khái quát về cổ phần hóa DNNN là một biện pháp chuyển đổi hình thức sở hữu trong DNNN, từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu của các cổ đông (trong đó Nhà nước có thể tham gia với tư cách cổ đông hoặc không tham gia). Đi đôi với việc chuyển đổi sở hữu là việc chuyển DNNN (sau cổ phần hóa) sang hoạt động theo loại hình công ty cổ phần, được điều chỉnh theo các quy định trong Luật Doanh nghiệp.
-Về hình thức, đó là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần (vốn) của mình trong doanh nghiệp cho các cá nhân tổ chức trong và ngoài doanh nghiệp, hoặc trực tiếp tự doanh nghiệp theo cách bán giá thông thường hay bằng phương thức đấu giá hoặc qua thị trường chứng khoán.
-Về bản chất, đó là phương thức thực hiện xã hội hóa đồng vốn thuộc sở hữu Nhà nước, chuyển từ doanh nghiệp 1 chủ sở hữu sang đa sở hữu, tạo nên mô hình doanh nghiệp hoạt động phù hợp kinh tế thị trường.
-Việc chọn DNNN để cổ phần hóa là: bất cứ doanh nghiệp nào không thuộc diện Nhà nước phải đầu tư hoặc tiếp tục giữ 100% vốn, đều sẽ cho tiến hành cổ phần hóa, trong số này không có tiêu chuẩn phân biệt doanh nghiệp nào muốn thì cổ phần hóa, doanh nghiệp nào không muốn thì thôi (!)
-Tóm lại, qua xem xét thực trạng của DNNN cũng như hiểu rõ thực chất về cổ phần hóa, cho thấy cổ phần hóa là một giải pháp quan trọng để tiến hành sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, góp phần giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước hiện nay.
2.2.1.1: . Giai đoạn thí điểm từ 6/1992 đến 4/1996
-Ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ ban hành tiếp Chỉ thị số 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước .
-Quyết định số 202/CT đã chọn 7 doanh nghiệp Nhà nước làm thí điểm, đồng thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc TW chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp để tổ chức thí điểm chuyển thành công ty cổ phần.
Sau 4 năm triển khai thực hiện Quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84/TTg (1992-1996) cả nước chỉ CPH được 5 doanh nghiệp bao gồm: 3 DN trung ương và 2 DN địa phương. Đó là các doanh nghiệp :
Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT - ngày thực hiện CPH : 1/7/1993.
Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND Tp Hồ Chí Minh - ngày thực hiện CPH : 1/10/1993.
Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp - ngày thực hiện CPH: 1/10/1994
Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995.
Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995.
2.2.1.2. Giai đoạn mở rộng thí điểm từ 5/1996 đến 5/1998
Trên cơ sở đánh giá kết quả triển khai thí điểm cổ phần hoá, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã xác định rõ mục tiêu, đối tượng thực hiện cổ phần hoá, quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần… Nhờ đó tốc độ CPH đã tăng lên rõ rệt.
Kể từ khi Nghị định 28/CP được ban hành đến hết tháng 5/1998 đã có 25 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần. Như vậy tính gộp từ năm 1992 đến tháng 5/1998 cả nước đã có 30 doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần hoá với số vốn điều lệ ban đầu là: 281 tỷ đồng ( bình quân 9,6 tỷ đồng/công ty) và gần 6000 lao động. Không chỉ tăng lên về số lượng, diện CPH cũng đã mở rộng hơn, đã có 3 Bộ và 9 Tỉnh, Thành phố có doanh nghiệp CPH. Trong số các doanh nghiệp đã CPH , có 12 doanh nghiệp đã hoạt động từ một năm trở lên theo Luật công ty. Những doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá gặp khó khăn, như xí nghiệp Mộc Hà nội, xí nghiệp Đóng tàu thuyền Bình Định, xí nghiệp Giày Hiệp An…, mặc dù không được Nhà nước hỗ trợ vốn, nhưng đã cố gắng khắc phục khó khăn và phát triển sản xuất-kinh doanh liên tục hàng năm.
Để hỗ trợ cho công tác CPH , trong thời gian này, các cấp các ngành đã triển khai việc củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban chỉ đạo CPH ở địa phương và thành lập các ban chỉ đạo CPH Chính phủ, trung ương Đảng, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
2.2.1.3. Giai đoạn cho phép đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa từ 7/1998 đến nay
Trong giai đoạn này, nhờ những chuyển biến thuận lợi về cơ sở pháp lý mà nổi bật là sự ra đời của Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 và việc thành lập Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp TW, con số các doanh nghiệp CPH đã tăng nhanh so với các thời kỳ trước.
Sau hơn 2 năm thực hiện CPH doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị định số 44/CP, từ tháng 6/1998 đến hết tháng 8/2000 cả nước đã cổ phần hoá 430 doanh nghiệp đưa tổng số doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá lên 460 doanh nghiệp.
Trong số những doanh nghiệp đã CPH , những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực Công nghiệp và Xây dựng chiếm khoảng 44,2%; Dịch vụ thương mại chiếm 39,2%; Giao thông vận tải chiếm 9,5%; Nông nghiệp chiếm 4,1% và thuỷ sản chiếm 2%. Hầu hết các doanh nghiệp đã CPH đều tương đối nhỏ, những công ty có tổng số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng chiếm khoảng 12%, trong khi các doanh nghiệp có vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng chiếm đến hơn 50%. Vốn trung bình của các doanh nghiệp đã CPH chỉ vào khoảng 3,1 tỷ đồng. Đa số các doanh nghiệp thực hiện CPH theo hình thức thứ 2 nghĩa là bán một phần giá trị vốn của Nhà nước nắm giữ trong doanh nghiệp.
Tính tới thời điểm 31/12/1999, trong số các địa phương thực hiện CPH , Hà Nội là thành phố có số doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều nhất, gồm 70 doanh nghiệp trong tổng số 210 doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố thực hiện cổ phần hoá, tiếp theo là TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định và Thanh Hoá.
Các doanh nghiệp sau khi chuyển thành công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả cao hơn về nhiều mặt, kể cả những doanh nghiệp mới CPH. Một số doanh nghiệp trước CPH gặp nhiều khó khăn thì sau CPH các doanh nghiệp này đã có những tiến bộ rõ rệt, bảo đảm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Như vậy, trên thực tế, Nghị định 44/CP được ban hành đã tạo ra một hành lang pháp lý khá thông thoáng, khuyến khích cả doanh nghiệp và người lao động tham gia cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .
Tuy nhiên, tiến trình cổ phần hoá trong thời gian qua còn chậm so với yêu cầu sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Sáu tháng cuối năm 1998, kế hoạch đặt ra là CPH 150 doanh nghiệp, thực hiện chỉ là 100 doanh nghiệp được CPH (đạt 66,6%). Năm 1999, kế hoạch đặt ra là CPH 450 doanh nghiệp, nhưng chỉ thực hiện được 250 doanh nghiệp (đạt 55,5%).
Để thực hiện nhanh và có hiệu quả công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước , phải giải quyết nhiều vấn đề, từ nhận thức tư tuởng, cơ chế chính sách đến tổ chức thực hiện, từ doanh nghiệp đến các cơ quan quản lý Nhà nước.
2.2.2.Các giải pháp đã áp dụng để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN
Nội dung
Nghị quyết Trung ương IX, khóa IX, một lần nữa khẳng định tính nhất quán của Đảng ta trong chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần; kiên quyết đẩy nhanh sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã đề ra một số chủ trương giải pháp mới tập trung cụ thể vào 5 điiểm lớn như sau:
+ Mở rộng diện và quy mô các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành điện lực, luện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng bảo hiểm.
+ Định giá giá trị doanh nghiệp, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất về nguyên tắc do thị trường quyết định.
+ Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín nội bộ.
+ Khẩn trương xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế đã được cam kết, nhất là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
+ Đổi mới chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước; nghiên cứu thành lập công ty đầu tư tài chính của Nhà nước và cơ quan quản lý Nhà nước để thực hiện thống nhất và có hiệu quả chức năng Nhà nước là đại diện chủ sở hữu phần vốn đầu tư của mình vào doanh nghiệơ thuộc mọi ngành, mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.3.Đánh giá tình hình cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua
Một điều mà người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa lo ngại là vấn đề việc làm. Sau cổ phần hóa số lượng lao động chẳng những không giảm mà còn tăng 10% với thu nhập bình quân tăng 20%. Điều này đã kích thích người lao động yên tâm làm việc, cống hiến hết khả năng của mình cho công việc.
Sau khi cổ phần hóa, bình quân giá trị vốn Nhà nước chỉ chiếm 25% trong cơ cấu vốn điều lệ, còn lại là vốn của các cổ đông là cán bộ công nhân viên chức và cổ đông ngoài doanh nghiệp, chiếm 75%. Như vậy, cổ phần hóa đã thực hiện được mục tiêu thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động cả trong doanh nghiệp và ngoài xã hội để đầu tư phát triển. Tuy nguồn vốn Nhà nước chỉ chiếm 25% tổng số vốn của công ty cổ phần, vốn của các đối tượng khác chiếm 75% nhưng lại là nguồn vốn phân tán, do đó phần sở hữu Nhà nước trong các công ty vẫn giữ vai trò trọng yếu, chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Như tại Công ty bông Bạch Tuyết, sau cổ phần hóa số lượng lao động tăng 205 người so với 198 người tại thời điểm trước khi cổ phần hóa, thu nhập người lao động trung bình là 3,2 triệu đồng/tháng và lãi cổ tức 1998 là 7%.
Công ty Cơ điện lạnh vào năm 1993 có 415 lao động thì năm 1998 là 798 lao động, với thu nhập tăng từ 1,4 triệu đồng/người/tháng lên 2 triệu đồng/người/tháng.
Tóm lại, từ thực tế cổ phần hóa của cả nước là điển hình là thành phố Hồ Chí Minh,và hà nội cùng tất cả các tỉnh thành trong cả nước cho thấy việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước sang hình thức cổ phần chẳng những giúp Nhà nước bảo tồn nguồn vốn của mình mà còn tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn trước đây, Nhà nước cũng thu hồi nguồn vốn để đầu tư cho các doanh nghiệp khác. Vai trò của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa có sự thay đổi, họ vừa là người làm việc cho công ty cổ phần, vừa là người chủ trên cơ sở đồng vốn của mình. Vì thế, ý thức và tinh thần trách nhiệm được nâng cao hơn trước. Hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa nhạy bén, năng động, tự chủ hơn. Nhờ đó mà chất lượng, hiệu quả công việc cao hơn, các khoản đóng góp vào ngân sách Nhà nước cũng tăng lên.
Cổ phần hóa đã đem lại lợi ích cho cả Nhà nước, người lao động và cổ đông của doanh nghiệp. Từ thực tế đó đã chứng minh rằng, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hóa DNNN là hoàn toàn đúng đắn.
2.2.3.1:Các kết quả chủ yếu
Để xem xét một cách khách quan, chúng ta không thể không nói đến những thuận lợi khi thực hiện chủ trương cổ phần hóa trong tình hình hiện nay. Đó là:
Chương trình cổ phần hóa DNNN được sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã tái khẳng định quyết tâm sắp xếp, đổi mới DNNN mà cổ phần hóa là một trong những hình thức quan trọng nhằm cải cách DNNN cả về số lượng và chất lượng, giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.
Nhờ vào chính sách đổi mới, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của Nhà nước trong nhiều năm qua, thu nhập dân cư tăng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những DNNN cổ phần hóa.
Cơ chế thị trường đã tạo ra một đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn, người lao động trong doanh nghiệp đã thích ứng với loại hình chứng khoán là cổ phiếu được phát hành ở DNNN cổ phần hóa. Đồng thời những thành quả bước đầu của chương trình cổ phần hóa đã giúp nhân dân thêm tin tưởng và ủng hộ chính sách của Đảng và Nhà nước.
Sự ra đời của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đã góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy hoạt động trao đổi, mua bán cổ phiếu, kêu gọi sự đầu tư từ công chúng. Đây là nhân tố ảnh hưởng khá tích cực đến tiến trình cổ phần hóa.
Ý nghĩa của cổ phần hóa DNNN:
a/ Về mặt chính trị:
Cổ phần hóa đã đem lại cho Nhà nước sự thành công bước đầu trong việc đưa ra chiến lược, sách lược, góp phần điều tiết nền kinh tế đất nước theo định hướng XHCN, tận dụng được những nguồn lực quan trọng vào phát triển trong thời kỳ quá độ.
Qua chủ trương cổ phần hóa làm cho nhân dân yên tâm, tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cơ chế mới ở nước ta. Mặt khác, cũng đem lại niềm tin và thiện chí tốt đẹp của các nước trên thế giới trong giao lưu kinh tế với Việt Nam, đồng thời cổ phần hóa còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc khắc phục, bổ sung các văn bản pháp lý, đặc biệt trên lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
b/ Về mặt kinh tế:
Chính sách cổ phần hóa đã thúc đẩy và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất đưa nền kinh tế nước ta đi lên, tạo ra nhiều hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt là thu nhập dân chúng tăng lên, góp phần tăng trưởng sản phẩm quốc nội. Cổ phần hóa còn làm giảm, làm mất nguy cơ khủng hoảng tài chính quốc gia có khả năng xẩy ra do tình trạng yếu kém của khu vực kinh tế Nhà nước, hạn chế những tiêu cực kinh tế do cơ chế thị trường đem lại.
c/ Về mặt xã hội:
Cổ phần hóa có khả năng làm giảm vấn đề mất việc làm cho người lao động, khắc phục được tình trạng tùy tiện sa thải lao động, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động thất nghiệp. Chính vì vậy mà cổ phần hóa còn làm giảm những tệ nạn trong xã hội nhỏ của doanh nghiệp như tham ô, trây lười… , và rộng hơn có thể hạn chế được phần nào những tệ nạn xã hội...
Cổ phần hóa còn góp phần xây dựng thế hệ người lao động có phong cách làm việc năng động, sáng tạo, phù hợp với nếp sống mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN (quy định tại Điều 2 Nghị định 44/1998/NĐ-CP).
Mục tiêu 1: Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN.
Mục tiêu 2: Tạo điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng ngân sách Nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Ở mục tiêu 1: Việc tất cả công chúng trong xã hội, không phân biệt loại hình sở hữu bỏ vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh dưới cơ chế thị trường là hết sức cần thiết, nhưng đồng thời cũng là điều không dễ dàng trong vấn đề này. Từ thực trạng các DNNN đã chuyển sang công ty cổ phần đa số là các doanh nghiệp nhỏ, có vốn ít. Trong khi đó số vốn nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn (theo điều tra khu vực thành thị là 10 triệu đồng/hộ, nông thôn là khoảng 3 triệu/hộ), nhưng nhân dân ta còn có thói quen gởi tiết kiệm hoặc cất giữ, mà chưa có thói quen đầu tư vào sản xuất kinh doanh, quay vòng đồng tiền nhằm sinh lời.
Việc cổ phần hóa DNNN nhằm chuyển DNNN sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần khuyến khích dân chúng đem tiền vào đầu tư sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có nguồn vốn dài hạn và cố định để đầu tư đổi mới dây chuyền, thiết bị công nghệ, mở rộng hoạt động kinh doanh, Ngân sách Nhà nước không phải cấp phát vốn cho các doanh nghiệp hoạt động.
Ở mục tiêu 2: Để người lao động làm chủ thật sự quá trình sản xuất, sự kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động là con đường ngắn nhất, từ đó quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như lợi ích của người lao động. Khi thực hiện chủ trương cổ phần hóa DNNN, người lao động được ưu tiên mua cổ phần và điều này cũng được Nhà nước tạo điều kiện bằng những quy định cụ thể. Người lao động trở thành cổ đông cho chính doanh nghiệp họ lao động. Khi quyền sở hữu tư liệu sản xuất gắn liền với quy trình sử dụng người lao động sẽ có trách nhiệm hơn trên lượng tài sản nhất định của họ đóng góp, họ không cho phép bất kỳ hành vi nào lạm dụng tài sản của họ, họ tự giác làm việc hăng say trên phần tài sản có mình đóng góp để đem lại lợi ích nhiều hơn.
Các văn bản pháp luật hiện nay của nước ta điều chỉnh vấn đề cổ phần hóa DNNN đã đề cao vai trò của người lao động, cụ thể là những ưu đãi trong việc mua cổ phần của họ ngày càng được rõ ràng và đúng mức hơn theo từng điều kiện của từng lao động cụ thể. Người lao động khi có cổ phần trong tay, trở thành cổ đông công ty cổ phần, quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng theo luật định, theo điều lệ công ty, và điều quan trọng là họ có toàn quyền lựa chọn người thay mặt họ quản lý công ty mà không chịu một sức ép nào.
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có đến 63,4% doanh nghiệp cổ phần hóa mà cán bộ nhân viên chiếm đa số cổ phần, thậm chí có đến 18,6% doanh nghiệp cán bộ nhân viên sở hữu 100% vốn sau cổ phần hóa. Việc sở hữu cổ phần nội bộ có nhiều ưu điểm: khuyến khích nhân viên làm việc tích cực hơn vì họ không chỉ nhận được lương từ kết quả hoạt động kinh doanh mà còn có cơ hội nhận được cổ tức. Tuy nhiên hình thức sở hữu này cũng có nhược điểm, mà quan trọng nhất, là nó cản trở việc tái cơ cấu công ty. Người ta khó thay thế một công nhân yếu kém nếu như họ đồng thời là cổ đông, và cũng khó thay thế ban lãnh đạo nếu người biểu quyết chính là ban lãnh đạo đó.
Đối với cổ đông ngoài doanh nghiệp, họ chỉ có thể mua cổ phần khi mà cán bộ công nhân viên không đủ khả năng mua hết cổ phần và chỉ diễn ra với những công ty lớn. Trong khi đó, số lượng các công ty lớn có vốn trên 10 tỷ đồng là 20,9%. Vì chiếm tỷ lệ cổ phần nhỏ trong công ty nên khả năng làm chủ thực sự của họ khó trở thành hiện thực và việc thu hút vốn từ bên ngoài doanh nghiệp vẫn còn thấp.
Ngay cả khi người lao động chiếm một tỷ lệ cổ phần cao nhưng nếu thiếu một cơ quan điều tiết cứng rắn và theo dõi chặt chẽ hoạt động của Hội đồng quản trị thì người lao dộng vẫn không thể thực hiện quyền làm chủ của mình nhất là trong những công ty cổ phần mà thành viên Hội đồng quản trị là những người chiếm tỷ lệ cổ phần cao, và họ cũng là những người mà được Nhà nước giao quản lý số cổ phần nhà nước tại công ty, thì người lao động vẫn chưa thể có tiếng nói của mình tại doanh nghiệp.
Vì vậy để chính sách cổ phần hóa được phát huy toàn diện thì sự tham gia của các cổ đông bên ngoài là rất quan trọng. Một khi mục tiêu đa dạng hóa sở hữu được thực hiện thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về quyền sở hữu cũng như cách thức quản lý và đây cũng là điều kiện chính dẫn đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đem lại lợi nhuận cao. Từ đó tài sản của Nhà nước trong doanh nghiệp cũng tăng theo tùy theo tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước, thu nhập của người lao động tăng lên, cổ đông được hưởng cổ tức... dẫn đến mức sống được nâng cao, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước.
Các mặt tích cực của giải pháp cổ phần hóa DNNN
a) Xoá bỏ tình trạng vô chủ của doanh nghiệp:
Tài sản của Nhà nước được xem như là "tài sản chung", điều này đồng nghiõa với "không phải của ai". Từ đó bị sử dụng hết sức lãng phí, vô trách nhiệm. Cổ phần hóa sẽ đưa người lao động trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp. Khi quyền lợi riêng đã được gắn kết với quyền lợi chung, người lao động sẽ quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế.
b) Tạo động lực mới trong quản lý doanh nghiệp.
Giám đốc của DNNN được coi như viên chức của Nhà nước, làm việc theo chỉ đạo của ông chủ Nhà nước, nhưng thực tế Nhà nước cũng không làm chủ, mà để cho giám đốc doanh nghiệp trở thành ông chủ tuy danh nghĩa song quyền hành rất lớn. Khi cổ phần hóa, người giám đốc trở thành người làm thuê cho công ty cổ phần, họ phải chịu sự giám sát chặt chẽ trong việc điều hành hoạt động doanh nghiệp. Điều này buộc người giám đốc phải trở nên năng động hơn, cầu tiến, có trách nhiệm hơn đối với công việc, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Cổ phần hóa đã thay thế sự quản lý điều hành mệnh lệnh, bao cấp trước đây bằng sự quản lý chỉ đạo của một Hội đồng quản trị do các cổ đông bầu ra, giảm bớt sự can thiệp đa tuyến không cần thiết của các cơ quan Nhà nước, nên có điều kiện thuận lợi và dễ dàng trong việc phát huy tính năng động trong kinh doanh.
c) Cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân
Thông qua cổ phần hóa người ta thay thế hình thức sở hữu đơn nhất thành hình thức đa sở hữu, doanh nghiệp từ chỗ có một "ông chủ" duy nhất trở thành doanh nghiệp nhiều chủ. Từ đó sẽ hình thành một nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần. Nhà nước chỉ nắm những ngành, những lĩnh vực quan trọng, có tính chiến lược, đáp ứng mục tiêu xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo nhằm giữ vững định hướng XHCN, ổn định và phát triển kinh tế xã hội đất nước.
d) Xây dựng thị trường vốn lành mạnh và phong phú
Cổ phần hóa góp phần rất lớn cho việc tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán, nơi thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
Đặc biệt trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển, rất cần thu hút các nguồn vốn dài hạn đầu tư cho nền kinh tế. Đến cuối năm 2001, tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, có 11 công ty cổ phần đã niêm yết, trong đó 5 công ty của thành phố, mà ngoài TRIBECO/TRI, còn lại đều là công ty hình thành từ cổ phần hóa DNNN như Cơ điện lạnh/REE, TRANSIMEX/TMS, Ks Sài Gòn/SGH, Xuất nhập khẩu Bình Thạnh/GIL.
Đối với các DNNN, cổ phần hóa là phương thức thu hút vốn đầu tư phong phú từ xã hội, từ các thành phần kinh tế khác, tạo ra nguồn vốn tập trung và dài hạn cần thiết, đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của Nhà nước, giảm nhẹ gánh nặng cấp phát vốn của ngân sách Nhà nước.
Thông qua cổ phần hóa, Nhà nước sẽ thu hồi được một phần vốn để đầu tư tập trung cho những dự án trọng điểm quốc gia, hoặc đầu tư vào những ngành mang lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững, tài sản Nhà nước được sử dụng hợp lý để mang lại hiệu quả đầu tư tối đa.
2.2.3.2.Các hạn chế chính
Tốc độ cổ phần hóa còn chậm
Khó khăn trong việc xác định các giá trị tài sảnnhư đất đai máy móc và giá cổ phần
a) Về thủ tục chuyển giao bất động sản nhà xưởng - vật kiến trúc:
Nhà có nhiều hộ, nhiều tầng, nhiều cơ quan và cá nhân cùng quản lý sử dụng chung với doanh nghiệp cổ phần hóa.
Doanh nghiệp cổ phần hóa đã đầu tư xây dựng cơ bản trên đất đi thuê của DNNN khác chưa cổ phần hóa hoặc tổ chức khác.
b) Tồn tại về công nợ trước khi cổ phần hóa:
Có đến 80% số lượng doanh nghiệp trong diện cổ phần hóa đều có tình trạng nợ phải thu khó đòi mà con nợ vẫn tồn tại cần phải xử lý trước khi xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa.
Con nợ vẫn tồn tại và còn địa chỉ: pháp nhân đang chuẩn bị giải thể, phá sản (nhưng chưa giải thể, phá sản, đang mất khả năng thanh toán); hàng năm đều có xác nhận nợ và hứa trả, nhưng không trả được, hoặc có trả với tỷ lệ rất ít;
Con nợ đang bị truy nã, bị tù không còn tài sản; con nợ đang nằm trong giai đoạn điều tra để đưa ra xét xử;
Con nợ là những nông dân, ngư dân mua vật tư để sản xuất, do thiên tai, do làm ăn thua lỗ chậm trả kéo dài,…
Đây là số nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hóa do khi xử lý nợ phải mất nhiều thời gian, doanh nghiệp không tự xử lý được.
c)Đối với tự thân doanh nghiệp
Một số DNNN trong diện cổ phần hóa có tình hình tài sản, tài chính phức tạp chưa có cơ chế xử lý được như:
Do quá trình trước để lại công nợ nhưng không lập đầy đủ hồ sơ; nợ phải thu khó đòi chiếm tỷ trọng lớn trong phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; công nợ của giai đoạn I còn tồn đọng chưa xử lý xong… tồn đọng này vẫn kéo dài chưa thể giải quyết được.
Doanh nghiệp có liên doanh với nước ngoài, nhưng liên doanh đang thua lỗ chưa có cơ chế xử lý.
Doanh nghiệp đang làm đề án cổ phần hóa nhưng phải tiến hành di dời, hoặc nhà cửa, kho, đất đai đang tranh chấp.
Doanh nghiệp trước đây bị thua lỗ và đã chi âm quỹ phúc lợi khen thưởng, gặp khó khăn trong phương hướng phát triển, nên chưa có thể xây dựng đề án cổ phần hóa.
Vẫn còn một số Giám đốc DNNN trong diện cổ phần hóa chưa muốn làm, lần lựa nêu lý do này lý do khác để xin hoãn, thậm chí xin rút tên để có thời gian củng cố lại trước khi cổ phần hóa … (!)
d) Đối với đơn vị chủ quản:
Ủy ban Nhân dân thành phố đã giao kế hoạch cổ phần hóa cho các Quận Huyện, Sở Ngành, Tổng Công ty 90 theo chỉ tiêu số lượng DNNN cổ phần hóa của Chính phủ giao, nhưng các cơ quan chủ quản chậm triển khai (nhất là các DNNN thành viên của các Tổng Công ty 90, vì Tổng Công ty sợ mất vốn).
Xác định đối tác chiến lược:Khi một công ty cổ phần thì việc xác đinh đối tác chiến lược cũng rất quan trong đối với sự phát triển của công ty sau này,hiện nay các DNNN khi cổ phần hóa khó đạt được những thỏa thuận với đối tác chiến lược về giá mua cổ phần hay tỉ lệ phần trăm nắm giữ hay quyền tham gia trong hội đồng quản trị.
2.2.3.3. Nguyên nhân của từng hạn chế
Thông tin công bố thiếu minh bạch (về các chỉ tiêu nợ ,kết quả kinh doanh,tình hình hoạt động….)
Chưa có hành lang pháp lí rõ ràng về cách sác định tài sản và giá trị doanh nghiệp
Triển khai chậm do tâm lí,do điều kiện kinh tế chưa phù hợp(sự sụt giảm của thị trường chứng khoán,gây khó khăn trong việc huy động vốn….)
Các DNNN sau cổ phần hóa vẫn chưa thực sự thay đổi, vẫn mang dáng dấp của DNNN. Trong số 3.786 doanh nghiệp đã được cổ phần hóa, đặc biệt là ở những doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối thì vẫn giữ hình ảnh cũ. Bởi bộ máy lãnh đạo vẫn là những người trước đây. Cơ chế quản trị doanh nghiệp vẫn chưa thực sự khác biệt.
2.3.Phương hướng ,giải pháp đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa
2.3.1.Phương hướng
Qua các văn bản pháp luật về cổ phần hóa được ban hành trong nhiều năm qua, có thể thấy về cơ bản các mục tiêu chính vẫn giữ nguyên, đó là mục tiêu huy động vốn và tạo điều kiện cho người lao dộng thực sự là chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên do tình hình kinh tế, chính trị và xã hội, cũng như nhận thức vể chủ trương cổ phần hóa tại từng thời điểm khác nhau mà việc xác định mục tiêu này cũng có những khác biệt. Chẳng hạn Quyết định 202/ Ttg ngày 08/6/1992 cuả chính phủ nêu ra 3 mục tiêu của cổ phần hóa là:
Nâng cao hiệu quả sản xuấtkinh doanh.
Huy động vốn
Tạo điều kiện cho người lao dộng thực sự làm chủ daonh nghiệp
Đến Nghị định 28/CP( 07/05/1998) đã giảm còn 2 mục tiêu là:
Huy động vốn để phát triển doanh nghiệp
Tạo điều kiện cho người lao động góp phần nâng cao vai trò làm chủ thực sự, hình thành động lực thúc đẩy kinh doanh hiệu quả
Nghị định 44/ CP( 29/06/1988) cũng đề ra 2 mục tiêu nhưng được diễn đạt rõ ràng hơn, nhấn mạnh mục đích huy động vốn là nhằm đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp đồng thời với việc người lao động thực sự làm chủ, đã nhấn mạnh việc thay đổi phương thức quản lý, thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả.
Hiện nay Nghị định64/ CP ngày 19/6/2002 xác định rõ ràng hơn 3 mục tiêu cổ phần hóa như sau:
- Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp: tạo ra hai loại hình có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động: tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp.
- Huy động vônd của toàn xã hội bao gồm: Cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ phát triển doanh nghiệp.
- Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp: bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.
2.3.2.Nhiệm vụ
Mục tiêu của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được Đảng ta xác định : Đây là phương tiện để vừa đạt được mục tiêu phấn đấu , vừa khẳng định chức năng nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của doanh nghiêp nhà nước, cụ thế như :
Doanh nghiệp nhà nước phải được sắp xếp làm sao dể hiệu quả hoạt đọng cao hơn, có tính cạnh tranh cao hơn, có tăng trưởng phù hợp với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các doanh nghiệp nhà nước phải góp phần quan trọng bảo đảm sản phẩm , dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh và phúc lợi xã hội.
Trong quan diểm chỉ đạo của Nghị quyết Hội nghị Trugn ương 3 ( Khóa IX) về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cũng đã khẳng định “… đảy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem dố là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiêp nhà nước” . Điều đó nói lên tầm quan trọng của giải pháp ( Một trong 5 giảig pháp cơ bản đã được Nghị quyết Hội nghị Trugn ương 3 nêu ra ) tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, cũng như những chủ trương mới đay trong Nghị quyết Hội nghị Trugn ương 9 ( Khóa IX) và chỉ thị số 45/CT-TƯ , ngày 22-10-2004 cảu Bộ Chính trị Ban chập hành Trugn ương Đảng.
2.3.3. Các giải pháp để các DN đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa
2.3.3.1.Nhà nước
a)Thúc đẩy việc hoàn thiện các yếu tố khách quan cần thiết cho tiến trình cổ phần hóa
Xác định rõ những công việc phải làm trong toàn bộ quá trình cổ phần hoá, những công việc trọng tâm trong từng giai đoạn của quy trình CPH. Từ đó có kế hoạch bố trí lực lượng hợp lý thực hiện các công việc đó.
Phân chia trách nhiệm cụ thể rõ ràng trong Ban cổ phần hoá của doanh nghiệp, quy định rõ chức năng nhiệm vụ quyền hạn của từng bộ phận trong Ban, đề ra được kế hoạch chung trong tiến trình hoạt động của Ban. Từ kế hoạch chung, Trưởng ban sẽ tổ chức sự điều hoà, phối hợp chung bảo đảm sự nhịp nhàng cân đối trong thực hiện các công việc của quá trình CPH.
Đề cao trách nhiệm của Ban chỉ đạo CPH, Ban này không chỉ có chức năng đôn đốc và kiểm tra quá trình CPH mà còn phải hết sức coi trọng việc hướng dẫn thực hiện các công việc của quá trình này và trực tiếp giải quyết các vấn đề phát sinh thuộc thẩm quyền của mình.
Đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho công ty cổ phần có nguồn gốc từ DNNN.
Coi trọng việc sử dụng các tổ chức và cá nhân làm tư vấn cho cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp trong việc triển khai các công việc của quá trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần cũng như các vấn đề liên quan đến hoạt động của nó sau khi chuyển đổi.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là công tác được tiến hành lâu dài. Bởi vậy, để tiến hành công tác này một cách có hiệu quả cần đổi mới Ban chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có tính chất chuyên trách. Ban này sẽ có trách nhiệm trực tiếp lập kế hoạch và tổ chức thực hiện các công việc liên quan đến chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần và những vấn đề hậu cổ phần hoá.
b) Phát triển và hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường
Nhà nước và Chính phủ nên ban hành những tài liệu đầy đủ và hoàn chỉnh về công tác CPH: từ các văn bản mang tính chủ trương chính sách, các văn bản pháp lý cho tới những hướng dẫn cho các doanh nghiệp thực hiện các bước CPH một cách chi tiết nhất, cụ thể nhất. Thực ra như đã nói ở trên, trong số các doanh nghiệp muốn CPH, có tình trạng các cấp lãnh đạo không nắm rõ mình phải làm theo trình tự nào, có những văn bản nào hướng dẫn việc CPH… do vậy đó cũng là nguyên nhân làm chậm tiến độ CPH.
Như vậy một mặt cần thêm các văn bản để tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ về CPH, mặt khác cũng nên tránh việc ban hành quá nhiều văn bản hướng dẫn CPH như trước đây, bởi điều này sẽ gây ra nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp. Chẳng hạn như hầu hết các nghị định của Chính phủ về CPH khi ban hành đều có sửa đổi so với tình hình thực tế nhưng sau một thời gian ngắn lại không phù hợp nên phải bổ sung hoặc sửa đổi. Đối với các doanh nghiệp CPH, đây là một khó khăn, gây ảnh hưởng đến quá trình CPH. Vì vậy các nhà hoạch định chính sách nên nghiên cứu kỹ để ban hành các văn bản sao cho các văn bản thực sự tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh và ổn định để các cấp các ngành thuận lợi trong công tác CPH.
c) Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách, tạo khung khổ pháp lí thuận lợi cho việc cổ phần hóa DNNN
d) Tăng cường công tác chỉ đạo và nâng cao năng lực quản lý đối với quá trình cổ phần hóa
e)Phát triển tốt thị trường chứng khoán,thị truờng tài chính là đông lực thúc đẩy cổ phần hoá
Bên cạnh đó cũng cần phải tạo một khuôn khổ pháp lý ngày càng đồng bộ cho việc tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Chú trọng việc hướng dẫn thi hành các điều khoản về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán vì nếu hoạt động của nó phát triển sẽ giúp công ty cổ phần tạo và tăng được nguồn vốn và định mức được giá thị trường cổ phần của công ty.
f)Các chính sách thu hút đầu tư,tỉ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
Càn tạo điều kiện để nhà đầu tư nướ ngoài mua cổ phần,cần có hành lang phap lí rõ ràng về tỉ lệ được sở hữu lượng chứng khoán củ họ
2.3.3.2. Doanh nghiệp
a) ) Nâng cao công tác tuyên truyền cho cán bộ công nhân viên về sự cần thiết cổ phần hóa DNNN
Xác định những vấn đề thiết thực : Ngoài những nội dung chung về chủ trương chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, cần xác định những nội dung trọng tâm cần phổ biến, đối tượng cần phổ biến là ai, tránh sự dàn trải không cần thiết. Ví dụ như đối với người lao động, cái họ quan tâm hơn cả là những lợi ích được hưởng và những trách nhiệm phải gánh chịu khi doanh nghiệp mà họ làm việc tiến hành CPH, họ cũng muốn biết kết quả hoạt động của những doanh nghiệp đã tiến hành CPH…
Thực hiện tuyên truyền với hình thức đa dạng, phong phú, cần bảo đảm tính dân chủ và cởi mở trong việc trao đổi những vấn đề liên quan đến CPH. Những thắc mắc của người lao động, dù lớn hay nhỏ, phổ biến hay cá biệt đều phải được giải đáp cụ thể, thấu đáo.
Công tác truyên truyền phổ biến vể CPH cần phải được tiến hành trong toàn bộ qua trình cổ phần hoá. Trong suốt quá trình chuẩn bị CPH, xây dựng phương án CPH, tổ chức thực hiện CPH… các cấp các ngành chỉ đạo quá trình CPH phải nắm được diễn biến tư tưởng của người lao động, phát hiện kịp thời những băn khoăn vướng mắc của người lao động để có biện pháp giải quyết kịp thời.
Thực hiện xã hội hoá công tác tuyên truyền phổ biến về chủ trương CPH DNNN nói riêng và chủ trương sắp xếp, đổi mới hoạt động của hệ thống DNNN nói chung. Làm sao để mọi doanh nghiệp, mọi nhà quản lý, mọi người lao động cũng đều có thể hiểu rõ về công tác cổ phần hoá.
b) Đẩy nhanh tiến độ xác định giá trị của các DN và bán cổ phần. Hạn chế và khắc phục việc bán cổ phần khép kín trong nội bộ DN và chống thất thoát tài sản của Nhà nước
Thứ nhất: Tiến hành phân loại các tài sản mà trước đây Nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp để có biện pháp sử lý hợp lý, theo đó :
- Những tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp phù hợp với phương án kinh doanh mới của công ty cổ phần sẽ chuyển giao lại cho công ty cổ phần theo giá thị trường tại thời điểm tiến hành cổ phần hoá.
- Những tài sản của Nhà nước không phù hợp sẽ được chuyển giao lại cho Nhà nước để điều chuyển cho doanh nghiệp khác hoạc thanh lý, không ép buộc công ty cổ phần mới phải nhận.
- Những tài sản đã hết thời hạn khấu hao sẽ được chuyển giao lại cho công ty cổ phần mà không tính vào giá trị phần vốn Nhà nước tai doanh nghiệp.
Thứ hai: Với những tài sản trước đây doanh nghiệp vay vốn để đầu tư, nay đã hoàn lại đủ vốn cho người cho vay, nên được chia làm 2 phần:
- Một phần thuộc sở hữu Nhà nước theo tinh thần doanh nghiệp của Nhà nước đầu tư, phần vốn tăng thêm thuộc sở hữu Nhà nước.
- Một phần tính cho người lao động trong doanh nghiệp, coi đó là sự ưu đãi khuyến khích tính tích cực và chủ động phát triển vốn của người lao dộng trong doanh nghiệp.
Thứ ba: Xác định hợp lý những tồn đọng tài chính mà công ty cổ phần có thể kế thừa từ doanh nghiệp Nhà nước. Có thể xoá bỏ cho doanh nghiệp những khoản nợ khó đòi, khoản lỗ phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh trước đây do những nguyên nhân khách quan.
Thứ tư: Đổi mới việc tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp:
- Mời các chuyên gia kinh tế - kỹ thuật ở các cơ quan khoa học vào việc đánh giá tài sản, tôn trọng ý kiến của họ trong việc đánh giá giá trị thực tế của các tài sản.
- Đề cao vai trò của Đại diện doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp
- Mở rộng sự phân cấp trong việc quyết định giá trị doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp có giá trị trên 10 tỷ đồng, thay vì Bộ Tài chính thẩm định và Thủ tướng Chính phủ quyết định, nên quy định là " cấp nào ra quyết định thành lập doanh nghiệp sẽ có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần". Điều này sẽ góp phần rút ngắn thời gian cổ phần hoá.
c) Tăng cường quản trị công ty cổ phần để thực sự đưa công ty sau cổ phần hóa hoạt động trong môi trường bình đẳng với các DN khác.
Hoạt đông quản trị của bộ máy công ty cần được nâng cao và đạt hiệu quả, đổi mới tư duy quản tri theo hướng kinh tế thị trường.
d) Tăng cường chỉ đạo cổ phần hóa trong toàn bộ Tổng công ty
Thống nhất các tập đoàn tổng công ty lớn tiếp tục đảy nhanh quá trình cổ phần hóa đem lại nguồn cung lớn và chất lượng cho thị trường chứng khoán
e) Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát quá trình cổ phần hóa
Quá trình cổ phần hóa phải được giám sát chặt chẽ tránh gây thất thoát tài sản nhà nước hay không minh bạch trông chào bán cổ phần
f) Tăng cường tính minh bạch trong công bố thông tin về doanh nghiệp thông tin công bố phải minh bạch rõ ràng, được công bố rộng rãi đến tất cả các nhà đầu tư.
g) Phát triển đội ngũ quản trị năng động phù hợp với sự mở rộng của thị trường trong nước
h) Chiến lược phát triển rõ ràng
Trước và sau khi cổ phần hóa công ty phải có chiến lược rõ rang,đi đúng hướng theo nền kinh tế thị trường.
LỜI KẾT LUẬN
Quá trình cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta có nhiều nét đặc thù đó là cổ phần hóa những doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, mà về thực chất là cổ phần hóa một bộ phận thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân. Mục tiêu cõ bản của việc chuyển nhượng một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần là nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể là một hình thức quản lý vừa phát huy quyền làm chủ của người lao động, vừa đảm bảo quản lý một cách có hiệu quả những tài sản của doanh nghiệp.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và xuất phát từ đòi hỏi bức bách của công cuộc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước trong thời kì đổi mới, nhận thức và tư duy của Ðảng ta về cổ phần hóa ngày càng được củng cố vững chắc. Mô hình cổ phần hóa nếu được chỉ đạo theo đúng đýờng lối của Ðảng và Nhà nước thì đây chính là công cụ phát huy nội lực rất quan trọng, đem lại lợi ích tích cực cho nguời lao động, Nhà nước và xã hội; góp phần thiết thực vào việc thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Với những lí do đó, việc đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước có những ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước đề ra. Để làm tốt nhiệm vụ này, chắc chắn phải huy động nhiều hơn sức lực và thời gian của các tổ chức, cá nhân từ Trung ương đến địa phương. Với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, chúng ta tin tưởng rằng chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước sẽ được thực hiện thành công, góp phần vào thắng lợi chung của sự phát triển kinh tế đất nước.
Một lần nữa em xin được gửi lời cảm ơn trân thành nhất tới cô Nguyễn Thị Hồng Thắm đã nhiệt tình hướng dẫn chỉ bảo em hoàn thành tốt đề án này.
Danh mục tài liệu tham khảo.
1 - Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn.(Nguyễn Minh Thông) - Tạp chí cộng sản số 16/2002.
2 - Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Kết quả vướng mắc và giải pháp.(Hồ Xuân Hùng) - Tạp chí Cộng Sản số 18/2004.
3 - Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn.(PTS Nguyễn Ngọc Quang) – Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội 1996.
4 - Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.(PGS-PTS Hoàng Công Thi) – Thông tin chuyên đề Hà Nội 1992.
5 - Cổ phần hóa: Tăng ga và hãm phanh.(Phạm Quang) - Thời báo kinh tế Việt Nam số 29/2002.
6 - Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.(Hồ Trọng Viện) - Tạp chí Cộng Sản số 15/2003.
7 - Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển số 111/2000.
8 - Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX
9 - Văn bản hướng dẫn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam – Nhà xuất bản Thống Kê 1999.
10 - Báo điện tủ viêt nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22668.doc