Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam thực trạng và giải pháp

Trong bối cảnh của nền kinh tế nước ta và đặc biệt là thực trạng phát triển của DNNN hiện nay, vấn đề vốn và chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước là vấn đề bấc xúc cần được giải quyết. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước chính là giải pháp có tính chiến lược, phù hợp với qui luật khách quan của nước ta trong điều kiện kinh tế thị trường. Nó không những chỉ tạo ra nguồn vốn cho hoạt động của các doanh nghiệp mà còn nâng cao trách nhiệm tự chủ của người lao động, cải thiện quản lý hoạt động xí nghiệp, thúc đầu phát triển ổn định lâu dài. Do đó cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước là phù hợp với nền kinh tế thị trường nhằm giảm gánh năng đầu tư, bao cấp tràn lan kém hiệu quả, tập trung vốn đầu tư vào các ngành trọng điểm, chiến lược, phục vụ sản xuất lớn. Như vậy, một lần nữa chúng ta có thể khẳng định cổ phần hoá là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, phù hợp với định hướng XHCN với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh./.

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1603 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Hơn nữa xu hướng phát triển hiện nay của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng đó là giảm bớt mức độ kiểm soát trực tiếp của Nhà nước, giành sự điều tiết mạnh cho cơ chế thị trường. Sự khắc phục những hiện tượng trì trệ trong nền kinh tế do hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước, thâm hụt ngân sách kéo dài và gánh nặng nợ của Nhà nước ngày càng tăng đã buộc thầu hết các Chính phủ có khu vực kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tư bản xã hội đều phải tìm cách giảm bớt xuống một tỷ trọng nhất định trong nền kinh tế. Đồng thời để đảm bảo tính cạnh tranh trong cơ chế thị trường thì phải thực hiện tư nhân hoá và cổ phần hoá. Đối với nước ta qua hơn 10 năm đổi mới kinh tế theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế quốc doanh đã được sắp xếp lại một bước. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp Nhà nước còn quá nhiều, lại phân bố dàn trải trên nhiều lĩnh vực, đại bộ phận là thiếu vốn do nguồn vốn ngân sách có hạn. Mặt khác máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp này lại lạc hậu, không đồng bộ, năng suất lao động thấp... chính vì vậy tiến trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam không thể không có nội dung cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có vấn đề thu hẹp sở hữu Nhà nước mà hạn chế sự can thiệt trực tiếp của Nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, coi trọng vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Do đó tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua, một nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và cũng là một đòi hỏi khách quan để chuyển sang nền kinh tế thị trường dựa trên các động lực của thị trường và vai trò định hướng của Nhà nước. 2. Thực chất của cổ phần hoá. Vấn đề tưởng như dễ thống nhất nhưng lại có những nhận thức khác nhau, hiện nay có 3 ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất thì cho rằng cổ phần hoá thực chất là tư nhân hoá. Loại ý kiến thứ hai cho rằng cổ phần hoá là nhằm xác định chủ sở hữu cụ thể đối với doanh nghiệp. Còn loại ý kiến thứ ba cho rằng thực chất của cổ phần là quá trình xã hội hoá doanh nghiệp Nhà nước. Trước hết ta xem xét cổ phần hoá phải chăng là tư nhân hoá. Tư nhân hoá là quá trình chủ sở hữu Nhà nước sang sở hữu tư nhân bằng cách bán cho tư nhân, cho không cán bộ công nhân viên chức hoặc toàn dân, giải thể và bán đầu giá tài sản, cổ phần hoáv.v... Cổ phần hoá là huy động nhiều chủ thể đầu tư thuộc các thành phần khác nhau và cũng có thể là các chủ thể trong cùng một thành phần kinh tế cùng góp vốn để chuyển đổi từ chủ sở hữu sang đa sở hữu. Do đó cổ phần hoá chưa hẳn và không thể đồng nhất với tư nhân hoá mà cổ phần hoá chỉ là một trong nhiều cách để tư nhân hoá một phần tài sản của các doanh nghiệp Nhà nước. Khái niệm tư nhân hoá mở rộng hơn và quá trình thực hiện khó khăn, phức tạp hơn cổ phần hoá. ý kiến thứ hai cũng không hoàn toàn chính xác. CPH không phải chỉ có nhằm đa dạng hoá quyền sở hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu, mà nó còn có rất nhiều chức năng khác. Còn về ý kiến thứ 3 cũng chỉ đúng một phần. Xã hội hóa theo nghĩa truyền thống là biến tài sản sở hữu tư nhân thành sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân. Như vậy, quá trình xã hội hoá doanh nghiệp Nhà nước không thể là CPH. Như vậy để hiểu rõ được thực chất của CPH một số DNNN cần phải xem xét cả 2 phía khách quan và chủ quan. Về khách quan: CPH một số DNNN là do đòi hỏi khách quan của qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong sự phát triển của xã hội loài người. Kinh tế thị trường với nhiều chủ sở hữu khác nhau đứng đối diện tươi cười nhưng cũng sẵn sàng biến thương trường thành chiến trường. Đa sở hữu thuộc đa thành phần là quan hệ sản xuất đang thúc đẩy lực lượng sản xuất hiện nay. Một người chủ sở hữu không thể tự sản xuất rồi tự bán để thành thị trường được. Bên cạnh qui luật trên các qui luật thị trường đang làm vỡ tung một số DNNN được dựng nên mà đáng ra chưa nên có, buộc chúng ta phải nhận thức lại và hành động lại. - Về chủ quan: Nhà nước ta không kham nổi, không gánh mãi được các DNNN bằng cách nào đó cho nó sống lay lắt. Gánh nặng bao cấp tín dụng bao cấp để duy trì những xí nghiệp mà đáng ra không nên có đã bức bách chúng ta phải CPH nó bằng cách chuyển thể hình thức sở hữu của nó. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường nó có thể tồn tại và phát triển hoặc phá sản để Nhà nước tập trung tiền của vào việc khác xem râ có hiệu quả hơn. Như vậy thực chất của quá trình CPH là nhằm giải quyết 4 vấn đề cơ bản: - Về sở hữu: Nhằm đa dạng hoá quyền sơ hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu. - Về hoạt động: Nhằm thương mại hoá mọi hoạt động của doanh nghiệp chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính, cắt bỏ sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động doanh nghiệp. - Về quản lý: Pháp luật hoá tổ chức quản lý theo luật công ty đã ban hành và các luật khác. - Về hiệu quả: Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đây chính là mục tiêu cuối cùng của giải pháp cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đang trở nên phổ biến, đem lại hiệu quả rõ rệt ở hầu hết các nước và đang phát triển trên thế giới. Còn ở nước ta CPH các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những quan điểm và giải pháp quan trọng của Đảng và Nhà nước nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy vậy hiện nay vẫn còn không ít những ý kiến cho rằng những doanh nghiệp đã thực hiện chế độ cổ phần hoá không còn là doanh nghiệp Nhà nước nữa mà trở thành loại hình kinh doanh hỗn hợp thuộc thành phần kinh tế tư bản Nhà nước. Và việc CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước liệu có đi chệch hướng chủ nghĩa xã hội không? Và về lâu dài nó có tác dụng xấu về mặt chính trị đối với nền kinh tế thị trường với định hướng XHCN ở nước ta không. Đây là vấn đề tư tưởng cần được giải quyết để hưởng ứng chủ trương CPH cũng như góp phần trực tiếp vào chương trình CPH của Chính phủ. Thực ra việc chuyển một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận sang công ty cổ phần chỉ là sự thay đổi về hình thức tổ chức quản lý nhằm huy động thêm vốn để trang bị kỹ thuật đổi mới công nghệ, từ đó tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trên thực tế, tuy các công ty cổ phần của Nhà nước vừa phải hoạt động theo luật công ty, vừa hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước, nhưng những doanh nghiệp ấy do Nhà nước thành lập và quan trọng hơn Nhà nước là chủ sở hữu cơ bản nhất nên Nhà nước nắm quyền quyết địng trong hội đồng quản trị. Như vậy lợi ích của Nhà nước sẽ được đảm bảo, tài sản vốn liếng trong doanh nghiệp Nhà nước không ngừng tăng lên cả về giá trị và hiện vật, ưu thế về vốn, công nghệ được phát huy - điều mà doanh nghiệp Nhà nước truyền thống và doanh nghiệp tư nhân khó có được. Hơn nữa doanh nghiệp Nhà nước CPH có thể tồn tại dưới nhiều hình thức vẫn đảm bảo được kinh doanh có hiệu quả và bảo vệ được lợi ích của cổ đông Nhà nước. Cuối cùng có thể khẳng định các công ty cổ phần trong đó Nhà nước nắm cổ phần khống chế vẫn là doanh nghiệp Nhà nước. Mặt khác một số ý kiến ngộ nhân, đem đồng hoá chế độ CPH với chủ nghĩa tư bản là không đúng. Chế độ CPH là một phương thức tổ chức sản xuất, một hình thức tổ chức kinh doanh. Mặc dù kinh tế cổ phần ra đời trong CNTB nhưng nó ra đời cùng với sự phát triển của nên sản xuất lớn xã hội hoá và của nền kinh tế hàng hoá. Kết quả tích cực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá và sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Đối với nước ta chế độ cổ phần vẫn đảm bảo đi đúng hương XHCN phục vụ dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Vì vậy, CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là phù hợp với nền kinh tế thị trường, nhằm giảm gánh nặng đầu tư bao cấp tràn lan kém hiệu quả, tập trung vốn vào các ngành trọng điểm chiến lược, phục vụ sản xuất lớn. Do đó có thể kết luận rằng CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là phù hợp với định hướng XHCN với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra cho nhu cầu xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay. 3. Mục tiêu của cổ phần hoá. Cổ phần hoá nếu thực hiện thành công sẽ làm tăng nguồn tài chính, đồng thời còn trở thành phương tiện để thay đổi bộ mặt kinh tế vĩ mô và xã hội. Để đạt được điều đó trước hết phải đặt mục tiêu cho quá trình này. Xuất phát từ thực chất CPH ở nước ta (khác hẳn với CPH mà các nước trên thế giới đã tiến hành) là nhằm cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước cho hợp lý và hiệu quả mà ta cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm chung của nền kinh tế quốc doanh và đặc điểm riêng của từng loại doanh nghiệp Nhà nước để định ra mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể để CPH. Và trong từng điều kiện cụ thể có thể điều chỉnh thứ tự ưu tiên của các mục tiêu cho phù hợp với yêu cầu và khả năng thực hiện. ở nước ta xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay: Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/98-NĐ-CP ngày 28/06/1998 thay thế cho Nghị định 28/CP về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần với hai mục tiêu. Một là: Huy động vốn trong toàn xã hội của cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước đang thiếu vốn nghiêm trọng để đầu tư phát triển. Nhưng lấy ở đâu? Nhà nước (ngân sách + ngân hàng) không thể và không nên tiếp tục cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Dân chúng sẽ không bao giờ cho doanh nghiệp Nhà nước vay nếu doanh nghiệp Nhà nước không đạt được cải tổ và có phương án làm ăn tốt, có sức thuyết phục. Còn nước ngoài thì không bao giờ cho doanh nghiệp Nhà nước vay nếu giữ nguyên trạng. Họ chỉ có thể làm ăn với doanh nghiệp Nhà nước thông qua các hình thức mua, thuê, liên doanh, mua cổ phần. Vậy muốn có vốn để đầu tư cho phát triển doanh nghiệp Nhà nước chỉ có thể huy động được thông qua hình thức bán cổ phần. Việc bán cổ phần cho bên nước ngoài là rất cần thiết và có thể làm được bởi vì: Chúng ta đang thiếu vốn mà họ lại đang thừa vốn, đang cần thị trường để đầu tư. Ta đang thiếu kỹ thuật và thiết bị hiện đại, còn họ thì có “thừa”, tuy nhiên ta phải lựa chọn cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng loại doanh nghiệp tránh việc nhập đồ “bãi rác”. Ta đang thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý đối với nền kinh tế thị trường, òn họ thì không thiếu và sẵn sàng truyền lại cho ta. Nhưng cũng cần phải nhấn mạnh rằng kiến thức và kinh nghiệm của người khác bao giờ cũng cần, cũng quý nhưng không thể bê “nguyên xi” vào áp dụng ở Việt Nam, càng không thể thay thế sự sáng tạo của chúng ta. Song việc bán cổ phần cho người nước ngoài không hoàn toàn là biện pháp tốt nhất bởi sự ràng buộc luật ở Việt Nam, cả hai luật luật công ty và luật đầu tư của nước ngoài chưa đủ để điều chỉnh các hoạt động của người nước ngoài trong công ty cổ phần, nhất là về mặt tài chính. Kinh nghiệm thực tế những năm qua cho chúng ta thấy tiềm năng vốn trong dân là khá phong phú. Do đó bên cạnh việc bán cổ phần cho nước ngoài chúng ta còn đầy mạnh việc bán cổ phần trong nước. Việc thu hút vốn đầu tư trong dân là rất quan trọng vừa bổ sung nguồn vốn hoạt động cho các đơn vị kinh tế, đưa vốn nhà rỗi có tính bất động của nhân dân vào vòng quay của cả nền kinh tế để “tiền đẻ ra tiền” tăng lượng tiền lưu thông, khắc phục tình trạng khan hiếm tiền mặt giả tạo, đồng thời tạo sức mạnh về vốn cho các đơn vị kinh tế, các tập đoàn kinh tế trong việc hợp tác và cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế thế giới. Hai là: Tạo điều kiện cho những người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Chúng ta đã trải qua một thời kỳ tìm kiếm lâu dài và cứ loay hoay mãi mà chưa đưa lại cho người lao động một sự làm chủ thực sự: Trong khi đó người lao động đã giác ngộ ra rằng nếu không làm chủ được về kinh tế thì mọi sự làm chủ khác đều vô nghĩa, chỉ là hình thức. Và chỉ khi có vốn để mua cổ phiếu, tham gia chọn các thành viên trong hội đồng quan trị (là cơ quan thay mặt mình để quản lý doanh nghiệp) thì lúc đó người lao động mới có quyền thực sự không bị một sự o ép nào. Nhưng khi đó lại nảy sinh vấn đề khác, đó là quyền làm chủ của mỗi người không giống nhau, người giàu (mua nhiều cổ phiếu) có quyền hơn người nghèo (mua ít cổ phiếu). Nếu như theo quan niệm cũ thì đây là điều không thể chấp nhận được, là sự không công bằng, là phi XHCN ... Nhưng thực ra chưa có một chế độ nào, thậm chí cả CNXH, có công bằng tuyệt đối. Nhà nước ta chỉ có thể và cần phải làm cho một bộ phận dân chúng giàu lên trước, đồng thời có biện pháp để hạn chế người nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa ngơừi giàu và người nghèo. Chỉ có cách đó dân ta mới giàu có lên được, nước ta mới có phồn vinh được. Ngoài hai mục tiêu trên, CPH còn có thể nhằm vào mục tiêu thứba là tạo mối dây liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có quyền lợi chung thông qua sự tham gia đồng sở hữu cổ phần trong một doanh nghiệp. 4. Điều kiện và qui trình tiến hành cổ phần hoá. CPH là một nội dung của đa dạng hoá sở hữu , xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, là quá trình chuyển đổi sở hữu một đơn vị kinh tế quốc dân nhằm đạt tới hiệu quả kinh tế cao hơn. CPH kinh tế quốc doanh hiện nay đang trở thành bức thiết và Nhà nước ta coi đó là chủ trương lớn trong chính sách cải cách kinh tế đất nước. Vấn đề đặt ra hiện nay là cải cách doanh nghiệp nào? Căn cứ vào điều kiện kinh tế nước ta hiện nay với mục tiêu trên để một doanh nghiệp CPH thành công thì phải thoả mãn 3 điều kiện sau: Thứ nhất: chỉ là những doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ trừ những doanh nghiệp giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu theo qui định chỉ nhằm thu hút thêm để phát triển doanh nghiệp. Tuy nhiên một vấn đề đặt ra là thế nào là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này rất quan trọng bởi vì nếu doanh nghiệp có qui mô quá lớn thì rất khó tìm cổ đông, còn nếu quá nhỏ thì hiệu quả khó có thể cao được. Vận dụng kinh nghiệm của các nước vào nước ta cho thấy để tiến hành CPH có hiệu quả đối với các doanh nghiệp cần bảo đảm dựa trên số vốn thực có của Nhà nước tại doanh nghiệp được xác định bằng số vốn Nhà nước giao cộng lợi nhuận để lại doanh nghiệp, trừ số thua lỗ, mất vốn đang treo nợ, để từ đó đánh giá qui mô gì là hợp lý hơn cả. Có thể coi một doanh nghiệp Nhà nước có số vốn từ 10 tỷ đồng trở xuống là một doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Thứ hai: Các doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước cần đầu tư 100% vốn. Các doanh nghiệp Nhà nước thuộc đối tượng CPH, Nhà nước phân loại ra theo những tiêu thức nhất định. Doanh nghiệp Nhà nước mà giai đoạn trước mặt, Nhà nước vẫn nắm giữ 100%. Đó là các doanh nghiệp có qui mô lớn, có vị trí quan trọng chẳng hạn như các doanh nghiệp hoạt động nhằm phục vụ cho công tác an ninh và quốc phòng, các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân (ngành năng lượng, dầu khí, khai thác vàng và đá quí, xây dựng sân bay, bến cảng, đường sắt...), các doanh nghiệp cần thiết cho nhu cầu cho quốc kế dân sinh. Tất cả các doanh nghiệp trên không được CPH trong điều kiện nước ta hiện nay. Thứ ba: Các doanh nghiệp đang làm ăn có lãi hay nói cách khác doanh nghiệp có phương án kinh doanh hiệu quả. Về vấn đề này đã có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng Nhà nước cần bán những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chứ sao lại bán những doanh nghiệp đang làm ăn có lãi. Thật vậy, chúng ta đều biết rằng, lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá tổng quát nhất về hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì không phải chỉ có một nguyên nhân nào mà thường do nhiều nguyên nhân, bao gồm cả trình độ quản lý và cơ chế quản lý của giám đốc, tay nghề của công nhân... khả năng thích nghi đối với thị trường của doanh nghiệp vì vậy một doanh nghiệp đã có truyền thống làm ăn thua lỗ, sẽ gây ấn tượng không tốt đối với các cổ đông, do đó các doanh nghiệp này rất khó hoặc không thể cổ phần hoá. Theo như đã phân tích ở trên về thực chất của CPH, về mục tiêu của CPH và đặc biệt CPH các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay là tất yếu đối với nền kinh tế thế giới nói chung và cần thiết và cấp bách đối với nền kinh tế Việt Nam nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Điều đó có nghĩa là chúng ta không thể nói là chúng ta không thực hiện CPH các doanh nghiệp Nhà nước. Mặt khác doanh nghiệp Nhà nước đang làm ăn thua lỗ không thể bán mà chỉ có doanh nghiệp Nhà nước đang làm ăn có lãi mới cầnbán bởi vì cho dù doanh nghiệp Nhà nước đó lâu nay làm ăn có lãi đi chăng nữa, thì một lúc nào đó với điều kiện khách quan biến đổi, doanh nghiệp Nhà nước khó có thể cứ tiếp tục giữ được mức độ đó. Một doanh nghiệp phát triển phải luôn luôn thích ứng được các biến đổi của xã hội và phù hợp với qui luật khách quan của thị trường. Và xét và điều kiện thiết thực của chúng ta hiện nay, doanh nghiệp Nhà nước nhất thiết phải CPH để nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh hơn nữa. Đồng thời để Nhà nước có thể thu hồi vốn nhằm đầu tư cho những nhu cầu thiết yếu khác. Từ đó thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Ngoài ra cần phải xem xét kỹ: Doanh nghiệp đem cổ phần có phải là doanh nghiệp Nhà nước thuần tuý hay không. Các doanh nghiệp Nhà nước nhưng lại có liên doanh với các đơn vị hoặc cá nhân trong nước, ngoài nước hoặc là có bán cổ phần một số bộ phận nào đó không thuộc diện CPH. Như vậy để lựa chọn được đúng đối tượng phù hợp với mô hình CPH phải kết hợp cả 3 điều kiện trên và trình tự nội dung của các bước tiến hành CPH một doanh nghiệp Nhà nước theo tiến độ sau đây: - Hội đồng quản trị tổng công ty quyết định thành lập ban cổ phần hoá công ty. Riêng về ban CPH của doanh nghiệp Nhà nước được chọn CPH, thì tổng công ty, hoặc công ty độc lập báo cáo bộ quyết định. Thành phần của ban CPH - DNNN bao gồm: Giám đốc, kế toán trưởng: Uỷ viên thường trực, trưởng phòng tổ chức - lao động: Uỷ viên, bí thư Đảng uỷ (hoặc phó bí thư), chủ tịch (hoặc phó chủ tịch), công đoàn: Uỷ viên Ban này có nhiệm vụ chuẩn bị phương án CPH, xây dựng luận chứng sơ bộ về CPH. - Căn cứ vào các điều kiện CPH- DNNN đã được qui định và sau khi có sự nhất trí của Đảng uỷ, Tổng công ty, hoặc công ty độc lập trực thuộc bộ, lựa chọn DNNN cổ phần hoá theo 4 hình thức. + Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành cổ phiếu thu thút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. + Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. + Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để CPH. + Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. - Tổ chức tập huấn cho ban CPH và cán bộ, công nhân viên chức của doanh nghiệp Nhà nước CPH về mục tiêu, đối tượng, nguyên tắc, điều kiện, hình thức CPH, về phương pháp CPH. - Xử lý các tồn tại về tài chính của DNNN trước khi cổ phần hoá. Về tài sản cố định, tài sản lưu động phải phân tích một cách cụ thể chính xác để có phương pháp xử lý phù hợp. - Giải quyết các văn bản pháp lý về bản đồ địa chính, giấy cấp đất, giấy phép xây dựng các công trình đã có, diện tích khu vực sản xuất kinh doanh.... - Lập dự toán chi phí thực hiện CPH bao gồm chi in ấn tài liệu chi thuê cơ quan kiểm toán, chi thuê lập phương án CPH... Toàn bộ chi phí thực hiện CPH được tính vào giá trị doanh nghiệp CPH. Riêng chi mua tờ cổ phiếu do người mua cổ phần chịu. - Doanh nghiệp CPH phải tiến hành khoá sổ kế toán và lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp CPH. - Ban cổ phần hoá - doanh nghiệp Nhà nước thành lập ban kiểm kê đánh giá trị doanh nghiệp (hoặc bộ phận) CPH, đối chiếu với số liệu sổ kế toán tính đến thời điểm CPH doanh nghiệp (hoặc bộ phận) và xử lý số liệu chênh lệch kiểm kê tài sản theo đúng qui định hiện hành, sau đó tính giá trị doanh nghiệp CPH theo công thức. Giá trị doanh nghiệp (hoặc bộ phận) sau kiểm kê đánh giá lại = (giá trị TSCĐ + giá trị TSLĐ + giá trị XDCBDD + vốn liên doanh, liên kết) - (nợ phải trả + nợ phải trả không có chủ trả + lỗ + quĩ PL,KT + vốn nhận liên doanh). - Đối với doanh nghiệp lớn, phức tạp nếu cần thiết phải kiểm toán thì ký hợp đồng thuê kiểm toán. - Ban CPH tại doanh nghiệp thành lập hội đồng doanh nghiệp để xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị DN = Giá trị DN sau khi kiểm kê đánh giá lại + (hoặc -) giá trị lợi thế + chi phí tiến hành CPH. - Thống kê danh sách lao động của doanh nghiệp. - Xem xét các nguồn tồn quĩ phúc lợi, quỹ khen thưởng và dự kiến phương án phân chia cho cán bộ, công nhân làm nguồn vốn mua cổ phiếu. - Lập dự án đầu tư phát triển doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá. - Xây dựng phương án CPH theo mẫu hướng dẫn của ban chỉ đạo CPH Trung ương và của bộ. - Dự kiến phương án số lượng cổ phiếu bán chịu, cổ phiếu cấp và cổ phiếu thông thường cho cán bộ công nhân viên chức của doanh nghiệp cho thể nhân, pháp nhân ngoài doanh nghiệp theo mức khống chế của Nhà nước. - Báo cáo Bộ về kết quả xác định giá trị doanh nghiệp (hoặc bộ phận) CPH để hội đồng thâm tra giá trị doanh nghiệp thẩm tra. - Tổ chức đại hội (bất thường) cán bộ công nhân viên chức của doanh nghiệp (hoặc bộ phận) CPH để góp ý kiến dự thảo phương án CPH doanh nghiệp (hoặc bộ phận). - Trình ban chỉ đạo CPH của bộ để thông qua phương án CPH của DN (hoặc bộ phận) sau đó trình ban cán sự và lãnh đạo Bộ quyết định. - Tiến hành công việc quảng cáo tiếp thị về bán cổ phần DN (hoặc bộ phận theo nội dung hướng dẫn của ban chỉ đạo CPH của bộ. - Đăng ký các cổ đông mua cổ phần và mở sổ theo dõi. - Hoàn chỉnh bản dự thảo điều lệ công ty cổ phần theo mẫu hướng dẫn của ban chỉ đạo CPH Bộ và trình bộ duyệt - Khi các cổ đông mua được 2/3 số lượng cổ phần thì ban CPH của doanh nghiệp Nhà nước báo cáo ban chỉ đạo CPH của Bộ để tiến hành đại hội cô đông bầu hội đồng quản trị ban kiểm soát, cử giám đốc, kế toán trưởng. - Ban CPH doanh nghiệp mua cổ phiếu tại cụng kho bạc Nhà nước và viết chính thức cổ phiếu cho các cổ đông là pháp nhân và thể nhân. - Ban CPH doanh nghiệp tổ chức bàn giao tài sản, vốn doanh nghiệp (hoặc bộ phận) CPH từ DNNN sang công ty cổ phần. - Ban CPH DN báo cáo ban chỉ đạo CPH của Bộ về biên bản giao nhận tài sản, vốn của DN (hoặc bộ phận) thành công ty cổ phần và tiến hành trước bộ sở hữu tài sản, vốn công ty cổ phần. - Ban chỉ đạo CPH của Bộ gửi công văn đề nghị cơ quan công an cho phép khắc dấu công ty cổ phần và thu hồi dấu của DNNN (nếu có) đã chuyển sang công ty cổ phần, - Ban chỉ đạo CPH của Bộ có văn bản gửi Sở kế hoạch và đầu tư nơi công ty cổ phần đặt trụ sở để kinh doanh. - Khai trương hoạt động công ty cổ phần theo luật công ty và điều lệ phương án của công ty cổ phần đã được đại hội cổ đông nhất trí và Bộ duyệt. Các bước công việc trên đây có mối liên hệ hữu cơ, nhưng không nhất thiết phải tiến hành mà có một số bước có thể tiến hành song song để rút ngắn tiến trình CPH DNNN. Mặt khác, qui trình này được xây dựng trên cơ sở DNNN thuộc Bộ quản lý, do vậy các DNNN thuộc địa phương quản lý thì trong qui trình này cấp bộ được thay thế băng UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. II- Thực trạng CPH doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam. 1. Quá trình triển khai thực hiện chủ trương CPH DNNN từ năm 1992 đến nay. Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần phát triển mạnh mẽ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều cơ chế, chính sách đối với khu vực này, đặc biệt là chính sách sắp xếp DNNN, làm cho khu vực này hoạt động có hiệu quả giữ vững vai trò chủ đạo, trong nền kinh tế quốc dân. CPH doanh nghiệp Nhà nước là một nội dung quan trọng trong chính sách sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước thuộc tổng thể các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân. Thực hiện quyết định số 202/CT các bộ ngành đã hướng dẫn doanh nghiệp Nhà nước đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần trên cơ sở số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã đăng ký. Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng nay là htủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 203/CôNG TY ngày 8-6-1992 chọn 7 DNNN do chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần đó là: - Nhà máy xà phòng Việt nam ( Bộ công nghiệp) - Nhà máy diêm thống nhất ( Bộ công nghiệp) - Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà nội ( Bộ nông nghiệp) - Xí nghiệp chế biến gỗ Long bình ( Bộ nông nghiệp) - Xí nghiẹp sản xuất bao bì ( Thành phố Hà nội) -Xí nghiệp dệt may Legamex ( Thành phố Hồ chí Minh) Sau một thời gian dài làm thử 7 DNNN được chính phủ chọn thí điểm dều xin rút lui hoặc không đủ điều kiện để tiến hành CPH. Hơn 3 doanh nghiệp xin chuyển thành công ty trãch nhiệm hữu hạn và hơn 30 doanh nghiệp dã đăng ký với bộ tài chính để thí điểm thực hiệnCPH. Sau 4 năm thực hiện quyết định 202/CT có 5 doanh nghiệp chuyển được sang công ty cổ phần. - Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc bộ giao thông). - Công ty cổ phần cơ điện lạnh (thành phố HCM). - Công ty cổ phần giày Hiệp An (Bộ công nghệ). - Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An. - Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ nông nghiệp). Sau 4 năm thực hiện đã đúc rút ra được kinh nghiệm bổ sung cho chế độ CPH, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ra quyết định 28/CP thay cho quyết định số 202/CT với những qui định cụ thể rõ ràng hơn. Nghị định 28/CP đã xác định rõ mục tiêu, đối tượng CPH, nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp CPH và thành lập ban chỉ đạo Trung ương CPH giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác cổ phần hoá DNNN. Tính đến cuối năm 1997, chúng ta mới cổ phần được 18 DNNN với tổng số vốn là 121.348 triệu đồng gồm: * Phân theo ngành: Ngành GTVT : 4 doanh nghiệp (DN) Ngành công nghiệp : 7 doanh nghiệp. Ngành xây dựng : 1 doanh nghiệp Ngành chế biến nông lâm thuỷ sản : 3 doanh nghiệp Ngành dịch vụ :3 doanh nghiệp * Phân theo lãnh thổ: Thành phố HCM : 10 doanh nghiệp Thành phố Hà Nội : 1doanh nghiệp Thành phố Hải phòng : 1 doanh nghiệp Tỉnh Long An : 1 doanh nghiệp Tỉnh Ninh Bình : 1doanh nghiệp Tỉnh Bình Định : 1 doanh nghiệp Tỉnh Cà Mau : 1 doanh nghiệp Thành phố Đà Nẵng : 1 doanh nghiệp Tỉnh An Giang : 1 doanh nghiệp Trong số 18 DN nói trên có 1 DNNN bán toàn bộ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp mà không giữ lại cổ phần nào, số còn lại Nhà nước nắm giữ ít nhất là 18%, cao nhất là 61% cổ phần của công ty. Bình quân của 18 doanh nghiệp là 34,2%. Còn lại là do cán bộ công nhân viên trong công ty và các thành phần kinh tế ngoài xã hội hội giữ. Trong số 18 DNNN đã chuyển thành công ty cổ phần có 2 doanh nghiệp khác khi chọn làm thí điểm CPH có những điều kiện thuận lợi, hoạt động có lãi cao công ty cổ phần cơ điện lạnh và công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển. Nhiều doanh nghiệp trước CPH kinh doanh kém hiệu quả lợi nhuận thấp và giảm dần như xí nghiệp VIFOXO, xí nghiệp chế biến xuất khẩu Long An, xí nghiệp sửa chữa và đóng tàu thuyền Bình Định... Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần thì sản xuất kinh doanh phát triển có tiến độ về nhiều mặt, cụ thể đối với 18 doanh nghiệp. Vốn tăng bình quân : 45%/năm Doanh thu tăng bình quân : 56,9%/năm Lợi nhuận tăng bình quân : 70,2%/năm Nộp ngân sách tăng bình quân : 98%/năm Thu nhập của người lao động tăng bình quân : 20%/năm Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu : 19,1%/năm Tỷ suất lợi nhuận trên vốn : 74,6%/năm Đối với Nhà nước. Do sản xuất phát triển, doanh thu tăng, lợi nhuận tăng nên tiền thuế của các công ty cổ phần nôpọ cao hơn khi là DNNN. Ngoài ra Nhà nước còn thu được 37.724 triệu đồng từ các nguồn. Tiền thu về bán cổ phần : 30.207 triệu đồng. Phần lợi tức của Nhà nước từ công ty cổ phần : 6.995 triệu đồng Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của CBCNV : 522 triệu đồng Ngoài ra số tiền cán bộ công nhân viên trong các công ty cổ phần mua chịu cổ phiếu là 14.749 triệu đồng. Sau 5 năm phải trả Nhà nước, đối với người lao động xã hội: Thu nhập của người lao động cao hơn khi còn là quốc doanh từ 1,5 đến 2 lần chưa kể nguồn thu từ loị tức cổ phần khoảng 22-24%/năm. Ngoài số lao động của các công ty đã thu hút thêm hơn 1000 lao động ngoài xã hội vào làm việc. Bên cạnh đó do hoạt động của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá có hiệu quả nên lợi tức của các cổ đông thường cao hơn lãi suất tiền gửi, tiền tiết kiệm, đồng thời tốc độ tích luỹ vốn của doanh nghiệp cũng khá nhanh, giá trị cổ phiếu thường tăng từ 1,5 đến 2 lần (sau 1 đến 2 năm hoạt động)ví dụ như công ty cổ phần đại lýu liên hiệp vận chuyển sau 4 năm hoạt động giá trị cổ phiếu tăng 7 lần, còn công ty cơ điện lạnh cũng sau 4 năm hoạt động giá trị cổ phiếu tăng hơn 6 lần. Qua con số thống kê cho ta thấy được tính khả thi và hiệu quả của CPH, điều đó cho phép khẳng định được đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng. Số lượng các DNNN trong 2 năm trở lại đây không ngừng tăng lên, đến ngày 1/9/1998 cả nước đã có 38 doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần trong đó có 12 công ty đã đi vào hoạt động hơn 1 năm, có thể thấy vốn điều lệ của các doanh nghiệp này tăng bình quân 19,06% doanh thu tăng bình quân 46%/năm. Lợi nhuận tăng bình quân 44%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82%/năm. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu năm 1997 là 44%, số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng 30%/năm, thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3%/năm. Như vậy ta thấy rằng CPH đã đem lại hiệu quả bước đầu khá khả quan nhờ hiệu quả được nâng cao nên tăng thêm được việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông, vừa được hưởng cổ tức ở mức cao, vừa tăng giá trị góp vốn tại công ty. Nhà nước ngoài việc tăng trưởng vốn góp, được chia cổ tức ,các khoản nộp ngân sách Nhà nước cũng tăng nhanh. Chủ trương cổ phần hoá các DNNN đã được chứng minh là một chủ trương đúng đắn, được nhân dân ủng hộ, dạn đường cho Chính phủ ban hành các quyết định về CPH nhằm đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống với mục tiêu thay đổi về chất của các DNNN tạo nên những động lực mới cho nền kinh tế. Từ điều 22 của quyết định 217 ngày 14/11/1987, quyết định 145/HĐBT ngày 10/5/1990 đến QĐ 202/CT ngày 8/6/1992, NĐ 28/CP ngày 7/5/1996 đều đề ra các chính sách, thay đổi, bổ sung về tiến trình CPH. Nghị quyết Đại hội 9 tiếp tục chỉ rõ “Triển khai tích cực và vững chắc việc CPH doanh nghiệp Nhà nước để huy động vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên chứ không phải tư nhân hoá”. Để thực hiện chủ trương này ngày 29/6/1998, Nghị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ ra đời, qui định về chuyển DNNN thành công ty cổ phần thay thế cho nghị định 28/CP. Nghị định này xác định rõ và giảm thiểu danh mục ngành nghề Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, Nhà nước nắm giữ cổ phần đặc biệt cổ phần chi phối, không hạn chế qui mô doanh nghiệp, mở rộng diện bán cổ phần cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài định cư ở lâu Việt Nam, cải tiến về thủ tục định giá và qui trình CPH, về thẩm quyền, bộ trưởng các bộ quản lý ngành,chủ tịch uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố, chủ tịch hội đồng quản trị các tổng công ty 91 là người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm chính, lựa chọn các tổ chức CPH ở các đơn vị quốc doanh. Do đó chỉ trong 6 tháng đến 31/12/1998 đã CPH được 86 doanh nghiệp. Theo báo cáo của ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương đến ngày 19/3/1999 trong cả nước đã có 150 DNNN đã CPH xong. Tính từ ngày 01/01/1999 đến 19/03/1999, tức là chưa đầy 1 quí, trong cả nước có 30 DNNN được cổ phần hoá, tốc độ nhanh nhất từ trước tới nay. 30 DNNN đó là: (xem trang sau). TT Tên công ty ĐV. chủ Ngành Ngày ra Giá trị thực tế Vốn Cơ cấu vốn ĐL (%) quản trước CPH nghề quyết định vốn NN (tr.đ) điều lệ Nhà nước CBCNV Cổ đông ngoài CTCP xe khách Hà giang Hà Giang GTVT 31/12/98 1.927 3.337 27,58 72,24 0 CTCP thiết bị thương mại Bộ TM DVTM 28/12/98 2.498 2.498 0 70 30 CTCP Bao bì Bỉm Sơn TCT xi măng CN&XD 08/11/99 41.477 38.000 50 8 42 CTCP XD miền Trung Đà Nẵng CN&XD 06/01/99 2.019 2.091 40 60 0 CTCP may Núi Thành Quảng Nam CN&XD 31/12/98 1.605 1.605 0 100 0 CTCP xây lắp điện TCT điện lực CN&XD 31/12/98 4.603 6.000 20 70 10 CTCP vận tải lạnh An Giang An Giang Thuỷ sản 16/12/98 1.020 1.020 0 80 20 CTCP Cơ điện TCT điện lực CN&XD 31/12/98 8.294 25.000 20 70 10 CTCP Thực phẩm Bình Tây Bộ CN CN&XD 31/12/98 7.860 7.900 0 51 49 CTCP đồng quê HCM DVTM 12/01/99 1.219 1.219 25 30 45 CTCP Du lịch Thắng Lợi Khánh Hoà DVTM 12/01/99 2.131 2.131 0 100 0 CTCP KS.Phương Đông TCDL DVTM 11/01/99 3.948 3.908 0 70 30 CTCP Xe khách Bắc Giang Bắc Giang GTVT 07/01/99 1.725 2.750 45 51 4 CTCP hợp tác lao động NN TCTHH DVTM 07/01/99 2.373 3.500 30 60 10 CTCP xây dựng GT số 1 BGT CN&XD 11/01/99 377 2.000 21,7 60 18,3 CTCP SX vật liệu XD BGT CN&XD 12/01/99 1.552 720 13,41 26,84 59,75 CTCP hoá phẩm Sông Cẩm Hải Phòng CN&XD 19/01/99 6.399 6.399 0 92 8 CK-XDNN&PTNT TP Huế TT Huế CN&XD 21/01/99 2.700 30 37 33 CTCP Cao su Sài Gòn HCM CN&XD 25/01/99 7.743 7.500 10 70 30 CTCP Ba Lan TCTLTMB DVTM 18/01/99 3.220 3.220 0 70 30 CTCP vận tải đường bộ Bắc Ninh GTVN 28/01/99 CTCP XNK Tân Bình HCM DVTM 30/01/99 4.396 10.000 25 35 40 CTCP mộc và XD HN Hà Nội CN&XD 01/02/99 909 100 0 CTCP vôi Tịnh Khê Quảng Ngãi CN&XD 30/01/99 600 0 70 30 CTCP Bao bì Hoàng Thạch TCTXMVN CN&XD 22/02/99 6.000 0 37 63 CTCP thuỷ sản Hoài Nhơn Bình Định Thuỷ sản 12/02/99 1.000 CTCP in và bao bì Bình Định Thuỷ sản 12/02/99 1.000 CTCP Thuỷ sản Bình Định Bình Định Thuỷ sản 10/02/99 2.252 CTCP KS.Phương Đông Bình Định DVTM 27/02/99 1.500 56,9 10,3 22,8 Công ty ong mật Đồng Nai Đồng Nai NN 12/02/99 3.900 30 50 20 2.Thực trạng CPH DNNN ở Việt Nam. Mặc dù CPH đã đem lại hiệu quả kinh tế tương đối cao song cho đến nay tốc độ CPH vẫn chậm so với kế hoạch dự kiến của Bộ tài chính. Năm 1998 là 150 DNNN thành công ty cổ phần và năm 1999 là 400 DNNN chuyển thành công ty cổ phần. Nguyên nhân làm cho CPH các DNNN chậm là do: Một là: Cơ chế chính sách CPH chậm được ban hành đồng bộ thiếu cụ thể, qui trình xác định giá trị của doanh nghiệp quá phức tạ, còn nhiều mặt chưa phù hợp. Trong thời gian dài chậm qui định phạm vi doanh nghiệp Nhà nước được phép cổ phần hoá chưa đề ra mục tiêu CPH hàng năm để phấn đấu thực hiện. Hai là: Trước yêu cầu mới, hầu hết các doanh nghiệp đều bở ngỡ, lúng túng, định giá tài sản thế nào? Xác định vốn đó của Nhà nước hay tập thể xí nghiệp? Việc phân chia và bán cổ phiếu như thế nào? Tổ chức hoạt động của công ty cổ phần như thế nào.... Trong khi đó phần lớn cán bộ trong ban chỉ đạo công tác này đều kiêm nhiệm nên ít có điều kiện để thường xuyên đôn đốc hướng dẫn, tháo gỡ kịp thời những vướng mắc cho doanh nghiệp. Ba là: Một số Bộ và địa phương, Tổng công ty Nhà nước chưa nhận thức đẩy đủ ý nghĩa chủ trương CPH một bộ phận DNNN là nhằm huy động vốn, tạo thêm việc làm, phát triển sản xuất nâng cao sức cạnh tranh, đổi mới cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước đồng thời tạo điều kiện để cho người lao động trong DN có cổ phần và những người góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản của Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động và góp phần tăng trưởng toàn nền kinh tế quốc dân. Do đó thiếu chủ động và chưa kiên quyết tổ chức triển khai thực tế đã cho thấy cùng trong những điều kiện tương tự, nơi nào được cấp ủy chính quyền quan tâm chỉ đạo thì nơi đó triển khai tốt, ngược lại những Bộ, địa phương, Tổng công ty tuy có điều kiện khá thuận lợi nhưng nến được chủ chương cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp có biện pháp tích cực vận động thuyết phục thì họ sẽ có chuyển biến. có nơi khi đề xuất chủ chương ban đầu chỉ có 25% công nhân viên đăng ký mua cổ phần nhưng nhờ Giám đốc doanh nghiệp nhiều lần giải thích nên đã bán được cho 100% người lao động trong doanh nghiệp. Bốn là: Công tác tuyên truyền giáo dục từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương chưa được đẩy manh. Việc thực hiện các qui định công khai tài chính của doanh nghiệp Nhà nước chưa thành nên nếp thường xuyên. Các thông tin về kết quả của doanh nghiệp đã cổ phần hoá chưa được phổ biến sâu rộng trong nhâ dân và người lao động trong các DNNN. Mặt khác các tư tưởng ỷ lại, bao cấp chưa được phên phán triệt để nên còn có hiện tượng chần chừ, do dự hoặc né tránh không muốn triển khai CPH. Mặt khác một số cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp chưa thấy được sự cần thiết của việc CPH, đa só lo ngại mất quyền lợi, địa vị. Người lao động thì lo lắng về đời sống sợ mất việc, sợ làm giảm thu nhập do vậy không hăng hái CPH. Năm là: Môi trường kinh tế chưa thực sự bình đẳng chưa tạo được mặt bằng thống nhất về cơ chế chính sách cho các thành phần kinh tế cùng cạnh tranh phát triển. Trong những năm gần đây Chính phủ đã có nhiều chính sách và biện pháp cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo hướng nâng cao quyền chủ động kinh doanh tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính. Tuy nhiên vẫn còn một số ưu đãi; mức vay và mức lãi suất cho vay, khoản nợ và xoá nợ tại các ngân hàng thương mại quốc doanh, chưa phải nộp tiền thuê đất, được miễn thế chấp khi vay ngân hàng... còn có một số cán bộ coi doanh nghiệp CPH như loại hình doanh nghiệp phi XHCN làm cho một ssố doanh nghiệp Nhà nước e ngại khi chuyển thành công ty cổ phần sẽ bị thiệt thòi, giảm khả năng cạnh tranh so với doanh nghiệp Nhà nước. Sáu là: Thị trường vốn chưa phát triển, chưa có thị trường chứng khoán nên chưa có phương thức thích hợp để giao dịch cổ phiếu và từ đó chưa tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy CPH. III- Chủ trương và giải pháp cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới. 1. Chủ trương CPH trong thời gian tới. Chủ trương CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước đã được đề cập trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước từ năm 1991 đến nay đó là: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương khoá 7, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Nghị quyết của Bộ Chính trị số 10, Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII..., Nghị định số 28/CP , Nghị định 44/1998/NQ-CP và tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định. Triển khai tích cực và vững chắc việc CPH sẽ huy động được vốn tạo động lực để thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản Nhà nước tăng lên. Đây là sự kết hợp giữa kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân để phát triển đất nước. Với mục đích tăng trưởng và phát triển kinh tế, CPH là một trongnhững chủ trương quan trọng mà thời gian qua đã mang lại kết quả khá khả quan, mặc dù số lượng doanh nghiệp đã CPH chưa lớn, song nó cũng phần nào nói lên tính đúng đắn của chủ trương này và làm thay đổi bộ mặt của kinh tế Nhà nước, khắc phục tình trạng trì trệ, kém phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước . Thấy được những lợi ích rất cơ bản về việc CPH các DNNN chúng ta phải xú tiến đẩy mạnh CPH trong thời gian tới. Nhận thức đúng đắn chế độ cổ phần là một phương pháp khoa học để xử lý quan hệ về tài sản, nó là mô hình kinh doanh của nền sản xuất lớn hàng hoá phù hợp với cơ chế thị trường cạnh tranh, là sản phẩm trí tuệ khách quan của loài người chứ không phải CNTB, thực hiện CPH không hề đi lệch hướng XHCN. Với nhiều biện pháp khác nhau nhằm đẩy mạnh tiến trình CPH doanh nghiệp Nhà nước trong đó Nhà nước liên tục ban hành các chính sách, nghị định nhằm tăng cường và tạo điều kiện cho quá trình CPH diễn ra ngày càng có hiệu quả hơn và theo kế hoạch năm 1999 cả nước phải CPH được ít nhất 400 DNNN. Đối tượng CPH lần này có qui mô vốn lớn hơn và diện CPH là hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, chỉ trừ một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng...., các qui định khác đã được qui định rất rõ trong Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 của Chính phủ. 2.Giải pháp để đẩy nhanh tiến trình CPH các DNNN. Trải qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế của Nhà nước, hoạt đọng DPH các DNNN đã bước đầu cho thấy dấu hiệu khả quan đáng mừng. Tuy nhiên hiện nay việc thực hiện CPH vẫn còn diễn ra rất chậm chạp và gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy chúng ta phải có những chính sách, những biện pháp chính xác thiết thực để có thể thực hiện được thành công chủ trương CPH các DNNN, một chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước các biện pháp đó là: Một là: Các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải quán triệt và tuyên truyền giải thích trong nhân dân chủ trương, chính sách của Đảng về CPH các DNNN. Đây là một hướng cải cách doanh nghiệp có hiệu quả, chứ không đơn thuần là việc Nhà nước bán bớt cổ phần thu tiền về để đầu tư sanh lĩnh vực khác. CPH phải xuất phát từ yêu cầu phát triển của DNNN nhằm huy động thêm vốn của cả bên trong lẫn bên ngoài để đầu tư, mở rộng ngành nghề, hiện đại hoá công nghệ, tạo thêm việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách và thu nhập của người lao động, làm cho tiềm lực của Nhà nước tăng lên đảm bảo vai trò làm chủ và tính năng động sáng tạo của người lao động trong quản lý doanh nghiệp. Đồng thời tuyên truyền phổ biến cho tất cả mọi người hiểu rõ về CPH để từ đó giám đốc của DNNN cần CPH không do dự khi CPH sẽ xảy ra rủi ro lớn, dẫn đến mất quyền lợi, địa vị.... còn người dân thì tự tin hơn khi mua cổ phần của DNNN. Hai là: Tạo ra môi trường pháp lý cần thiết để tiến hành công việc này. ở Việt Nam để tiến hành CPH các DNNN và đổi mới cơ cấu kinh tế nói chung không thể không có vấn đề về môi trường pháp lý và ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước cũng đã ban hành nhiều bộ luật nhằm xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo định hướng của Nhà nước. Tuy nhiên điều kiện về kinh tế chính trị xã hội vẫn có sự thay đổi, mục đích mỗi giai đoạn có khác nhau do đó hiện nay cần có sự bổ sung sửa đổi và ban hành các Bộ luật quan trọng như: Luật đầu tư nước ngoài, luật phá sản, luật thương mại... để từng bước tạo điều kiện cho quá trình CPH các DNNN ở Việt Nam thực hiện có kết quả. Ba là: Các nghị quyết, quyết định của Chính phủ cần phải xác định là các văn bản pháp qui dưới luật mà các bộ, các ngành địa phương, các thể nhân và pháp nhân đều phải thực hiện một cách nghiêm túc và phải xem là biện pháp bắt buộc trong việc sắp xếp lại các doanh nghiệp chứ không thể xem là tùy hướng, thi hành cũng được mà không thi hành cũng chẳng sao như hiện nay. Nghị định 28/CP ngày 7/5/1999, nghị định25/CP ngày 26/3/1997 và gần đây là nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần,là những văn bản pháp lý, các ngành, địa phương phải có trách nhiệm thực hiện cụ thể đối với mỗi ngành. Chính phủ cần có những chỉ thị hướng dẫn về số lượng DNNN phải được CPH trong từng bộ ngành, địa phương trong từng thời gian nhất định. Hiện nay các DNNN đang làm ăn có lãi hầu như vẫn do dự trong việc quyết định chuyển sang công ty cổ phần, do đó phải có chỉ thị cho doanh nghiệp nào phải thực hiện cổ phần hoá, sự tự nguyện đăng ký thực hiện CPH của từng doanh nghiệp chỉ xem là yếu tố cần thiết của những quyết định đúng đắn mà thôi. Bốn là: Cần phải nghiên cứu, bổ sung chế độ ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp theo hướng chỉ duy trì việc cấp cổ phần hoá cho người lao động theo hướng cấp hẳn là ưu đãi duy nhất và tiến tới mở rộng đối tượng ưu đãi có thể là các công nhân viên về hưu nhưng đã công hiến cả cuộc đời cho doanh nghiệp hoặc có thể bán chịu có thời hạn cụ thể cho cán bộ nhân viên không có điều kiện mua cổ phiếu. Mức tỷ lệ này cần được tính kỹ trong từng doanh nghiệp để đảm bảo khả năng huy động vốn từ bên ngoài và quyền lợi của cán bộ nhân viên cũ khi trở thành cổ đông của công ty cổ phần. Ngoài ra cần mạnh dạn triển khai việc bán cổ phần cho người nước ngoài và đưa ra các tiêu chuẩn đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài định cư lâu dài ở Việt Nam được mua cổ phần gắn với các điều kiện về giải quyết việc làm và đổi mới công nghệ. Năm là: Nhanh chóng cho ra đời trung tâm giao dịch cổ phiếu ở 2 thành phố lớn. Bên cạnh đó khuyến khích việc thành lập các tổ chức tài chính trung gian làm nhiệm vụ tư vấn, kinh doanh cổ phiếu, giảm bớt rủi ro cho nhà đầu tư, cần tiến hành sớm lập thị trường chứng khoán để tác động tích cực cho việc góp vốn đầu tư của tư nhân vào các doanh nghiệp CPH. Vì qua thị trường chứng khoán người dân có điều kiện được thông tin đầy đủ hơn, kể cả việc phân tích sàng lọc thông tin, để xây dựng công ty cổ phần làm ăn lành mạnh có hiệu quả. Thị trường chứng khoán vừa giúp sàng lọc công ty làm ăn không lành mạnh, kém hiệu quả để đảm bảo yên tâm cho người mua cổ phiếu góp vốn vừa tạo được luân chuyển lưu động nhanh vòng quay vốn của các cổ đông vì thông qua thị trường chứng khoán các cổ đông có quyền nhượng bán cổ phiếu để thu hồi vốn cổ phần cho các yên cầu bức bách hơn hoặc cho yêu cầu đầu tư nơi khác có lợi nhuận tối ưu hơn. Đồng thời Chính phủ cần ban hành những qui định bảo vệ quyền lợi cho người sở hữu cổ phiếu như các chế định bảo vệ quyền sở hữu cổ phiếu, chế định bắt buộc, chế định công khai hoá thông tin, chế định chống đầu cơ lũng đoạn. Sáu là: Các ngành, địa phương cần tiến hành phân loại sắp xếp DNNN để từ đó xác định ngành nào, doanh nghiệp nào cần duy trì một chủ đầu tư là Nhà nước, cần tiếp tục giữ 100% vốn Nhà nước, những ngành, những doanh nghiệp nào có thể chuyển thành công ty cổ phần mà không chờ đợi sự “tự nguyện” cổ phần hoá từ phía doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp nào Nhà nước nắm cổ phần chi phối, doanh nghiệp nào Nhà nước có thể phát hành cổ phiếu rộng ra ngoài dân chúng, kể cả người nước ngoài. Trước mắt loại doanh nghiệp Nhà nước cần giữ 100% vốn của Nhà nước, không tiến hành cổ phần hoá là những doanh nghiệp có tính chiến lược đối với từng ngành, từng địa phương cũng như cả nước, hoạt động trong lĩnh vực hoặc địa bàn quan trọng, cung ứng dịch vụ thiết yếu theo chính sách của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm cung ứng dịch vụ có liên quan đến những cân đối vĩ mô nền kinh tế quốc dân, tạo ra nguồn tích luỹ lớn cho ngân sách Nhà nước, có qui mô lớn thì Nhà nước nên nắm giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt .. Các doanh nghiệp có vốn Nhà nước với hợp đồng lăm ăn thua lỗ triền miên thì cho thuê, sát nhập, bàn giao cho công nhân sử dụng hoặc phá sản. Các doanh nghiệp còn lại không phụ thuộc vào qui mô ngành nghề đều được CPH với bước đi thích hợp. Bên cạnh đó nếu các bộ, ngành, tỉnh, thành phố chưa thành lập ban chỉ đạo CPH khẩn trương thành lập ngay như các văn bản hướng dẫn của Trung ương. Bảy là: Cần có sự hướng dẫn sử dụng thích hợp số tiền thu được từ việc bán CPH của các doanh nghiệp Nhà nước CPH cho việc mở rộng tái đầu tư sản xuất như: Đầu tư lại trực tiếp cho chính bộ, ngành, đại phương có doanh nghiệp CPH để góp phần thay đổi cơ cấu doanh nghiệp trong từng ngành, từng địa phương hoặc cho phép doanh nghiệp được vay ưu đãi đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh, thậm chí có thể sử dụng vốn góp liên doanh với các thành phần kinh tế khác hay dùng mua cổ phần của công ty đang làm ăn phát triển. Trên đây là một số giải pháp mà theo tôi nó rất quan trọng và cần thiết, thực hiện những giải pháp này không những đẩy mạnh được công tác CPH các DNNN mà còn tạo được cho doanh nghiệp làm ăn có lãi và có chỗ đứng vững vàng trên thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó thúc đầy kinh tế phát triển, giải quyết được vấn đề về chính trị xã hội. Và cùng với các giải pháp trên thì việc CPH các DNNN phải đặt trong toàn bộ quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, và phải được thực hiện một cách tích cực chứ không thể làm chủ quan nóng vội và phải có thời gian đủ cần thiết để thực hiện thành công. Kết luận –˜™˜ Trong bối cảnh của nền kinh tế nước ta và đặc biệt là thực trạng phát triển của DNNN hiện nay, vấn đề vốn và chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước là vấn đề bấc xúc cần được giải quyết. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước chính là giải pháp có tính chiến lược, phù hợp với qui luật khách quan của nước ta trong điều kiện kinh tế thị trường. Nó không những chỉ tạo ra nguồn vốn cho hoạt động của các doanh nghiệp mà còn nâng cao trách nhiệm tự chủ của người lao động, cải thiện quản lý hoạt động xí nghiệp, thúc đầu phát triển ổn định lâu dài. Do đó cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước là phù hợp với nền kinh tế thị trường nhằm giảm gánh năng đầu tư, bao cấp tràn lan kém hiệu quả, tập trung vốn đầu tư vào các ngành trọng điểm, chiến lược, phục vụ sản xuất lớn. Như vậy, một lần nữa chúng ta có thể khẳng định cổ phần hoá là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, phù hợp với định hướng XHCN với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh./. Mục Lục Trang: Lời Mở Đầu………………………………………………………01 Những vấn đề về cổ phần hoá……………………………..02 1.tính chất của CPH………………………………………..02 2.Thực chất của CPH……………………………………….04 3.Mục tiêu của CPH………………………………………..07 4.ĐIều kiện và quy trình tiến hành CPH…………………..09 Thực trạng CPH DNNn ở Việt Nam……………………….14 1.Quá trình triển khai thực hiện chủ trưong CPHDNNN từ năm 1992đnay………………………………………………….14 2.Thực trạng CPHDN ở Việt Nam………………………….21 Chủ trương và giảI pháp CPHDNNN trong thời gian tới…..23 1. CHủ trương CPh trong thời gian tới…………………..…23 2. GiảI pháp để đẩy nhanh tiến trình CPH các DNNN…….26 Kết Luận…………………………………………………………..28. Tài liệu tham khảo - “Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam”: PGS.PTS. Hoàng Công Thi Phùng Thị Đoan. - Công ty cổ phần và chuyển DNNN thành công ty cổ phần PTS. Đoàn Văn Mạnh - Tổ chức quản lý trong công ty cổ phần

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35274.doc
Tài liệu liên quan