Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam – Cái nhìn từ hiện tại và cho tương lai

Chúng ta đang đi từng bước vững chắc trên con đường phát triển kinh tế nước nhà, chúng ta đang tiến vào nền kinh tế quốc tế. Khi tham gia vào thị trường thế giới, chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh khốc liệt, kể cả những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh trên thương trường. Trước thực tế như vậy, việc loại bỏ những nhân tố yếu kém, trì trệ, chậm chạp trong nền kinh tế là hoàn toàn cần thiết. Với nhận thức như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương để DNNN khẳng định chính mình, loại bỏ những cách hiểu chưa đúng đắn về hình ảnh DNNN trì trệ, ì ạch bằng cách tiến hành CPH. Và CTCP ra đời đã cho phép hội tụ, phát triển các nguồn lực và sức mạnh của các chủ thể tham gia, tạo ra động lực kinh tế hiệu quả nhất.

doc30 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam – Cái nhìn từ hiện tại và cho tương lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sót trong tiểu luận này sẽ nhanh chóng được sửa sai để không làm ảnh hưởng đến chất lượng của đề tài. Nội dung Chương I: Một số vấn đề cơ bản về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Một số khái niệm cơ bản Khái niệm công ty cổ phần (CTCP) Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức doanh nghiệp, trong đó toàn bộ tư bản được chia thành các cổ phần bằng nhau và phát hành cổ phiếu công khai. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm tương ứng với cổ phần đã mua, công ty phải dùng toàn bộ tài sản để đảm bảo nợ của công ty. Công ty cổ phần mang những đặc trưng cơ bản sau: Tồn tại lâu với tư cách là một pháp nhân độc lập. Chủ sở hữu là một nhóm các cổ đông (thể nhân, pháp nhân và có thể cả nhà nước) Giới hạn trách nhiệm tài chính của người sở hữu: Người sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần đóng góp của mình. Dễ chuyển nhượng quyền sở hữu (thông qua mua bán, trao đổi chứng khoán) Có nhiều khả năng tài chính do có thể huy động một khối lượng vốn rất lớn trong xã hội. Trong các đặc trưng nêu trên thì đặc trưng cơ bản, khác biệt, phân biệt CTCP với nhiều loại hình tổ chức doanh nghiệp khác là đặc trưng về chủ sở hữu và khả năng chuyển nhượng quyền sở hữu. Nếu như hình thức sở hữu trong doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước là hình thức sở hữu đơn nhất, một chủ thể thì hình thức sở hữu trong CTCP là một hình thức sở hữu hỗn hợp, đa nguyên nhiều chủ thể. Các chủ thể đó có thể là nhà nước và tư nhân, tư nhân và pháp nhân, hoặc các tư nhân với nhau. Hình thức sở hữu này rõ ràng không còn mang trong mình bản chất vốn có của sở hữu tư nhân cá biệt, mà đã mang các yếu tố xã hội đúng như Mác đã phân tích khi nói về hình thức CTCP: “Đã trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội (tư bản của các cá nhân trực tiếp liên hiệp lại với nhau) đối lập với tư bản tư nhân; còn các xí nghiệp của nó biểu hiện ra là các xí nghiệp xã hội đối lập với những xí nghiệp tư nhân. Đó là sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân trong khuôn khổ bản thân phương thức sản xuất TBCN…” Trên cơ sở đó, ta cũng có thể coi hình thức sở hữu hỗn hợp trong CTCP là một trong những hình thức sở hữu trung gian giữa sở hữu tư bản tư nhân thuần tuý với sở hữu công hữu trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đặc trưng về hình thức sở hữu này chính là cơ sở cho việc hình thành bộ máy quản lý tập thể dưới hình thức Hội đồng quản trị trong các CTCP. CTCP khác biệt so với các hình thức công ty khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp liên doanh…là: CTCP có khả năng chuyển đổi quyền sở hữu doanh nghiệp dễ dàng hơn, thông qua việc mua bán, trao đổi chứng khoán (các chứng từ chứng nhận quyền sở hữu của các cổ đông) trên thị trường chứng khoán và các trung gian môi giới chứng khoán… Khái niệm cổ phần hoá và bản chất của quá trình này Các CTCP được hình thành qua 2 cách: Các thể nhân và pháp nhân đứng ra thành lập một doanh nghiệp mới theo hình thức CTCP. Cổ phần hoá DN tư nhân, DNNN nhằm chuyển các loại hình doanh nghiệp này thành hình thức CTCP. Như vậy, cổ phần hoá chính là hình thức chuyển đổi các doanh nghiệp thuộc các hình thức tổ chức khác sang hình thức CTCP. Bản chất của quá trình này là nhằm chuyển đổi hình thức sở hữu trong các doanh nghiệp cũ sang hình thức sở hữu hỗn hợp giữa các cổ đông là tư nhân, pháp nhân; giữa tư nhân với nhà nước hoặc giữa các tư nhân với nhau trên cơ sở chia nhỏ tài sản của công ty thành những phần bằng nhau, bán lại cho các cổ đông dưới hình thức cổ phiếu, thông qua đó thiết lập hình thức tổ chức quản lý sản xuất theo mô hình CTCP, hoạt động với tư cách là một pháp nhân độc lập. Mặc dù CPH diễn ra cả đối với các doanh nghiệp tư nhân song do số lượng các doanh nghiệp tư nhân CPH là không đáng kể, cho nên khi nhắc đến CPH người ta thường hiểu là CPH DNNN. Một số nước thường đồng nhất khái niệm CPH với TNH, nhưng ở Việt Nam với quan điểm phân biệt rõ ràng CPH và TNH, quá trình CPH ở Việt Nam mang những đặc điểm cơ bản sau: Lựa chọn con đường tiến lên CNXH, CPH ở Việt Nam không nhằm làm giảm bớt vai trò của khu vực kinh tế nhà nước mà ngược lại còn làm tăng cường vai trò của khu vực kinh tế này không phải theo chiều rộng mà theo chiều sâu. Để đảm bảo tính xã hội của hình thức sở hữu trong CTCP, nước ta có những quy định khá chặt chẽ về số lượng cổ phiếu tối đa, số lượng cổ đông tối thiểu… Đối tượng CPH cũng không phải là toàn bộ hay phần lớn các DNNN kể cả những doanh nghiệp mà nếu CPH có thể mang lại lợi ích kinh tế cao hơn. Số lượng DN mà nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, nắm cổ phiếu khống chế, cổ phiếu đặc biệt còn rất lớn và những DN này thường là những DN có vai trò và ý nghĩa then chốt trong nền kinh tế, có tác dụng điều tiết nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Một số nội dung cơ bản của chủ trương CPH các DNNN Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một bộ phận không thể tách rời của chương trình sắp xếp và cải cách DNNN. Mục tiêu của CPH: Theo điều 2 nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 quy định việc chuyển DNNN thành CTCP nhằm các mục tiêu sau đây: Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN. Tạo điều kiện để người lao động trong DN có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy DN kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Đối tượng CPH: Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 có quy định đối tượng CPH là tất cả các DNNN mà nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư, không phân biệt quy mô vốn và lao động như trước đây. Ban hành kèm theo nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 là danh mục các loại DNNN để lựa chọn CPH bao gồm: Loại DNNN hiện có chưa tiến hành CPH: Đó là DNNN hoạt động công ích quy định tại điều 1 NĐ 56/CP ngày 02/10/1996 của chính phủ và những DN sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ Nhà nước độc quyền kinh doanh như vật liệu nổ, hoá chất độc… Loại DNNN hiện có, Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt khi tiến hành CPH, đó là các DN thuộc: + DNNN hoạt động công ích trên 10 tỷ đồng. + Khai thác quặng quý hiếm. + Khai thác khoáng sản quy mô lớn. + Các hoạt động dịch vụ kỹ thuật về khai thác dầu khí. + Sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh và hoá dược. + Sản xuất kim loại màu và kim loại quý hiếm quy mô lớn. + Sản xuất điện quy mô lớn, truyền tải và phân phối điện. + Sửa chữa phương tiện bay. + Dịch vụ khai thác bưu chính viễn thông. + Vận tải đường sắt, hàng không, viễn dương. + In, xuất bản, sản xuất rượu, bia, thuốc lá quy mô lớn. + Ngân hàng đầu tư, ngân hàng cho người nghèo. + Kinh doanh xăng dầu có quy mô lớn. Các loại hình DN hiện có còn lại đều có thể thực hiện CPH và áp dụng các hình thức chuyển đổi sỡ hữu khác nhau trong đó Nhà nước không giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt. Tính tất yếu khách quan của việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước Tại các nước công nghiệp phát triển cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, LLSX được xã hội hoá ở mức độ ngày càng cao khiến cho quy mô của các tư bản cá biệt ngày càng trở nên quá chật hẹp, kinh nghiệm quản lý của một cá nhân chủ sở hữu không còn thích ứng được với sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế thị trường hiện đại. CTCP ra đời với khả năng tập trung vốn từ các tư bản cá biệt, thiết lập một bộ máy quản lý tập thể là hội đồng quản trị, đã tạo ra sự phù hợp hơn giữa QHSX với tính chất và trình độ xã hội hoá ngày càng cao của LLSX. Đó là kết quả của một quá trình phát triển tất yếu khách quan của QHSX thích ứng hơn với sự phát triển của LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển đến tầm cao mới. ở nước ta, trình độ xã hội hoá LLSX nhìn chung còn thấp. Đó chính là hàng rào lớn ngăn cản Việt Nam trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Ta không thể bước vào thế giới cạnh tranh khốc liệt mà không có vũ khí trong tay; ta không thể thoát khỏi dòng xoáy của nền kinh tế thế giới khi nước ta còn nghèo, dân ta còn đói và kém về trình độ. Trước thực trạng đó, yêu cầu cải tiến kỹ thuật công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nước cũng như quốc tế là không thể chậm trễ. Tuy nhiên đã làm được việc đó vấn đề đầu tiên là vốn. Với nguồn ngân sách có hạn, nhà nước không thể đầu tư vốn một cách có hiệu quả cho tất cả các DNNN. Trong khi đó nguồn lực của các thành phần kinh tế khác thì chưa được huy động hết. Mà nguồn lực này, nếu xem xét ở góc độ từng cá nhân cũng là có hạn, khó có khả năng đầu tư phát triển sản xuất một cách độc lập trong nhiều ngành nghề đòi hỏi những lượng vốn lớn. Hình thức sở hữu nhiều thành phần, sở hữu hỗn hợp giữa các tổ chức và các cá nhân, giữa nhà nước và tư nhân đang ngày càng chứng tỏ được sự phù hợp của mình với yêu cầu hiện đại hoá sức sản xuất của đất nước. Xét từ nhiều góc độ, ta thấy được những ưu điểm rõ rệt của CPH DNNN là: CPH là giải pháp căn bản cho tình trạng thiếu vốn kinh niên ở các DNNN CPH có khả năng khắc phục được tình trạng không rõ ràng về quyền tài sản trong các DNNN, đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh đầy đủ cho các DN. CTCP là một mô hình có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, đảm bảo hiệu quả cao trong tổ chức SXKD, khắc phục tình trạng thờ ơ, vô trách nhiệm đối với tài sản nhà nước tại các xí nghiệp quốc doanh trước đây. CPH còn là biện pháp tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ. Hơn thế nữa, một thực tế hiện nay cho thấy có rất nhiều DNNN làm ăn thua lỗ, ỷ thế vào những ưu đãi của nhà nước, không tích cực đổi mới, mà nếu có cũng chỉ là hình thức. Điều nay gây thiệt hại cho NSNN đồng thời nó tiếp tục kéo lùi tiến trình phát triển chung của nền kinh tế vốn dĩ đã không mấy vững chắc của nước ta. Do đó CPH phần lớn DNNN, với bản chất là chuyển đổi hình thức sở hữu trong các DNNN là hình thức sở hữu đơn nhất, một chủ thể là nhà nước sang hình thức sở hữu đa nguyên nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, là một chủ trương đúng đắn, hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan vì nó tạo ra được sự phù hợp hơn giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX của nước ta trong điều kiện hội nhập nền kinh tế thế giới. Chương II: Thực trạng CPH DNNN ở nước ta Giai đoạn 1 (từ tháng 6/1992 đến tháng 4/1996) Những bước thử nghiệm đầu tiên. . Cơ sở pháp lý Ngày 08/06/1992, chủ tịch HĐBT đã ra quyết định 202/CT cho phép lựa chọn và triển khai thí điểm CPH ở một số DNNN. Mốc quan trọng này đã mở ra một hướng đi mới cho công cuộc cải cách DNNN ở Việt Nam. Ngày 04/03/1993, Thủ tướng chính phủ đã ra chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến CPH DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN. Mục tiêu của giai đoạn này là thí điểm CPH để từ đó rút ra kinh nghiệm và mở rộng diện CPH sau này. Đối tượng của CPH ở giai đoạn này là các DNNN kinh doanh trong các ngành thông dụng (dịch vụ và công nghiệp) không có ý nghĩa chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân. Về phương thức tiến hành: Chuyển một phần sở hữu nhà nước dưới dạng bán cổ phần DNNN sang sở hữu tư nhân. Sau khi CPH, DNNN chuyển sang hoạt động theo Luật công ty. Về chế độ ưu đãi đối với công nhân viên chức trong DN: người lao động được mua cổ phiếu trả chậm với thời gian không quá 12 tháng, ngoài ra không có ưu đãi khác. 1.2. Những nhận định chung Trong giai đoạn này chính sách CPH còn dè dặt, thận trọng. Thời gian thí điểm kéo dài và kết quả còn rất hạn chế. Trong 4 năm mới thực hiện CPH được 5 doanh nghiệp, bao gồm 3 DN TW và 2 DN địa phương. Tất cả các DN cổ phần đều có quy mô nhỏ, có những lợi thế nhất định trong hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp này chủ yếu tiến hành CPH trên cơ sở tự nguyện. Trong giai đoạn thí điểm này, Việt Nam chưa bán cổ phần cho thể nhân hoặc pháp nhân nước ngoài. Các DNNN đã CPH tính đến thời điểm 31/12/1995 TT Tên DN Ngày CPH Tổng số vốn (triệu đồng) Cơ cấu vốn (%) NN CNVC trong DN Cổ đông ngoài 1. Đại lý liên hiệp vận chuyển 1/07/93 6.200 18 33,1 48,9 2. Cơ điện lạnh TPHCM 1/10/93 16.000 30 50 20 3. Giấy Hiệp An 1/10/94 6.769 30 50 20 4. Chế biến hàng XK Long An 1/07/95 3.540 30,2 48,6 21,2 5. Cty chế biến thức ăn gia súc 1/07/95 7.912 30 50 20 Nguồn: Ban chỉ đạo TW đổi mới doanh nghiệp 1.3. Những thành tựu đã đạt được 1.3.1. Về phía DN Sau khi CPH, hoạt động của các DN vẫn giữ được ổn định và có chiều hướng phát triển tốt. Chúng ta có thể căn cứ vào các số liệu cụ thể để chứng minh cho điều đó. Công ty CP Đại lý Liên hiệp vận chuyển sau 3 năm thực hiện CPH: Tổng số lao động tăng từ 90 người (năm 1993) lên 285 người (tính đến tháng 6/1996) Doanh thu năm 1995 tăng hơn 4 lần so với năm 1993. Lãi cổ tức: tăng 30%/năm. Công ty Cơ điện lạnh thành phố HCM Tổng số lao động tăng từ 334 người (1993) lên 494 người năm 1995. Doanh thu tăng gần 3 lần. Lãi cổ tức: 24%/năm. CTCP Giấy Hiệp An: Tổng số lao động tăng từ 403 người lên 430 người. Doanh thu tăng 3 lần. Lãi cổ tức đạt 47,6%/năm. Như vậy, xu thế chung là hiệu quả sản xuất tăng lên rõ rệt. 1.3.2. Về phía nhà nước Nhà nước không những giảm được những khoản bao cấp trước đây cho DN mà còn tăng thu về thuế và lợi nhuận ở các DN này. Về mặt quản lý, nhà nước vẫn nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu nhất định để kiểm soát DN nhưng với tư cách là một cổ đông lớn, còn DN không chịu sự quản lý trực tiếp của cơ quan nhà nước với tư cách là chủ quản. 1.4. Những mặt còn tồn tại 1.4.1. Hiện tượng CPH “tự phát” ở một số doanh nghiệp Một số DNNN đã tự động áp dụng các hình thức huy động vốn như vay trả lãi phụ thuộc và kết quả kinh doanh của DN (tương tự như trả lợi tức cổ phần). Người cho vay được hưởng lãi suất và chịu trách nhiệm giống như các cổ đông mặc dù các DN này không tổ chức và hoạt động theo luật công ty. Một số khác còn sử dụng quỹ phúc lợi để đầu tư sản xuất, hạch toán riêng và coi đó là phần vốn góp cổ phần của công nhân viên chức. Thực chất đây là hình thức CPH phi chính thức. Hình thức này chủ yếu áp dụng trong nội bộ công nhân viên chức của DN. Nhìn bề ngoài thì có vẻ là tích cực vì vừa thu hút được vốn cổ phần, vừa đảm bảo việc làm cho người lao động. Nhưng nó lại tiềm ẩn nhiều điều rất tiêu cực: Lạm dụng để chuyển lợi ích của DN sang lợi ích của công nhân viên chức (CNVC) góp vốn cổ phần. CNVC chỉ quan tâm, bảo vệ những gì “sát sườn” hay có liên quan đến cổ phần của họ. Hình thức này chỉ thích hợp với những bộ phận làm ăn có triển vọng trong DN, ở những bộ phận không có triển vọng thì ít có khả năng thu hút vốn cổ phần của CNVC. 1.4.2. CPH tiến hành quá chậm chạp Số lượng DN CPH sau 4 năm là quá chậm chạp. Điều này có thể lý giải được bởi nhiều nguyên nhân: Chủ trương và các văn bản pháp luật chưa đủ cụ thể, chưa đảm bảo chắc chắn để các DN có đủ niềm tin rằng CPH là đúng đắn và có lợi. Chẳng hạn, sau khi có CPH thì có còn CNXH nữa không? DN nào thuộc diện CPH, DN có thực sự được hưởng quyền lợi và ưu đãi như trước khi CPH hay không, các bước tiến hành CPH cũng chưa rõ ràng. Chưa có sự ủng hộ từ phía CNVC cũng như cán bộ lãnh đạo DN do lo sợ mất việc làm, giảm thu nhập, mất địa vị và điều quan trọng là mất sự bao cấp của nhà nước. Thiếu kinh nghiệm trong CPH, các vấn đề kỹ thuật CPH phức tạp do chế độ kế toán không đầy đủ, việc định giá tài sản, định giá đất, giải quyết các vấn đề khi CPH còn gặp nhiều khó khăn do trình độ nhận thức và hiểu biết của DN và xã hội còn hạn chế. Song giai đoạn này đã để lại nhiều bài học quý giá cho việc xây dựng các chế độ, chính sách, chỉ đạo thực hiện công tác CPH cho giai đoạn sau. Giai đoạn 2 (từ 5/1996 đến 5/1998) Thời kỳ mở rộng công tác CPH Cơ sở pháp lý Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP ngày 07/05/1995. Lần đầu tiên đã có quy định một cách hệ thống từ mục đích, yêu cầu, đối tượng đến phương thức tiến hành, chế độ đủ với người lao động. Ngoài ra còn có: Nghị định 25/CP ngày 26/03/1996 sửa đổi một số điểm của Nghị định 28/CP. Quyết định 548/TTg ngày 13/08/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập các Ban chỉ đạo CPH. Quyết định 01/CPH ngày 04/09/1996 của Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về CPH, về ban hành quy trình chuyển DNNN thành CTCP. Thông tư 50/TC-TCDN ngày 30/08/1996 của bộ tài chính hướng dẫn vấn đề tài chính theo nghị định 28/CP. Thông tư 17/LĐTBXH-TT ngày 07/09/1996 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn chính sách với người lao động. Tháng 12/1997, Hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng đã ra nghị quyết, trong đó nêu rõ định hướng và giải pháp CPH một bộ phận DNNN “Phân loại DN công ích và DN kinh doanh; xác định danh mục loại DN cần có 100% vốn nhà nước, loại DNNN cần giữ tỷ lệ cổ phần chi phối; loại DNNN chỉ cần giữ cổ phần ở mức thấp” và “Đối với DNNN không cần giữ 100% vốn NN, cần lập kế hoạch CPH để tạo động lực phát triển thúc đẩy làm ăn có hiệu quả”. Ngày 19-20/02/1998 Bộ tài chính đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức một cuộc hội thảo nhằm mục đích thúc đẩy quá trình CPH các DNNN ở Việt Nam trên quy mô lớn. Ngày 20/04/1998 có chỉ thị 20/1998/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về đẩy mạnh, sắp xếp và đổi mới DNNN. Trong đó DNNN được phân thành 3 nhóm: Các DNNN quan trọng cần duy trì hoạt động theo luật DNNN. Các DNNN cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu. Các DNNN thua lỗ kéo dài. Các DNNN thuộc nhóm (2) là thuộc diện CPH. Chính phủ yêu cầu từng Bộ, địa phương và Tổng công ty 901 trong kế hoạch CPH phải lựa chọn ít nhất 20% số DNNN không cần duy trì 100% vốn nhà nước để thực hiện CPH. Về phương thức tiến hành: đã mở rộng ra 3 hình thức: Giữ nguyên giá trị hiện có của DN, chỉ phát hành thêm cổ phiếu. Bán một phần DNNN. Tách một bộ phận DNNN để tiến hành CPH. Đối tượng: mở rộng CPH không chỉ có các DNNN vừa và nhỏ mà còn cả DNNN lớn và vốn trên 10 tỷ đồng mà trong đó nhà nước không cần nắm 100% vốn và phải có phương án kinh doanh hiệu quả. Những nhận định chung Trong 2 năm chúng ta đã CPH được 25 DN. Nhìn chung tiến độ CPH vẫn còn chậm. Chỉ tiêu năm 1998 phải CPH được 150 DN chưa được hoàn thành. Trong đó phải kể đến TP Hồ Chí Minh - đơn vị dẫn đầu cả nước về CPH. Trong năm 1996, thành phố đã mở lớp tập huấn cho trên 100 cán bộ thuộc DNNN về CPH, tại các lớp chuyên viên kinh tế đã hướng dẫn tỷ mỷ về NĐ 28/CP và lập ra các DNNN sẽ CPH, kèm theo các hướng dẫn cụ thể. Riêng Hà Nội, trong năm 1997 chỉ CPH được 1 DN, chậm nhất trong cả nước. Danh mục các DNNN tiêu biểu đã CPH ở giai đoạn này: TT Tên DN Ngày CPH Tổng số vốn (triệu đồng) Cơ cấu vốn (%) NN CNVC trong DN Cổ đông ngoài 1. Cty xe khách Hải Phòng 1/09/96 2.915 30 70 0 2. Khai thác đá Đồng Giao 1/09/96 3.200 49,8 30,7 19,5 3. Cty đầu tư sản xuất TM 1/07/96 356 0 100 0 4. XN tàu thuyền Bình Định 1/07/96 1.150 51 19 30 5. XN ong mật TP HCM 1/07/96 2.500 30 18,5 51.5 6. Khách sạn Sài Gòn 1/07/96 1.800 40 40 20 7. Tập thể sản xuất hoá mỹ phẩm SG 1/01/97 6.400 35 50 15 8. Cty CBXK thuỷ sản Minh Hải 1/11/97 10.000 51 29 20 9. XN sơn Bạch Tuyết 1/11/97 20.000 35 45 20 10. Cty bông Bạch Tuyết 5/11/98 11.370 30 57 13 11. Cty vận tải thuỷ Hải Dương 1/01/98 2.165 45,7 54,3 0 12. Cty khai thác DVTS Đà Nẵng 1/01/98 2.165 45,7 54,3 0 13. Cty cáp và vật liệu BCVT 1/01/98 120.000 49 10 41 14. CTCP Thanh Tâm-TT Huế 10/4/98 1.800 22,7 28,2 49,1 15. CTCP gạch ngói Phổ Phong 1/05/98 875 37,5 31,25 31,25 16. CTCP chăn nuôi Di Linh LĐ 1/01/98 1.200 58 32 10 17. CTCP Du lịch Bảo Lộc LĐ 1/01/98 4.300 23 12 65 18. Cty cầu xây (Bộ XD) 1/04/98 6.000 10 … … Nguồn: Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại DN Những mặt làm được Về phía doanh nghiệp CPH đã thay đổi được phương thức quản lý: Chế độ bình bầu, chọn giám đốc, HĐQT các chức danh lãnh đạo của DN đã làm cho đội ngũ này có trách nhiệm cao hơn, quyền lợi và nghĩa vụ gắn với nhau hơn. Phương thức quản lý theo kiểu quan liêu, bao cấp, dùng mệnh lệnh hành chính được hạn chế tối đa. Trong các DN mà nhà nước không có cổ phần chi phối, kiểu quản lý cũ không còn tại nữa. Tình trạng lãng phí của công, lãng phí tài sản của DN giảm một cách tối thiểu: Điều đó xuất phát từ chỗ DN thuộc quyền sở hữu của các cổ đông nên họ phải kiểm soát việc thu chi chặt chẽ hơn thông qua HĐQT và Ban kiểm soát của công ty. Trong điều lệ công ty quy định rất rõ các khoản chi, nhất là chi tiếp khách. Tiếp nhận, phong bao, chi phí hoa hồng không còn nữa. Tình trạng “vô chủ”, “của chùa” trong DNNN được khắc phục. Người lao động phấn khởi, tinh thần làm việc được củng cố: Động lực kinh tế đã tạo nên một không khí làm việc mới, kích thích sự sáng tạo cá nhân vì quyền lợi của họ gắn liền với quyền lợi của công ty. Ngoài thu nhập bình thường, người lao động còn nhận được thu nhập qua cổ tức thường là trên 1,6%/tháng, cao hơn lãi xuất ngân hàng. Các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều có sự tiến bộ đáng kể: Theo tổng kết 13 doanh nghiệp cổ phần đến giữa năm 1997, ban CPD DNNN đã có đánh giá như sau: Vốn bình quân tăng: 45%/năm. Doanh thu bình quân tăng: 56,9%/năm. Lợi nhuận tăng bình quân: 70,2%/năm. Nộp NSNN tăng bình quân: 98%/năm. Việc làm tăng bình quân: 46,8%/năm. Thu nhập người lao động tăng bình quân: 29%/năm. Tỷ suất lợi nhuận trên DT tăng: 14,1%/năm. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tăng: 74,6%/năm. Về phía nhà nước Tài sản của nhà nước được đánh giá lại chính xác hơn: Lâu nay, tài sản thuộc các DNNN bị đánh giá thấp, khấu hao tích nộp rất thấp, không đủ bù đắp vốn để tái đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất. Thông qua việc CPH 18 DN trong giai đoạn trước 01/01/1998, tổng giá trị đánh giá lại đã tăng 48,8% so với tổng giá trị hạch toán. Nhà nước tăng nguồn thu NS: thông qua tiền bán cổ phần và tiền lợi tức. Từ đó có thể đầu tư vào những lĩnh vực và vào các DN khác cần thiết hơn. Tư tưởng CPH đã được thống nhất hơn: Cán bộ lãnh đạo cũng như CNVC hiểu được mục tiêu, lợi ích của chủ trương CPH nhiều hơn, tốt hơn so với trước kia. Những mặt còn tồn tại Về phía doanh nghiệp Các DN nhìn chung chưa có phương án phát triển SXKD hiệu quả, chưa tìm ra hướng đầu tư mới: Nhiều CTCP thừa vốn không biết dùng vào việc gì và phải cho vay vốn. Trong khi đó, những DNCP có vốn lớn thì vốn huy động thêm để mở rộng sản xuất lại chiếm tỷ lệ quá thấp, vì tâm lý của cổ đông cũ là không muốn chia sẻ quyền lực. Tập thể ban lãnh đạo nhiều DN chưa thực sự ủng hộ CPH. Họ sợ mất quyền chức, mất các khoản “bồi dưỡng” …Nhiều người chưa quen với các cơ chế mới sau khi CPH nên sợ không thích nghi được với cơ chế thị trường, không đủ sức đứng vững và cạnh tranh trên thương trường. Còn CNVC yếu kém về trình độ thì lo mất việc làm. Kiểm toán chưa thực hiện chức năng của mình. Chi phí kiểm toán cao, chỉ kiểm toán được hạch toán của DN, còn chưa xác định đúng giá trị DN. Vấn đề đánh giá lợi thế và bất lợi thế thực hiện cũng chưa tốt. Thêm vào đó, một số DN ở miền Nam còn chưa có đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu nhà xưởng, đất đai đã gây thêm những “ách tắc” cho quá trình xác định giá trị DN này. Về phía nhà nước Tiến trình CPH diễn ra vẫn chậm. Số lượng DN được CPH còn quá ít, NĐ 28/CP chưa hoàn thiện để đẩy nhanh CPH. Nhiều vấn đề cụ thể chưa được nêu ra: Danh mục các DNNN không CPH hay DNNN cần được giữ cổ phần khống chế chưa rõ; các định hướng bắt buộc thực hiện CPH đối với các DN còn lại chưa có. Vấn đề định giá DN, các quy định về chế độ đối với DN sau CPH còn nhiều bỏ ngỏ. Vẫn có sự phân biệt đối xử so với DNNN không hoặc là chưa CPH. Nhà nước chưa có biện pháp mạnh mẽ, thực hiện đúng quyền chủ sở hữu của mình. Chính phủ chưa kiên quyết, chưa coi CPH là nhiệm vụ bắt buộc mà lại chờ sự tự nguyện của các DN, các địa phương và các bộ chủ quản. Chủ trương cổ phần hoá dàn đều, không tập trung vào các vùng trọng điểm. Việc tổ chức thực thu chưa rõ ràng. Ban cổ phần gồm nhiều tổ chức như: Bộ tài chính, tổng Liên đoàn lao động, Ban tổ chức chính phủ, Bộ công nghiệp, Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Uỷ ban chứng khoán nhà nước nên việc triệu tập một cuộc họp để bàn chủ trương đã khó, nhưng việc thống nhất ý kiến càng khó hơn. Một số văn bản chỉ đạo chưa cụ thể, chưa thể khẳng định trách nhiệm rõ ràng của từng Bộ, từng địa phương. Việc tuyên truyền, vận động đối với CNVC trong CTCP chưa tốt. Thực tế, chúng ta đã ưu đãi tốt nhất cho người lao động sau khi CPH nhưng vẫn chưa nhận được sự thoả mãn và ủng hộ hoàn toàn của họ. Bên cạnh đó, người sân chưa quen với việc mua bán các cổ phiếu nên khó mà phát triển được thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, qua giai đoạn này, chúng ta đã thu được nhiều bài học quý giá để CPH diễn ra tốt hơn trong giai đoạn sau. Giai đoạn 3 (từ tháng 07/1998 đến nay) Đẩy mạnh cổ phần hoá 3.1. Cơ sở pháp lý Ngày 29/06/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/CP về CPH. NĐ này đã mở rộng hơn các chế độ cho công tác CPH, đã xác định rõ và giảm thiểu danh mục ngành nghề nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, nhà nước nắm cổ phần đặc biệt hoặc chi phối, không hạn chế quy mô DN CPH, phân cấp nhiều hơn thẩm quyền quyết định CPH. Cùng ngày 29/06/1998, chính phủ ra quyết định số 111 thành lập Ban đổi mới quản lý DN TW trên cơ sở hợp nhất hai ban chỉ đạo TW về sắp xếp DNNN và Ban chỉ đạo TW CPH với đại diện các Bộ liên quan. Ngoài ra còn có văn bản của TW hướng dẫn các Bộ thành lập ban đổi mới DN bộ do 1 thứ trưởng làm trưởng ban, ở các tổng công ty do chủ tịch HĐQT làm trưởng ban. Quy trình CPH đã được đổi mới theo hướng dẫn giảm bớt các khâu, các thủ tục không cần thiết. Một đề án CPH sẽ được hoàn thành trong vòng thời gian từ 4-5 tháng so với bình quân 27 tháng 1 đề án từ năm 1997 trở về trước. Nội dung cụ thể được quy định chi tiết trong Công văn 3395/CP-ĐMDN ngày 29/08/1998 của ban đổi mới quản lý DN TW. Về vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành CTCP, ngày 18/07/1998, bộ tài chính đã ra thông tư số 104/1998/TT-BTC. Đến ngày 19/08/1998, Bộ tài chính đã có công văn số 3138TC/TCDN hướng dẫn sửa đổi một số điểm trong thông tư trên. Về phương thức tiến hành: bên cạnh 3 hình thức CPH đã nêu trong NĐ 28/CP còn thêm hình thức bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại DN để chuyển thành CTCP. Đối tượng: là tất cả các DNNN mà nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư, không phân biệt quy mô vốn và lao động. 3.2. Một số kết quả trên thực tế Năm 1998 được mệnh danh là “năm của cổ phần hoá”. Tuy chưa đạt tới chỉ tiêu đề ra là 150 DN nhưng số DNCP đã tăng nhanh. Đã có đến 5 bộ, 27 tỉnh, thành phố trực thuộc TW và 5 tổng công ty nhà nước có Dn CPH. Tính đến ngày 31/12/1998 cả nước đã có 116 DN được CPH. Đến hết năm 1998, các địa phương đã cơ bản hoàn thành việc phân loại và lập đề án sắp xếp DNNN. Hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh đã hoàn thành việc phê duyệt đề án và đã xây dựng được số DNNN chuyển sang công ty CP đến hết năm 2000. Riêng thành phố Hà Nội, năm 1998 là một năm thành công, đã thực hiện CPH được 30 DNNN, chiếm 25% số DNNN do các tỉnh thành phố quản lý và chiếm 32% tổng số DNNN được CPH. Năm 1999, chỉ tiêu đặt ra là phải CPH được 400 DNNN. Trong 6 tháng đầu năm 1999, chúng ta đã CPH được 70 DN và ngày càng có nhiều DNNN lớn tham gia vào CPH như tổng công ty xăng dầu, Hãng hàng không Việt Nam. Trong thời gian này đã có 4 doanh nghiệp bán cổ phiếu cho người nước ngoài: Công ty cổ phần cơ điện lạnh, CTCP chế biến XK Long An, CTCP đồ hộp Hạ Long và công ty may Bình Minh. Trong đó, công ty may Bình Minh đã bán cho công ty của Nhật và Mỹ 36.000 cổ phần trên tổng số 180.000, trị giá 3,6 tỷ đồng, bằng 20% vốn điều lệ của CTCP. Sau khi CPH, bình quân các DN có: Doanh thu tăng 2,3 lần Lợi nhuận sau thuế tăng 2,5 lần Nộp NSNN tăng 2,5 lần Cổ tức bình quân đạt 2 – 3%/ tháng Tính đến năm 2001, cả nước có 700 doanh nghiệp CPH, với tổng số vốn huy động là 3.000 tỷ đồng. Nhìn chung các DNNN sau khi CPH đều làm ăn có lãi, tỷ lệ vốn của nhà nước trong vốn điều lệ cũng tăng tương ứng. Ví dụ điển hình như công ty cao su Kim Đan, tại thời điểm cổ phần hoá vốn nhà nước có 700 tỷ đồng (tương ứng với 10% vốn điều lệ), đến năm 2000 đã lên tới 1.500 tỷ đồng (chiếm 7.14% vốn điều lệ). Tương tự như trường hợp của công ty cổ phần Cơ điện lạnh Ree, vốn nhà nước khi CPH là 4,8 tỷ đồng, đến năm 2000 đã tăng lên 15 tỷ đồng. Nhìn chung, sau CPH doanh thu của các doanh nghiệp tăng khoảng 42,5%/năm; lợi nhuận trước thuế tăng 125%/năm; nộp ngân sách tăng 70,2%; chia cổ tức từ 6-12%. Tính đến 31/12/2002, cả nước đã CPH được 920 DNNN. Theo mục tiêu, phấn đấu đến năm 2005 cổ phần hoá được 1.319 doanh nghiệp. Những thành tựu trong tiến trình cổ phần hoá DNNN ở từng giai đoạn đã được liệt kê khá đầy đủ ở mục 1, 2, 3 phần II. Tuy nhiên nếu chỉ nhìn thấy toàn thành tựu và ưu điểm mà không thấy được những thiếu sót của quá trình này, thì cũng đồng nghĩa với việc: ta mới chỉ nhìn nhận vấn đề ở khía cạnh lung linh, huyền ảo của nó. Điều này cũng tương tự với vấn đề: ta chưa thể nhìn nhận, đánh giá quá trình CPH một cách biện chứng, toàn diện, và như vậy mong muốn đưa ra được những giải pháp đẩy nhanh tiến trình CPH, đưa nước ta tiến nhanh trên con đường phát triển tăng tốc là hoàn toàn mơ hồ và phi thực tế. Bất cứ một điều gì cũng có 2 mặt và tiến trình CPH ở Việt Nam ta cũng vậy. Những mặt tồn tại đó sẽ được trình bày kỹ ở phần sau. Những mặt tồn tại xét chung trong tiến trình CPH từ năm 1992 đến nay 4.1. Vấn đề nhận thức tư tưởng vẫn còn nhiều hạn chế. Lợi ích của CPH chưa thực sự được các DN thấu hiểu. Có ý kiến còn cho rằng nhiều giám đốc “sợ” cổ phần hoá. Còn nhiều giám đốc DNNN trong diện CPH chưa muốn làm, nêu nhiều lý do để xin trì hoãn, thậm chí còn xin rút tên. Họ muốn dựa vào “bầu sữa” Nhà nước, thua lỗ đã có nhà nước lo. Họ muốn giữ lại quyền lực DNNN để hưởng ưu đãi. Theo ý kiến của ông Trần Quốc Trị, chủ tịch HĐQT công ty cổ phần thực phẩm rau quả Cần Thơ: “Hiện nay hơn 50% giám đốc DNNN không muốn CPH, một phần do lớn tuổi, năng lực yếu kém, một phần do sợ mất chức, mất quyền lợi về kinh tế”. Còn theo ý kiến của ông Trần Xuân Lịch, Phó viện trưởng CIEM: Tiến độ CPH DNNN còn chậm đúng là do hiện nay có nhiều giám đốc DNNN còn e ngại, sợ CPH sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân. Riêng các tổng công ty còn sợ làm giảm doanh thu, vốn, tài sản, lợi nhuận và không còn thành viên lệ thuộc. Mặt khác khi tiến hành CPH, nhiều giám đốc hoang mang không biết với loại hình DN mới sẽ phải làm như thế nào. Khi là DNNN, mỗi quyết định của giám đốc thường theo công thức chung mà nhiều DNNN khác đã làm, có thể yên tâm vì đằng sau mình còn có Tổng công ty, có Sở, có Bộ và Chính phủ. Nay chuyển qua DNCP, giám đốc phải tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình, mà những quyết định ấy ảnh hưởng đến hàng ngàn cổ đông tham gia góp vốn, trong đó có nhiều công nhân đang trực tiếp làm việc tại DN. Đây là một điều không dễ dàng đối với giám đốc quen làm giám đốc DNNN. Chính nỗi sợ hãi này mà đến nay nhiều doanh nghiệp vẫn án binh bất động thậm chí còn xin rút khỏi danh sách thuộc diện CPH. Còn đối với người dân, họ còn hiểu biết một cách mơ hồ về CPH và lý do tại sao phải CPH. Người dân có vẻ tin tưởng nhiều hơn vào lãi suất tiết kiệm, đối với họ việc bỏ tiền đầu tư vào mua cổ phiếu hay trái phiếu của một CTCP làm ăn có hiệu quả để thu lãi cổ tức cao là một sự lựa chọn còn khá mới mẻ. Đó chính là bức tường ngăn cản việc thu hút vốn của các DNNN sau khi CPH. 4.2. Những tồn tại trong chính sách của nhà nước 4.2.1. Chính sách đối với người lao động Nghị định 44/1998/NĐ-CP đã mở rộng mức ưu đãi cho người lao động tới mức 20% giá trị vốn nhà nước. Giá trị ưu đãi này thực hiện thông qua bán giảm giá tới 30% so với giá trị cổ phần thường và những cổ phần này hoàn toàn được thừa kế và chuyển nhượng. Tuy vậy lại nảy sinh vấn đề là chính sách ưu đãi mới chỉ đáp ứng được một phần nguyện vọng của người lao động: Đó là đảm bảo sự công bằng song chưa đảm bảo cho người lao động thực hiện được. Trên thực tế, người lao động ở DN đa phần là người nghèo, không có hoặc không đủ tiền để mua cổ phần mà người lao động lại chỉ được hưởng những ưu đãi đó khi tham gia mua cổ phần nên cơ hội được ưu đãi là rất hạn chế. Như vậy nếu ai đó không thuộc diện người lao động nghèo nhưng lại không có tiền mua cổ phần thì họ hoàn toàn không được hưởng những ưu đãi từ phía nhà nước. Đối với người lao động nghèo, nhà nước có những ưu đãi đặc biệt. Tuy nhiên, số lượng cổ phần ưu đãi này rất nhỏ, chỉ chiếm có 20% tổng số cổ phần nhà nước bán ưu đãi cho người lao động, có nghĩa là chỉ 4% số vốn nhà nước tại DN. Đáng chú ý là còn nhiều khó khăn trong việc xác định tiêu chí người nghèo để giải quyết chính sách ưu đãi. Tuy nhiên, một trong những vấn đề đáng quan tâm hiện nay là sự phân hoá giàu nghèo trong người lao động ở các CTCP. Trong cùng một DN, có người sở hữu từ 3.000 – 4.000 cổ phần, nhưng cũng có người chỉ có 15-20 cổ phần, thậm chí có người không có cổ phần nào, dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về cổ tức, làm cho sự phân hoá ngày càng sâu sắc. Về vấn đề việc làm Nghị định 44/CP đã quy định : DN tiến hành CPH có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng hết số lao động hiện có tại DN… Sau 12 tháng, kể từ khi DNNN chuyển thành công ty cổ phần, nếu do nhu cầu tổ chức sản xuất kinh doanh, thay đổi công nghệ, dẫn đến người lao động mất việc làm thì chính sách đối với những người lao động này được giải quyết theo những quy định hiện hành của chính phủ”. Điều này có nghĩa là họ chỉ được tiếp tục làm việc ổn định trong vòng 12 tháng, còn sau đó tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của DN. Rõ ràng điều này chưa đủ sức thuyết phục đối với họ. Điều mà người lao động quan tâm hơn hết là một việc làm ổn định thì chính sách của nhà nước lại chưa đáp ứng được. Thử hỏi liệu người lao động có thích CPH khi họ biết rằng mình sẽ bị thất nghiệp bất cứ lúc nào. Mặc dù trên thực tế, hầu hết ở các DNNN đã CPH đều có số lượng lao động tăng lên nhưng điều đó không có nghĩa là toàn bộ số người lao động của DNNN trước CPH hiện vẫn đang có việc làm, nhưng biết đâu trong thời gian tới họ sẽ bị mất việc làm? Đây chính là vấn đề mà chủ trương của nhà nước chưa giải quyết được. 4.2.2. Những tồn tại trong các quy định liên quan đến vấn đề tài chính. Thứ nhất là chưa có cơ chế xử lý dứt điểm nợ tồn đọng trước khi CPH, đặc biệt những khoản nợ đã tồn đọng trong nhiều năm, gây ảnh hưởng đến tình hình tài chính của DN và quyền lợi của các cổ đông. Thứ hai là nợ và tài sản được loại trừ khi xác định giá trị DN, nếu chưa xử lý được giao DN bảo quản, dẫn đến phải bố trí mặt bằng, kho tàng để cất giữ, chi phí vì thế bị tăng lên. Hơn thế nữa, hoạt động định giá DN được tiến hành theo cơ chế Hội đồng còn thiếu tính chuyên nghiệp và mang nặng tính cảm quan, thoả hiệp; việc khống chế quyền mua cổ phần còn chưa hợp lý; cơ chế bán cổ phần thiếu công khai, minh bặch. Ngoài ra còn có nhiều khía cạnh mà chủ trương của nhà nước chưa rõ ràng. Ví dụ phần góp vốn liên doanh của DN CPH không được hướng dẫn cụ thể trong trường hợp CPH cả phần vốn DN góp vào liên doanh. Do đó ảnh hưởng đến giá trị của DN, đến các nhà đầu tư và phần vốn góp của nhà nước. Thực tế cho thấy việc xác định giá trị DN là khâu rắc rối và mất nhiều thời gian nhất dẫn đến tình trạng chậm trễ trong tiến trình CPH Thứ ba là do chưa quy định rõ điều kiện nào DN được tăng, giảm hoặc điều chỉnh cơ cấu vốn điều lệ, nên trong thực tế xảy ra tranh chấp giữa thành viên HĐQT và các cổ đông. Ngoài ra còn có những trường hợp DN mà nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối có nhu cầu phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn, nhưng về phía nhà nước lại không muốn tăng vốn nắm giữ nhằm giữ cơ cấu vốn ban đầu. 4.2.3. Về mặt thể chế Các chuyên gia kinh tế cũng như các nhà hoạch định chính sách đều thống nhất rằng; vướng mắc không nhiều nhưng CPH vẫn chậm là do thể chế. Theo bà Phạm Chi Lan, phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, lâu nay ai cũng công nhận chủ trương CPH là quan trọng, cần đẩy mạnh, nhưng hầu như mọi người đều chưa thông là cái gì nhà nước sẽ nắm, cái gì hoàn toàn mở, nên ít ai dám liều mạng xung phong. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nguyên nhân sâu xa làm cho tiến độ CPH chậm là vẫn còn có sự phân biệt đối xử giữa DNNN và DNCPH. Theo ý kiến của bà Phạm Chi Lan: “Chừng nào chưa có một môi trường kinh doanh bình đẳng, chừng nào DNNN còn được ưu đãi thì không DN nào muốn từ bỏ đặc quyền để chuyển sang một môi trường kinh doanh gian nan hơn”. Nhiều giám đốc DN cho biết, ngoài các khó khăn gặp phải khi tiếp cận nguồn vốn, đất đai thì thái độ phân biệt đối xử của các cơ quan hành chính, công quyền cũng khiến họ phải nản lòng. Đơn cử một ví dụ rất nhỏ, rất đời thường là giám đốc DN cổ phần dễ gặp rắc rối với cơ quan giao thông hơn là giám đốc DNNN, chỉ vì các giám đốc DN CPH đi xe…biển trắng. Chỉ sự so sánh nhỏ thôi cũng đủ thấy sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế vẫn chưa hết nặng nề. Nhìn rộng hơn nữa, ta càng thấy rõ sự phân biệt đối xử “con ghẻ” và “con nuôi”, DNNN sau CPH không được vay vốn ngân hàng theo hình thức tín chấp như trước đây khi còn là DNNN. Thủ tục thay đổi pháp nhân trong hợp đồng thuê đất với Sở địa chính quá rườm rà, phức tạp (có DN phải công chứng tới 15 loại giấy tờ) và kéo dài (có DN phải tiến hành đến 2 năm). Tương tự trong việc tiếp xúc với kho bạc nhà nước để đăng ký mở tài khoản phong toả, nộp tiền bán cổ phần, rút tiền phát hành tăng vốn điều lệ… Tất cả điều đó gây phân biệt đối xử, vừa làm khó cho DN sau CPH, vừa không khuyến khích DNNN Về đất đai lại càng phân biệt đối xử. DN sau CPH khi muốn chuyển đến KCN hoặc bán bớt mặt bằng để đầu tư mới, ngoài việc phải thông qua hội đồng định giá nhà xưởng để xác định giá khởi điểm đấu giá, còn phải hoàn nộp ngân sách khoản chênh lệch tăng giá trị nhà xưởng bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất. Nếu DN muốn sử dụng khoản tiền này phải trình duyệt Bộ Kế hoạch và đầu tư để xin vay lại Mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật về cổ phần hoá đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng vẫn chưa theo kịp với yêu cầu và đòi hỏi thực tế. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho các DNNN trong diện CPH còn băn khoăn và các DN đã CPH gặp không ít vướng mắc khó khăn. 4.3. Hạn chế trong tổ chức thực hiện. Đó chính là sự thiếu đồng bộ từ trung ương đến địa phương. ở VN hiện nay còn thiếu một hệ thống hỗ trợ tư vấn cho các DN thực hiện CPH, do đó chưa thể tích cực khuyến khích các DN thực sự bước vào cuộc. Việc tổ chức thực hiện CPH còn chưa đồng đều và rộng khắp giữa các ngành, địa phương và các tổng công ty nhà nước. Công tác phối hợp giữa các cấp chưa nhịp nhàng dẫn đến thiếu thống nhất trong triển khai CPH ở các địa phương, đặc biệt là trong vấn đề xác định giá trị DN. Việc xác định này tại một số địa phương còn mang tính ước chừng, chủ quan không thống nhất với cách xử lý của TW như: việc đánh giá cao giá trị DN nhằm thu hồi vốn hay đánh thấp giá trị DN để đẩy nhanh CPH lấy thành tích, do đó làm chậm tốc độ CPH hoặc gây thất thoát tài sản quốc gia. Bên cạnh đó, quy trình CPH còn nhiều chồng chéo, rườm rà, phức tạp giữa các ngành, các cấp. Đội ngũ cán bộ chỉ đạo đổi mới DNNN lại chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra cả về số lượng và chất lượng. Số lượng các cán bộ kiêm nhiệm còn nhiều nên chưa chú trọng, thiếu chủ động, thiếu kiên quyết trong tổ chức triển khai và đẩy nhanh CPH. Tiến trình lại không được thực hiện đồng thời với việc cải cách đổi mới thực sự DN, trong đó chưa thực hiện kiên quyết việc sáp nhập, giải thể, bán đấu giá, cho phá sản các DN hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ, nợ nần làm giảm uy tín DN. Theo chủ trương của nhà nước CPH là nhằm chuyển giao DNNN cho nhà đầu tư mới thực hiện việc nâng cao tính hiệu quả của DN. Song, mục đích CPH lại bị dàn trải ra quá nhiều mục tiêu như duy trì vai trò của nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động bằng cách biến họ thành cổ đông… Thực tế cho thấy ở không ít doanh nghiệp, người lao động chỉ quan tâm đến chia cổ tức càng nhiều càng tốt và chưa đủ giàu có để đầu tư vào DN mà họ đồng sở hữu. Tình trạng không ít người lao động sớm bán lại cổ phần với giá cao hơn nhiều lần để có ngay một khoản “tiền tươi”, đã phản ánh việc đánh giá trị giá DNNN thấp hơn so với giá thị trường và việc xác định sự gắn bó của người lao động với DN chưa phải đã chính xác trong mọi trường hợp. 4.4. Một số khó khăn khác Thị trường chứng khoán ra đời đã làm giảm tính hấp dẫn của việc đầu tư vàp các CTCP do đó đã có tác động tiêu cực tới tiến trình CPH. Chế độ công khai tài chính chưa được nhiều DN coi trọng áp dụng, cũng như tình trạng thông tin chưa đầy đủ cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tâm lý e ngại, dè chừng của không ít các cổ đông, nhất là các cổ đông bên ngoài DN. Lạm phát còn ở mức khá ca, lãi suất tiết kiệm vẫn được duy trì ở mức khá cao khoảng 8,5%/năm cũng là một cản trở trong việc thu hút vốn của các công ty. Chương III: Mục tiêu và giải pháp để đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN Mục tiêu CPH các DNNN CPH DNNN được bắt đầu triển khai thí điểm vào năm 1992, mục tiêu nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có chủ sở hữu là người lao động, để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tạo cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn trong toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. CPH các DNNN buộc họ phải tự chèo chống trên thương trường; sau CPH sẽ không còn tình trạng: lỗ nhà nước chịu, lời nhà nước thu; bây giờ họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước kết quả kinh doanh của mình, lỗ họ cũng phải chịu và lời họ sẽ được giữ lại sau khi đã hoàn thành một số nghĩa vụ đối với nhà nước. Bên cạnh đó, với mục tiêu xoá bỏ sự phụ thuộc bấy lâu nay của các DN vào “bầu sữa” nhà nước, nhà nước ta đang dần từng bước cải cách các thể chế cho phù hợp với thực tiễn CPH. Chúng ta đang tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, có như vậy DNNN mới có động lực để tự hoàn thiện, để vươn lên đứng vững trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Hơn thế nữa, đây cũng là điều kiện đảm bảo cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được cạnh tranh lành mạnh trong môi trường cạnh tranh bình đẳng. CPH DNNN còn nhằm mục tiêu giảm bớt gánh nặng cho nhà nước khi ngân sách nhà nước sẽ không thể tiếp tục “dồi dào” để cung cấp một cách không cần thiết cho những hoạt động trì trệ của một số DNNN. Các giải pháp đẩy mạnh tiến trình CPH DNNN Chúng ta có thể khẳng định CPH DNNN là một giải pháp quan trọng được hầu hết các nước vận dụng trong quá trình cải tổ khu vực kinh tế tư nhân. Trên cơ sở đó, ta thấy rõ muốn thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tiến những bước đi vững chắc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, việc cần thiết phải làm là hạn chế sự phát triển lây lan của những thành phần kinh tế trì trệ, chậm chạp – một tình trạng đã, đang và sẽ (nếu không được ngăn chặn kịp thời) phổ biến trong một số doanh nghiệp nhà nước. Trong phạm vi một tiểu luận, tôi không có tham vọng đưa ra được tất cả những giải pháp để đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN, dưới đây tôi chỉ đưa ra một số biện pháp khả thi mà chúng ta cần thực hiện ngay trong thời gian tới. Trước hết công tác tuyên truyền xây dựng quan niệm về CPH phải được chú trọng hơn nữa, đặc biệt là hiệu quả cuối cùng của nó. Ta cần phải làm rõ cho người lao động hiểu được những lợi ích mà họ được hưởng khi DN của họ tiến hành CPH. Song đồng thời cũng làm cho họ hiểu rõ cả những trách nhiệm mà họ sẽ phải gánh vác, những rủi ro có thể xảy ra để họ có cái nhìn đầy đủ toàn diện về một tương lai khi họ thực sự làm chủ một DN; đó cũng tạo ra cơ sở quyết tâm cho những dự định của họ. Ngoài ra còn một số vấn đáng lưu tâm là vấn đề phân định rạch ròi giữa quyền của một cổ đông với quyền của một người lao động trong DN, tránh rơi vào tình trạng cán bộ công nhân viên mua cổ phần để giữ vị trí, giữ công việc. Và cũng để tránh xảy ra những việc rắc rối khi DNCP cần sắp xếp lại nhân sự sau này. Thứ hai, muốn chuyển được và sau khi chuyển để CTCP hoạt động có hiệu quả thì ta cần phải có một khuôn khổ pháp luật cụ thể và rõ ràng như luật DNNN, luật công ty, luật ngân sách, luật phá sản, luật kế toán, luật thanh toán, các luật thuế, luật về phát hành, giao dịch và mua bán chứng khoán, luật thừa kế và thế chấp. Thứ ba, chúng ta thấy rằng việc áp dụng các biện pháp ưu đãi như giảm giá, cho vay tiền mua cổ phiếu là rất cần thiết. Tất nhiên ta chưa thể phát không cổ phiếu cho công nhân viên chức trong DNCP như những gì mà một số nước Đông Âu đã làm. Tuy nhiên, việc phát không cổ phiếu cũng cần thiết đối với một số DNNN làm ăn kém hiệu quả kéo dài (có tỷ lệ lợi nhuận trên vốn nhỏ hơn 15%). Vì nếu ta không phát không thì những DN đó cũng không thể mua được, ta có thể coi đây là biện pháp hỗ trợ ban đầu cho các DNCP. Hơn thế nữa, nhà nước sẽ không lo bị thiệt vì phần lớn các tài sản cố định thuộc sở hữu nhà nước đã bị khấu hao hết. Mặt khác, cho không cổ phiếu sẽ kích thích được hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các DN vì lợi ích của nhân viên trực tiếp gắn bó với lợi ích DN. Nó cũng tạo điều kiện cho công nhân nghèo, nhiều năm đã gắn bó với doanh nghiệp, có cơ hội mua cổ phần để thực sự làm chủ doanh nghiệp. Thứ tư, chúng ta cần nhanh chóng thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán bởi đó là nơi mà hàng hoá cổ phiếu được mua bán náo nhiệt nhất. Có “chợ” thì hàng hoá mới phát triển và tất yếu sẽ quay lại hỗ trợ cho CPH. Luận điểm này đã được Trung Quốc và các nước Đông Âu chứng minh tính đúng đắn của nó. Bên cạnh đó, chúng ta cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc, thúc đẩy các DN làm quen với chế độ công khai tài chính trên thị trường chứng khoán, qua đó làm cho hoạt động của TTCK được diễn ra một cách suôn sẻ, phát huy được những tác dụng tích cực của nó. Và đến lượt nó, TTCK sẽ quay lại hỗ trợ để các DNCP phát triển. Thứ năm, cần phải tích cực đưa ra giải pháp giải quyết vấn đề lao động dôi dư trong DN sau khi tiến hành CPH. Đây sẽ là cơ sở để người lao động yên tâm và ủng hộ việc tiến hành CPH. Việc này yêu cầu phải có sự phối hợp giữa doanh nghiệp và nhà nước. Đối với doanh nghiệp: chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư trên cơ sở đề án SXKD của DN với một số nội dung chính là: Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện có tại các DN có thể lấy từ các quỹ sau: Quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, ngoài ra còn có thể lấy từ quỹ đào tạo của đơn vị (nếu có). Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư để từ đó đưa ra hướng giải quyết. Cụ thể là đối với người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu (người lao động còn dưới 5 năm công tác là đến tuổi nghỉ hưu) có thể trợ cấp để đảm bảo hưu trí cho họ. Đối với số lao động còn lại (chiếm đa số) hướng giải quyết như tái sử dụng sau khi đã đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới. Đối với nhà nước: nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ gián tiếp. Hỗ trợ trực tiếp chỉ tập trung vào: hỗ trợ một phần kinh phí cho DN. Mà nguồn hỗ trợ chính có thể lấy từ quỹ CPH DNNN. Những hỗ trợ này nên nhằm vào việc đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động; hỗ trợ bổ sung cho người lao động nghèo tại DN để họ có thể đảm bảo đời sống trong thời gian đầu bị mất việc. Hỗ trợ gián tiếp: hỗ trợ về cơ chế, chính sách lập nghiệp đối với lao động dôi dư như các danh sách ưu đãi về vốn tín dụng, tiền thuê đất, về thuế SXKD. Trong đó chúng ta nên đặc biệt chú ý đến giải pháp khuyến khích lập nghiệp, tự tạo việc làm; giải pháp này cần thiết được nhân rộng. Đây là giải pháp có tác dụng kích thích sự sáng tạo của người lao động. Đã đến lúc người lao động phải chủ động sáng tạo vươn lên đối mặt với những khó khăn, thách thức để có được những bước phát triển vững vàng. Tư tưởng cầu an, ỷ lại vào nhà nước cần thiết phải được khắc phục trong thời đại kinh tế mở. Có như vậy nền kinh tế nước nhà mới phát triển được. Ngoài ra, đào tạo và đào tạo lại nghề nghiệp cho số lao động dôi dư cũng cần phải được xem là giải pháp vừa mang tính chiến lược vừa mang tính sách lược. Thực tế CPH trong mấy năm qua cho thấy, sau khi CPH các DN đều có nhu cầu tuyển dụng thêm nhân viên, và dĩ nhiên những lao động đó phải là lao động có tay nghề, đã qua đào tạo. Nên chăng ta tổ chức đào tạo và đào tạo lại những nhân viên đã từng gắn bó với DN bao nhiêu năm nay. Xét về tình, việc chúng ta sa thải họ, những con người đã cùng lăn lộn với DN vượt qua những giai đoạn sóng gió trong kinh doanh, xem ra có vẻ hơi “quá tay, không hợp tình”. Xét về lý, những con người đó đã đóng góp cho DN một thời gian khá dài, họ có quyền đòi hỏi một chút quyền lợi sau khi DN đã vượt qua giai đoạn bĩ cực. Hơn thế nữa, họ còn là những con người đã “bén hơi DN”, như vậy họ sẽ có trách nhiệm hơn khi họ đã gắn bó với nó gần nửa cuộc đời mình với doanh nghiệp. Kết luận Chúng ta đang đi từng bước vững chắc trên con đường phát triển kinh tế nước nhà, chúng ta đang tiến vào nền kinh tế quốc tế. Khi tham gia vào thị trường thế giới, chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh khốc liệt, kể cả những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh trên thương trường. Trước thực tế như vậy, việc loại bỏ những nhân tố yếu kém, trì trệ, chậm chạp trong nền kinh tế là hoàn toàn cần thiết. Với nhận thức như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương để DNNN khẳng định chính mình, loại bỏ những cách hiểu chưa đúng đắn về hình ảnh DNNN trì trệ, ì ạch bằng cách tiến hành CPH. Và CTCP ra đời đã cho phép hội tụ, phát triển các nguồn lực và sức mạnh của các chủ thể tham gia, tạo ra động lực kinh tế hiệu quả nhất. Đứng trên góc độ nền kinh tế trong nước, CPH đã cho phép giảm tỷ trọng các DNNN, làm hợp lý hoá cơ cấu nền kinh tế. Trong khi đó, nó không thể làm thay đổi định hướng XHCN. Các DN CP vẫn giữ được tính chất như phát triển SXKD không tách rời việc thực hiện các nghĩa vụ xã hội và các nghĩa vụ với nhà nước trong đó có nghĩa vụ tài chính. Quan hệ bình đẳng giữa các thành viên trong công ty được đảm bảo: người lao động thực sự là chủ nhân DN, các giám đốc không phải là ông chủ. Nói chung chúng ta có thể khẳng định rằng: CPH DNNN là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng và nhà nước ta. Nó sẽ mở ra một con đường mới cho quá trình phát triển nền kinh tế nước nhà.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0847.doc
Tài liệu liên quan