- HQ có cơ cấu kinh tế đa thành phần và các hình thức sở hữu hỗn hợp như nhà nước- tư nhân bản xứ- tư nhân nước ngoài; tư nhân bản xứ - tư nhân nước ngoài; nhà nước- tư nhân bản xứ; nhà nước – tư nhân nước ngoài.Điêm đáng chú ý là các thành phần kinh tế cùng song song tồn tại, phát triển đan xen vào nhau, cùng bình đẳng trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tuy chiếm tỉ lệ khác nhau nhưng đều có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.chính nhờ sự kết hợp này mà HQ đã thu hút được đầu tư, tập trung tích lũy được tư bản, tranh thủ nhưng gì tiên tiến nhất từ nước ngoài như vốn, nghệ thuật quản lý kinh tế vi mô, vĩ mô cho đến kỹ thuật công nghệ, đào tạo lực lượng lao động mới .mà vẫn bảo vệ được chủ quyền kinh tế đất nước.
Đối với VN trong quá trình xây dựng cơ chế thị trường hiện nay,chúng ta không chỉ thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước mà còn tạo điều kiện giúp đỡ cho các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cùng phát triển bởi vì mỗi thành phần kinh tế trong vận hành đều có luật chơi chung, không phân biệt đối xử cũng như một môi trường sản xuất kinh doanh công bằng, lành mạnh.Làm được điều này, chúng ta mới có thể huy động cao nhất sức mạnh toàn dân, cũng như kết hợp được sức mạnh nội lực và ngoại lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-Mặc dù đã có những cố gắng trong chuyển đổi cơ chế, phương thức hoạt động nhưng nhìn chung vẫn còn yếu kém và hạn chế về nguồn lực.Năm 1997 có đến 40% trong tổng số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ.Do vậy khu vực này cần có sự hỗ trợ lớn nhất của nhà nước, để có thể hoàn thành vai trò chủ đạo của nó.
VN cần tham khảo kinh nghiệm của khu vực kinh tế quốc doanh của HQ, đó là tự chủ về tài chính, về kinh doanh tự thu bù chi và có lãi, dựa vào sự trợ giúp chứ không lợi dụng vào sự bao cấp của nhà nước và dứt khoát cắt bỏ nhưng doanh nghiệp nhà nước nhiều năm liền làm ăn không hiểu quả .
Trên đây là một số kinh nghiệm cũng như bài học rút ra từ mô hình phát triển kinh tế của HQ.tuy bối cảnh phát triển của HQ trước đây và VN ngày nay có nhiều điểm khác nhau, song những kinh nghiệm đã nêu trên nếu biết tiếp thu, vận dụng một cách phù hợp, sẽ vẫn là những bài học có ý nghĩ nghất, cả về thực tiễn và khoa học, cho VN trong thế kỉ XXI.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1837 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở lý thuyết về các mô hình tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu đánh giá tăng cường và phát triển, thực trạng con đường phát triển kinh tế của Hàn Quốc, kinh nghiệm và bài học rút ra từ Hàn Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự cung tự cấp về gạo – nguồn lương thực chủ yếu của đất nước – với sản lượng 4, 8 triệu tấn. Tuy nhiên, khi Hàn Quốc gia nhập WTO vào năm 1995, nông dân Hàn Quốc lại đứng trước một thách thức mới, đó là các cam kết cắt bỏ mọi khoản trợ cấp cho nông dân. Để thích ứng với những cam kết WTO, một lần nữa Chính phủ Hàn Quốc lại ban hành chiến lược nông nghiệp mới, trong đó chú trọng đổi mới khả năng cạnh tranh của nông nghiệp bằng cách huấn luyện nông dân, hiện đại hoá hệ thống marketing, áp dụng công nghệ thông tin; ổn định an sinh nông thôn thông qua đầu tư cho giáo dục, y tế và đặc biệt là hưu trí của nông dân xã viên. Ngoài ra, Nhà nước còn cải tiến cơ chế chính sách, đặc biệt là chuyển hướng mục tiêu hoạt động của HTXNN. Theo đó, thay vì hoạt động dàn trải trước đây, HTXNN tập trung vào những sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ có lợi thế cạnh tranh cũng như khả năng thành công cao. Thủ tục tài chính được cải cách với hình thức thanh toán trực tiếp thay vì qua trung gian. Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ đã gây ra những tác động tiêu cực cho thị trường mới nổi như HQ. Dự trữ ngoại tệ của HQ đã giảm 27 tỷ USD trong vòng 10 tháng và thị trường chứng khoán giảm gần 30%, trong bối cảnh đó Chính Phủ HQ đã khẳng định sẽ xây dựng một nền nông nghiệp vững mạnh trong thế kỷ 21 làm động lực để góp phần khôi phục kinh tế.
2. Về Công Nghiệp
Chính sách và cơ cấu ngành
+Thời kỳ 1945 đến 1960:giải phóng đất nước và tích luỹ tiềm năng cho quá trình công nghiệp hoá
+Thời kỳ 1961-1979:công nghiệp hoá ở giai đoạn đầu.Phát triển công nghiệp sử dụng nhiều lao động,chi phí thấp,dần dần thay thế cho những sản phẩm công nghiệp thô và sơ cấp,tiến tới phát triển công nghiệp nặng và hoá chất, sử dụng nhiều vốn,lao động tay nghề cao và công nghệ cao
-Những năm 1960:Hàn Quốc tập trung vào việc chuẩn bị các điều kiện cất cánh công nghiệp hoá trên cơ sở sử dụng hợp lý các yếu tố thuận lợi trong nước và quốc tế
-Những năm 1970:Hàn Quốc tập trung vào xây dựng ngành công nghiệp nặng và hoá chât,loại bỏ sự phụ thuộc các ngành công nghiệp vào nước ngoài
+Thời kỳ 1980 đến nay:công nghiệp hoá trong giai đoạn chín muồi .Phát triển công nghiệp dựa vào những sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao và có tri thức để thay thế những sản phẩm cần nhiều vốn
Phát triển công nghiệp và cơ cấu ngành của Hàn Quốc
19980
1990
1980-1990
1990-1996
-Tỷ lệ tăng GDP
-2,7
7,1
9,4
7,3
-Tỷ lệ tăng của ngành công nghiệp(%)
-
-
13,1
7,5
-Tỷ lệ tăng của ngành công nghiệp chế tạo(%)
-
-
13,2
7,9
-Cơ cấu ngành(%)
+Nông nghiệp
15
6
-
-
+Công nghiệp
40
43
-
-
+Trong đó công nghiệp chế tạo
29
26
-
-
+Dịch vụ
45
51
-
-
-Cơ cấu ngành công nghiệp(%)
+Công nghiệp chế biến
17
9
-
-
+Diệt may
19
10
-
-
+Máy móc và thiết bị vận tải
17
38
-
-
+Hoá chất
10
8
-
-
+Khác
36
35
-
-
*Hệ Thống Chaebol
-Chaebol là tên của các tổ hợp công nghiệp thuộc sở hữu của các nhóm gia đình ở Hàn Quốc. Tính đến tháng 5-1974, ở Hàn Quốc có 50 Chaebol được chính phủ thành lập, trong đó có nhiều Chaebol sau này trở nên lừng danh thế giới như Daewoo, Lucky Golstar, Huyndai, Samsung, v.v.. Đóng góp của Chaebol đối với nền kinh tế Hàn Quốc cũng rất lớn. Năm 1995, 30 Chaebol lớn nhất Hàn Quốc nắm giữ tới 90% GDP và 60% giá trị kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc. Bốn Chaebol lớn nhất chiếm tới 60% doanh số bán ra, 55,7% tổng số tài sản và 78% lãi của 30 Chaebol trong năm 1993.Theo định nghĩa về các Chaebol, thì hầu hết các Chaebol được thành lập từ đầu năm 1960, trong kế hoạch phát triển 5 năm lần thứ nhất. Sau đó, các Chaebol tiếp tục đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của mình trong những năm 1960, 1970 và 1980, và trở thành một hình thức gần giống như các Zaibatsu của Nhật Bản.
Đặc điểm: mỗi Chaebol trung bình có 29 công ty thành viên. Tổng số công ty của 10 Chaebol lớn nhất là 294, bốn Chaebol lớn nhất (Samsung, Huyndai, Lucky Golstar và Dawoo) có tới 166 công ty, trung bình 41 công ty/Chaebol, kinh doanh ở nhiều ngành công nghiệp khác nhau.
Mức độ đa dạng hoá của 10 chaebol hàng đầu(1982)
Chaebol
Số lượng các ngành công nghiệp mà chaebol hoạt động
Chỉ số đa dạng hoá H*
Samsung
57
0.94
Huyndai
33
0.847
Lucky goldstar
57
0.688
Daewoo
56
0.866
Sunkyung
21
0.464
SSangyoung
25
0.677
Korea Exploisive
23
0.771
Hyosung
33
0.777
Lykche
28
0.86
Lotte
26
0.667
Trung bình
35
0.772
-Cơ cấu Chaebol: Trước hết, Chaebol là thuộc sở hữu gia đình. Hầu hết các Chaebol đều có nguồn gốc từ kinh doanh gia đình quy mô nhỏ, trong một ngành công nghiệp cụ thể. Sau này, khi đã hoạt động kinh doanh trên quy mô lớn, mối quan hệ gia đình và theo đẳng cấp vẫn được duy trì. Mối quan hệ đẳng cấp thứ hai trong Chaebol thể hiện ở chỗ mọi quyết định quan trọng đều được chỉ định ở cấp cao nhất. Mỗi Chaebol đều có vai trò chi phối các thành viên khác trong hội đồng chủ tịch. Mối quan hệ giữa người quản lý và công nhân không phải là "quan hệ giai cấp" mà là "quan hệ cha con". Quyền kiểm soát Chaebol được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Báo cáo của Ủy ban Buôn bán công bằng Hàn Quốc cho biết, 90% quyền thừa kế Chaebol sẽ chuyển từ cha sang con trai hoặc anh em trai trong gia đình, mặc dù 30 Chaebol lớn nhất Hàn Quốc đã có thời gian hoạt động vài thập kỷ.
-Làm thế nào các Chaebol trở thành những tập đoàn lớn như vậy? Có hai yếu tố dẫn đến sự phát triển của Chaebol là vay nợ nước ngoài và những ưu đãi đặc biệt của chính phủ. Với nguồn vốn hạn hẹp ở trong nước, chính phủ đã dựa vào nguồn vốn nước ngoài và cấp vốn cho một số doanh nghiệp để đạt được những mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển kinh tế ở Hàn Quốc thực chất là dựa vào "chủ nghĩa tư bản mệnh lệnh". Theo phương thức này, hệ thống doanh nghiệp tự do được chính phủ khuyến khích và chịu sự can thiệp gián tiếp. Điều đó có nghĩa là chính phủ giành quyền kiểm soát các dự án và hướng các công ty vào thực hiện các dự án đặc biệt. Chính phủ đảm bảo việc thanh toán nợ nước ngoài, trong trường hợp doanh nghiệp đó không giành được quyền vay nợ từ các ngân hàng trong nước. Hơn nữa, chính phủ còn ưu đãi giá cả, chính sách thu nhập, chính sách thuế cho các Chaebol. Dưới sự giúp đỡ mở rộng của chính phủ, hầu hết các ngân hàng thương mại đều được lệnh cung cấp nhiều vốn hơn nữa cho các Chaebol.Chaebol Ssangyong không chỉ là tập đoàn tiếp nhận nguồn vay nợ nước ngoài lớn nhất, mà còn được ưu đãi nhiều nhất trong vay nợ các ngân hàng trong nước. Ngoài ra, những ưu đãi đặc biệt về ngoại thương cũng được áp dụng. Các hoạt động xuất nhập khẩu đều qua sự kiểm soát của chính phủ để hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu. Chính phủ còn thực hiện các biện pháp ưu đãi khác như cho vay bằng ngoại tệ, trợ cấp tài chính, qua xuất khẩu...
Có thể nói các Chaebol đã góp phần tạo nên mô hình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc. Mô hình đó được thể hiện như sau:
Công nghiệp nặng
Chaebol
Xuất khẩu
Chính phủ
2
1
Lợi từ xuất khẩu
Lợi từ xuất khẩu
1. hàm ý phần lớn chính sách và biện pháp của chính phủ,kể cả kinh tế và phi kinh tế,nhằm huy động mọi tài nguyên cho công nghiệp nặng 2. hàm ý các chính sách vừa thiên vị,vừa can thiệp của chính phủ đối với Chaebol,nhằm phát triển chúnh một cách nhanh nhất
-Những đóng góp Xét về mặt tích cực, các Chaebol chính là bộ xương sống của nền kinh tế đất nước, tiếp thu công nghệ từ các quốc gia tiên tiến (chủ yếu là Mỹ và Nhật Bản). Được sự giúp đỡ hết mình của chính phủ, các Chaebol đã có sức cạnh tranh quốc tế trong một số ngành công nghiệp nhất định. Trong chiến lược phát triển công nghiệp hóa cao, hướng vào xuất khẩu, các Chaebol chính là các hình thức tổ chức sử dụng công nghệ hiện đại nước ngoài để phát triển kinh tế. Sản phẩm của các Chaebol chiếm được vị trí đáng kể trên thị trường thế giới và 4 Chaebol lớn nhất Hàn Quốc đều nằm trong danh sách 50 công ty lớn nhất thế giới. Trước năm 1997, nền kinh tế Hàn Quốc đứng thứ 15 trong các nền kinh tế lớn nhất thế giới, trong đó đóng góp của Chaebol có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tiềm lực của Chaebol mạnh đến mức họ kiểm soát cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và các hoạt động phi kinh tế khác. Đầu những năm 1990, 30 Chaebol lớn nhất Hàn Quốc chiếm tới 90% GDP của Hàn Quốc. Bốn Chaebol lớn nhất là Huyndai, Samsung, LG, Daewoo chiếm tới 84% GDP và 60% giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc.Xét về quy mô, các Chaebol không chỉ gây ảnh hưởng trong nước mà cả trên phạm vi toàn cầu. Ngay thời gian đầu thực hiện công nghiệp hóa, một số Chaebol đã vươn ra thị trường bên ngoài và sớm khẳng định vị trí của mình. Ví dụ như Huyndai, với số tài sản 54,6 tỷ USD, doanh số kinh doanh 75 tỷ USD (1995), có 45 công ty chi nhánh ở nước ngoài, là một tập đoàn sản xuất ôtô lớn nhất, nhà đóng tàu lớn nhất và là công ty xây dựng hàng đầu ở Hàn Quốc. Hoặc Samsung, có số tài sản 51 tỷ USD, doanh số kinh doanh 80 tỷ USD, có 140 chi nhánh ở nước ngoài, sản xuất trên 3000 mặt hàng khác nhau, là công ty sản xuất chất bán dẫn, điện tử, thương mại, bảo hiểm lớn nhất Hàn Quốc. Daewoo hiện đang chiếm 10% về các sản phẩm điện, điện tử, ôtô trên thị trường thế giới, có 1000 chi nhánh ở nước ngoài và phát triển mạnh ở khắp các châu lục.
2.Những mặt trái của Chaebol
Những đóng góp của Chaebol đối với nền kinh tế Hàn Quốc là không thể phủ định. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh, mạnh của các Chaebol đã làm khuynh đảo nền kinh tế Hàn Quốc, khiến mô hình công nghiệp hóa của nước này vừa mang tính độc đáo, vừa mang tính khắc nghiệt. Mặt trái của Chaebol thể hiện qua những đặc điểm sau: Khống chế, làm mất cân bằng nền kinh tế Có thể nói, các Chaebol Hàn Quốc, do có mức độ quy tụ và tập trung thế lực kinh tế lớn, đã phat triển vượt quá giới hạn hợp lý của các nền kinh tế cân bằng. Nếu so sánh Đài Loan với Hàn Quốc, thì trình độ công nghiếp hóa của hai nước là tương đương nhau. Nhưng quyền lực kinh tế của hai khu vực tư nhân ở hai nước lại khác nhau. Năm 1981, Chaebol Huyndai có tổng doanh thu đạt 10 tỷ USD, gấp 3 lần tổng doanh thu của 10 công ty loại lớn ở Đài Loan cộng lại (3,5 tỷ USD).Với quy mô khổng lồ và đa dạng của mình, các Chaebol Hàn Quốc nắm trong tay hầu hết các hoạt động kinh tế. Theo viện quản lý công nghiệp Hàn Quốc, tổng giá trị bổ sung của 30 Chaebol có tài sản từ 3,5 tỷ USD trở lên đã lên tới 72,2 tỷ USD năm 1995, tăng 30,5% so với năm 1994 và gấp hơn 2 lần tốc độ tăng GNP của Hàn Quốc trong cùng một năm. Bốn Chaebol lớn nhất chiếm 60% doanh số bán ra, 55,7% tổng số tài sản và 78% tổng số lợi nhuận của 30 Chaebol trong năm 1993. Hiện nay, bốn Chaebol này đã trở thành thành viên chính thức trong các tập đoàn công nghiệp lớn nhất thế giới. Giới Chaebol còn chiếm hữu một khoản tiền lớn của hệ thống ngân hàng, 30 Chaebol chiếm dụng 5,5 tỷ USD của ngân hàng. Kể cả các khoản nợ của các cơ quan tài chính khác, tổng số tiền nợ của 30 Chaebol là 65 tỷ USD, chiếm 39% GNP năm 1998 của Hàn Quốc và 41% doanh thu cộng lại của giới Chaebol năm 1988. Chính phủ hầu như kiểm soát mối quan hệ kinh doanh trong các Chaebol. Với chính sách đãi ngộ hào phóng của chính phủ như sự tập trung cao độ tiền vốn, công nghệ vào tay các Chaebol đã đẫn đến tình trạng khan hiếm cho các công ty khác ở Hàn Quốc. Quyền lực của Chaebol lớn tới mức chúng tạo nên một chế độ riêng, một "nền cộng hòa Chaebol", làm mất cân đối nền kinh tế, ảnh hưởng lớn đến các khu vực kinh doanh khác, dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các công ty vừa và nhỏ (SMCs). Theo báo cáo của Hiệp hội những nhà kinh doanh nhỏ của Hàn Quốc, năm 1994 có 5415 SMCs bị phá sản, 1676 SMCs khác phải ngừng hoạt động so với 3818 SMCs mới được thành lập. Con số dó có nghĩa là, ở Hàn Quốc hàng ngày có 20 SMCs bị đóng cửa, 6 SMCs bị tạm ngừng sản xuất và chỉ co 14 SMCs mới được thành lập. Năm 1995, Hàn Quốc có 13.992 SMCs bị phá sản mặc dù nền kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng 9%, bảy tháng đầu năm 1996, 6425 SMCs bị loại bỏ khỏi môi trường kinh doanh. Mưu cầu lợi ích kinh tế, các Chaebol bất chấp trách nhiệm xã hộiCơ cấu kinh doanh đa dạng và đặc thù gia đình của các Chaebol cùng với những mục đích phát triển kinh tế áp đặt của chính phủ đã làm cho nền kinh tế Hàn Quốc rơi vào thế mất cân đối nghiêm trọng. Nền công nghiệp nhẹ bị bỏ rơi, lạm phát tăng vọt, giá cả độc quyền, buôn lậu, trốn thuế xảy ra ở bất cứ lĩnh vực kinh doanh nào sinh lợi. Ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh chóng chỉ trong một số ngành nhất định. Sự tập trung tài sản vào trong tay các Chaebol và sự thiên vị của Chính phủ đã dẫn đến tình trạng nợ nần nghiêm trọng trong các Chaebol. Sự phá sản của 8 tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc trong năm 1997 là kết quả của tư tưởng "quy mô hóa", "đa dạng hóa" dẫn đến sự khủng hoảng trong khâu vay và thanh toán tín dụng. Trong những năm gần đây, các ngân hàng Hàn Quốc rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ nước ngoài nặng nề. Phải chăng sự sụp đổ của một số Chaebol lớn là dấu hiệu của chuỗi dây chuyền khủng hoảng của hệ thống Chaebol? Theo tài liệu "Business Korea" (1989), chỉ số nợ trên vốn tự có của 30 Chaebol hàng đầu trung bình là 484%. Nền kinh tế của Hàn Quốc sẽ rất mong manh nếu những tập đoàn nợ nhiều nhất Hàn Quốc đứng trước bờ vực phá sản.Nền kinh tế quá nóng do sức nặng Chaebol đã gây ra lạm phát kinh niên. Mức lạm phát của Hàn Quốc tương đối cao so với các nước khác trên thế giới: 12,3% giai đoạn 1966 - 1972; 17,8% (1973 - 1981), và 6,4% (1987 - 1995). Mặt khác, chế độ làm việc nhiều giờ, tiền lương thấp do tính ích kỷ hẹp hòi của hệ thống gia đình trị đã đẩy giá tiêu dùng lên cao, gây nên sự chênh lệch về mức sống của người dân Hàn Quốc. Mấy năm gần đây, chi phí lao động của Hàn Quốc đã tăng khá cao. Tuy nhiên ngguwowif dân Hàn Quốc vẫn cảm thấy họ bị bóc lột, bị đối xử không công bằng so với khả năng của họ. Đó chính là nguyên nhân gây ra những cuộc đình công, khủng hoảng chính trị, tham nhũng, tạo ra hố ngăn cách giàu nghèo và đe dọa đến tổ chức xã hội của Hàn Quốc. Chính sách hạn chế quyền lực của giới Chaebol gần đây do chính phủ đề ra nhằm tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh hơn nữa giữa các ngành vẫn chưa dem lại hiệu quả tích cực. Cổ phần gia đình của các Chaebol theo kế hoạch phai giảm từ 40% (1994) xuống 25% (1997), các công ty chi nhánh được khuyến khích tách khỏi công ty mẹ. Song các Chaebol vẫn tiếp tục gây áp lực đối với các công ty vừa và nhỏ trong nước, làm khuynh đảo nền kinh tế - xã hội của Hàn Quốc.
___________________________
Là nền kinh tế đứng thứ 10 thế giới HQ nổi lên như một câu chuyện thành đạt trong nhiều lĩnh vực. -Trong những năm 1970 đến 1980 kinh tế HQ tập trung vào ngành công nghiệp nặng và sản xuất ô tô. Với sự hỗ trợ của chính phủ ngành sản xuất thép đã phát triển nhanh chóng và là một xương sống đầu tiên cho nền kinh tế HQ trong những năm tiếp theo. Hàn Quốc còn là nước đóng tàu lớn nhất trên thế giới hiện nay với một loạt các công ty hoạt động đa quốc gia như Hyundai Heavy Industries và Samsung Heavy Industries luôn thống trị thị trường đóng tàu toàn cầu. Cùng với nền tảng đó HQ đã phát triển những ngành CN hiện đại như chất bán dẫn, hàng điện tử, may mặc, sắt thép, … -Định hướng chính sách công nghiệp của Hàn Quốc đã thay đổi rất lớn trong từng thập kỷ, trợ giúp cho việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng tới một tương lai tươi sáng và thịnh vượng hơn. Từ những năm 1960, Hàn Quốc bắt đầu xúc tiến xuất khẩu khi cho ra đời hàng loạt các luật và quy định có liên quan và lập ra những chương trình phát triển hướng tới xuất khẩu. Công nghiệp nặng về hóa chất là trung tâm của chính sách công nghiệp quốc gia trong những năm 1970 và có sự tái cơ cấu công nghiệp trong những năm 1980. Việc tái cơ cấu là nhằm vào phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ SMEs).Mở cửa và tự do hóa thị trường là điểm nhấn trong những năm 1990. Khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra năm 1997, Hàn Quốc đã thực hiện những bước dũng cảm để đem lại sự phục hồi nhanh chóng. Các doanh nghiệp Hàn Quốc đi đầu trong việc tăng cường sự minh bạch và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế trong khi các chính sách hỗ trợ các công ty liên doanh được ra đời. -Kể từ năm 2000, công cuộc đổi mới là trọng tâm của chính sách quốc gia. Để tạo ra nhiều đổi mới hơn trong các ngành công nghiệp, Hàn Quốc đang xúc tiến các chính sách thân thiện với doanh nghiệp cũng như là các chính sách củng cố hợp tác giữa các công ty lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trải qua giai đoạn phát triển ngoạn mục trong một thời gian tương đối ngắn, chính phủ Hàn Quốc hiện nay đang chú ý tới chất lượng của tăng trưởng. Để đạt được mục tiêu này, Hàn Quốc đề cập tới 3 trụ cột cho tăng trưởng trong tương lai: tăng trưởng mà thúc đẩy tạo ra việc làm, tăng trưởng mà thúc đẩy sáng tạo trong các ngành công nghiệp và tăng trưởng đem lại sự phát triển cân bằng giữa các tỉnh cũng như giữa các vùng đô thị, và giữa các công ty lớn và nhỏ. Bên cạnh phát triển mạnh mẽ và cân bằng, chính phủ cũng chủ định kiểm soát lạm phát. Trong những năm đầu của thập kỷ 90, giá tiêu dùng lên đến 8-9% mức lạm phát. Tuy nhiên vào năm 2003, giá tiêu dùng và giá sản xuống đã giảm tương ứng xuống còn 3.6% và 2.2%. Nhờ những nỗ lực ngăn chặn lạm phát của Chính phủ và sự cải thiện cơ cấu phân phối nông sản và hải sản, lạm phát đã giảm xuống đáng kể.
Và duy trì sự tăng trưởng của kinh tế HQ cũng chính là những ngành công nghiệp then chốt trên và đã được thế giới công nhận. HQ là quốc gia đóng tàu lớn nhất thế giới; đối với chất bán dẫn đứng thứ 3 thế giới; hàng điện tử đứng thứ 4 thế giới; may mặc sắt thép và các sản phẩm hóa dầu của HQ đứng thứ 5 thế giới nếu xét về tổng giá trị và ô tô đứng thứ 6 trên thế giới.
a. Ngành đóng tàu: -Góp phần quan trọng nâng con tàu kinh tế Hàn Quốc cất cánh, không thể không nói đến một ngành công nghiệp “xương sống”- đó là ngành đóng tàu. Thủa ban đầu, Tập đoàn Huyndai đã mạnh dạn đóng vai trò dẫn đầu, khai phá và đặt nền móng cho ngành đóng tàu Hàn Quốc phát triển. Đến nay, các công ty đóng tàu Hàn Quốc hiện đang đóng những con tàu 300.000 tấn, một bước tiến nhảy vọt, so với các con tàu trọng tải 2.600 tấn được đóng khi ngành công nghiệp đóng tàu của Hàn Quốc mới bắt đầu hình thành vào những năm 1960. Năm 1993, lần đầu tiên Hàn Quốc trở thành nhà sản xuất tàu lớn nhất trên thế giới, vượt qua cả Nhật Bản. Nhiều năm liên tục, Hàn Quốc dẫn đầu về lượng đơn đặt hàng đóng tàu với 44% thị phần thế giới. Ngành đóng tàu Hàn Quốc có tính cạnh tranh mạnh mẽ do các hãng đóng tàu hoạt động có hiệu quả, công nghệ đạt trình độ cao, đi kèm với những lợi thế rõ ràng về cảng biển và thềm lục địa. Họ rất thành thạo trong việc đóng các tàu lớn chất lượng cao, như các tàu chở công-ten-nơ, tàu chở dầu thô và khí ga thiên nhiên hóa lỏng. Samsung Heavy, Huyndai Heavy Industries và Daewoo Shipbuilding & Marine Engineering của Hàn Quốc hiện là 3 tập đoàn đóng tàu lớn nhất thế giới. -Tuy nhiên tăng trưởng của ngành đóng tàu Hàn Quốc đã đi xuống trong những tháng gần đây. Những công ty sản xuất thép cắt giảm sản lượng và các mỏ khai thác cũng tung ra thị trường ít quặng hơn. Các công ty xuất khẩu mắc kẹt tại cảng do không còn nhận được hỗ trợ từ phía các ngân hàng nữa. Tháng 10/2008 là tháng thứ 3 liên tiếp số lượng tàu đặt đóng mới trên toàn thế giới giảm. Con số tàu đặt đóng mới tháng 6/2008 là 69. Tổng giá trị hợp đồng đóng tàu năm 2008 tính đến hết ngày 01/11/2008 là 129,6 tỷ USD, thấp hơn 38% so với 1 năm trước.Tại Hàn Quốc, công ty chịu ảnh hưởng đầu tiên là C& Heavy Industries. Công ty đã nhận được nhiều đơn đặt hàng với tổng số 60 tàu trị giá 2,3 tỷ USD. Sau đó, tiềm lực tài chính không đủ, công ty đã không thể hoàn thành số đơn hàng trên. Trưởng cơ quan giám sát tài chính của chính phủ Hàn Quốc cho biết bắt đầu từ tháng 1/2009, các ngân hàng sẽ điều tra về sổ sách của khoảng 26 hãng tàu quy mô trung bình để quyết định xem hãng nào sẽ nhận được hỗ trợ tài chính. Năm 2008, Hàn Quốc không mấy vui vẻ bởi ngành đóng tàu – vốn là niềm tự hào của Hàn Quốc và là lĩnh vực duy nhất Hàn Quốc chiến thắng Nhật – đang gặp cực kỳ nhiều khó khăn. 6/10 hãng tàu lớn nhất thế giới thuộc về Hàn Quốc, bốn hãng đóng tàu lớn nhất là Hyundai, Daewoo, Samsung và STX. Năm nay, lĩnh vực đóng tàu mang lại doanh thu lớn cho Hàn Quốc bù lại cho việc ngành xuất khẩu đi xuống, doanh số hàng bán dẫn và xe ô tô ở thị trường nước ngoài giảm mạnh. Tại Tongyeong, một thành phố cảng nằm cách thủ đô Seoul 330km về phía Nam, quê hương của 5 hãng tàu lớn, người ta dường như không thấy sự đi xuống của ngành. Các xưởng đóng tàu, công nhân vẫn hoạt động tích cực như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Tuy nhiên, thật ra những người công nhân ở đây đang hoàn thành những chiếc tàu được đặt hàng từ cách đây 2 đến 3 năm khi ngành đóng tàu còn phát triển bùng nổ. Những công ty đóng tàu ở đây hết sức lo lắng về tương lai, thông thường mất nhiều tháng cho đến hàng năm người ta mới có thể đóng xong một con tàu, vì thế các
hãng đóng tàu phải luôn nhận được đơn đặt hàng mà sản phẩm sẽ được xuất xưởng sau khoảng 3 năm nữa. Họ lo lắng cho biết, cho đến hết quý 1/2009, chưa hề có một đơn đặt hàng mới nào. Ông Lee Jong Sung, một chuyên gia phân tích tại NH Investment and Securities, còn bi quan hơn. Ông dự đoán các hãng đóng tàu Hàn Quốc sẽ phải trải qua tình trạng đơn đặt hàng suy giảm trong ít nhất 2 năm nữa. Đầu tư trên toàn thế giới vào những tàu mới tăng lên từ mức 31,9 tỷ USD năm 2002 lên 249,3 tỷ USD năm 2007. Trong tổng số 556,7 tỷ USD giá trị các hợp đồng tàu hiện nay, giá trị đơn đặt hàng cho ngành đóng tàu Hàn Quốc là 212,4 tỷ USD và Trung Quốc là 158,6 tỷ USD.
b. Ngành bán dẫn -Cùng với các ngành ô tô, hóa dầu và thép, công nghiệp sản xuất bán dẫn là một trong những trụ cột của kinh tế Hàn Quốc. Chiếm khoảng 11% thị phần toàn cầu, ngành sản xuất chất bán dẫn của Hàn Quốc là một ngành công nghiệp mũi nhọn đặc biệt là khi nói tới bộ nhớ động và chíp hệ thống (SOC). Trong năm 2004, thanh DRAM (bộ nhớ truy xuất động) của Hàn Quốc đứng thứ nhất trên thế giới với thị phần 47.1%. -Trong khi các ngành còn lại đang phải vật lộn với suy thoái, ngành bán dẫn lại đang có dấu hiệu phục hồi nhờ những thay đổi trên thị trường thế giới. Trong 2 năm qua, thị trường D-Ram thế giới đã chứng kiến cuộc chiến 1 mất 1 còn giữa các nhà sản xuất chip bán dẫn. Các công ty liên tục hạ giá sản phẩm, thậm chí còn chấp nhận chịu lỗ nặng để quật ngã đối thủ. Trong khi giá D-Ram đã xuống thấp hơn cả chi phí sản xuất kể từ cuối năm ngoái, ngành chip bán dẫn đã phải chịu tiếp 1 đòn nặng khi khủng hoảng kinh tế lan rộng ra toàn thế giới. Trong cuộc chiến sinh tử này, đối thủ gục ngã đầu tiên là công ty Quimonda của Đức. Nhà sản xuất chip lớn thứ 5 thế giới đã tuyên bố phá sản hôm thứ 6 tuần trước khi không thể chịu đựng thêm gánh nặng tài chính. Sự sụp đổ của công ty chiếm 9,8% thị phần D-Ram thế giới được dự kiến sẽ góp phần giải quyết vấn đề cung đang vượt cầu, nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng đại hạ giá đối với các sản phẩm chip bán dẫn. Các công ty Hàn Quốc cũng sẽ dễ thở hơn do Qimonda là đối thủ chính trên thị trường chip D-Ram dành cho đồ họa và server. Ngành công nghiệp bán dẫn thường trồi sụt theo chu kỳ 4 hoặc 5 năm, có nghĩa là cứ sau khoảng 5 năm là lại có 1 nhà sản xuất nổi lên và thống trị thị trường. Tuy nhiên, vẫn còn quá sớm để dự báo liệu sự phá sản của Qimonda và những thay đổi liên quan có mang lại sự hồi sinh cho ngành công nghiệp bán dẫn hay không. Vấn đề “cung” đã được phải quyết nhưng không biết liệu “cầu” có tăng hay không khi kinh tế thế giới vẫn chưa thoát khỏi suy thoái. Các công ty Điện tử Samsung và Hynix của Hàn Quốc đang chiếm lĩnh thị trường D-Ram thế giới với thị phần lần lượt là 30% và 20%. Nếu trụ thêm được 1 năm nữa, 2 công ty này có thể sẽ có lãi sau khi kinh tế thế giới phục hồi. Công ty tài chính JP Morgan thậm chí còn dự báo, Công ty Điện tử Samsung sẽ là người sống sót duy nhất trong cuộc chiến hiện nay. Các chuyên gia đã dự báo, ngành công nghiệp bán dẫn chỉ có thể phục hồi sớm nhất là vào nửa cuối năm 2009, nhưng những tín hiệu đáng mừng đã đến ngay trong tháng đầu tiên của năm mới.
c. Ngành điện tử - Là một thế mạnh của Hàn Quốc với nhiều tập đoàn nổi tiếng đã thực sự có thương hiệu và uy tín trên thị trường thế giới như: Samsung Electronics, Sony, … Theo đánh giá năm 2006 của Cơ quan nghiên cứu thị trường Mỹ NPD, Samsung Electronics của Hàn Quốc đứng số 1 về doanh thu các sản phẩm ti-vi kỹ thuật số, LCD và ti-vi màn hình phẳng trên thị trường Mỹ, đánh bại đối thủ Nhật Bản như Sony và Panasonic. Tăng cao nhờ doanh thu cao của Bordeaux LCD ti-vi, Samsung chiếm tới 20% thị phần Mỹ. Sony đạt 17,2% trong cùng thị trường sản phẩm LCD. Tỉ lệ này trong năm 2005 là 14,5% của Samsung và 21,4% của Sony. Trước khi ra mắt Bordeaux ti-vi tháng 3-2006, thị phần của Samsung chỉ đạt 11,9%. Thị phần của công ty này tăng đều từ mức 12,2% trong tháng 4, 14,8% trong tháng 5, 17,2% trong tháng 6, 17,3% trong tháng 7 – mở đường cho công ty tới đích giành vị trí số 1. LCD của Samsung hiện nay chiếm 15,1% thị phần Mỹ, theo sau là Sony với 14,4% thị phần và Sharp với 11,6% thị phần. Các sản phẩm kỹ thuật số của Samsung cũng đạt mức tăng trưởng đáng kể, chiếm 19,3% thị phần Mỹ, tăng 7% tính theo năm. Nỗ lực này đã đưa Samsung tiến gần hơn tới Panasonic, thương hiệu đứng đầu hiện nay trong lĩnh vực này với 33,3% thị phần. Trong năm 2005, thị phần của Samsung là 12,4% và thị phần của Panasonic là 37,9%. Một nhân viên phòng màn hình của Samsung cho biết “Samsung vươn lên vị trí số 1 về doanh thu mặt hàng ti-vi kỹ thuật số, LCD và ti-vi màn hình phẳng kể từ khi công ty này xuất khẩu ti-vi lần đầu tiên sang Mỹ năm 1978. Chúng tôi dự định tiếp tục duy trì vị trí đứng đầu thị trường này với các sản phẩm HD PDP ti-vi, Bordeaux ti-vi năm 2007 và hơn thế nữa”.
d. Ngành công nghiệp ô tô -Là 1 trong những ngành công nghiệp quan trọng trong hệ thống nền kinh tế của Hàn Quốc chiếm một vị trí chủ đạo trong sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc. Với nhiều hãng ô tô nổi tiếng như Daewoo, Hyundai, KIA … Là một nhà sản xuất ô tô lớn, Hàn Quốc sản xuất trên ba triệu xe hàng năm. Kể từ khi Hàn Quốc lần đầu tiên xuất khẩu xe năm 1976, ngành công nghiệp ô tô của nước này đã phát triển với tốc độ kinh ngạc. Trên đà uy tín của ôtô Hàn Quốc ngày càng tăng cao trên thế giới, các công ty ôtô Hàn Quốc hàng đầu đã bắt đầu mở rộng cơ sở sản xuất ra nước ngoài.Hãng ô tô Hyundai và Kia trong năm vừa qua đã lọt vào danh sách 10 hãng ô tô hàng đầu trên thế giới với tỉ lệ tăng trưởng doanh thu cao nhất, đạt 5,5%. Nhờ vậy, bất chấp thời kỳ khủng hoảng, hai hãng ô tô vẫn được coi là hãng sản xuất ô tô phát triển mạnh mẽ nhất (Theo đánh giá của báo kinh tế Nhật Bản). Một chuyên gia trong lĩnh vực ô tô cho biết "Đặc biệt, chúng tôi thấy rằng hãng ô tô Hyundai và Kia luôn đi đầu trong các hãng ô tô trên toàn cầu về chiến lược đối với sự biến đổi của môi trường. Thị phần bán hàng của các công ty sản xuất ô tô của Nhật Bản như Toyot đang chiếm phần lớn tại các thị trường các nước tiên tiến, song ô tô Hyundai và Kia cũng chiếm tới 40% thị phần các nước phát triển và 60% thị phần các nước đang phát triển. Khác với thị trường các nước phát triển bị ản hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính, tại thị trường các nước đang phát triển, doanh thu của hai hãng ôtô vẫn đạt mức tăng10%. Ông Lee Hang Goo, Trưởng phòng
-Công nghiệp cơ khí của Viện nghiên cứu công nghiệp cho biết "Nếu xét về tỉ giá đối đoán, ô tô của Hàn Quốc đang có nhiều điểm thuận lợi hơn so với ô tô của Nhật Bản, chính vì vậy ô tô Hàn Quốc vẫn không ngừng tăng cường sức cạnh tranh ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng toàn cầu. Hơn nữa, các ô ô của hãng Hyundai và Kia có tới 95% phụ tùng được sản xuất ngay trong nước nên ngày càng thuận lợi trong việc mua phụ tùng trong tình hình đồng won giảm giá hiện nay. Ngược lại, đồng nhân dân tệ của Trung Quốc đang ở mức cao khiến việc xuất khẩu ra nước ngoài gặp khó khăn. Ngoài ra, việc chính phủ của Tổng thống Mỹ Obama trong việc phát triển "Ô tô sử dụng nguyên liệu sạch" và thắt chặt các quy chế về môi trường đang được coi là yếu tố bất lợi đối với Truing Quốc và Ấn Độ trong việc xuất khẩu ô tô sang thị trường này.
3. Ngành dịch vụ. -Song song với sự phát triển như vũ bão của ngành công nghiệp thì ngành dịch vụ ở Hàn Quốc cũng phát triển mạnh mẽ và ngành nay đã trở thành thế mạnh của Hàn Quốc. Một số ngành phát triển mạnh mẽ như du lịch, điện ảnh, bưu chính …Ngành dịch vụ Hàn Quốc đạt doanh thu cao 7 tháng liên tiếp(1/11/2005)Trong tháng 9, ngành dịch vụ của Hàn Quốc tăng tháng thứ 7 liên tiếp với sự hỗ trợ của doanh nghiệp tài chính, giao thông vận tải và thông tin liên lạc, mang đến hy vọng tiêu dùng cá nhân đang dần phục hồi. Sản lượng của ngành dịch vụ tăng 5,4% trong tháng 9 so với năm trước, sau khi đã đạt 5,9% trong tháng 8. Tuy nhiên, tính theo từng tháng thì số liệu này giảm 0,5% so với tháng 8. Trong quý III, sản lượng ngành dịch vụ của kinh tế Hàn Quốc tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước từ 2,4% của quý II và 0,75 của quý I. Số liệu kinh tế này dấy lên những hy vọng kinh tế Hàn Quốc, nền kinh tế lớn thứ 4 Châu Á, có thể phục hồi với tốc độ nhanh hơn trong nửa sau năm nay. Xuất khẩu Hàn Quốc, chiếm khoảng ½ tổng mức tăng trưởng kinh tế, tăng 17,9% so với năm trước lên mức kỷ lục 24,6 tỷ USD trong tháng 9, mặc dù giá dầu thế giới tăng cao. Doanh thu của các cửa hàng bách hoá lớn và siêu thị ở Hàn Quốc trong tháng 9 đều tăng tháng thứ 8 liên tiếp.Kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng 1,8% trong quý II- đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong gần 2 năm với sự hỗ trợ đáng kể của tiêu dùng cá nhân và doanh số bán hàng ra nước ngoài. Trong cả năm, kinh tế Hàn Quốc có thể đạt tăng trưởng 4% so với 4,6% của năm trước. Doanh số bán buôn và bán lẻ, thước đo chính thức của tiêu dùng trong nước, tăng 2,1% trong tháng 9 so với mức tăng hàng năm 4,2% trong tháng 8. Ngành tài chính trong tháng qua đạt tăng trưởng cao 15,4% so với 13,5% của tháng trước đó.Ví dụ như ngành Bưu chính mặc dù Hàn Quốc là một quốc gia đang phát triển, dịch vụ bưu chính của Hàn Quốc đã được công nhận rộng rãi vì việc ứng dụng các công nghệ mới và khả năng chuyên môn. Là một trong những ngành dịch vụ công tin cậy nhất ở quốc gia này, Bưu chính Hàn Quốc (Korea Post) là một phần của chiến lược quốc gia Hàn Quốc là hình thành một xã hội mọi nơi (ubiquitous), kết nối các dịch vụ xã hội khác nhau, gồm cả dịch vụ bưu chính, làm cho cuộc sống của mọi người dễ dàng hơn và hưởng thụ hơn. Ứng dụng các công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) sẽ mang lại sáng tạo cho các dịch vụ bưu chính vốn là trung tâm của các kế hoạch chiến lược Bưu chính Hàn Quốc kể từ khi đuợc thành lập vào năm 2000. Cuối cùng, các mục tiêu trung
và dài hạn của Bưu chính Hàn Quốc được đặt vào việc đạt được uPost (Bưu chính mọi nơi), bắt đầu triển khai vào năm 2007. Khi thương mại điện tử được phát triển, Bưu chính Hàn Quốc nhận thấy nhu cầu cải tiến và tự động hóa các quy trình nội bộ. Theo đó, Bưu chính Hàn Quốc thiết lập một hệ thống được gọi là PostNet, ở đó tất cả các bưu cục và trung tâm thư được kết nối. Thông qua hệ thống này, dữ liệu được tập hợp và trao đổi nội bộ. Hệ thống đó là xương sống của nhiều hệ thống khác được sử dụng cho việc kinh doanh kho vận, Bưu cục Internet (ePost), và các dịch vụ với một trọng tâm chiến lược như thu gom và chuyển phát tận cửa và dịch vụ chuyển phát nhanh (EMS). Ứng dụng các công nghệ mới, Bưu chính Hàn Quốc đã đẩy mạnh sự cạnh tranh bằng việc quản lý hiệu quả hơn các luồng công việc, thành lập một bộ phận kinh doanh kho vận – nơi quản lý, đại diện cho các công ty lớn, các hoá đơn và chuyển phát các sản phẩm – và tiếp thị tốt hơn các dịch vụ của Bưu chính Hàn Quốc. Sử dụng một mục tiêu quản lý mối quan hệ khách hàng, Bưu chính Hàn Quốc theo dõi các xu hướng khách hàng và liên tục bổ sung cơ sở dữ liệu quản lý khách hàng, để tiếp thị các dịch vụ và sản phẩm đến các nhóm khách hàng mục tiêu ở nhiều vùng khác nhau của đất nước. -Ngành du lịch cũng phát triển mạnh mẽ. Ngành du lịch Hàn Quốc vừa đưa ra con số tổng kết năm 2008, với những bất ngờ thú vị. Đánh giá một cách tổng quát, trong năm 2008 số người dân Hàn Quốc đi du lịch nước ngoài giảm mạnh, nhưng du khách đến Hàn Quốc có xu hướng tăng mạnh. Chính vì vậy, năm 2008 là năm thành công cho những doanh nghiệp có mục tiêu thu hút du khách nước ngoài đến Hàn Quốc. Chính quyền thành phố Seoul dự kiến mức thâm hụt du lịch tính đến cuối năm 2008 sẽ giảm xuống còn 51 tỷ USD so với mức trên 100 tỷ USD của năm ngoái. Theo Tổng cục du lịch Hàn Quốc, đồn Yên tăng mạnh đã khiến du khách Nhật Bản đổ xô đến Hàn Quốc và trong tình hình kinh tế suy giảm, chính quyền các địa phương đã nhanh chóng nhận ra rằng cần đầu tư vào phát triển thị trường du lịch nội địa khi mà người dân thực hiện chính sách thắt hầu bao, giảm đi du lịch nước ngoài. Chính vì vậy, chính quyền địa phương và các công ty đã chú trọng phát triển các dịch vụ du lịch kết hợp chăm sóc sắc đẹp, du lịch - phẫu thuật thẩm mỹ, du lịch mua sắm, giải trí. Thêm vào đó, thị trường du lịch quen thuộc như Thái Lan lại đang trong tình trạng bất ổn chính trị. Vì vậy Hàn Quốc là địa điểm thích hợp nhất. Nhằm chính thức biến du lịch thành một trong những nhân tố chính giúp khôi phục kinh tế. Chính phủ Hàn Quốc tháng 12 đã thông qua một chiến lược phát triển du lịch với mục tiêu đến năm 2012 sẽ thu hút 10 triệu khách nước ngoài mỗi năm, mang lại nguồn thu trên 1 nghìn tỷ Won (772 triệu USD) và tạo ra 390.000 việc làm mới. Ngành điện ảnh Hàn Quốc cũng phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây nhiều bộ phim hay được ra đời và thu hút được nhiều khán giả trong cũng như ngoài nước. Sự xuất hiện của nhiều ngôi sao điện ảnh, ca nhạc cũng là 1 trong những điều kiện thu hút khách du lịch quốc tế đến Hàn Quốc ngày một nhiều.
III. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
1.Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội:
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của sự phát triển kinh tế Hàn Quốc là phát triển kinh tế không kéo theo sự bất bình đẳng quá mức trong phân phối thu nhập.Các nghiên cứu cho rằng Hàn Quốc đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với công bằng xã hội,một trong số ít các quốc gia trên thế giới thực hiện tốt các chiến lược kinh tế và đạt được sự công bằng cho mọi người dân trong việc hưởng thụ thành quả của sự phát triển kinh tế
Có thể nói tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai nhân tố bổ sung cho nhau,trong đó tăng trưởng kinh tế là cơ sở vật chất để thực hiện công bằng xã hội và công bằng xã hội là điều kiện thúc đẩy hơn nữa sự tăng trưởng kinh tế.Trong mối quan hệ tương hỗ đó,Hàn Quốc đã thực hiện rất thành công.Dưới đây,chúng ta sẽ xem xét các tác động của sự tăng trưởng kinh tế đối với việc đảm bảo công bằng xã hội ở Hàn Quốc.
2.Tác động của chính sách kinh tế đến công bằng xã hội:
a. Tăng trưởng kinh tế góp phần làm giảm bất bình đẳng về thu nhập:
-Hàn Quốc thuộc nước điển hình của nhóm các quốc gia có sự phát triển con người cao và sự bất bình đẳng thấp với GDP bình quân đầu người trên 7%/năm và bội số của mức chênh lệch thu nhập giữa 2 nhóm giàu nghèo nhất là 6 lần trong khi ở Thái Lan là 9,4 lần;Malaixia là 11,7 lần;…..
Giai đoạn 1989-1994,Hàn Quốc đã giảm được mức nghèo khổ về thu nhập còn dưới 10% dân số.Năm 1993, hệ số Gini trên toàn quốc là 0.281 và Hàn Quốc được xếp vào hàng các quốc gia có mức bình đảng về thu nhập cao nhất thế giới.
b.Tăng trưởng kinh tế góp phần tạo dựng cơ hội việc làm và các phúc lợi xã hội cho nhân dân:
-Nhờ có kinh tế phát triển,các cơ hội việc làm ở Hàn Quốc được mở rộng.Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 8,2% năm 1963 xuống 2,4% năm 1995.Chế độ giờ công và tiền lương đã thay đổi theo hướng chú trọng nền kinh tế phát triển hiệu suất và bảo đảm quyền lợi của người lao động.Số giờ làm giãm từ 52,3 giờ năm 1983 xuống còn 46,2 giờ năm 1991.Trong giai đoạn 1985-1996,tỷ trọng của công nghiệp trong việc làm là 22%,tỷ lệ gia tăng việc làm trong ngành công nghiệp là 2,6%.
-Về mặt phúc lợi xã hội, Hàn Quốc nhìn chung đã đạt được những thành tựu đáng kể.Giai đoạn 1990-1995,chi tiêu cho y tế,sức khoẻ cộng đồng chiếm 5,4%GDP, đạt 518USD/người/năm tính theo phương pháp đồng giá sức mua.100% dân cư được tiếp cận các dịch vụ y tế và vệ sinh và 93% dân cư được dùng nước sạch.Tuổi thọ trung bình người dân tăng từ 65 tuổi năm 1970 lên 70 tuổi năm 1988 và 72,4 tuổi năm 1997.Tỷ lệ người mắc bệnh truyền nhiễm đã giảm nhanh xuống còn 0,5% dân số năm 1991
Bên cạnh đó, các trương trình bảo đảm an ninh,hưu trí,trợ cấp xã hội được đẩy mạnh và đem lại hiệu quả cao.Năm1989,hơn 90% dân số được đóng bảo hiểm y tế.
c.Tăng trưởng kinh tế góp phần vào việc phát triển cân bằng giữa thành thị và nông thôn
-Trước hết ,tăng trưởng kinh tế đã nâng cao sự tiếp cận các cơ hội giáo dục cho mọi người.Hệ thống trường học Hàn Quốc đa dạng và phong phú ở tất cả các cấp học.Tỷ lệ biết chữ ở Hàn Quốc rất cao : 97,2% năm 1997.Nhờ có giáo dục,các cơ hội việc làm được mở rộng đối với người dân cả ở vùng nông thôn và thành thị,việc đó thực chất nhằm cải thiện đời sống ở các vùng nông thôn sao cho có sự cân bằng với thành thị
-Thứ hai , để tạo sự cân bằng giữa nông thôn và thành thị,Chính phủ Hàn Quốc rất quan tâm đến việc phát triển nông nghiệp,có các dự án xây dựng các khu công nghiệp ở nông thôn,dự án thuỷ lợi,phát động phong trào Saemaul.Trung bình trong giai đoạn 1965-1995,thu nhập của nông dân Hàn Quốc tăng 19,2%/năm ,trong đó thu nhập từ nông nghiệp tăng 17,2% và ngoài nông nghiệp tăng 22,9%.
-Thứ ba , để góp phần vào việc nâng cao mức sống của nông dân,Chính phủ Hàn Quốc rất chú trọng đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.Các tuyến đường cao tốc được mở rộng,hệ thống đường tàu điện ngầm chạy dài từ các đô thị ra các vùng ngoại ô.Hàn Quốc là nước có hệ thống đường ngầm lớn thứ 8 trên thế giới. Đường quốc lộ, đường làng được mở rộng nâng cấp,từ 33.460km năm 1972 lên 58.000km năm 1981,với 83.927 cây cầu đủ kích thước.Cuối năm 70,có tới 98% gia đình nông thôn được dùng điện,100% nông dân được hưởng hệ thống nước sạch.Chính sự phát triển cơ sở hạ tầng đã góp phần làm tăng cơ hội việc làm và thu nhập của nông dân,giúp nông dân tiếp cận được nền căn hoá giáo dục văn minh và những dịch vụ xã hội hiện đại.
PHẦN III. KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC RÚT RA TỪ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA HÀN QUỐC
Mô hình phát triển của Hàn Quốc đã để lại rất nhiều kinh nghiệm cho các nước đang phát triển và việc vận dụng những kinh nghiệm đấy đối với VN đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là những điều rất cần thiết và hữu ích.Tuy nhiên, việc vận dụng trước hết phải suất phát từ điều kiện lích sử cụ thể của đất nước ta hiện nay.Không thể có sự áp dụng cứng nhắc mô hình phát triển của HQ bởi vì bối cảnh và đặc điểm quốc gia, dân tộc của 2 nước có những điểm khác nhau.
3
1. Tranh thủ thời gian và cơ hội để xây dựng và khai thác tối đa lợi thế so sánh tương đối: nguồn lao động đông đảo, lương thấp và cần cù, chịu khó
-Trong quá trình công nghiệp hóa, trong các nhân tố tăng trưởng kinh tế, lao động dồi dào, giá rẻ, cần cù chính là lợi thế lớn nhất của HQ, là tiềm năng sẵn có đáng kể nhất.
Đối với VN, nguồn lao động đông đảo, giá rẻ, cần cù, chịu khó rõ ràng là 1 lợi thế lớn khi bắt tay vào quá trình công nghiệp hóa trong điều kiên tài nguyên thiên nhiên không phải là giàu có, lại bị cạn kiệt bởi khai thác quá độ, thiếu ý thức con người, thiếu vốn kỹ thuật, công nghệ.Do đó phải tích cực nâng cao tố chất và trình độ cũng như ý thức, trách nhiệm, của người lao động để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của quy trình công nghệ để tránh tình trạng thất nghiệp.Vấn đề khuyến khích xuất khẩu lao động Vn sang các nước trong khu vực cũng cần được khuyến khích.Tuy nhiên chính phủ cũng cần có nhưng chính sách cùng với cơ chế cụ thể để khi kí kết hợp đồng với các đôi tác, tránh xẩy ra tình trạng bị lừa đảo hoặc bị nhưng ông chủ nước ngoài đối xử thôi bạo,chà đạp nên danh dự và nhân phẩm của người VN, nhất là đối với phụ nữ.
2. Kiên quyết chủ trương mở cửa và tích cực hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế trên cơ sở nâng cao năng lực cạnh tranh của dân tộc
Sau một thời gian dài thực hiện mô hình chiến lược hướng nội, vơi một số kết quả đạt được nhất định, HQ đã dứt khoát chuyển sang một giai đoạn phát triển kinh tế mới với mô hình hướng ngoại.
-Trước hết, HQ đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng ngoại thương đến mức tối đa bằng nhiều biện pháp, phương cách.Trong thời kì đầu các nước đang phát triển chủ động xuất khẩu nông sản và khoáng sản thì HQ lại bắt đầu từ những sản phẩm của công nghiệp tiêu dùng….những ngành có lợi thế trên thị trường.đến khi nền công nghiệp đã đạt được trình độ nhất định, HQ đẩy mạng xuất khẩu công nghiệp nặng và công nghệ có hàm lượng khoa học, kỹ thuật cao, chuyển giao công nghệ cho nhưng nước có trình độ thấp hơn.Đồng thời HQ tích cực thu hút đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, trong hoạt động đầu tư hay xuất khẩu, đầu tư trực tiếp hay vay vốn tín dụng quốc tế, HQ đã rất khéo léo lựa chọn đối tác, đó là các nước tư bản phát triển nhất, chủ yếu là Mỹ,nhật bản.Điều đáng nói là trong quá trình quan hệ, HQ luôn chú trọng nâng cao năng lực tự cạnh tranh của dân tộc, thể hiện trong việc cải thiển quan hệ với Mỹ.Hay trong kỹ thuật công nghệ cao từ sự phụ thuộc vào Nhật,Mỹ, dần dần HQ đã làm chủ được nhiều công nghệ cao.
-Đối với VN, đổi mới, mở cửa, hội nhập là con đường hoàn toàn đúng đắn đã mở ra nhưng vận hội mới cho quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội.Vận dụngkinh nghiệm của HQ thì VN cần phải tích cực thu hút nhiều hơn, hiệu quả hơn nguồn đầu tư nước ngoài để phát triển mạnh mẽ các ngành gia công xuất khẩu, đồng thời không ngừng cải tiến nâng cấp cơ sỏ thiết bị, đổi mới kỹ thuật, công nghệ, thăm dò thị trường, tìm kiếm bạn hàng…kinh nghiệm từ HQ cho thấy nếu có chính sách, biện pháp đúng đắn, hiệu quả kinh tế đem lại trong qua hệ với các nước lớn bao h cũng cao hơn so với các nước khác vì những nước lớn thường có tiềm năng kinh tế hùng hậu, một nền khoa học công nghệ tiên tiến và một nền tài chính mạnh.Mở rộng mối qua hệ kinh tế với các nước lơn, nhất là các cường quốc kinh tế lớn như Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản…VN sẽ từng bước tiếp nhận kĩ thuật tiên tiến để thúc đẩy năng suất lao động trong nước tăng lên; có điều kiện thu hút đầu tư để thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở rộng thị trường ra thế giới, giả I quyết công ăn việc làm…Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là xem nhẹ mối quan hệ với các nước khác và phải thấy rằng cớ hội và thách thức luôn đặt ra cho chúng ta trong mối quan hệ kinh tế.Mặt khác mở cửa hội nhập phải nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của dân tộc và phải luôn giữ được nguyên tắc bất di bất dịch: Giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia, bản sắc dân tộc và xây dựng nền kinh tế, xã hội theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục – đào tạo, đặc biệt là con đường đào tạo tập hợp đội ngũ chỉ đạo kinh tế - xã hội có tri thức khoa học; chú trọng phát triển khoa học – kỹ thuật, trong đó có kỹ thuật công nghệ cao
- HQ đã xây dựng được 1 hệ thống giáo dục – tạo khá hoàn thiện từ thấp đến cao, từ phát triển phổ cập đến phát triển nhân tài cao cấp.Đặc biệt, giáo dục HQ rất chú trọng đến chất lượng nội dung, Bên cạnh đó, giáo dục – đào tạo của HQ luôn kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.Hiếu học cùng với sự hiểu biết khoa học công nghệ, nắm vững tri thức mới để phát triển kinh tế - xã hội đã tạo nên con người HQ hiện đại mang bản sắc riêng, thích ứng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở cửa nhìn ra thế giới.
-Chính phủ và các cơ quan hưu trách luôn cố gắng tạo cơ hội học tập bình đẳng cho mọi đối tượng xã hội, chú trọng việc bồi dưỡng nhân tài và quan tâm đến giáo dục và đặc biệt là dành cho người khuyết tật, đã thể hiện tính nhân văn của nền giáo dục nước này, đáng để cho các nước khác tham khảo và học hỏi.
Dù đã rất cố gắng, nhưng xem xét 1 cách nghiêm túc, cho đến nay, giáo dục VN vẫn chưa được đầu tư thích đáng và chưa được đặt đúng vị trí to lớn của nó trong hành trình phát triển quốc gia- dân tộc.Để đưa giáo dục – đào tạo nước nhà lên một tầm cao mới trong những năm tới, từ kinh nghiệm của HQ ta có thể tham khảo 1 số cách làm sau:
Trước hết, phải xem xét giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, là lực đẩy phát triển quốc gia, là cơ hội lập nghiệp, thăng tiến của mọi công dân VN.Do vậy cần đầu tư thích hợp, 1hiệu quả hơn kinh phí cho giáo dục với ngân sách không dưới 20% tổng ngân sách quốc gia (ở HQ năm 1982 kinh phí cho giáo dục là 20,6% tổng ngân sách quốc dân).Trong đó, cần đặc biết chú trọng đến chế độ đãi ngộ với đội ngũ giáo viên là nhưng người làm công tác giáo dục bằng nhưng chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần cũng như môi trường, điều kiện làm việc.
Đồng thời, cần xây dựng 1 thể chế quản lý giáo dục khoa học, nghiêm túc nhưng mềm dẻo linh hoạt, thể hiện qua việc phân phối và sử dụng nguồn ngân sách, chính sách đãi ngộ, quản lý và phân phối đội ngũ.Giáo dục phải có sự kết hợp giữa chính phủ và địa phương về chương trình đào tạo, phương thức tiến hành, đặc biệt là về kinh phí…nhằm huy động được tiềm năng trong nhân dân và đẩy mạnh việc nâng cao dân trí.Ngoài ra, hiện đại hóa giáo dục 1 cách nhanh chóng nhưng phải phù hợp, không nên đập khuôn theo các nước khác, cho dù là nước có nên giáo dục tiên tiến nhất,mà luôn luôn có phong cách riêng để nỗ lực và vượt lên trên các nước đấy nếu có thể.Đặc biệt coi trọng việc nâng cao truyền thống và bản sắc dân tộc trong hành trình hướng tới hoàn thành các nhân tố hoàn chỉnh.
-Mặt khác, giáo dục phải gắn liền với thực tế sản xuất kinh doanh, xây dựng và phát triển xã hội; phục vụ cho mục tiêu chiến lược lâu dài cũng như mục tiêu cụ thể trước mắt.Muốn vậy, phải không ngừng cải cách va đổi mới nền giáo dục trên các lĩnh vực, từ trung ương đến địa phương, đồng bộ hoặc có trọng điểm nhằm đào tạo những sản phẩm ngày càng hoàn thiện hơn cho đất nước.
Cần phải thể hiện hơn nữa tinh thần nhân văn sâu sắc trong giáo dục – đào tạo VN, thông qua những chế độ, chính sách ưu tiên giáo dục ở vùng sâu vùng xa, trong đó có vấn đề thực hiện chính sách đãi ngộ và sử dụng hợp lý giáo viên, hỗ trợ học sinh nghèo vượt khó đạt thành tích cao trong học tập.chú trọng đến loại hình giáo dục dành cho người khuyết tật, đưa họ hòa nhập với cộng đồng và góp ích cho xã hội.
-VIệt Nam cần tham khảo kinh nghiệm của HQ trong việc huy động đội ngũ khoa học trí tuệ, vạch ra kế hoạch và thực thi dựa vào đội ngũ cán bộ công nhân trí tuệ đấy.
-Khoa học – kỹ thuật là phương tiện rất quan trọng trong bảo đảm chính sách phát triển kinh tế quốc gia có hiệu quả.Do đó, VN cần phải tăng cường hơn nữa ngân sách đầu tư cho tiến bộ khoa học kỹ thuật và đầu tư có trọng điểm, có hiệu quả.Mặt khác cần có chiến lược phát triển khoa học kỹ thuật vừa tầm, thích ứng qua từng giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa có thể bắt đầu từ việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, vẫn nhập khẩu và sử dụng thiết bị, kỹ thuật trong nước tạm thời chưa sản xuất được, để làm ra sản phẩm của mình tiêu thụ ngay trong nước và dần dần vươn ra thị trường thế giới… VN có thể lập ra các trung tâm nghiên cứu công nghệ và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu triển khai ở nhiều mứa độ, cần có những chính sáchc kêu gọi, thu hút các nhà bác học và kĩ sư tài năng của VN đang sinh sống ở nước ngoài.
4. Đảm bảo công bằng giữa các thành phần kinh tế trong phát triển
- HQ có cơ cấu kinh tế đa thành phần và các hình thức sở hữu hỗn hợp như nhà nước- tư nhân bản xứ- tư nhân nước ngoài; tư nhân bản xứ - tư nhân nước ngoài; nhà nước- tư nhân bản xứ; nhà nước – tư nhân nước ngoài.Điêm đáng chú ý là các thành phần kinh tế cùng song song tồn tại, phát triển đan xen vào nhau, cùng bình đẳng trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tuy chiếm tỉ lệ khác nhau nhưng đều có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.chính nhờ sự kết hợp này mà HQ đã thu hút được đầu tư, tập trung tích lũy được tư bản, tranh thủ nhưng gì tiên tiến nhất từ nước ngoài như vốn, nghệ thuật quản lý kinh tế vi mô, vĩ mô cho đến kỹ thuật công nghệ, đào tạo lực lượng lao động mới….mà vẫn bảo vệ được chủ quyền kinh tế đất nước.
Đối với VN trong quá trình xây dựng cơ chế thị trường hiện nay,chúng ta không chỉ thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước mà còn tạo điều kiện giúp đỡ cho các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cùng phát triển bởi vì mỗi thành phần kinh tế trong vận hành đều có luật chơi chung, không phân biệt đối xử cũng như một môi trường sản xuất kinh doanh công bằng, lành mạnh.Làm được điều này, chúng ta mới có thể huy động cao nhất sức mạnh toàn dân, cũng như kết hợp được sức mạnh nội lực và ngoại lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-Mặc dù đã có những cố gắng trong chuyển đổi cơ chế, phương thức hoạt động…nhưng nhìn chung vẫn còn yếu kém và hạn chế về nguồn lực.Năm 1997 có đến 40% trong tổng số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ.Do vậy khu vực này cần có sự hỗ trợ lớn nhất của nhà nước, để có thể hoàn thành vai trò chủ đạo của nó.
VN cần tham khảo kinh nghiệm của khu vực kinh tế quốc doanh của HQ, đó là tự chủ về tài chính, về kinh doanh tự thu bù chi và có lãi, dựa vào sự trợ giúp chứ không lợi dụng vào sự bao cấp của nhà nước và dứt khoát cắt bỏ nhưng doanh nghiệp nhà nước nhiều năm liền làm ăn không hiểu quả….
Trên đây là một số kinh nghiệm cũng như bài học rút ra từ mô hình phát triển kinh tế của HQ.tuy bối cảnh phát triển của HQ trước đây và VN ngày nay có nhiều điểm khác nhau, song những kinh nghiệm đã nêu trên nếu biết tiếp thu, vận dụng một cách phù hợp, sẽ vẫn là những bài học có ý nghĩ nghất, cả về thực tiễn và khoa học, cho VN trong thế kỉ XXI.
Một số tài liệu tham khảo
Giáo trình “Kinh tế Việt Nam” , “kinh tế phát triển”, “an sinh xã hội”, “kinh tế đầu tư” do nhà xuất bản Đại Học Kinh tế Quốc Dân phát hành.
“Báo cáo đánh giá giữa kì kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006-2010” của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư.
Tạp chí kinh tế phát triển
Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010
Trang báo điện tử kinh tế: Cổng thông tin kinh tế trung ương – VNEP và một số trang điện tử kinh tế khác: Bộ tài chính, tổng cục thống kê, thời báo kinh tế Việt Nam (vneconomy)…
Danh sách thành viên nhóm
1. Nguyễn Mạnh Cường
2. Nguyễn Mạnh Dũng
3. Đoàn Hồng Hiếu
4. Đoàn Quang Huy
5. Thái Vân Nhã
6. Nguyễn Văn Quảng
7.Trần Minh Tân
8. Đào Ngọc Thắng
9. Nguyễn Huy Tiến
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25516.doc