Cổ phần hoá DNNN là một trong những quan điểm và giải pháp quan trọng của Đảng và nhà nước nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN ở nước ta. Qua quá trình nghiên cứu và xuất phát từ thực tiễn gần mười năm tổ chức sắp xếp lại các DNNN ở Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định đây là giải pháp phù hợp nhất với thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, nó góp phần quan trọng trong việc huy động và thu hút nguồn vốn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
34 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá trong doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hóa là phương án tối ưu vừa nâng cao hiệu quả sản xuất vừa củng cố vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, phù hợp với đường lối xây dựng đất nước mà Đảng ta đã đề ra. Sở dĩ như vậy là vì cổ phần hóa DNNN ở nước ta hiện nay có vai trò quan trọng như sau:
Nếu xét trên phạm vi doanh nghiệp:
Cổ phần hóa tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động và thu hút vốn cho các DNNN. Các doanh nghiệp nhà nước hiện đang thiếu vốn nghiêm trọng. Trong khi đó nhà nước đang bội chi ngân sách, không thể và cũng không nên tiếp tục bao cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả như vậy. Cổ phần hóa sẽ huy động các nguồn vốn quản lý trong xã hội một cách nhanh chóng để phát triển sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nguồn vốn dồi dào trong dân cư sẽ đổ vào nơi có lợi nhuận cao, làm cho các doanh nghiệp cổ phần hóa ngày càng có nguồn vốn lớn để trang bị kỹ thuật, mở rộng sản xuất. Đồng thời nguồn vốn ngày càng được sử dụng tốt lại tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu liên tục. Các doanh nghiệp khi đã cổ phần hóa sẽ liên doanh được với các doanh nghiệp trong và ngoài nước từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn hơn nữa.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN. Trước đây, trong cơ chế quan liêu bao cấp, các DNNN được nhà nước bao cấp hoàn toàn, hoạt động dưới sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước do đó không phát huy được tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp dẫn tới thực trạng là hầu hết các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, trong các doanh nghiệp đã được hoạt động tự chủ hơn nhưng do buông lỏng quản lý dẫn tới tệ nạn tham nhũng, lãng phí ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, xã hội. Khi các doanh nghiệp nhà nước đã chuyển sang các công ty cổ phần đã khắc phục được những khuyết điểm trên. Để thấy rõ vấn đề ta thử xem xét cấu trúc quản lý và kiểm soát của công ty cổ phần qua sơ đồ sau:
Đại hội cổ đông
Ban kiểm soát
Hội đồng quản trị
Giám đốc điều hành
Phó giám đốc điều hành
Phó giám đốc điều hành
Phó giám đốc điều hành
Phòng chuyên môn
Phòng chuyên môn
Phòng chuyên môn
Phòng chuyên môn
Qua sơ đồ trên ta thấy cơ cấu hoạt động của công ty cổ phần là rất chặt chẽ, hội đồng quản trị sẽ bầu ra (hoặc đi thuê) ban giám đốc và thực hiện giám sát trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra còn có ban kiểm soát hoạt động độc lập do đại hội cổ đông bầu ra. Do đó các công ty cổ phần sẽ hoạt động một cách an toàn và hiệu quả.
- Cổ phần hóa tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Trước đây do chưa coi trọng và chưa có cơ chế cụ thể để người lao động thực hiện quyền làm chủ về kinh tế. Từ đó quyền làm chủ chỉ dừng lại ở nguyên tắc, khẩu hiệu chứ không đi vào thực chất. Với việc cổ phần hóa DNNN tất cả các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp đều có thể tham gia mua cổ phần của công ty. Họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp, có trách nhiệm rõ ràng cụ thể thông qua lá phiếu biểu quyết tương ứng với số cổ phần sở hữu. Quyền lợi của họ gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh do đó tạo điều kiện thúc đẩy họ làm việc. Và điều quan trọng khác là họ có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý công ty. Đó là sự làm chủ thực sự của người lao động.
Ngoài các vai trò trên của quá trình cổ phần hóa đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Xét trên phạm vi toàn xã hội, cổ phần hóa các DNNN còn có vai trò quan trọng trong việc cấu trúc lại nguồn vốn đầu tư của nhà nước, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia; thu hút tiềm năng vốn nhàn rỗi trong dân chúng, thúc đẩy quá trình hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa xuất phát từ vai trò to lớn đó ta có thể khẳng định cổ phần hóa là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhà nước trong quá trình tổ chức sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay.
II/ Thực trạng quá trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta hiện nay.
Kể từ khi có quyết định 202/CP của chính phủ ngày 8/6/1992 về việc cổ phần hóa doanh nghiệp, đến nay đã được hơn 6 năm. Trong quá trình cổ phần hóa có rất nhiều vấn đề nảy sinh cần giải quyết, tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chỉ đi vào nghiên cứu tiến trình cổ phần hóa DNNN và nêu ra các nguyên nhân dẫn đến tình trạng cổ phần hóa ở nước ta diễn ra một cách chậm chạp và khó khăn để từ đó đưa ra các biện pháp phù hợp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN.
II.1. Cổ phần hóa DNNN ở nước ta - tốc độ chưa đáp ứng được yêu cầu.
Tính tới ngày 1/9/1998, cả nước có 38 DNNN đã hoàn thành cổ phần hóa(*) Theo số liệu của Thời báo kinh tế 26/9/1998
, trong đó có 12 công ty đã đi vào hoạt động hơn một năm, có thể thấy, vốn điều lệ của các doanh nghiệp này tăng bình quân 19,06%, doanh thu tăng bình quân 46%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82%/năm, tỉ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu năm 1997 là 44% số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng 30%/năm, thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3%/năm. Tuy nhiên nếu đem so sánh với số lượng doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện nhà nước giữ lại 100% vốn và mục tiêu chuyển 150 DNNN thành công ty cổ phần năm 1998 thì quá trình này diễn ra quá chậm và không đồng đều giữa các ngành các địa phương.
Để làm rõ vấn đề, chúng ta hãy xem xét tiến trình cổ phần hóa DNNN từ tháng 6/1992 tới nay.
Quá trình cổ phần hóa DNNN được bắt đầu từ ngày 8/6/1992 khi chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng chính phủ) ban hành quyết định 203/CT về danh sách DNNN được chọn để chỉ đạo thí điểm thành công ty cổ phần gồm 7 doanh nghiệp:
- Nhà máy xà phòng miền Nam
- Nhà máy diêm thống nhất
- Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc
- Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình
- Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng
- Xí nghiệp sản xuất bao bì Hà Nội
- Xí nghiệp may mặc Legamex thành phố HCM
Kết quả sau 6 tháng triển khai thì chỉ có duy nhất xí nghiệp may mặc Legamex chuyển thành công ty cổ phần vào tháng 12/1992. Còn lại các doanh nghiệp khác thì hoặc là muốn rút lui hoặc là muốn chờ đợi, nhưng chưa có nào có văn bản đề nghị chính thức. Nguyên nhân cơ bản là do mục tiêu cổ phần hóa của doanh nghiệp của chính phủ chưa phù hợp. Một số vấn đề cơ bản về cơ chế chính sách chưa phù hợp. Một số vấn đề về cơ chế chính sách chưa phù hợp với thực tế khách quan, chưa khuyến khích được doanh nghiệp tham gia cổ phần hóa. Mặt khác có sự không đồng tình từ phía lãnh đạo doanh nghiệp và công nhân do có sự đụng chạm về quyền lợi, lợi ích vật chất và việc làm.
Sau năm 1992, quá trình cổ phần hóa vẫn tiếp tục được triển khai, tuy nhiên tốc độ quá chậm. Trong 3 năm từ năm 1993-1995 chúng ta chỉ cổ phần hóa được thêm 5 doanh nghiệp nữa là: Đại lý LH vận chuyển (Tổng công ty hàng hải); Cơ điện lạnh (TP. HCM); Giầy Hiệp An (Bộ Công nghiệp); CB hàng xuât khẩu Long An; Công ty chế biến thức ăn gia súc (Bộ nông nghiệp). Từ năm 1996, tốc độ có tăng lên, năm 1996 ta cổ phần hóa được 6 DNNN, năm 1997 ta cổ phần hóa được 4 DNNN gồm khách sạn Sài gòn, CTCP Nam Đô (TP. HCM); xí nghiệp sơn Bạch Tuyết (TP. HCM). Năm 1998 ta đã cổ phần hóa được 17 doanh nghiệp. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai địa phương dẫn đầu về số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa trong cả nước. Cho tới năm 1998, thành phố HCM có 662 DNNN, cùng với việc chuẩn bị sẵp xếp lại DNNN việc cổ phần hóa một bộ phận DNNN cũng được đẩy mạnh. Từ khi có nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 của chính phủ về việc cổ phần hóa DNNN thành phố cho thấy: ngoài hai công ty: cơ điện lạnh, công ty ong mật đã thực hiện cổ phần hóa trong thời gian làm thí điểm, 7 doanh nghiệp đã chuyển sang công ty cổ phần, 3 doanh nghiệp đang ở giai đoạn thẩm tra giá trị doanh nghiệp, 15 doanh nghiệp đang xây dựng đề án. Cùng với thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội là nơi thực hiện sớm nhất chương trình cổ phần hóa các DNNN. Trong 3 năm đầu thành phố đã chọn xí nghiệp đồ mộc làm thí điểm. Từ cuối năm 1996 tới hết năm 1997 khi chính phủ ban hành nghị định 28/CP, thành phố đã có 10 doanh nghiệp triển khai cổ phần hóa, trong đó 5 doanh nghiệp thuộc ngành thương mại dịch vụ và 5 doanh nghiệp khác thuộc ngành sản xuất và xây dựng. Sang năm 1998, các đơn vị: Công ty giầy Thụy Khuê, Xí nghiệp cơ khí điện tử, nhà máy thực phẩm chùa Bộc... cũng đang tích cực triển khai các bước cổ phần hóa doanh nghiệp. Tuy nhiên trong tất cả doanh nghiệp nói trên hiệ mới chỉ có 4 doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần là: Công ty đầu tư sản xuất thương mại, công ty cổ phần khách sạn Phú Gia, CTCP Thành Công, XN sản xuất đồ mộc.
Như vậy so với mục tiêu năm 1998 thành phố HCM v 20 doanh nghiệp và theo đánh giá của ông Đinh Hạnh - Phó chủ tịch UBND thành phố Hà Nội thì tốc độ cổ phần hóa của hai thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí Minh - hai thành phố được coi là địa phương đầu đàn về cổ phần hóa - quá chậm chạp và chưa đáp ứng yêu cầu.
Qua thực tiễn hơn 6 năm thực hiện cổ phần hóa DNNN, bài viết xin đưa ra một số đánh giá về những mặt được và chưa được trong thí điểm cổ phần hóa một số DNNN.
- Thứ nhất, về mục tiêu lý tưởng và mục tiêu đạt được trong thực tế. Về mục tiêu lý tưởng Đảng ta đưa ra ba mục tiêu cơ bản quá trình cổ phần hóa. Một là, chuyển một phần sở hữu nhà nước thành sở hữu của cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hai là, phải huy động được một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Ba là, tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Kết quả thực tế là:
Về mục tiêu thứ nhất, hầu hết các doanh nghiệp đều đạt được mục tiêu này, hiệu quả sản xuất được nâng cao, doanh thu tăng 146%, lợi nhuận doanh nghiệp tăng 181%, nộp ngân sách nhà nước tăng 157%. Ngoài ra, nhà nước còn có thể cổ tức của 18% vốn.
Về mục tiêu thứ ba, các doanh nghiệp được cổ phần đã huy động được một khối lượng vốn trong nước. Tuy nhiên, hiện nay số vốn thu mua từ các nhà đầu tư nước ngoài thông qua công ty cổ phần là rất ít do đó cần phải có giải pháp để khuyến khích các cổ đông là người ngoại quốc trong thời gian tới.
Về mục tiêu thứ ba, thì phần lớn các cổ đông ở các công ty cổ phần là cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp cũ, họ làm chủ thực sự công ty của họ, họ hoạt động không chỉ vì đồng lương mà còn vì lợi tức hoạt động và giá trị cổ phần trong công ty.
- Thứ hai, về phương pháp cổ phần hóa. Do chưa có sự thống nhất của cơ quan chỉ đạo cổ phần hóa nhà nước về sự cần thiết để lại cổ đông nhà nước, mức độ để lại là bao nhiêu phần trăm, vì vậy các doanh nghiệp cổ phấn hóa đều để lại một phần cổ đông của nhà nước. Nhưng mức độ khác nhau. Việc xác định tỉ lệ phần trăm về bán cho ai? Cán bộ công nhân trong doanh nghiệp, bán ra bên ngoài và để lại cổ đông nhà nước thiếu sự quy định thống nhất.
- Thứ ba, về quyền lợi của người lao động trong các công ty cổ phần hóa. Vấn đề này trong quá trình cổ phần hóa được thảo luận nhiều, về sau đã có thông tư 09/LĐTB-XH của Bộ Lao động hướng dẫn. Tuy nhiên khi về địa phương, các cơ quan quản lý lao động và bảo hiểm xã hội lại chưa được quán triệt vì thiếu sự chỉ dẫn của cấp trên về phương pháp tiến hành cho đến nay vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Thứ tư, vấn đề các tổ chức Đảng, công đoàn, các tổ chức xã hội khác hoạt động như thế nào. Hiện nay trong các công ty cổ phần hóa, các hoạt động của các tổ chức Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên vẫn diễn ra bình thường. Tuy nhiên, đã nảy sinh ra một số vấn đề cần giải quyết:
- Mục tiêu, nói chung và phương pháp lãnh đạo của tổ chức Đảng trong các công ty cổ phần, mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của tổ chức Đảng với hội đồng quản trị.
- Mục tiêu nói chung, phương pháp hoạt động công đoàn trong các công ty cổ phần mà trong đó vừa có sở hữu của nhà nước vừa có sở hữu của các cổ đông. Đại hội của các cổ đông và đại hội công nhân viên chức trong công ty sẽ tiến hành ra sao...
- Chi phí cho các hoạt động của Đảng, công đoàn công ty phải có đóng góp như trước đây không.
II.2. Vì sao cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước lại diễn ra chậm chạp và khó khăn
Mặc dù, chính phủ đã ban hành quyết định về cổ phần hóa DNNN cách đây hơn 6 năm, trong thời gian đó chính phủ, các bộ, các ngành đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về việc hướng dẫn, thi hành, tuy nhiên quá trình cổ phần hóa DNNN trên thực tế diễn ra rất chậm chạp, vậy nguyên nhân nào làm cho các DNNN chần chừ khi tham gia vào quá trình cổ phần hóa. Sau đây là một số nguyên nhân cơ bản:
Cũng như các nước thuộc phe XHCN trước đây, khó khăn, cản trở lớn nhất của nước ta khi tiến hành cổ phần hóa là cơ chế quản lý quan liêu bao cấp được duy trì quá lâu vì vậy khu vực tư nhân luôn được coi là đối tượng cải tạo XHCN. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường, trong đó hình thái kinh tế một chủ tự đúng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều nay gây ra sự bỡ ngỡ cho cả mẫu đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu và đó cũng là một trong những nhân cơ bản làm cho chương trình cổ phần hóa ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài.
Cùng với sự yết ớt, nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự, trong đó phải kể tới thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán được hiểu là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch và mua bán chứng khoán. Chứng khoán bao gồm nhiều loại song cổ phiếu là cơ bản. Do đó, thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường. Do thiếu vắng thị trường chứng khoán do đó việc huy động vốn, trao đổi, giao dịch chứng khoán gặp nhiều khó khăn, do đó nó đã gây khó khăn và làm cản trở quá trình cổ phần hóa của chúng ta trong mấy năm qua.
Tuy đã xác định được các mục tiêu chủ yếu cần đạt tới qua cổ phần hóa “Nâng cao hiệu quả kinh tế kinh doanh, huy động một bộ phận vốn và tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của người lao động” là đúng, song một loạt vấn đề có tính nguyên tắc cần xử lý để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trên đã không được định hướng rõ ràng, dứt khoát trên cơ sở nhận thức nhất quán. Hơn nữa không phải mọi mục tiêu nêu ra là hoàn toàn thống nhất với nhau, nhất là phương án lựa chọn tỉ lệ các loại cổ đông hay các phần giá trị doanh nghiệp bán cho các cổ đông. Dẫn đến lúng túng trong xử lý công việc.
Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của nhà nước về luật phát, thuế khóa, tiền tệ... chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người đầu tư lâu dài. Nhiều chính sách kinh tế ra đời chồng chéo, mâu thuẫn nhau và thay đổi đột ngột, sự đổi mới của hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm so với đòi hỏi của kinh tế thị trường... là yếu tố gây bất lợi cho quá trình cổ phần hóa các DNNN.
Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt các vấn đề có liên quan tới chương trình cổ phần hóa như: các khoản trợ cấp cho người lao động thất nghiệp, chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm xã hội, các chi phí để thực hiện việc tư vấn quảng cáo, môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các giao dịch buôn bán cổ phiếu... các khoản phí tổn này thường là rất lớn, tuy nhiên nếu bỏ qua sẽ không khuyến khích được quá trình chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần.
Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất. Sự yếu kém trong hệ thống kiểm toán gây nhiều trở ngại cho việc đánh chính xác giá trị của doanh nghiệp, tình hình hoạt động và triển vọng kinh doanh của các doanh nghiệp được chọn làm cổ phần hóa, do đó gây khó khăn cho việc cung cấp các thông tin trung thực, tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phần hóa với những doanh nghiệp này.
Trong phạm vi doanh nghiệp, nguyên nhân cơ bản là do các doanh nghiệp nhà nước của ta hầu hết có trang bị máy móc cũ kĩ, công nghệ lạchậu, khả năng cạnh tranh và thích nghi thấp... do đó khó có thể tiến hành cổ phần hóa ở các doanh nghiệp này, số doanh nghiệp có mức lợi nhuận đủ hấp dẫn còn quá ít mặt khác đối với các doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì phần lớn nhà nước chưa có ý định cổ phần hóa. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn các doanh nghiệp cổ phần, cũng như thu hút sự hưởng ứng của đông đảo những người có vốn đầu tư bằng cổ phiếu.
Quá trình cổ phần hóa vẫn chưa được sự đồng tình ủng hộ của cán bộ, công nhân trong các DNNN vì vấn đề cổ phần hóa động chạm tới lợi ích của họ, người công nhân thì chưa thỏa đáng với việc đánh đổi giữa lợi tức cổ phần thu được và sự thất nghiệp, đối với cán bộ quản lý đứng trước nguy cơ mất việc nếu không làm tốt. Điều nay gây cản trở lớn cho quá trình cổ phần hóa vì cổ phần hóa được tiến hành là do nguyện vọng của các bên tham gia.
Về tư tưởng và tâm lý của đại đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này, thậm chí còn có những phản ứng nhất định đối với những người đang sống yên ổn trong khu vực nhà nước. Về mặt suy nghĩ, nhiều người làm công tác lãnh đạo và quản lý nhà nước vẫn chưa đoạn tuyệt được quan điểm coi kinh tế nhà nước là CNXH và vì vậy thu hẹp khu vực này có nghĩa là xa rời với CNXH, là phá vỡ cơ chế kinh tế CNXH... Đó là những trở ngại chủ quan không thể không tính đến trong quá trình tiến hành cổ phần hoá.
II3. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam.
II.3.1. Cổ phần hoá qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Cổ phần hoá DNNN tuy là mới mẻ so với nước ta nhưng trên thực tế hầu hết các nước phát triển thoe nền kinh tế thị trường đều đã tiến hành. Là một nước đi sau, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước và qua đó rút ra bài học cho quá trình cổ phần hoá ở nước ta.
* Cổ phần hoá ở các nước tư bản phát triển.
Tiến trình cổ phần hoá DNNN được các nước tư bản phát triển (đặc biệt ở Tây âu) tiến hành mạnh mẽ trong thập kỷ 80. Chính sách cổ phần hoá bao trùm ở các nước này dựa trên quan điểm cho rằng, việc tổ chức đời sống xã hội tuân theo các qui luật thị trường thương mại hoá sản xuất và cạnh tranh bình đẳng có hiệu quả hơn là tuân theo các quan hệ chỉ huy tập trung và cơ chế hành chính.
Việc cổ phần hoá ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển không phải là để xoá bỏ những chức năng đặc biệt về kinh tế mà chỉ có khu vực kinh tế nhà nước mới đảm nhận được mà là nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực này. Do đó chính phủ mỗi nước đã lựa chọn các phương pháp tiến hành cổ phần hoá sao cho không làm suy yếu khu vực kinh tế nhà nước, mà trái lại nó đã củng cố địa vị xứng đáng cho các doanh nghiệp nhà nước.
Xét về qui mô, sau khi tiến hành cổ phần hoá khu vực kinh tế nhà nước ở các nước công nghiệp phát triển có sự thu hẹp theo các chỉ số về tỉ lệ việc làm tỉ trọng vốn đầu tư tư bản cố định và thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, sự suy giảm này không làm thay đổi vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế.
Nét đặc trưng quá trình cổ phần hoá ở các nước tư bản phát triển là hình thành c ác công ty cổ phần hỗn hợp nhà nước, tư nhân hoạt động trên cơ sở thị trường và pháp luật của nhà nước. Những công ty quốc doanh được đổi mới thành các công ty cổ phần quan trọng làm cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị này trở lên năng động.
* Cổ phần hoá ở nhóm các nước đang phát triển.
ở đây chúng ta nghiên cứu kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN ở các nước đang phát triển châu á. Mục tiêu chính của cổ phần hoá ở các nước này là nhà nước rút khỏi các lĩnh vực hoạt động xét thấy không cần thiết phải nắm giữ và duy trì sự độc quyền của nhà nước mà chuyển giao cho khu vực tư nhân, nhằm thực hiện cạnh tranh để nâng cao hiệu quả, mục tiêu nữa của cổ phần hoá ở các nước này là phát triển thị trường chứng khoán trong nước. Điều này cho phép cùng với việc bán cổ phần của nhà nước cho tư nhân, thì việc mở rộng thị trường và huy động vốn qua đăng ký và phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán cũng đã trở lên phổ biến và do đó số lượng các loại hình công ty cổ phiếu ở các nước này tăng nhanh chóng. Số tiền thu được từ việc bán cổ phiếu của các DNNN sẽ được bổ sung vào khoản ngân sách giành cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng, và các ngành kinh tế chiến lược mà nhà nước cần kiểm soát.
* Cổ phần hoá ở nhóm các nước XHCN trước đây thuộc Đông Âu.
Khác với các nước phát triển và đang phát triển, nơi có nền kinh tế thị trường khá phát triển và quá trình cổ phần hoá nhằm hướng vào thúc đẩy các hoạt động của thị trường sẵn có. Đôi với các nước XHCN cũ ở Đông âu đã trở thành cuộc thử nghiệm quan trọng đối với các chính phủ mới thành lập, cam kết thực hiện chuyển sang nền kinh tế thị trường và chuyển sang một hệ thống chính trị dựa trên quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do cá nhân.
Đối với các nước này, việc tiến hành cổ phần hoá và tư nhân hoá được đặt trong một chương trình tư nhân hoá rộng lớn, diễn ra một cách ồ ạt, cho nên quá trình này trở nên hết sức khó khăn và phức tạp, qui mô và phạm vi tiến hành đồ sộ mà thời gian đòi hỏi ngắn hơn nhiều so với các nước khác, hơn nữa hầu hết các DNNN làm ăn kém hiệu quả.
II.3.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam qua kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN ở các nước trên thế giới.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, có thể rút ra một số bài học cho quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước như sau:
* Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá.
Việc triển khai có tính chất toàn cầu hoá quá trình cổ phần hoá được tiến hành mạnh mẽ từ những năm 80 tới nay đã chứng tỏ rằng hầu hết các chính phủ các nước đều thấy sự cần thiết phải xác lập lại mối quan hệ giữa kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân theo hướng giảm bớt mức độ sở hưũ và kiểm soát trực tiếp của nhà nước, giành sự điều tiết mạnh mẽ hơn cho cơ chế thị trường.
Tiến trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam không thể thiếu nội dung cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó đặc biệt quan tâm tới vấn đề thu hẹp sở hữu nhà nước và sự can thiệp trực tiếp của nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp coi trọng vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Vì vậy, tiến hành cổ phần hoá DNNN ở nước ta là tất yếu khách quan và cũng là một đòi hỏi khách quan của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
* Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá. Quá trình cổ phần hoá phản ánh các sắc thái khác nhau vì mục tiêu, các tổ chức, bước đi và các biện pháp cụ thể do những đặc điểm về hoàn cảnh chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước, cũng như quan niệm xây dựng và phát triển nền kinh tế của mỗi chính phủ qui định. ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, nhất là đã có hoạt động mạnh mẽ của thị trường chứng khoán thì gặp thuận lợi hơn nhiều so với những nước có nền kinh tế thị trường chậm phát triển và thị trường chứng khoán chưa hình thành. Đặc biệt là ở các nước Đông Âu do thiếu những điều kiện hết sức quan trọng cho nên quá trình cổ phần hoá của các nước này diễn ra lâu dài và phức tạp hơn nhiều so với các nước tư bản phát triển.
Quá trình cổ phần ở Việt Nam, chúng ta không thể không chú ý đến tính đặc thù về điều kiện qui định mục tiêu, phương pháp bước đi trong quá trình cổ phần hoá các DNNN. Trong điều kiện ở nước ta chưa có thị trường chứng khoán, khu vực kinh tế nhà nước còn chiếm tỉ trọng lớn, thì có thể học tập kinh nghiệm của các nước có điều kiện tương đồng. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng những kinh nghiệm đó cần chú ý tới tính đặc thù của mỗi nước để sàng lọc và thử nghiệm kỹ càng trong điều kiện của nước ta.
Tính chiến lược của quá trình thực hiện cổ phần hoá: Nhiều công trình nghiên cứu về kinh nghiệm của một số nước về vấn đề này đều cho thấy cổ phần hoá là một bộ phận của quá trình cải cách toàn bộ nền kinh tế và vì vậy, nó đỏi hỏi phải được suy xét và hành động mang tính chiến lược cao. Vì vậy ở hầu hết các nước, để cho chương trình thực hiện thành công, chính phủ đều lập ra cơ quan đại diện đứng đầu hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với vấn đề cổ phần hoá. Cơ quan này phải quản lý toàn bộ quá trình theo những quan điểm có tính chiến lược trong việc đánh giá, soạn thảo chỉ đạo, kiểm tra và điều chỉnh. Đây là một yếu tố cốt lõi trong sự thành công của chương trình cổ phần hoá ở nhiều nước.
Tạo môi trường pháp lý cho việc cổ phần hoá. Các nước khi tiến hành cổ phần hoá đều phải tạo ra một môi trường pháp lý cần thiết. Đó là các bộ luật quan trọng và là điều kiện để xác lập, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra các khung pháp luật cho sự chuyển hoá và hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hoá và các công ty nói chung. ở Việt Nam để tiến hành cổ phần hoá và đổi mới cơ chế kinh tế nói chung, không thể không có vấn đề về môi trường pháp lý và ổn định kinh tế vĩ mô. Cho tới nay, nhà nước cũng đã liên tiếp ban hành nhiều bộ luật nhằm xác định và hoàn thiện môi trường pháp lý để từng bước tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hoá DNNN thực hiện kết quả.
Ngoài ra, cần phải có tổ chức để thẩm tra, thanh tra cổ phần hoá DNNN nhằm chống và hạn chế tham nhũng trong khi thực hiện quá trình này. Mặt khác, phải đảm bảo tỉ suất lợi nhuận ở các công ty cổ phần bằng hoặc cao hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân, nếu thấp hơn người mua phải được bù lại bằng quyền có việc làm...
III. Các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến hành cổ phần hoá các DNNN ở nước ta.
Cho tới nay quá trình cổ phần hoá DNNN đã được triển khai hơn 6 năm, tuy nhiên tốc độ rất chậm chạp. Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN các nhà kinh tế đã đưa ra một số giải pháp như sau:
III.1. ở tầm vi mô:
1. Cần phải xác định rõ những doanh nghiệp loại nào thì tiến hành cổ phần hoá và tỉ lệ phần trăm vốn của nhà nước cần giữ lại ở từng nhóm doanh nghiệp cụ thể.
Quyết định số 202/CT của thủ tướng chính phủ qui định các điều kiện lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá, trong đó có điều kiện " không thuộc diện những doanh nghiệp cần t hiết phải giữ 100% vốn đầu tư của nhà nước". Hiểu như thế nào về điều kiện này, hiện nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể.
Nếu quan niệm rằng DNNN được thành lập và hoạt động không phải vì mục đích lợi nhuận hoặc trước hết là không phải vì lợi nhuận trực tiếp, thì chỉ cần giữ lại các doanh nghiệp thực kết cấu hạ tầng và tạo nên môi trường kinh doanh cho các thành phần kinh tế khác hoạt động. Còn lại đa phần các doanh nghiệp khác phải được chuyển đổi hình thức sở hữu hoặc đan xen giữa sở hữu nhà nước, tập thể tư nhân cá thể... bằng các giải pháp khác nhau trong đó có cổ phần hoá.
Nếu xuất phát từ quan điểm cho rằng DNNN phải nắm vị trí chủ đạo trong hầu hết các ngành kinh tế, kể cả sản xuất, lưu thông và dịch vụ. Từ đó chỉ chủ trương chuyển đổi sở hữu, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhỏ thua lỗ. Trường hợp nếu một số doanh nghiệp tương đối lớn được đưa vào cổ phần hoá thì nhà nước phải nắm tỉ lệ cổ phần đa số để giữ vai trò quản lý của doanh nghiệp. Nếu giải quyết theo quan điểm này thì sẽ dẫn tới hậu quả là về cơ bản không thể sử lý được tình trạng trì trệ, kinh doanh kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước. Nhưng điều đáng quan tâm là hiện nay khá nhiều các giám đốc DNNN ủng hộ chủ trương này. Vì họ sẽ đạt được cả hai mục đích: Một là được đánh giá cao về quan điểm chỉ đạo DNNN; hai là, nếu được tiếp tục và hầu như chắc chắn giữ đựơc vị trí quản lý doanh nghiệp thì trong một chừng mực nhất định thì họ sẽ có lợi hơn trong kinh doanh.
Do đó, Vấn đề bức bách đặt ra là nhà nước nên sớm ban hành văn bản qui định rõ ràng những doanh nghiệp nào nhà nước cần giữ lại 100% vốn, và tỉ lệ cổ phần của nhà nước trong từng nhóm doanh nghiệp nhất định phụ thuộc vào vị trí, vai trò của các ngành đó, để vừa đảm bảo thúc đẩy quá trình cổ phần hoá, vừa đảm bảo vai trò chủ đạo của nhà nước trong những ngành then chốt.
2. Việc lựa chọn các doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá thuộc thẩm quyền và chức năng của nhà nước với tư cách là người sở hữu chứ không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của ban giám đốc và tập thể lao động trong doanh nghiệp. Nguyên tắc này được nêu ra để làm cơ sở cho các cơ quan chủ quan của nhà nước phân loại doanh nghiệp do mình quản lý để thực hiện cổ phần hoá. Về cơ bản có thể sắp xếp các doanh nghiệp thành ba loại.
* Loại doanh nghiệp không chuyển thành công ty cổ phần vì ở những ngành, những lĩnh vực nhà nước cần có sự kiểm soát và độc quyền.
* Loại doanh nghiệp có thể chuyển thành công ty cổ phần, nhưng trong vài năm tới các điều kiện chủ quan và khách quan chưa thuận lợi. Chẳng hạn những doanh nghiệp qui mô quá lớn, lợi nhuận chưa đủ hấp dẫn để có thể bán được cổ phần phiếu.
* Loại doanh nghiệp cần được ưu tiên chuyển thành công ty cổ phần, loại doanh nghiệp này sẽ được lựa chọn để cổ phần hoá trong thời gian tới.
Do đó nhà nước cần phải có những chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia vào quá trình cổ phần hoá.
3. Dựa vào bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cần xác định mục tiêu chủ yếu và cụ thể đối với từng doanh nghiệp được lựa chọn cổ phần hoá. Có thể phân loại ba nhóm doanh nghiệp với ba mục tiêu khác nhau như sau:
* Thứ nhất: nếu nhằm mục đích thu hồi vốn để đầu tư vào lĩnh vực khác thì mục tiêu doanh lợi ít được chú ý, thực chất cổ phần hoá loại doanh nghiệp này là nhà nước không hướng vào mục tiêu huy động vốn để tiếp tục kinh doanh mà là bán doanh nghiệp với tình trạng pháp lý đầy đủ để tư nhân muốn kinh doanh làm vốn "mua lại pháp nhân để huy động"
* Thứ hai, nếu nhằm mục tiêu huy động vốn để nhà nước tiếp tục kinh doanh điều kiện về lợi nhuận và nhất là điều kiện kinh doanh cần được nhấn mạnh hơn.
* Thứ ba, nếu cổ phần hoá nhằm mục tiêu nâng cao vai trò của công nhân, tạo điều kiện cho họ thực sự làm chủ doanh nghiệp thì nhà nước cần chú ý tới điều kiện mức thu nhập của công nhân, và khả năng mua cổ phần dưới dạng trả góp cũng như tỉ trọng vốn pháp định của doanh nghiệp.
Việc xây dựng mục tiêu rõ ràng cho từng doanh nghiệp tạo điều kiện cho các DNNN chủ động tiến hành cổ phần hoá theo mục tiêu nhất định và nó cũng góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở các doanh nghiệp này.
4. Phương pháp bán cổ phiếu của doanh nghiệp cần được thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản dễ hiểu đối với mọi người, tạo điều kiện thuận lợi để tất cả các nhà đầu tư thông qua cổ phần đều có thể mua được một lượng cổ phiếu nhất định. Về cơ bản có thể vận dụng một trong ba phương pháp sau:
Bán cho các đối tượng được xác định trước, áp dụng cho các doanh nghiệp có bộ máy quản lý yếu kém, các đối tượng được lựa chọn thường đóng vai trò là những cổ phần chủ lực để tạo lập cơ sở cho việc tiếp tục cổ phần rộng rãi sau này.
Bán rộng rãi cho mọi đối tượng, áp dụng cho doanh nghiệp có thành tích kinh doanh khả quan, mức độ lợi nhuận đảm bảo.
Bán một một nội bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, áp dụng cho các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ và họ có khả năng mua lại đại bộ phận cổ phiếu của doanh nghiệp.
Việc áp dụng phương pháp bán cổ phiếu phù hợp với từng loại doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu hút vốn một cách nhanh chóng và rút ngắn quá trình chuyển sang công ty cổ phần.
III.2. ở tầm vĩ mô.
1. Nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý đầy đủ cho sự ra đời và hoạt động của công ty cổ phần. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, tất cả mọi hoạt động kinh tế đều phải chịu sự định chế của nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN, nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý hoàn thiện tạo điều kiện cho các công ty cổ phần sớm đi vào hoạt động ổn định, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. ở nước ta, trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế và xác lập nền kinh tế thị trường nói chung, cũng như để tiến hành cổ phần hoá DNNN nói riêng, ngoài việc phải sửa đổi bổ sung những luật có cần sớm ban hành và bổ sung những bộ luật quan trọng khác như: luật đầu tư trong nước, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật về thị trường chứng khoán và sở giao dịch... để từng bước xác lập ra môi trường pháp lý cho sự hoạt động của các công ty cổ phần sẽ đựơc hình thành.
Trong vấn đề này để đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư cổ phiếu. Nhà nước nên có tự nghiên cứu và ban hành một bộ luật đặc biệt làm cơ sở căn bản cho quá trình cổ phần hoá DNNN. Đó là luật "Chuyển đổi sở hữu nhà nước". Vì ta cần quan niệm rằng quá trình cổ phần hoá DNNN không phải chỉ có tính chất tạm thời trong một giai đoạn nhất định mà là chiến lược lâu dài, cũng như sẽ không xảy ra quá trình quốc hữu hoá trở lại đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá tư nhân. Luật chuyển đổi sở hữu nhà nước ban hành sẽ khẳng định sự cam kết của nhà nước đi theo con đường phát triển nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện pháp lý cần thiết cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như dân chúng thực hiện một cách yên tâm công cuộc cổ phần hoá với qui mô rộng lớn khó khăn và lâu dài của nhà nước.
2. Thành lập một cơ quan nhà nước có quyền lực để thực hiện chương trình cổ phần hoá DNNN. Thực tiễn quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta hơn 6 năm qua đã cho thấy sự cần thiết phải có một cơ quan được nhà nước thành lập và uỷ quyền để giải quyết các vấn đề đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, trong đó chuyên trách theo dõi, chỉ đạo và có đầy đủ thẩm quyền quyết định các vấn đề có liên quan đến công việc cổ phần hoá DNNN. Tổ chức này có nhiệm vụ là quản lý và thực hiện sự chuyển đổi và đa dạng hoá sở hữu đúng với pháp luật trong các doanh nghiệp nhà nước, chống lại sự trục lợi tham nhũng tẩu tán tài sản của nhà nước. Vì vậy ở nước ta cần gấp rút thành lập một cơ quan nhà nước có đủ thẩm quyền, với sự tập hợp của các chuyên gia am hiểu về lĩnh vực tài chính ngân hàng, quản trị kinh doanh, luật pháp... để chỉ đạo và điều hành có kết quả chương trình cổ phần hoá đầy khó khăn và phức tạp này. Sự tồn tại và hoạt động của cơ quan này trong thời gian bao lâu là tuỳ thuộc vào mục tiêu và kế t quả của quá trình đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phạm vi và mức độ cho phép chuyển DNNN sang hình thức công ty cổ phần.
3. Từng bước xây dựng thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh hoạt động kinh tế của các công ty, là nơi cung ứng các nguồn vốn và phân phối các cơ hội đầu tư cho công ty và công chúng. Trên thực tế thị trường chứng khoán là điều kiện cho sự ra đời và phát triển của các công ty cổ phần. Vì vậy cùng với sự ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần theo luật công ty và quá trình cổ phần hoá các DNNN, nhà nước cần gấp rút tạo điều kiện để xây dựng thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán. Thông thường thị trường chứng khoán bao gồm 2 bộ phận: Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành các chứng khoán mới và thị trường thứ cấp - thị trường mua bán các chứng khoán đã phát hành.
ở nước ta, tuy hệ thống ngân hàng đã chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp, nhưng phương thức và phương pháp hoạt động còn chưa kịp đổi mới với những đòi hỏi của thị trường vốn trong xã hội. Hệ thống các quĩ tín dụng và ngân hàng cổ phần mới ra đời chưa đủ thực lực và kinh nghiệm để làm điều kiện cho các công ty cổ phần ra đời và hoạt động. Để giải quyết vấn đề bức bách đó, vừa qua chính phủ đã cho phép hai thành phố Hà Nội và TP Hồ Chí Minh xúc tiến nghiên cứu và xây dựng thị trường chứng khoán mà bước đầu là thị trường sơ cấp.
Để xúc tiến cho ra đời thị trường chứng khoán trong cả nước cũng như góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá, cần phải chuẩn bị một số điều kiện nhất định sau:
+ Nhà nứơc phải gấp rút xây dựng bộ luật về thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán làm cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của thị trường này.
+ Xây dựng hệ thống kiểm toán độc lập. Đẩy nhanh hoạt động bảo hiểm đến mọi đối tượng và thành lập các công ty bảo hiểm như là một tổ chức tài chính quan trọng sẽ tham gia vào hoạt động của thị trường chứng khoán...
III.3. Những kiến nghị của bản thân nhằm góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta.
Ngoài các giải pháp đã nêu ở trên, bài viết mạnh dạn đưa thêm một số giải pháp và kiến nghị để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá như sau:
* Thứ nhất, nhà nước cần có những chính sách cụ thể để bảo vệ lợi ích của người lao động và cán bộ quản lý khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần. Như đã nêu ở trên, một trong những nguyên nhân làm chậm quá trình cổ phần hoá là lợi ích của người lao động và cán bộ quản lý doanh nghiệp chưa được đảm bảo thoả đáng khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần. Công nhân thì sợ mất việc làm, cán bộ lãnh đạo thì sợ mất chức. Trong thời gian qua, nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao động như: QĐ 202/CT của thủ tướng chính phủ ban hành ngày 8/6/1992 và nghị định 28/CP ban hành ngày 7/5/1996. Qui định:
* Nhà nước bán chịu cổ phiếu không lấy lãi cho công nhân, bình quân mỗi người 3 triệu đồng trong thời gian 5 năm.
* Nhà nước cấp cho công nhân viên một số cổ phiếu tuỳ theo thâm niên và chất lượng công tác của từng người. Người lao động được hưởng 100% cổ tức, được quyền thừa kế cho con làm việc tại công ty cổ phần, nhưng không đựơc chuyển nhượng (mua, bán) vì những cổ phiếu này thuộc quyền sở hữu của nhà nước.
Ta thấy các văn bản pháp luật của nhà nứơc ban hành mới chỉ khuyến khích đựơc người lao động mua cổ phiếu, chưa đề cập cụ thể tới quyền lợi của người lao động trong công ty cổ phần. Do đó, nhà nước cần sớm ban hành các văn bản qui định rõ ràng về tiền lương, lợi tức thu được và vai trò của người lao động trong việc quản lý doanh nghiệp, đảm bảo phúc lợi cho người lao động như bảo hiểm, trợ cấp khó khăn... có như vậy thì người lao động mới nhận thấy lợi ích thiết thực của quá trình tham gia vào các công ty cổ phần.
* Thứ hai, cần có chính sách ưu đãi hơn nữa đối với các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá. Theo qui định của nhà nước ta hiện nay khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được hươỏng hai ưu đãi chính:
+Được sử dụng số chi quĩ khen thưởng và phúc lợi chia cho công nhân viên để mua cổ phiêú.
+Được giảm thuế lợi tức 50% trong hai năm nếu như khi chuyển sang công ty cổ phần gặp khó khăn.
Qua thực tế thí điểm cho thấy, ưu tiên thứ nhất là phù hợp với thực tiễn và được sự đồng tình của các doanh nghiệp. Nhưng còn ưu tiên thứ hai thì chưa hợp lí vì trong những năm đầu chuyển sang công ty cổ phần - một loại hình kinh doanh mới mẻ, hầu hết các công ty đều gặp những khó khăn nhất định. Chưa thể có lợi nhuận ngay trong một vài năm đầu hoặc nếu có thì rất thấp. Vì vậy việc giảm thuế lợi tức 50% trong hai năm đầu hầu như trong có ý nghĩa lớn đối với doanh nghiệp. Theo tôi nhà nước cần điều chỉnh lại là giảm thuế lợi tức 50% trong hai năm kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu làm ăn có lãi. Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty cổ phần.
Mặt khác, nhà nước cũng nên bỏ ra một khoản chi phí nhất định để thành lập ra các cơ quan môi giới, tư vấn, quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm của các công ty cổ phần. Làm như vậy vừa tạo điều kiện cho các công ty cổ phần hoạt động một cách hiệu quả vừa tạo khả năng thu hồi vốn cho nhà nước từ các công ty cổ phần.
* Thứ ba, nhà nước cần đưa ra các tiêu thức để phân loại các doanh nghiệp theo qui mô. Vì hiện nay đối tượng cổ phần hoá là các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thuộc diện nhà nước phải giữ lại 100% vốn. Việc xác định chính xác qui mô của doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc xác định rõ ràng những doanh nghiệp nhà nước nào tiến hành cổ phần và những doanh nghiệp nào không tiến hành. Hiện nay, trên thế giới có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại qui mô doanh nghiệp: Căn cứ vào qui mô vốn, số lượng lao động... Trong điều kiện nước ta hiện nay, do hoàn cảnh để lại, đa số các DNNN có số lượng lao động rất lớn nhưng tổng số vốn lại rất nhỏ, vì vậy. Nên căn cứ vào qui mô vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp là hợp lý hơn cả. Trong đó số vốn thực có của nhà nước tại doanh nghiệp được xác định bằng số vốn nhà nước giao, cộng với lợi nhuận để lại doanh nghiệp, trừ đi số thua lỗ, mất vốn đang treo nợ. Nếu so với qui mô nền kinh tế của nước ta hiện nay thì các doanh nghiệp có số vốn đầu tư 10 tỷ đồng trở xuống là các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ có thể tiến hành cổ phần hoá.
* Thứ tư, nhà nước cần phải điều chỉnh lại mức khống chế đối với các đối tượng mua cổ phiếu. Theo QĐ 202/CT và chỉ thị 84/TTg qui định việc bán cổ phiếu cho bốn đối tượng với mức khống chế như sau:
+ Cán bộ công nhân viên được mua 20% đến 30% tổng số cổ phiếu phát hành đợt đầu. (tức 20 - 30% tổng giá trị doanh nghiệp).
+ Một pháp nhân trong nước mua không quá 10%, mỗi cá nhân trong nước đựơc mua không quá 5%.
+ Pháp nhân và cá nhân nước ngoài được mua không quá 30%.
Những qui định trên đây là căn cứ vào thông lệ quốc tế và tình hình cụ thể ở nước ta. Tuy nhiên trong thực tiễn tiến hành cổ phần hoá cho thấy nhà nước cần tăng mức khống chế đối với các đối tượng có tín nhiệm cao, có vốn lớn, công nghệ hiện đại, có kinh nghiệm trong quản lý doanh nghiệp tốt. Có như vậy thì doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá có ban lãn đạo quản lý tốt, có triển vọng tốt trong quá trình kinh doanh.
* Thứ năm, để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá cần mở rộng thêm các đối tượng được phép tiến hành cổ phần hoá. Hiện nay nhà nước qui định các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá là các doanh nghiệp :
+ Có qui mô vừa và nhỏ
+ Doanh nghiệp không thuộc diện nhà nước cần đầu tư 100% vốn.
+ Doanh nghiệp đang có lãi, hoặc trước măt đang gặp khó khăn, nhưng có triển vọng làm ăn tốt trong tương lai.
Các qui định này phù hợp với giai đoạn đầu quá trình cổ phần hoá DNNN, việc qui định chỉ tiến hành cổ phần hoá với các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ vì khi tiến hành cổ phần hoá với các doanh nghiệp lớn sẽ khó khăn hơn và nếu có sai sót sẽ gây tổn thất lớn cho nhà nước. Tuy nhiên, cho tới nay quá trình cổ phần hoá đã được tiến hành hơn sáu năm, chúng ta cũng đã tích luỹ được một số kinh nghiệm nhất định vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần tiến hành thí điểm cổ phần hoá một số một số doanh nghiệp có qui mô lớn. Một số doanh nghiệp có qui mô rất lớn (như các tổng công ty ở nước ta hiện nay) chưa thể tiến hành cổ phần hoá đối với toàn bộ doanh nghiệp thì nhà nứơc nên sớm có phương án tiến hành cổ phần hóa một bộ phận các xí nghiệp thuộc các tổng công ty đó.
Mặt khác, với điều kiện ba chỉ tiến hành cổ phần hoá với các doanh nghiệp có lãi, thực tế cho thấy hầu hết các DNNN ở nứơc ta hiện nay đều làm ăn thua lỗ, số doanh nghiệp hoạt động có lãi không nhiều, nếu chỉ tiến hành cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp làm ăn lãi thì chỉ có thể tiến hành với số lượng ít mặt khác các DNNN làm ăn thua lỗ thì giải quyết như thế nào, nếu giữ lại như cũ thì sẽ tăng gánh nặng cho nhà nước mà hiệu quả lại không cao, nếu tiến hành phá sản thì sẽ gây tổn thất cho nền kinh tế. Do đó nhà nước cần có những chính sách khuyến khích, ưu tiên đặc biệt đối với các doanh nghiệp này tạo điều kiện cho họ có khả năng chuyển sang công ty cổ phần. Làm như vậy vừa đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá, vừa nâng cao hiệu quả cho nền kinh tế.
* Thứ sáu, Hiện nay ở nước ta khi thị trường chứng khoán còn chưa phát triển, thì ngân hàng phải là trợ thủ đắc lực, để thông qua đó doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu ra ngoài, và cho vay đối với công ty cổ phần để giúp cho họ có khả năng cải tiến đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hoá. Để làm được điều đó cần phải đổi mới hình thức hoạt động của hệ thống ngân hàng, đổi mới các nghiệp vụ và các chức năng môi giới, tư vấn cho các doanh nghiệp. Thực tế trong những năm qua, ngân hàng và các tổ chức tín dụng có vai trò rất to lớn trong việc tổ chức, sắp xếp lại kinh tế quốc doanh theo hướng cổ phần hoá và trong việc đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ hiện đại vào sản xuất, kinh doanh. Nếu ngân hàng làm được vai trò trợ thủ đắc lực cho sự ra đời của các công ty cổ phần hoá theo hướng này, sẽ kích thích khai thác được tiềm năng không nhỏ ở nước ta và làm cho quá trình cổ phần hoá DNNN ở nứơc ta diễn ra nhanh chóng và thuận lợi hơn.
*Thứ bảy, Cần đẩy nhanh quá trình hoàn thiện hệ thống kiểm toán ở nước ta, xác định chính sách giá trị và tình hình hoạt động của các DNNN trước khi tiến hành cổ phần hoá. Do bị ảnh hưởng của thời kỳ bao cấp trong các DNNN hiện tượng lãi giả lỗ thật diễn ra một cách phổ biến, các sổ kế toán của doanh nghiệp chưa phản ánh được tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cùng với sự yếu kém của hệ thống kiểm toán nhà nước dẫn tới không đánh giá chính xác tài sản doanh nghiệp và tình hình sản xuất kinh doanh, làm mất lòng tin của người đầu tư bằng cổ phiếu và các công ty cổ phần và gây khó khăn cho nhà nước trong việc xác định các doanh nghiệp nào được lựa chọn để tiến hành cổ phần hoá. Do đó, cần thiết phải đề ra các chủ trương để hoàn thiện và củng cố hệ thống kiểm toán Việt Nam.
*Thứ tám, cổ phần hoá là một vấn đề mới mẻ và khó khăn, vì vậy cần tránh quan điểm nóng vội cổ phần hoá một cách ồ ạt. Bài hộc kinh nghiệm trong quá trình cổ phần hoá ở các nước XHXW cũ thuộc đông Âu cho chúng ta thấy, nếu tiến hành cổ phần hoá ồ ạt, trên quy mô rộng lớn mà chỉ trong thời gian ngắn sẽ không những không làm cho quá trình cổ phần hoá diễn ra nhanh chóng mà còn làm cho quá trình này trở nên khó khăn, phức tạp, làm suy yếu khu vực kinh tế nhà nước, gây tổn thất lớn cho nền kinh tế và xã hội. Vì vậy ở đây, việc đưa ra các giải pháp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá cần tránh chủ quan, tiến hành ngay một cách ồ ạt trên phạm vi rộng lớn.
* Thứ chín, Cần tuyên truyền sâu, rộng việc cổ phần hoá cho mọi tầng lớp nhân dân, để mọi người thấy đựơc lợi ích thiết thực khi tham gia vào công ty cổ phần hoá. Hiện nay, trên thực tế, có nhiều cách để đầu tư tài sản của mình như gửi tiền vào tiết kiệm tại ngân hàng, mua trái phiếu kho bạc, tích trữ đô la, đầu tư vào sản xuất, đầu tư bằng cổ phiếu... Hình thức đầu tư bằng cổ phiếu là hình thức mới, nhưng có khả năng mang lại lợi nhuận rất cao. Tuy nhiên do chưa hiểu kỹ về hình thức này do đó nhiều người còn do dự chưa tiến hành đầu tư. Vì vậy, để quá trình cổ phần hoá tiến hành nhanh hơn và phổ biến trong cả nước, nhà nước cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để mọi người dân hiểu được lợi ích của mình khi tham gia mua cổ phần.
Kết luận
Cổ phần hoá DNNN là một trong những quan điểm và giải pháp quan trọng của Đảng và nhà nước nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN ở nước ta. Qua quá trình nghiên cứu và xuất phát từ thực tiễn gần mười năm tổ chức sắp xếp lại các DNNN ở Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định đây là giải pháp phù hợp nhất với thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, nó góp phần quan trọng trong việc huy động và thu hút nguồn vốn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, củng cố và phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, góp phần quan trọng trong việc giữ vững định hướng XHCN ở nước ta.
Tuy nhiên, như chúng ta đều thấy cổ phần hoá DNNN là quá trình khó khăn phức tạp, khi tiến hành cổ phần hoá cần giải quyết thoả đáng với các vấn đề kinh tế - xã hội có thể phát sinh như quyền lợi của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, đảm bảo hiệu quả hoạt động của các DNNN khi chuyển sang công ty cổ phần ... Do đó, cổ phần hoá DNNN là một quá trình lâu dài đòi hỏi phải trải qua các giai đoạn nhất định, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN ở đây không đồng nghĩa với tư tưởng chủ quan, nóng vội tiến hành cổ phần hoá một cách ồ ạt, gây biến động lớn tới nền kinh tế đất nước, làm suy giảm nghiêm trọng tới vị trí vai trò c ủa thành phần kinh tế nhà nước, mà cần phải quán triệt chủ trương đường lối mục tiêu cổ phần hoá DNNN của Đảng và nhà nước ta:
"Vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN vừa củng cố vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, hoàn thiện cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Thông qua kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN của các nước trên thế giới, thực tiễn cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam hơn 6 năm qua cùng với vốn hiểu biết của bản thân, bài viết đã đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN trong thời gian tới. Tuy nhiên, ở nước ta mặc dù đã tiến hành trên 6 năm nhưng quá trình cổ phần hoá DNNN thực chất mới chỉ đang ở giai đoạn đầu vì vậy trong quá trình thực hiện tiếp theo chắc chắn sẽ nảy sinh nhiều vấn đề mới cần giải quyết, điều đó đòi hỏi cần phải linh hoạt sáng tạo, đánh giá một cách khách quan sát thực vấn đề để từ đó có thể đưa ra được các giải pháp phù hợp, kịp thời góp phần nhanh chóng thực hiện thành công tiến trình cổ phần hoá các DNNN ở nước ta.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Sách lý thuyết tài chính tiền tệ - Tập I
(Trường ĐH Kinh tế Quốc dân)
2. Sách lý thuyết tài chính tiền tệ
( NXB - Thành phố Hồ Chí Minh)
3. Sách cổ phần hoá DNNN cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
( NXB khoa học xã hội - 1996)
4. Trần Công Bằng - Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
5. Tạp chí ngân hàng
6. Tạp chí tài chính - tiền tệ
7. Tạp chí nghiên cứu lý luận.
8. Đảng cộng sản Việt Nam - Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc VII, VIII
9. Ngô Xuân Lộc - Cổ phần hoá một yêu cầu bức thiết của cải cách doanh nghiệp Nhà nước. (Tạp chí Cộng sản số 13 tháng 9/1998)
10. Đỗ Bình Trọng - Một số suy nghĩ về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. (Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 11/1998).
Mục lục
Trang
Phần mở đầu
1
nội dung
3
I/ Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) - những vấn đề lý luận chung
3
I.1. Cổ phần hóa là gì
3
I.2. Điều kiện tiến hành cổ phần hóa DNNN
4
I.3. Khu vực kinh tế nhà nước trong kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
6
I.3.1. Vai trò của kinh tế nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế quốc dân
6
I.3.2. Thực trạng khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay.
7
I.4. Cổ phần hóa, biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta
9
II/ Thực trạng quá trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta hiện nay
13
II.1. Cổ phần hóa DNNN - tốc độ chưa đáp ứng được nhu cầu
13
II.2. Vì sao cổ phần hóa DNNN lại diễn ra một cách chậm chạp và khó khăn.
16
II.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở các nước trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam
18
II.3.1. Cổ phần hóa DNNN qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
18
II.3.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam
19
III/ Các giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các DNNN ở nước ta hiện nay
21
III.1. Các giải pháp ở tầm vi mô
21
III.2. Các giải pháp ở tầm vĩ mô
23
III.3. Những kiến nghị của bản thân nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa ở DNNN ở nước ta.
25
Kết luận
30
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0873.doc