Đề tài Cơ sở pháp lý và thực tiễn kớ kết, thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị tại công ty Gạch ốp lát Hà Nội

Trong thời gian gần đây thủ tục hải quan đã có nhiều tiến bộ, giảm nhẹ những thủ tục phiền hà gây cản trở cho doanh nghiệp giao nhận hàng hoá qua cửa khẩu. Chính phủ đã ban hành những Nghị định cần thiết trong lĩnh vực hải quan như thủ tục hải quan, giám sát hàng hoá, lệ phí hải quan, quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực hải quan. và tổng cục hải quan cũng ra thông tư hướng dẫn chi tiết thi hành. Tuy nhiên trên thực tế hàng qua cửa khẩu vẫn còn chưa được giải quyết nhanh, cán bộ hải quan vẫn còn nhiều nhũng nhiễu đối với doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng này Nhà nước cần có biện pháp quản lý đẩy mạnh công tác cải cách bộ máy tổ chức hải quan; giảm bớt những thủ tục gây cản trở cho hoạt động thông quan hàng qua của khẩu. Nhà nước cần có biện pháp phát hiện và xử lý kịp thời việc gian lận thương mại; tổng cục hải quan cần ra những qui định cần thiết xử lý cán bộ nhân viên hải quan biến chất làm trong sạch bộ máy hải quan.

doc83 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở pháp lý và thực tiễn kớ kết, thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị tại công ty Gạch ốp lát Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thường là 10 - 20 ngày để công ty cử chuyên gia sang kiểm tra tại nhà máy bên bán. Việc giám định được thực hiện lần cuối tại công trường xây dựng của công ty gạch ốp lát Hà nội. Giao nhận hàng: Việc giao nhận hàng cả bên bán và bên mua đều phải thực hiện đúng với quy định trong hợp đồng: tại địa điểm bốc rỡ hàng thoe đúng ngày giờ công ty phải cử người ra nhận hàng và làm thủ tục cần thiết. Thiết bị nhập khẩu khi qua cửa khẩu cần được kiểm tra kỹ càng. Ngoài việc công ty với tư cách đứng tên trên vận đơn có quyền kiểm tra chất lượng hàng khi nhận hàng còn có cac cơ quan chức năng khác tiến hành công việc kiểm tra đồ để đảm bảo hàng nhập không phải là thiết bị cũ hết thời gian sử dụng. Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá khi qua biên giới quốc gia đều phải làm thủ tục hải quan. Trong hợp đồng xác định công ty phải làm thủ tục hải quan khi nhập khẩu hàng hoávới những thủ tục sau: Khai báo hải quan nếu hàng nhập khẩu chỉ có một loại hàng thì làm một số tờ khai hải quan, nếu hàng hoá gồm nhiều mặt hàng thì phải kèm theo một số phụ lục tờ khai hải quan để cơ quan hải quan kiểm tra hàng hoá. Bên cạnh việc kê khai hải quan công ty phải xuất trình một số giấy tờ khác như mã số thuế doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hoá đơn thương mại, hợp đồng nhập khẩu, vận đơn, bảo hiểm, giấy chứng nhậ chất lượng hàng hoá của sản xuất( Nếu có)... Sau đó cơ quan hải quan tiến hành kiểnm tra hàng. Công ty gạch ốp lát Hà Nội phải tuân thủ theo các quyết định của hải quan sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hoá như cho phép hàng thông quan, cho hàng đi qua có điều kiện, cho hàng đi qua sau khi nộp t huế... Việc thực hiện hợp đồng về phía công ty gạch ốp lát Hà Nội đều tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật và thoả thuận giữa hai bên. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện phía đối tác đã có những vi phạm về tiến trình giao hàng như giao hàng chậm, giao hàng không đúng đợt, giao hàng không đúng chủng loại như trong hợp đồng gây khó khăn cho quá trình thực hiện hợp đồng giữa hai bên. 4,Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng: Trong hợp đồng công ty gạch ốp lát và các nhà cung cấp thiết bị có thoả thuận về trách nhiệm pháp lý đối với bên vi phạm hợp đồng như sau: Phạt thực hiện hợp đồng: Đó là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền vi phạm do vi phạm hợp đồng do hai bên thoả thuận như sau: Thứ nhất phạt do chậm giao hàng và dịch vụ với mức phạt cụ thể là chậm quá hai tuần thì mỗi tuần bị phạt 0.2% tổng giá trị hợp đồng, thời gian chậm tối đa không quá 2 tháng và mức phạt tối đa không quá 3% tổng giá trị hợp đồng. Thứ 2 phạt do không đạt các thông số về công suất thiết bị. Mức phạt tối đa không quá 3% giá trị hợp đồng với mức giảm tối đa công suất thiết bị không quá 5% so với mức quy định. Thứ 3 phạt vi phạm vì không đạt các thông số tiêu hao về nhiên liệu năng lượng và chất lượng sản phẩm. Cụ thể như sau: Khối lượng tiêu hao vượt quá 10 % giá trị cho phép ở từng thiết bị bên bán phải hiệu chỉnh lại thiết bị trong vòng một tuần. Sau một tuần hiệu chỉnh mà không đạt thì 1% hao hụt sẽ bị phạt 0.5% giá trị từng thiết bị, mức phạt tối đa không quá 5% gái trị thiết bị. Về chất lượng sản phẩm loại 1 nhỏ hơn 1% không bị phạt cứ 1% ít hơn tiếp theo phạt 0.5 tổng gia trị hợp đồng và mức phạt tối đa không quá 5 % giá trị hợp đồng. Hủy hợp đồng : Hủy hộp đồng là việc bên có quyền lợi bị vi phạm tuyên bố hủy bỏ hợp đồng nếu một bên vi phạm lỗi sau : Thứ nhất, bên bán vi phạm hợp đồng một cách nghiêm trọng , bên mua gửi bản báo lỗi vi phạm cho bên bán trong vòng một thời gian xác định bên bán không khắc phục lỗi vi phạm đó bên mua có thể huỷ hợp đồng từng phần hoặc toàn bộ . Thứ hai ,bên mua có thể huỷ hợp đồng nếu bên bán bị phá sản mà không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào . Thứ ba, bên bán có thể huỷ hợp đồng nếu bên mua xâm phạm nghiêm trọng các nghĩa vụ của mình mà không tiến hành các biện pháp thích hợp trong thời hạn để khắc phục sự vi phạm khi nhận được thông báo của bên bán . Bên bán trong một số trường hợp đã vi phạm hợp đồng như giao hàng muộn quá hai tuần và bên bán đã chấp nhận phạt vi phạm như thỏa thuận giữa hai bên trong hợp đồng .Có trường hợp đặc biệt công ty gạch ốp lát đã huỷ hợp đồng vì bên bán bị phá sản . 5, Giải quyết tranh chấp : Trong hợp đồng hai bên thỏa thuận về vấn đề giải quyết tranh chấp như sau: Khi thực hiện hợp đồng nếu hai bên có mâu thuẫn tranh chấp , bất đồng phát sinh các bên ngay lập tức sẽ gửi thông báo bằng văn bản về tồn tại mâu thuẫn ,tranh chấp bất đồng để tìm nguyên nhân và gải quyết trên cơ sở hoà giải . Nếu hoà giải không thành sẽ tiến hành giải quyết theo thủ tục trọng tài của phòng thương mại quốc tế .Địa điểm xét xử do hai bên lựa chọn trong hợp đồng thường là trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam . Ngôn ngữ có thể là tiếng Anh , tiếng Việt hoặc tiếng nước cung cấp thiết bị . Luật và chi phí trọng tài do trọng tài quyết định theo quy tắc đã nêu . Trong thực tế tuy có vi phạm hợp đồng song cả hai bên đều cố gắng giải quyết mâu thuẫn ,bên nào có vi phạm thì đều cố gắng khắc phục để giữ gìn quan hệ bạn hàng nên chưa có trường hợp nào phải giải quyết tranh chấp qua trọng tài,chỉ có một số trường hợp giải quýêt tranh chấp thông qua hoà giải. CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC KÍ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TẠI CÔNG TY GẠCH ỐP LÁT HÀ NỘI. I -Đánh giá về pháp luật kinh doanh nhập khẩu của Việt Nam 1.Những ưu điểm . Trong những năm qua chính sách quản lý các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta đã có những chuyển biến tích cực đặc biệt là trong quản lý hoạt động xuất nhập khẩu đã mang lại những kết quả to lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đầu tiên phải kể đến là sự mạnh dạn mở cửa của thị trường, thay đổi quan điểm nhà nước độc quyền trong ngoại thương đã mở đầu cho quá trình thay đổi và hoàn thiện các chính sách quản lý của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu .Trong nước ,nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp được xoá bỏ ,thay vào đó là cơ chế thị trường thay thế dần các biện pháp hành chính mệnh lệnh bằng các công cụ kinh tế để quản lý hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, giữ lại các thủ tục hành chính cần thiết cho quản lý nhà nước và được cải tiến phù hợp với tình hình thương mại quốc tế . Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước hoà nhập với thị trường quốc tế ,khai thác tối đa lợi thế so sánh của Việt Nam một trong những yếu tố quan trọng là đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu . Hoạt động xuất nhập khẩu được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,Đảng vạch ra phương hướng ,mục tiêu cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Trên cơ sở đó nhà nước quản lý điều hành hoạt động này thông qua hệ thống pháp luật và các cơ quan nhà nước của mình.Trong thời gian qua nhờ có quan điểm lãnh đạo đúng đắn của Đảng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Hoạt động xuất nhập khẩu được quả lý chủ yếu thông qua thuế xuất nhập khẩu.Quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bằng thuế quan mang lại hiệu quả to lớn, đảm bảo được sự quản lý chặt chẽ của nhà nước, tăng nguồn thu ngân sách quốc gia. Luật thuế xuất nhập khẩu ban hành vào ngày 26/12/1991, được sửa đổi bổ sung lần một vào ngay 5/7/1993 và lần hai vào ngày 25/5/98 để phù hợp với thực tiễn xuất nhập khẩu. Khi luật thuế ban hành hay sửa đổi bổ xung đều có văn bản của các cơ quan quản lý có liên quan hướng dẫn thi hành. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trước đây còn đòi hỏi rất nhiều thủ tục ,điều kiện để các doanh nghiệp được tiến hành khinh doanh xuất nhập khẩu như trong Nghị định 33/CP (19/4/1994) quy định quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ,quy định về việc xin giấy phép chuyến của Bộ thương mại cho hoạt động xuất nhập khẩu . Qua thực tiễn nghị định này hạn chế phần nào quyền tham gia hoạt động xuất nhập khẩu của các thành phần kinh tế và thủ tục giấy phép chuyến không cần thiết nên ngày 15/2/1995 Chính phủ gia quyết định số 89/CP bãi bỏ thủ tục giấy phép chuyến . Sự ra đời của luật thương mại ngày 10/5/1997 cùng với các văn bản, thông tư , chỉ thị lập ra hành lang pháp lý hướng dẫn việc kinh doanh của các doanh nghiệp để doanh nghiệp có hướng đi đúng đắn phù hợp với luật pháp và mục tiêu pháp triển kinh tế xã hội . Cùng với việc ban hành Luật thương mại các bộ nghành có liên quan như bộ thương mại , Bộ tài chính , tổng cục hải quan bộ khoa học công nghệ môi trường cũng ban hành một số văn bản quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu . Ngày 28/4/1997 Bộ thương mại đã ra văn bản số 1882 / TM – DB trình bầy dự thảo phương án lộ trình cắt giảm hạn chế định lượng và hàng rào phi thế quan trong tiến trình thực hiện CEPT/AFTA xây dựng bổ xung một cách chính xác chế độ tối huệ quốc (MFN) và chế độ đãi ngộ quốc gia . Bên cạnh đó Bộ thương mại đã thành lập tổ công tác liên vụ về WTO để xây dựng phương án đàm phán gia nhập tổ chức thương mại quốc tế . Trước đây hoạt động xuất nhập khẩu của công ty thường gặp nhiều khó khăn khi khai báo hải quan . Để tăng cường quản lý nhà nước về hải quan , đảm bảo tính thống nhất tránh ách tắc phiền hà Chính phủ đã ban hành một số nghị định về hoạt động hải quan như : Nghị định số 54/ 1998/NĐ CP ngày 21/7 /1998 quy định sử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về hải quan , nghị định số 15/ 1999/ NĐ_CP (27/3/1999) quy định về thủ tục hải quan , giám sát hải quan và lệ phí hải quan các nghị định ra đời đã giúp cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc khai báo và thực hiện giao nhận hàng qua cửa khẩu giảm bớt được những thủ tục không cần thiết . Để thực hiện nhiệm vụ của mình Tổng cục hải quan đã ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện hai nghị định trên là thông tư số 05/1998/ TT-TCHQ ngày 29/8/1998 hướng dẫn thi hành nghị định 54/1998/NĐ-CP và thông tư số 01/1999/TT-TCHQ ngày 10/5/1999 hướng dẫn về thủ tục hải quan quy định tại nghị định số 15/1999 /NĐ_CP ngày 27/3/1999 . Để thuận tiện cho hoạt động của mình và các doanh nghiệp Tổng cục hải quan ban hành các mẫu tờ khai hải quan , ban hành thông tư số 12/1998/TT_TCHQ (10/12/1998) hướng dẫn thi hành quy chế kho ngoại quan ban hành kèm theo quyết định số 2/12/1998/QĐ-TTg ngày 2/11/1998 của Thủ tướng chính phủ . Căn cứ vào các nghị định của Chính phủ , thông tư của Tôngr cục hải quan các doanh nghiệp tiến hành kê khai hải quan , cùng các nhân viên hải quan kiểm tra hàng hoá thấy phù hợp sẽ được phép giao nhận hàng qua biên giới . Hoạt động kiểm tra , giám định chất lượng hàng nhập khẩu đối với Việt Nam nên ngày 22/6/1999 Bộ khoa học công nghệ môi trường ra quýêt định số 109/1999/QĐ_ BKHCNMT quy định về kiểm tra chất lượng hàng hoá , ngày 17/4/2000 bộ thương mại và tổng cục hải quan ra thông tư liên tịch số 09/2000/TTLT_ BTM _TCHQ về việc xác định kiểm tra xuất xứ hàng hoá . Ngoài việc quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bằng biện pháp thuế quan Nhà nước còn sử dụng các biện pháp phi thế quan .Hàng năm Thủ tướng chính phủ ra quyết định điều hành xuất nhập khẩu kềm theo phụ lục về hành hoá cấm xuất nhập khẩu , xuất nhập khâủ có hạn ngạch có giấy phép để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiến hành xuất nhập khẩu Nhà nước đã ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương , đa phương với các quốc gia trên thế giới ra nhập tổ chức kinh tế như ASEAN. .. Việc gia nhập ASEAN nước ta phải thực hiện hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Lịch trình cắt giảm tthuế ở Việt Nam phải thực hiện bắt đầu từ năm 1996. Hàng năm chính phủ ra danh mục cắt giảm thuế theo hiệp định này như năm 1999 chính phủ ban hành nghị định ssố 14/1999/NĐ_CP (23/3/1999) về doanh mục hàng hoá và thuế suất của Việt Nam để thực hiện hiệp định về ưu đãi thuế quan có hỉệu lực chung (CEPT) cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN năm 1999 , năm 2000 là nghị định số 09/2000/NĐ-CP (21/3/2000) khi nghị định ban hành bộ tài chính sẽ ra thông tư hướng dẫn thi hành nghị định đó . Những năm qua chính sách quản lý hoạt động xuất nhập khẩu của ta co tiến bộ rõ rệt .Hệ thống luật tuy chưa thật hoàn chỉnh song tạo ra được hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp tến hành hoạt động kinh doanh của mình , giảm bớt được được những thủ tục hành chính rườm rà gây khó khăn cho doanh nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước . Quốc hội và chính phủ đã bân hành những văn bản pháp lý quân trọng tạo diều kiện cho hoat đông xuất nhập khẩu Việt Nam có hướng đi đúng đắn phục vụ cho mục tiêu phát triển cuả đất nước . Bộ thương mại , Bộ tài chính tổng cục hải quan và các cơ quan liên quan đã lỗ lực quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình góp phần nâng cao hiểu quả quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay . Những nhược điểm : Bên cạnh những mặt tích cực trong chính sách quản lý hoạt động xuất khẩu của nhà nước ta vẫn còn tồn tại nhiều nhược điểm các chính sách quản lý chưa thực sự thông thoáng còn thiếu đồng bộ và chưa ổn định . Việc cấp giấy phép xuát nhập khẩu tồn tại quá lâu dẫn tới khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp . Hệ thống văn bản quản lý hoạt động xuất nhập khẩu khá phức tạp và liên quan tới nhiều bộ nhiều ngành qua nhiều cấp. Khi Quốc hội ban hành luật, đợi Nghị định Chính phủ hướng dẫn, tiép tới là thông tư của các bộ, các ngành khác có liên quan hướng dẫn thực hiện. Các văn bản cách nhau hàng tháng, luật và Nghị định đã ban hành nhưng hướng dẫn cụ thể chưa có khi đó các doanh nghiệp gặp phải không ít khó khăn do tình trạng này gây ra. Các chính sách quản lý không ổn định, chưa đảm bảo tính khái quát cao, các văn bản sửa đổi bổ sung có khi chỉ cách nhau chưa đầy một tháng làm cho doanh nghiệp rất khó nắm hết được chính sách quản lý của Nhà nước. Vì vậy các cơ quan quản lý ban hành rất nhiều văn bản hướng dẫn hoạt động nhưng doanh nghiệp vẫn thấy lúng túng trong quá trình thực hiện. Một nhược điểm khác trong các quy định về hoạt động xuất nhập khẩu là thiếu chi tiết và tính khái quát chưa cao. Ví dụ trong quy chế tạm thời hướng dẫn ký kết và thực hiẹn hợp đồng ngoại thương số 4794-TN-XNK do Bộ thương mại ban hành nêu lên điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hoá là hợp đồng ngoại thương là: - Chủ thể của hợp đồng là các bên có quốc tịch khác nhau. - Hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác. - Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một hoặc hai bên. Khái niệm này chưa có tính khái quát cao và qua thực tế điều chỉnh quan điểm này tồn tại nhiều điểm không hợp lý: Thứ nhất: là vấn đề quốc tịch chưa đủ điều kiện để xác định là hợp đồng ngoại thương. Ví dụ như chủ thể bên Đài Loan sang lập công ty tại Việt Nam theo luật đầu tư nước ngoài (thương nhân này có trụ sở thương mại ở Việt Nam nhưng quốc tịch không phải là quốc tịch Việt Nam) và thực hiện việc mua hàng của một doanh nghiệp Việt Nam nếu theo quan điểm này thì hợp đồng trên là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Thứ hai: Vấn đề vận chuyển hàng qua biên giới cũng chỉ là tương đối. Ví dụ như việc doanh nghiệp Việt Nam mua hàng từ các thương nhân nước ngoài hoạt động tại khu chế xuất của Việt Nam, theo quy chế khu chế xuất của Chính phủ thì đó là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Thứ ba: Đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một hoặc hai bên cũng chưa thể là tiêu chuẩn để xác định yếu tố nước ngoài vì hợp đồng xuất nhập khẩu đều có đồng tiền thanh toán thoả mãn điều kiện này xong ngược lại không phải bất cứ hợp đồng nào có đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một hoặc hai bên là hợp đồng xuất nhập khẩu (có nhứng hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự đồng tiền thanh toán cũng thoả mãn điều kiện này). Như vậy với cả ba điều kiện đặt ra song chưa có điều kiện nào có thể phản ánh được yếu tố nước ngoài của hợp đồng xuất nhập khẩu. Khái niệm này còn tồn tại những điểm không phù hợp nhưng đã được áp dụng trong thực tiễn hoạt động ở nước ta nhiều năm. Đây cũng là tồn tại chung trong chính sách quản lý của Nhà nước. Luật thương mại Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/1/1998 quy định hợp đồng mua bán quốc tế là hợp đồng được ký kết giữa thương nhân Việt nam với một thương nhân nước ngoài. Với khái niệm này chưa cho ta cách hiểu cụ thể về hợp đồng xuất nhập khẩu vì thế nào là thương nhân nước ngoài thì doanh nghiệp phải tự tìm hiểu. Khái niệm này không cụ thể và cũng không có tính tổng quát. Trong luật thương mại hợp đồng xuất nhập khẩu tuy đã được đề cập đến nhưng còn rất sơ sài chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động ngoại thương hiện nay. Vì vậy luật ra đời nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra và các văn bản hướng dẫn cụ thể còn rất ít. Thuế là công cụ quản lý hữu hiệu nhất nhưng luật thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế. Danh mục mặt hàng và thuế suất của từng mặt hàng chưa phát huy tác dụng khuyến khích hay hạn chế đối với việc xuất nhập khẩu mặt hàng đó. Cơ chế thuế còn quá phức tạp với nhiều mức thuế khác nhau có một số mức thuế còn quá cao, còn nhiều kẽ hở trong luật thuế để bọn gian thương thực hiện trốn thuế. Quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bằng biện pháp phi thuế quan cùng tồn tại những điểm bất hợp lý. Hàng năm Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định điều hành kinh doanh xuất nhập khẩu và đưa ra danh mục hàng cấm nhập, hàng xuất nhập khẩu có hạn ngạch, hàng xuất nhập khẩu phải xin giấy phép vào cuối năm để thực hiện cho năm sau. Tuy nhiên trong năm các Quyết định này cũng có sự thay đổi, hậu quả trực tiếp của sự thay đổi đó dẫn đến các doanh nghiệp trong nước phải chịu thua thiệt các bạn hàng nước ngoài không yên tâm khi ký hợp đồng với các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó bạn hàng của doanh nghiệp Việt Nam thường chỉ là các bạn hàng truyền thống, ít có quan hệ mở rộng với bạn hàng mới, thị trường bị bó hẹp. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị thụ động trong việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của mình. Trong tương lai để hoà nhập với kinh tế thế giới, tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế nhà nước cần giảm bớt biện pháp quản lý hành chính và nâng cao hiệu quả của biện pháp quản lý bằng thuế quan. II. Đánh giá hoạt động ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị tại công ty gạch ốp lát Hà Nôị: Việc ký kết và thực hiện hợp đồng: Công tác lập kế hoạch và tìm hiểu thị trường: Hàng quí, hàng năm công ty gạch ốp lát Hà Nộitiến hành lập kế hoạch cho sửa chữa lớn, kế hoạch đầu tư mua sắm thiết bị mới kế hoạch mở rộng sản xuất để đảm bảo cung cấp đầy đủ thiết bị và các phụ tùng thay thế kèm theo cho hoạt động sản xuất trong thời gian tới. Công tác này được thực hiện tốt từ khâu quản lý máy móc thiết bị, khâu theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh... nên kế hoạch lập ra sát với thực tế và phù hợp với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty . Trên cơ sở kế hoạch lập ra công ty tiến hành công việc tìm hiểu và nghiên cứu thị trường để lựa chọn đối tác cung cấp thiết bị phụ tùng đảm bảo cả nội dung kinh tế và kỹ thuật. Hoạt động tìm hiểu thị trường của cong ty đã được thực hiện song còn nhiều hạn chế. Khâu thu thập thông tin mới chỉ dừng lại ở việc quan sát giá cả thị trường mà chưa có thông tin tìm hiểu bạn hàng. Thông tin thu được rất đa dạng phong phú nhưng chưa được chọn lọc xử lý chính xác. Do vậy, việc dự đoán khả năng cung ứng thiết bị phụ tùng của bạn hàng về chất lượng, giá cả và độ ổn định của sản phảm... Cán bộ tiếp cận thị trường của công ty chưa thực hiện tốt. b. Công tác tổ chức nhân sự: Trong công ty rất chú trọng tới việc phân công công việc phù hợp với khả năng, trình độ của từng nhân viên theo yêu cầu công việc. Mô hình tổ chức quản lý ở công ty là mô hình trực tuyến chức năng. Trên cơ sở chỉ đạo chung của giám đốc và các phó giám đốc, hoạt động nhập khẩu hàng hoá phục vụ cho sản xuất được giao trực tiếp cho phòng kế hoạch sản xuất. Phòng kế hoạch sản xuất dựa trên tình hình sản xuất lập kế hoạch cho sửa chữa lớn , đầu tư mua sắm thiết bị, nhập khẩu nguyên vật liệu khác để trình lên giám đốc sau đó tổ chức thực hiện. Việc ký kết hợp đồng trưởng phóng kế hoạch sản xuất giao cho từng nhân viên thực hiện theo từng mặt hàng như thiết bị lẻ, thiết bị đồng bộ, phụ tùng thay thế... và nhân viên chịu trách nhiệm từ khâu đầu đến khâu cuối của việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Với những hợp đồng có giá trị lớn như nhập khẩu dây truyền sản xuất gạch thì ban giám đốc sẽ trực tiếp lãnh đạo phòng kế hoạch sản xuất để ký kết và thực hiện hợp đồng. c. Ký kết hợp đồng: Đây là một bước quan trọng quyết định quan hệ giữa công ty với các nhà cung cấp thiết bị nước ngoài. Khi ký kết hợp đồng cán bộ phòng KHSX công ty cũng như bộ phận lãnh đạo đã rõ các qui định của nhà nước vè quản lý xuất nhập khẩu, luật thương mại quốc tế, các nghiệp vụ ngoại thương ban hành để chủ động trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Công ty đã xác lập đượcnhiều mối quan hệ với các bạn hàng tin cậy. Đối với việc nhập khẩu thiết bị cho sửa chữa lớn, thiết bị lẻ mới, thiết bị lẻ và phụ tùng bổ sung công ty gửi đơn chào hàng tới các nhà cung cấp thiết bị quen thuoọc như: Nassette SPA-Italy B&T-Italy để mua hàng. Các dây chuyền sản xuất gạch men đồng bộ công ty tổ chức đấu thầu để chọn nhà cung cấp theo đúng qui định của pháp luật. Các hợp đồng của công ty đều hợp pháp và có hiệu lực pháp lý. Trong quá trình đàm phán các điều khoản cụ thể của hợp đồng, công ty đã chủ động đưa ra nội dung các điều khoản đó để hai bên thoả thuận thống nhất. Do vậy Công ty đã tránh được những thiệt hại do sai sót và hiểu lầm gây ra. Với sự lãnh đạo cảu ban giám đốc, phòng kế hoạch sản xuất của công ty gạch ốp lát Hà Nội đã ký kết được nhiều hợp đồng nhập khẩu thiết bị đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. d. Thực hiện hợp đồng: Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu công ty gạch ốp lát Hà Nội đã cố gắng để thực hiện đúng cam kết do hai bên đã thoả thuận. Về khâu mở thư tín dụng công ty đã xác lập được mối quan hệ tốt với ngân hàng và hàng nhập khẩu của công ty là máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất nên không gặp phải nhiều khó khăn khi thanh toán. Cán bộ của công ty nắm vững thủ tục hải quan, lịch trình tàu vì vậy công tác giao nhận hàng hoá qua cửa khẩu được tiến hành nhanh chóng và chính xác. Hàng nhập khẩu là máy móc phục vụ cho sản xuất nên việc kiểm tra giám định hàng hoá rất quan trọng và phức tạp. Công ty còn gặp nhiều lúng túng thụ động trong khâu giám định hàng hoá này như việc thuê chuyên gia giám định lần đầu tại nhà máy bên cung cấp thiết bị, việc kiểm tra hàng qua của khẩu phải thông qua cơ quan kiểm tra như cơ quan hải quan, cơ quan kiểm tra do bộ khoa học công nghệ môi trường chỉ định và việc kiểm tra lần cuối tại công trường xây dựng công ty gạch ốp lát Hà Nội. Công ty phải thuê tổ chứuc giám định hàng hoá để thực hiện được các bước kiểm tra để đảm bảo quyền lợi cho Công ty. e. Về hiệu quả của hoạt động nhập khẩu thiết bị: Hoạt động nhập khẩu thiết bị của công ty gạch ốp lát Hà Nội đã thực hiện được kế hoạch bổ sung thiết bị cho hoạt động sản xuất, đảm bảo công suất đặt ra. Trong những năm qua Công ty đã ký kết và thực hiện nhiều hợp đồng nhập khẩu máy móc thiết bị với giá trị cao. Về phía công ty các hợp đồng nhập khẩu đều được thực hiện đúng theo điều khoản đã ký.Tuy nhiên do nhiều hợp đồng có thời gian thực hiện dài nên việc giao thiết bị có thể theo quí,năm nên nhiều trường hợp bên đối tác cung cấp thiết bị không đúng tiến độ gây khó khăn cho việc thực hiện hợp đồng của công ty. Trong thời gian hoạt động xuất nhập khẩu gặp không ít khó khăn nhưng việc ký kết, thực hiện hợp đồng đạt kết quả cao, những sai lầm dần được khắc phục và đến nay ít để xảy ra sai sót nghiêm trọng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty luôn đạt kế hoạch đề ra, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao và có khả năng cạnh tranh cả ở thị trường trong và ngoài nước. Có kết quả đó là do hoạt động nhập khẩu thiết bị luôn đạt kế hoạch đề ra, thiết bị hiện đại đảm bảo đúng yêu cầu công ty. Trong quá trình tiến hành hoạt động nhập thiết bị công ty cũng có những thuận lợi và những khó khăn cần giải quyết. Những thuận lợi và khó khăn trong ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị tại công ty gạch ốp lát Hà Nội: a. Thuận lợi: Do chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu đã có những chuyển biến tích cực, công ty đã tích cực tìm kiếm bạn hàng chủ động trong ký kết và thực hiện hợp đồng nên hạot động nhập khẩu luôn đạt kế hoạch đề ra. Đội ngũ cán bộ thực hiện xuất nhập khẩu có trình độ, nắm vững các chính sách quảnm lý nhà nước và nghiệp vụ ngoại thương bnên luôn chủ động trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng, ít để xảy ra sai sót gây thiệt hại cho công ty. Công ty đã xác lập được nhiều mối quan hệ tốt với các bạn hàng tin cậy nên thị trường cung cấp thiết bị cho công ty khá ổn định. Công ty là doanh nghiệp nhà trẻ tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty khá ổn định. Công ty là một trong số những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả do vậy việc huy động nguồn vốn đầu tư mua sắm thiết bị, dây chuyền mới có nhiều thuận lợi. Bên cạnh những thuận lợi đã có, công ty cũng gặp không ít những khókhăn tồn tại cần giải quyết để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu tại công ty. b. Những khó khăn tồn tại: Thời gian ký kết hợp đồng nhập khẩu tại công ty thường kéo dài, việc giao nhận thiết bị của công ty có thể theo từng chuyến từng đợt song trên thực tế công ty không lường hết được những biến động của thị trường và bạn hàng dẫn tới nhiều hợp đồng đang trong quá trình thực hiện bị dừng lại do bạn hàng không đủ khả năng cung cấp thiết bị cho công ty. Hợp đồng nhập khẩu thiết bị đặc biệt là các dây chuyền sản xuất phương thức giao dịch và ký kết hợp đồng khá phức tạp phải qua nhiều bước đặc biệt là dùng hình thức đấu thầu để lựa chọn nhà cung cấp. Công ty gặp nhiều khó khăn ở khâu lập ra những nội dung kỹ thuật, nội dung kinh tế trong quá trình lập hồ sơ mời thầu trong các chào hàng. Khâu nghiên cứu thị trường tìm hiều bạn hàng của công ty còn nhiều hạn chế, chỉ dừng lại ở khâu quan sát nên công ty chưa mở rộng được thị trường, tìm kiếm những bạn hàng mới mà chỉ dừng lại ở những bạn hàng quen thuộc. Cán bộ phòng kế hoạch sản xuất vừa theo dõi hoạt động sản xuất vừa lập kế hoạch nhập khẩu nên gặp nhiều khó khăn, nhiều hợp đồng nhập khẩu công ty phải tiến hành uỷ thác cho đơn vị khác. Những khó khăn vướng mắc còn tồn tại không chỉ ở công ty gạch ốp lát Hà nội mà còn ở hầu hết các doanh nghiệp khác đều gặp phải. Việc tìm ra nguyên nhân của những khó khăn đó để giải quyết những tồn tại hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng đang đặt ra ra đối với doanh nghiệp Nguyên nhân tồn tại khó khăn: Nguyên nhân khách quan: - Về thị trường: Thị trường trong nước về cung cấp thiết bị , công nghệ chưa phát triển, chưa có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu về thiết bị phục vụ sản xuất của công ty. - Về chính sách quản lý của Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu thiết bị: Hiện nay hệ thống văn bản pháp qui quản lý hoạt động nhập khẩu khá phức tạp liên quan đến quá nhiều cấp nhiều ngành doanh nghiệp nắm bắt hết các thiết bị ấy rất khó. Các qui định của Nhà nước thiếu đồng bộ, chưa ổn định. Một số vấn đề cần thay đổi linh hoạt phù hợp với thực tế như luật thuế, chính sách quản lý ngoại tệ chưa được thực hiện. Các qui định của Nhà nước ban hành nhiều nhưng chưa đầy đủ do thiếu tính khái quát và không thoả mãn trình cụ thể. Cơ chế "xin cho" tồn tại quá lâu trong quản lý Nhà nước vì vậy khi thực hiện việc xoá bỏ các giấy phép thủ tục phiền hà cho doanh nghiệp, một số cơ quan quản lý chưa thực sự quán triệt chủ trương này. Thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu còn phức tạp và thời gian làm thủ tục còn dài gây ra lãng phí thời gian chi, phí cho doanh nghiệp. Là một doanh nghiệp Nhà nước trẻ hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả và đang trong qúa trình phát triển, công ty hầu như không được cấp vốn bổ sung. Các nguồn vốn để nhập khẩu chủ yếu là vay tín dụng thương mại và vốn tự có điều này cũng ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch mở rộng sản xuất của công ty. b. Nguyên nhân chủ quan: Thị trường cung cấp thiết bị của công ty chủ yếu là ở nước ngoài. Thông tin về thị trường và bạn hàng của công ty nhiều song chưa được xử lý nên chưa đáp ứng yêu cầu của công ty. Thị trường nước ngoài rộng và không ngừng biến động công ty khó có thể lường trước được hết những biến động đó vì vậy trong quá trình thực hiện hợp đồng công ty gặp rất nhiều khó khăn. Việc mở rộng thị trường và quan hệ với nhiều đối tác cung cấp thiết bị công ty sẽ gặp nhiều khó khăn như chưa đủ thông tin về bạn hàng, chất lượng sản phẩm để xác lập quan hệ.Đồng tiền thanh toán chủ yếu là USD vì vậy khi có sự biến động lớn của USD sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện hợp đồng của công ty gạch ốp lát Hà Nội. Ngôn ngữ giao dịch và ký kết hợp đồng chủ yếu bằng tiếng Anh trong khi cán bộ thực hiện hoạt động xuấtnhập khẩu của công ty trình độ tiếng Anh còn nhiều hạn chế nên gặp không ít khó khăn. Trên đây là những khó khăn tồn tại ở công ty gạch ốp lát Hà nội mà nguyên nhân cả từ yếu tố khách quan bên ngoài và cả từ bản thân công ty. Công ty đã tìm ra nguyên nhân và đang từng bước khắc phục khó khăn vướng mắc xuất phát từ bản thân công ty cùng với sự đổi mới trong chính sách quản lý của nhà nước hy vọng công ty sẽ đẩy lùi khó khăn để đạt kết quả cao hơn trong quá trình hoạt động của mình. III. Kiến nghị đối với việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Việt Nam: Kiến nghị với Nhà nước: a. Về việc ban hành pháp luật có tính đồng bộ và ổn định: Hệ thống văn bản pháp luật có tác động quan trọng tới hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, hoạt động nhập khẩu nói riêng .Có tác động trực tiếp tới từng doanh nghiệp và toàn xã hội, là công cụ để doanh nghiệp được đảm bảo quyền lợi của mình là phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội. Tuy nhiên trên thực tế hệ thống văn bản pháp luật của ta chưa đảm bảo tính đồng bộ và thiếu tính ổn định cần thiết. Để khắc phục tình trạng này các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản qui phạm pháp luạt sau đây: - Bảo đảm tính hợp hiến hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống văn bản qui phạm pháp luật. Trong hệ thống văn bản qui phạm pháp luật nước ta Hiến pháp là luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất không một văn bản nào được trái với hiến pháp. Theo thứ bậc các cơ quan ban hành hiệu lực văn bản của cấp trên phải cao hơn văn bản cấp dưới để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật. Đối với lĩnh vực liên quan đến nhiều ngành nghề cần thiết phải ban hành các thông tư liên tịch thì các cơ quan cần phối hợp với nhau để ban hành văn bản theo đúng nguyên tắc trên. - Bảo đảm sự tham gia ý kiến rộng rãi của nhân dân trong việc xây dựng văn bản qui phạm pháp luật: Trong quá trình xây dựng văn bản qui phạm pháp luật tuỳ thuộc vào tính chất và nội dung của văn bản cần ban hành để lấy các ý kiến của các cơ quan tổ chức xây dựng văn bản qui phạm pháp luật. Có như vậy văn bản mới phù hợp với thực tế. - Bảo đảm tính cụ thể của văn bản qui phạm pháp luật: Đây là một nguyên tắc quan trọng mà cơ quan ban hành văn bản cần thực hiện triệt để. Hiện nay trong hệ thống pháp luật nước ta các văn bản của cơ quan quyền lực cao thì qui định nguyên tắc chung do vậy khi ban hành người dân lại phải đơị những văn bản hướng dẫn cụ thể của cơ quan cấp dưới gây ra không ít khó khăn. Để hạn chế tình trạng này văn bản qui phạm pháp luật kể cả văn bản của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là Quốc Hội như luật ,pháp lệnh cần phải qui định cụ thể nội dung của văn bản, nguyên tắc này được đảm bảo sẽ làm cho văn bản qui phạm pháp luật có hiệu lực thi hành ngay, hệ thống văn bản pháp luật được đồng bộ và ngắn gọn các thành viên dễ nắm bắt được chính sách quản lý Nhà nước. Trong trường hợp pháp lệnh có những nội dung cần qui định chi tiết thi hành bằng văn bản khác thì ngay trong nội dung đó cần chỉ định rõ cơ quan và thời hạn ban hành văn bản đó.Các văn bản pháp luật đảm bảo tính khái quát cao để tránh tình trạng troing một thời gian ngắn ra hết văn bản sửa đổi bổ sung kèm theo gây khó khăn cho việc thực thi văn bản. Các văn bản hướng dẫn cần ban hành kịp thời khi luật có hiệu lực để đảm bảo tính thực thi của các văn bản qui phạm pháp luật. b. Quản lý hạn ngạch và cấp giấy phép kinh doanh: Hàng năm Thủ tướng Chính phủ ra quyết định điều hành hoạt động xuất nhập khẩu trong năm và ban hành kèm theo phụ lục về hàng cấm nhập khẩu, hàng xuất nhập khẩu có hạn ngạch hàng xuất nhập khẩu có giấy phép. Đây là biện pháp quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bổ sung cho biện pháp quản lý bằng thuế quan để đảm bảo hoạt động sản xuất trong nước phát triển. Trong thời gian qua việc quản lý bằng hạn ngạch và giấy phép kinh doanh chưa thực sự đạt hiệu quả và gây ra tình trạng tiêu cực trong hoạt động quản lý Nhà nước. Để quản lý Nhà nước bằng hạn ngạch có hiệu quả Nhà nước cần ra những văn bản qui định chi tiết về việc phân bổ hạn ngạch cho từng đơn vị kinh doanh trực tiếp , tránh tình trạng phân bổ hạn ngạch cho nhiều ngành nhiều khâu trung gian, các doanh nghiệp cần quota thì không có, các doanh nghiệp đơn vị khác mặc dù thiếu vốn, thiếu phương tiện kinh doanh lại giữ quota trong tay khi đó việc quản lý hạn ngạch vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp vừa tạo ra kẽ hở dẫn tới tình trạng tiêu cực trong quản lý. Về chế độ giấy phép cũng cần có những hướng dẫn chi tiết và điều kiện cần thiết để cấp giấy phép giám sát, kiểm tra việc cấp giấy phép. Những điều kiện này cần phù hợp với thực tế kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu không phù hợp với thực tế sẽ dẫn đến tình trạng kinh doanh xuất nhập khẩu không tuân thủ theo qui định Nhà nước, tình trạng luồn lách để trốn tránh pháp luật sẽ gia tăng. Nhà nước chỉ nên giữ lại những giấy phép cần thiết để đảm bảo cho quản lý, nên có biện pháp thay thế quản lý bằng hạn ngạch, giấy phép sang biện pháp quản lý bằng thuế quan nếu phù hợp. c. Về chế độ hải quan: Trong thời gian gần đây thủ tục hải quan đã có nhiều tiến bộ, giảm nhẹ những thủ tục phiền hà gây cản trở cho doanh nghiệp giao nhận hàng hoá qua cửa khẩu. Chính phủ đã ban hành những Nghị định cần thiết trong lĩnh vực hải quan như thủ tục hải quan, giám sát hàng hoá, lệ phí hải quan, quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực hải quan... và tổng cục hải quan cũng ra thông tư hướng dẫn chi tiết thi hành. Tuy nhiên trên thực tế hàng qua cửa khẩu vẫn còn chưa được giải quyết nhanh, cán bộ hải quan vẫn còn nhiều nhũng nhiễu đối với doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng này Nhà nước cần có biện pháp quản lý đẩy mạnh công tác cải cách bộ máy tổ chức hải quan; giảm bớt những thủ tục gây cản trở cho hoạt động thông quan hàng qua của khẩu. Nhà nước cần có biện pháp phát hiện và xử lý kịp thời việc gian lận thương mại; tổng cục hải quan cần ra những qui định cần thiết xử lý cán bộ nhân viên hải quan biến chất làm trong sạch bộ máy hải quan. d. Chế độ thuế nhập khẩu: Luật thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam được hoàn thiện vào năm 1991, được sửa đổi vào năn 1993 và gần đây là năm 1998. Các doanh nghiệp đã nắm được thuế suất và tự kê khai thuế khi làm thủ tục nộp thuế tại cửa khẩu. Việc thi hành luật thuế do vây đã đi vào nề nếp và là nguồn thu quan trọng trong ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên trên thực tế thuế của ta vẫn còn những hạn chế nhất định chưa thực sự là công cụ điều tiết hữu hiệu hoạt động xuất nhập khẩu của Nhà nước. Ví dụ như biểu thuế còn cao so với các nước khác; việc phân loại hàng hoá chưa được cụ thể... Do vậy để thuế phát huy vai trò của nó chế độ thuế của ta cần có những thay đổi cho phù hợp với thực tế về thuế suất; miễn thuế; giảm thuế, hoàn lại thuế, truy thu thuế. e. Qui dịnh cuả Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu: Để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động xuất nhập khẩu, Nhà nước cần tạo ra hành lang pháp lý cần thiết điều chỉnh hoạt động nhập khẩu tại Việt Nam như: Khi ban hành luật thương mại các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành chưa nhiều. Trong nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/07/1998 qui định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu trong chương 2 cũng chỉ qui định về hàng hoá xuất nhập khẩu và ai được kinh doanh xuất nhập khẩu mà chưa có biện đưa ra quản lý hoạt động này. Do vậy chính phủ cần ban hành thêm các văn bản hướng dẫn để quản lý hoạt động ký kết thực hiện hợp đồng. Hiện nay, chính sách kinh tế đối ngoại của ta là hướng tới xuất khẩu giảm nhập khẩu nên quản lý hoạt động nhập khẩu của cơ quan Nhà nước chưa được coi trọng đúng mức .Vì vậy hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam thường gặp phải khó khăn. Hợp đồng nhập khẩu ở Việt Nam chủ yếu là máy móc thiết bị, các hợp đồng này có giá trị cao song quá trình ký kết và thực hiện phức tạp; các nội dung về kinh tế kỹ thuật của thiết bị ở Việt Nam chưa có chuyên gia giỏi để tư vấn cho hoạt động này, pháp luật chưa đẩy đủ do vậy các doanh nghiệp rất lúng túng khi thực hiện. Nhà nước ngoài việc ban hành những văn bản hướng dẫn cho các doanh nghiệp trong nhập khẩu còn nên thành lập các tổ chức chuyên môn và cố vấn pháp luật để giúp đỡ cho doanh nghiệp trong khi ký kết và thực hiện hợp đồng. Các toà kinh tế, trọng tài thương mại trong nước cần nâng cao hiệu quả trong xét xử để các doanh nghiệp có chỗ dựa vững chắc để bảo vệ quyền lợi của mình. Bên cạnh đó các cơ quan quản lý và các tổ chức có liên quan cũng cần nâng cao hiểu biết thực tiễn thương mại quốc tế để ban hành những văn bản pháp qui điều chỉnh hoạt động này cho phù hợp. g. Gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới: Ngày nay, hoạt động kinh tế ở mỗi nước càng hoà nhập với nhau trong bức tranh tổng thể về kinh tế thế giới. Mỗi quốc gia chỉ là một mắt xích hữu cơ của toàn bộ dây chuyền thế giới. Vĩ vậy khái niệm về nền kinh tế đóng trở nên xa lạ trong thời đại ngày nay,thay vào đó là khái niệm kinh tế mở. Các quốc gia đều có xu hướng gia nhập vào các cộng đồng thương mại thế giới để tăng cường hoạt động kinh té đối ngoại của mình và Việt Nam cũng nằm trong trào lưu đó. Để tạo môi trường thuận lợi cho doanh nhiệp trong và ngoài nước tham gia vào thị trường thế giới Nhà nước ta đang có những biện pháp để tham gia vào tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đã gia nhập vào ASEAN. Là thành viên của nó Việt Nam phải tuân theo đúng những cam kết mà Việt Nam góp phần xây dựng lên. Sau khi gia nhập ASEAN nước ta đã tham gia khu vực mậu dịch thương mại tự do Đông Nam Á (APTA) nhằm đẩy mạnh giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực và khai thác lợi thế thương mại của Việt Nam. Từ 1995, Việt Nam đã có những văn bản qui định về thuế để thực hiện Hiệp định và thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) như Nghị quyết số 292/NQ-UBTVQH (8/11/1995) và Nghị định 91/CP ngày 18/11/1995 ban hành Cá c mặt hàng thực hiện theo CEPT. Danh mục này hàng năm đều có sửa đổi bổ sung. Hiện nay rất nhiều khối mậu dịch tự do ra đời ở hầu hết châu lục với nội dung chủ yếu là xoay quanh việc gỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Vì vậy khi gia nhập các khối đó Việt Nam cần phải xem xét những thuận lợi và khó khăn đưa lại để có chính sách gia nhập cho phù hợp. Ví dụ như khi quan hệ với các thành viên NAFTA Việt Nam phải đổi mới cơ cấu ngành trong nền kinh tế, nâng cao chất lượng sản phẩm để trao đổi XNK hay khi gia nhập WTO nước ta phải điều chỉnh hệ thống và chính sách thương mại tương đồng với WTO và phải chấp nhận nhân nhượng về thuế và mửo cửa thị trường hàng hoá dịch vụ... Hiện nay Việt Nam đã mở rộng quan hệ thương mại với nhiều nước và nhiều tổ chức thương mại quốc tế và khu vực .Việt Nam cũng đã ký hiệp định thương mại song phương và đa phương ,chúng ta cẫn coi trọng và tổ chức thực hiện đúng đắn các hiệp định mà ta đã chấp nhận, kịp thời điều chỉnh các chính sách cụ thể thích với diễn biến nhạy cảm của tình hình quốc tế và khu vực. Nhà nước cần ban hành những ấn phẩm để phổ biến kịp thời các nội dung đó tới cá nhân, đơn vị kinh tế. 2. Đối với doanh nghiệp: Những khó khăn tồn tại khi thực hiện nhập khẩu không chỉ tồn tại ở Công ty gạch ốp lát Hà Nội mà đó cũng là thực tế chung đối với các doanh nghiệp.Để khắc phục khó khăn các doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt các bước sau đây: a. Xây dựng kế hoạch mua hàng: Để đảm bảo có được hàng hoá phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian tiếp, trên cơ sở theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh dự báo thị trường doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một kế hoạch nhập khẩu cụ thể. Đây là việc cần thiết và là tiền đề cho các hoạt động tiếp theo. Do vậy các doanh phải đưa ra kế hoạch nhập khẩu với các câu hỏi: - Mua hàng gì: Khi đặt câu hỏi này công ty đồng thời phải xác định tiêu chuẩn nhất định đặt ra đối với hàng hoá đó. - Mua bao nhiêu: Dựa trên thực tế nguồn vốn mà công ty có thể sử dụng để mua hàng và nhu cầu về mặt hàng đó công ty đặt ra con số cụ thể . - Mua khi nào: Trên thực tế sản xuất kinh doanh, công ty sẽ quyết định thời điểm để mua hàng. Bên cạnh đó kế hoạch mua hàng sẽ đặt ra câu hỏi mua của ai, giá cả như thế nào. Để làm được điều naỳ công ty phải tiến hành nghiên cứu tìm hiểu thị trường và bạn hàng để ra quyết định. b. Thu thập thông tin trên thị trường: Sau khi lập kế hoạch mua hàng, Công ty tiến hành phân vùng thị trường tìm kiếm bạn hàng để chọn ra nhà cung cấp hàng hoá đáp ứng yêu cầu của công ty. Hiện nay thông tin rất đa dạng song người nhận tin phải biết chọn lọc để xử lý thông tin đó. Đối với thị trường quan trọng cung cấp hàng chủ yếu cho công ty cần thu thập thông tin thường xuyên có thể cử đại diện sang thị trường đó để theo dõi và thu thập tin hoặc công ty có thể tìm kiếm thông tin trên mạng internet, qua thư điện tử... Các thông tin cần thiết cho hoạt động của công ty như quá trình phát triển của đối tác cung cấp đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn nào, giá cả thị trường và giá đối tác đưa ra; quan hệ của đối tác với các bạn hàng trước đó ... để công ty có thể lựa chọn cho mình những bạn hàng phù hợp nhất. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang vướng mắc ở khâu thu thập thông tin. Nhiều hợp đồng doanh nghiệp đã bị lừa khi ký kết với các công ty "ma" do các thông tin giả đưa lại và hậu quả mà các doanh nghiệp phải gánh chịu rất lớn. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải thận trọng khi thực hiện bước này nhưng cũng không vì thế mà chỉ bó hẹp quan hệ làm ăn trong một thị trường nhỏ hẹp để bỏ lỡ các cơ hội tốt. c. Xác lập quan hệ đàm phán ký kết hợp đồng: Khi đã có đầy đủ thông tin về bạn hàng công ty có thể gửi chào hàng tới các đối tác để mở đầu cho quan hệ kinh doanh, tiến tới khâu đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu. Công tác đàm phán và ký kết hợp đồng rất quan trọng đối với việc kinh doanh của doanh nghiệp, chính thức xác lập mối quan hệ pháp lý của hai bên. Trong công tác này điều cần thiết và quan trọng nhất phụ thuộc vào người đứng ra đàm phám. Người đàm phán trước hết phải có trình độ anh ngữ cao để giao dịch, nắm vững luật pháp trong nước cũng như luật quốc tế và nghiệp vụ ngoại thương, nắm rõ kế hoạch của công ty và hiểu biết đối tượng xác định quan hệ để chủ động trong quá trình đàm phán về nội dung cụ thể của hợp đồng . Trong đàm phán ký kết phải đảm bảo tuân thủ theo pháp luật như điều kiện về chủ thể; đối tượng hợp đồng; người có thẩm quyền ký kết hợp đồng để hợp đồng phát sinh hiệu lực. Những nội dung chủ yếu của hợp đồng phải có đủ công ty cần phải chú trọng tới các điều khoản phù hợp với hàng hoá của mình; đặc biệt việc chọn luật và cơ quan giải quyết tranh chấp. Điều đó sẽ giúp công ty bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình nếu có xảy ra tranh chấp mâu thuẫn khi thực hiện hợp đồng d. Giao nhận hàng và làm thủ tục hải quan: Khi thực hiện hợp đồng công tác giao nhận hàng đóng vai trò quan trọng, là bước quyết định quyền lợi của công ty được thực hiện hay không. Khi thực hiện hợp đồng, công ty cần phải nắm vững lịch trình giao nhận hàng, thời gian hàng đi, hàng đến, địa điểm bốc dỡ hàng. Gắn với công tác giao nhận hàng là việc giám định chất lượng hàng hoá đúng tiêu chuẩn qui định trong hợp đồng không để có khiếu nại kịp thời với người bán hoặc người chuyên chở. Khi hàng đến cửa khẩu để nhận hàng về doanh nghiệp tiến hành kê khai hải quan theo qui định. Vì thủ tục hành chính ở nước ta còn rất phức tạp và mất thời gian do vậy cán bộ làm công tác nhận hàng cầng nắm vững những qui định của Nhà nước và trình tự làm thủ tục cần thiết để nhận hàng về. e. Thanh toán: Phương thức thanh toán ngoại thương hiện nay rất đa dạng song hiện nay phương thức sử dụng chủ yếu là mở thư tín dụng không huỷ ngang hay phương thức nhờ thu kèm chứng từ. Mỗi phương thức thanh toán đều có ưu nhược điểm nhất định do vậy để đảm bảo cho quyền lợi của mình các doanh nghiệp phải lựa chọn phương thức thanh toán cho phù hợp và phải qui định cụ thể trong trường hợp đồng. Tiến trình thanh toán tiến hành song song với tiến trình giao nhận hàng đảm bảo quyền lợi của cả hai bên. g. Tăng cường biện pháp quản lý đào tạo nhân sự: Để đảm bảo hiệu quả cho hoạt động nhập khẩu vấn đề nhân sự trong các doang nghiệp là yếu tố quyết định nhất. Mỗi bước đặt ra đều cần tới đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi để thực thi công việc. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần quan tâm đến công tác quản lý cán bộ. Việc phân công công việc phải đảm bảo phù hợp với trình độ và năng lực của từng người. Các doanh nghiệp cần có chính sách để đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ nhân viên trong công ty, công ty cũng nên trích một phần lợi nhuận để thưởng cho những người làm việc tốt. Đánh giá công bằng hợp lý công việc của từng người sẽ kích thích sự hăng say lao động, ý thức trách nhiệm của cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp. 3- Các cơ quan tổ chức có liện : Họat động nhập khẩu của doanh nghiệp không chỉ liên quan tới mỗi doanh nghiệp mà còn liên quan tới nhiều cơ quan tổ chức khác như ngân hàng, các tổ chức tín dụng, bảo hiểm, cơ quan giám định hàng hoá, tổ chức chuyên chở hàng hóa... Các cơ quan tổ chức này là cầu nối quan trọng giúp cho hợp đồng nhập khẩu được thực hiện. Vì vậy cơ quan Nhà nước cần có những biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các cơ quan này, tạo điều kiện thuận lợ cho hợp đồng nhập khẩu được thực hiện. KẾT LUẬN: Bằng lỗ lực của ban lãnh đạo công ty và toàn bộ cán bộ công nhân viên công ty gạch ốp lát Hà Nội đã vượt qua những khó khăn trong thời gian đầu thành lập để đi lên và phát triển trên thương trường . Qua kết quả kinh doanh thu được công ty đã khẳng định vị trí của mình là một trong những doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả . Trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gạch ốp lát Hà Nội thì hoạt động nhẩp khẩu giữ một vị trí hết sức quan trọng góp phần tạo nên “bộ mặt mới “của công ty như hiện nay.Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về hợp đồng xuất nhập khẩu và thực tiễn ký kết hợp đồng nhập khẩu thiết bị của công ty, bài viết của em đề cập tới những khía cạnh pháp lý về hợp đồng xuất nhập khẩu nói chung hợp đồng nhập khẩu thiết bị tại công ty gạch ốp lát Hà Nội nói riêng .Trong khuôn khổ bài viết này với một số đánh giá và kiến nghị giải pháp trong quá trình ký kết hợp đồng em mong muốn ý kiến đó góp được phần nào cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu của thương nhân Việt Nam . Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá , thị trường công nghệ chưa thực sự phát triển song nhu cầu về máy móc thiết bị với công nghệ hiện đại rất cao nên hoạt động nhập khẩu thiết bị trong giai đoạn này là cần thiết . Vì vậy Nhà nước cần có sự quan tâm hơn nữa tới hoạt động này và tạo ra hành lang pháp lý để doanh nghiệp có chỗ dựa vững chắc bảo đảm cho quyền lợi của mình . Về phía công ty để thực hiện tốt hoạt động nhập khẩu đảm bảo cho “dây chuyền “ hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện tốt trước tiên phải tuân thủ pháp luật trong kinh doanh xuất nhập khẩu và am hiểu pháp luật , tiếp đó cần có một đội ngũ cán bộ có năng lực có chuyên môn nghiệp vụ tốt , tận tình với công việc . Khi ký kết thực hiện hợp đồng công ty cần tuân thủ các nguyên tắc đặt ra và coi trọng khâu ký kết hơp đồng để tránh xảy ra sai sót không đáng có . Em hy vọng chuyên đề thực tập này phản ánh được một phần thực chất . Do thời gian còn hạn chế và kiến thức thực tế chưa nhiều nên chuyên đề không tránh khỏi những sai sót rất mong được sự góp ý của thầy cô và cán bộ công ty gạch ốp lát Hà Nội . Em xin chân thành cảm ơn . Hà nội tháng 5 năm 2001 Sinh viên :Trần Thị Thu Phương DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Các văn bản pháp luật Hiến pháp CHXHCN Việt nam 1992 Bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam 1995 Luật thương mại 1997 Luật sửa đổi bổ xung luật thuế xuất nhập khẩu 1998 Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo nghị định số 88/1999/NĐ_CP ngày 1/9/1999và nghị định số 14/2000/NĐCP (5/5/2000)của chính phủ Nghị định số 57 / 1998 /NĐCP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động xuât nhập khẩu gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài . Công báo số 1/1999 Nghị định số94/1998-NĐ-CP (17/11/1998) quy định chi tiết thi hành luật sửa đổi bbổ xung một số vấn đề của luật thuế xuất nhập 4/1998/QH10(25/5/98) công báo số 1/99 Nghị định số 15/1999/NĐ_CP quy định về thủ tục hải quan giám sát hải quan và lệ phí hải quan (27/3/99) công báo số 17/99. Quyết định số 242/99/QĐ-TTg ngày 30/12/99về diều hành xuất nhập khẩu năm 2000 Công báo số 5/2000. Thông tư số 01/1999/TT_TCHQ( 10/5/99) hướng dẫn về thủ tục hải quan quy dịnh tại nghị định số 15 /1999/NĐ_CP(27/3/99) công báo số 27/99. Sách tham khảo 1 . Giáo trình luật thương mại quốc tế .Bộ môn luật ĐHKTQD Hà Nội nhà xuất bản khoa học kỹ thuật 1999 Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương (Vũ hữu Tửu ) nhà xuất bản giáo dục 1998 Thương mại quốc tế và kinh nghiệm phát triển ngoại thương (Hà Nguyễn )nhà xuất bản thống kê 1998 Tìm hiểu pháp luật trong thương mại (Lê quang Liêm ) nhà xuất bản thống kê 1996 hợp đồng xuất nhập khẩu (Nguyễn mạnh Bách ) nhà xuất bản thống kê 1992 Thương mại và giải quyết tranh chấp về thương mại Học viện chính tri quốc gia Hồ Chí Minh Các tài liệu khác Công ước Viên 1980 của lien hợp quốc về mua bán hàng hoá quốc tế Incoterms 1990,2000 Hướng dẫn sử dụng Incoterms 1990 Quy tắc thực hành thống nhất về chứng từ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0016.doc
Tài liệu liên quan