Trải qua 15 năm đổi mới và phát triển chúng ta có thể khẳng định được rằng đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn: Kinh tế thị trường chính là cỗ xe tốt hơn cả trong con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Như thế không có nghĩa rằng xây dựng nền kinh tế thị trường là liều thuốc vạn năng là mục đích mà kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để chúng ta tiến tới chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh trong nước cũng như quốc tế có nhiều biến động khôn lường, thuận lợi và khó khăn đan xen lẫn nhau, Đảng ta phải lãnh đạo toàn dân phát huy được tinh thần cách mạng, đẩy nhanh công cuộc đổi mới nắm lấy những thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn thử thách nếu không chúng ta càng tụt hậu xa hơn về kinh tế kéo theo nó là sự bất ổn về chính trị và an ninh quốc phòng. Kinh tế thị trường làm cho nước ta thay da đổi thịt, đời sống của nhân dân đi vào ổn định, mối quan hệ với các nước khác ngày càng phát triển. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội ở Liên Xô và Đông ÂU ảnh hưởng mạnh mẽ tới kinh tế nước ta nhưng do sự nhạy bén trong đường lối kinh tế xã hội, áp dụng có hiệu quả kinh tế thị trường nên không những chúng ta không bị sụp đổ theo mà đang ngày càng có tiếng nói trên diễn đàn quốc tế. Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng đặt ra những vấn đề xã hội gay gắt như sự phân hoá giàu nghèo, sự ra tăng các tệ nan xã hội .đòi hỏi chúng ta phải có những chiến lược kinh tế hợp lí nhằm giảm bớt tiêu cực xã hội.
29 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1792 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hôi chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hấp nhận kinh tế thị trường là xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó vẫn là vấn đề phức tạp,vì vậy chúng ta cần đứng trên quan điểm toàn diện để có thể đánh giá một cách đúng đắn về công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
B: Nội Dung:
1.Sự cần thiết phải xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
1.1.Kinh tế thị trường là gì và những đặc điểm của nó:
1.1.1.Kinh tế thị trường là gì:
Có phải kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản hay không?
Ngay từ đại hội Đảng VI đã khẳng định kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà sự ra đời của chủ nghĩa tư bản chỉ đẩy nền kinh tế kinh tế thị trường lên một bước phát triển cao hơn cả về chất, quy mô, tính chất và mức độ bao quát của nó “kinh tế thị trường là một trong những yếu tố của quá trình phát triển xã hội chứ không phải là cái gì đó riêng có của chủ nghĩa tư bản” (7- 5) Kinh tế thị trường chính là bước phát triển cao hơn của kinh tế hàng hoá, là thành tựu văn minh mà loài người đạt được trong quá trình sản xuất và phát triển của mình. Kinh tế hàng hoá ra đời ngay sau khi tan rã chế độ cộng sản nguyên thuỷ do đó kinh tế thị trường không mang tính giai cấp. Mỗi nhà nước, thể chế chính trị đều có thể vận dụng nền kinh tế thị trường để đạt được những mục đích mà mình đề ra.
Nền kinh tế thị trường vận động theo những quy luật chung vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cạch tranh, thị trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế, giá cả do thị trường quyết định ...Trong lịch sử kinh tế thế giới kinh tế thị trường như một tất yếu gắn liền với sự phát triển của mọi quốc gia, là con đường dẫn tới giàu có văn minh.
1.1.2 Những ưu điểm của nền kinh tế thị trường:
Có thể nói nhờ áp dụng cơ chế thị trường vào nền kinh tế mà các nước tư bản đã giầu lên một cách nhanh chóng và đạt được những thành tựu cao về khoa học và công nghệ. Trước kia chúng ta đồng nghĩa kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản do đó đã không nhìn được những ưu điểm của kinh tế thị trường mà chỉ thấy những mặt trái của nó và phủ nhận nó. Trước hết trong nền kinh tế thị trường mọi người được tự do về kinh tế, trong nền kinh tế hiện vật chỉ có hai hình thức sở hữu duy nhất đó là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể hình thức sở hữu tư nhân bị coi nhẹ làm kìm hãm sự làm giàu chính đáng của nhân dân.Trong nền kinh tế thị trường mọi công dân có quyền tự do kinh doanh làm giàu một cách chính đáng cho mình, khi lợi ích thiết thân của mỗi người được đảm bảo mới tạo điều kiện cho việc thực hiện chiến lược kinh tế của nhà nước,và chính điều đó sẽ tạo được sự tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng.
Một trong những ưu điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường đó là cơ chế cạnh tranh, nhờ nó mà các nhà sản xuất luôn phải thay đổi mẫu hàng và chất lượng sản phẩm để có thể bán được hàng do đó cần đổi mới công nghệ máy móc. Còn về phía nhân dân thì mua được những mặt hàng có chất lượng cao mà giá thành lại rẻ làm cho đời sống của nhân dân được nâng cao. Cơchế cạnh tranh có tác dụng điều chỉnh tích cực cơ cấu kinh tế, đào thải những yếu tố lạc hậu, làm bộc lộ đầy đủ những yếu kém trong sản xuất kinh doanh, trong quản lý từ vĩ mô đến vi mô của nước ta. Cơ chế cạnh tranh có tác dụng điều chỉnh tích cực nền kinh tế ổn định, các doanh nghiệp phát huy được hết những sáng tạo của mình trong sản xuất kinh doanh, không những thế cơ chế cạnh tranh còn giúp phát triển dịch vụ sau bán hàng như bảo dưỡng, bảo hành sản phẩm càng làm tăng chất lượng sản phẩm.
Nền kinh tế thị trường có vai trò tự điều tiết giá cả theo cung cầu mà không phải là sự định giá như nền kinh tế hiện vật, giúp cho cơ cấu kinh tế linh hoạt hơn, người sản xuất có thể xác định nhu cầu của người tiêu dùng mà quyết định có tiếp tục đầu tư hay ngừng sản xuất mặt hàng nào đó để thu được lợi nhuận cao nhất, do đó trong nền kinh tế thị trường các nhà kinh doanh phải luôn đổi mới, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm để giành thị trường.
1.1.3. Những nhược điểm của kinh tế thị trường :
Ngay trong bản thân bất kì một mô hình kinh tế nào cũng có mặt tích cực và tiêu cực và kinh tế thị truường cũng thế. Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại những mặt trái mà nếu không có sự điều chỉnh và can thiệp của nhà nước thì sẽ phát triển mạnh mẽ tàn phá đời sống xã hội. Những khuyết tật này của kinh tế thị trường được chính các học giả phương tây rút ra. Trước hết sự tự do trong kinh doanh của kinh tế thị trường làm một bộ phận những nhà kinh doanh giàu lên một cách nhanh chóng do nắm bắt được thị trường trong khi đó số còn lại thì phá sản phải đi làm thuê bị bóc lột nên khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng lên. Kinh tế thị trường càng phát triển bao nhiêu thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng lên, theo thống kê thì 20% dân số giàu trên thế giới sử dụng 80% của cả xã hội, còn 80%dân số còn lại chia nhau 20% của cả xã hội. Các nhà tư bản coi đó là sự công bằng kẻ mạnh là kẻ chiến thắng vì ở các nước tư bản lợi ích nằm trong giai cấp tư sản. Sự phân hoá giàu nghèo dẫn tới những bất công trong xã hội làm xã hội bất ổn định những người nghèo luôn tìm mọi cách có tiền kể cả những việc trái pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận là mục đích duy nhất và quan hệ tiền tệ hàng hoá đặt lên trên hết làm băng hoại các quan hệ xã hội khác và không chỉ có thế nó còn đang dần lên lỏi trong các quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ giữa người và người. Các Mác và Ang nghen đã chỉ ra rằng “xã hội tư bản không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác ngoài mối lợi lạnh lùng và lối trả tiền ngaykhông tình nghĩa” Ngày nay ta thấy rằng quan hệ bằng đồng tiền đã làm tan vỡ dần các gia đình, qua hệ giữa vợ chồng, bố mẹ và con cái bị đồng tiền tri phối, các tệ nạn xã hội gia tăng như buôn lậu ma tuý mại dâm...số tội phạm gia tăng làm rối loạn xã hội mà tất nhiên xã hội đã rối loạn thì kinh tế không thể phát triển một cách ổn định được. Trong nền kinh tế thị trường thì lợi nhuận là mục đích duy nhất nên dễ dẫn tới sự độc quyền của một số ít những nhà tư bản dẫn tới sự lũng đoạn thị trường không cho các nhà doanh nghiệp khác phát triển, trong nền kinh tế thị trương tự do sự phân hoá giai cấp ngày càng trở nên gay gắt. Sự khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên làm cho môi trường bị ô nhiễm, hệ sinh thái bị biến đổi một cách đột ngột gây ra thiên tai ở khắp nơi trên thế giới, trong những năm gần đây những thiên tai diễn ra ngày càng nhiều và với cường độ mạnh mẽ hơn có sức tàn phá lớn hơn. Một nhược điểm khó tránh khỏi của kinh tế thị trường là sự lãng phí của cải vật chất xã hội, để có được lợi nhuận lớn thì các nhà kinh doanh không những phải đổi mới công nghệ mà còn phải chi phí khá lớn cho quảng cáo, các học giả phương tây cho rằng không sợ lãng phí mới thu được lợi nhuận lớn theo thống kê của Mĩ thị chi phí cho quảng cáo bằng chi phí cho giáo dục.
Trong nền kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa làm cho xã hội ngày càng bất ổn định, một học giả phương tây đã nhận xét chua chát “trong các nền văn minh của được gọi là phát triển của chúng ta tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người”
1.2.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặc điểm và yêu cầu:
1.2.1. Đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Đại hội lần thứ IX của đảng đã khẳng định một lần nữa “ Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội trên nền tảng là chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh(15- 3 ) Và kinh tế thị trường chính là phương tiện để chúng ta thực hiện mục tiêu đó. Nền kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm giống như kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa,đó là nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu...Trong nền kinh tế thị trường thừa nhận tính độc lập, tự chủ của cá nhân, xí nghiệp tự họ sẽ đưa ra những quyết sách về kinh tế và tự mình gánh vác những mạo hiểm trong kinh doanh. Thị trường có vai trò quyết định trong việc phân phối những nguồn lực về kinh tế, giá cả do thị trường quyết định, thị trường đóng vai trò cơ sở trong việc phân bố tài nguyên, con nhà nước chỉ có vai trò điều tiết vĩ mô để giảm bớt những thất bại của thị trường. Mục đích của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là đem lại lợi nhuận cho cá nhà tư bản còn “ mục đích của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đó chính là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của xã hội chủ nghĩa”(17-3) vì vậy kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm riêng của mình:
Trước hết nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu trong đó sở hữu nhà nước làm chủ đạo, do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần
trong đó kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Trước kia trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân coi nhẹ sở hữu tư nhân làm kìm hãm sự phát huy năng lực sáng tạo, sự làm giàu chính đáng của nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ba hình thức sở hữu cơ bản đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân từ đó hình thành các thành phần kinh tế cơ bản là: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân, ngày nay Đảng ta đã xác định thêm một thành phần kinh tế nữa là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng trong đó kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo, nắm giữ vị trí then chốt tong nền kinh tế, có vai trò điều tiết nền kinh tế, là nhân tố mở đường cho sự phát triển và là công cụ để nhà nước định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, còn kinh tế tư bản tư nhân kinh doanh trong những lĩnh vực mà nhà nước không cấm và đồng thời chịu sự kiểm soát của nhà nước, nhà nước từng bước hướng kinh tế tư nhân vào con đường hợp tác xã và kinh tế tư bản nhà nước.
“Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập”(3-9) Chế độ phân phối do quan hệ sở hữu quyết định do đó dưới chủ nghĩa tư bản phân phối thu nhập thực hiên theo nguyên tắc giá trị với người lao động theo giá trị sức lao động còn với các nhà tư bản theo giá trị của tư bản tạo lên sự bất bình đẳng trong xã hội nhưng dưới chủ nghĩa xã hội thì thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và trí tuệ vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội, phát triển kinh tế gắn liền với đảm bảo công bằng xã hội. Nhờ đó chúng ta khai thác được khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần huy động mọi nguồn lực của đất nước vào kinh tế.
Đặc điểm của cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lí nhà nước trong nền kinh tế hết sức quan trọng, sự quản lí của nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế thị trường ổn định, đạt hiệu quả đặc biệt là đảm bảo sự công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài nhà nước có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp...Tuy nhiên sự can thiệp của nhà nước cũng phải phù hợp với kinh tế thị trường.Nền kinh tế thị trường không phải là nền kinh tế tự do thả nổi mà là nền kinh tế có định hướng vì mục đích dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Khác với nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp trước đây là nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, không có sự giao lưu rông rãi với các nước khác nên nền kinh tế không có sức cạch tranh, không có động lực, nền kinh tế nước ta lại là nền kinh tế nhỏ sản xuất thấp kém do đó nếu không có ụ giao lưu với kinh tế thế giới thì chúng ta không thể phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường của nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế thế giới để thu hút vốn, kĩ thuật công nghệ hiện đại để có thể rút ngắn giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay xu thế toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan tiếp tục lôi cuốn các nước vầ mở rộng trên hầu khắp các lĩnh vực làm tăng sức ép cạnh tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Hội nhập quốc tế vừa là quá trình hợp tác và đấu tranh phức tạp muốn phát triển kinh tế phải mở rộng cửa, hội nhập với kinh tế quốc tế nhưng đồng thời cũng phải gắn liền với độc lập tự chủ lợi ích quốc gia dân tộc.
Tóm lại nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là kinh tế thị trường tự do và “đối với chúng ta cơ chế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng, không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện”(9-6 )
1.2.2. Những yêu cầu để thực hiện thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa:
Mục đích của Đảng ta là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh và chúng ta lấy kinh tế thị trường làm phương tiện đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng nếu chúng ta không có những chính sách cụ thể định hướng rõ ràng thì “nền kinh tế thị trường có xu hướng tự phát thành tư bản chủ nghĩa- con đường quen thuộc và đã có tiền lệ trong lịch sử hình thành và phát triển kinh tế thị trường trên thế giới”(25-8 ) Trước hết chúng ta cần giữ vững và tăng cường bản chất nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân do dân và vì dân, giữ vững vai trò lãnh đạo của đảng công sản Việt Nam, thực hiện chế độ Đảng cầm quyền lấy dân làm gốc. Kinh tế thị trường đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới căn bản nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nhất quán về định hướng và nguyên tắc.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta phải xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật củachủ nghĩa xã hội, do đó nền kinh tế thị trường là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác phải được củng cố và mở rộng. Thông qua kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác nhà nước tăng cường nâng cao chất lượng quản lí vĩ mô đặc biệt là thông qua chính sách phân phối thu nhập để đạt được sự tiến bộ và công bằng xã hội.
Trong điều kiện lịch sử trong nước cũng như thế giới ngày nay thì quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình phấn đấu đầy gian khổ, chúng ta vừa xây dựng con đường đi cho mình vừa phải thẳng thắn nhìn vào con đường đinhững khuyết tật để sửa chữa, phải có bản lĩnh vững vàng trước những biến động khôn lường của lich sử. Xây dựng kinh tế thị trường là một tất yếu để đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng chúng ta không được coi đó là mục đích mà mục đích cuối cùng vẫn là chủ nghĩa xã hội.
1.3. Vai trò của kinh tế thị trường trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
1.3.1. Sự bộc lộ yếu kém của nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung bao cấp:
Trước đây trong chiến tranh mô hình kinh tế chỉ huy tập chung đã phát huy được những ưu điểm của mình vì dồn tất cả cho chiến tranh và những nhược điểm của nó bị hoàn cảnh chiến tranh che lấp. Sau chiến tranh cùng với sự khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, nguồn viện trợ từ nước ngoài bị cắt giảm đột ngột nền kinh tế chỉ huy tập chung bộc lộ những yếu kém khuyết tật của mình làm cho nền kinh tế bị suy thoái. Có thể nói “không phải chế độ xã hội chủ nghĩa thua chế độ tư bản mà kinh tế hiện vật thua kinh tế thị trường”
Trước hết đó là sự tập trung quan liêu về chính trị, chúng ta vẫn hô hào rằng chúng ta xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân vì dân, nhân dân làm chủ nhưng thực ra trong kinh tế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp hay còn gọi là mô hình kinh tế chỉ huy tập chung quan liêu bao cấp chúng ta rất ít coi trong dân chủ nhất là dân chủ trong kinh tế. Trong nền kinh tế chỉ có kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là tồn tại mà phủ nhận sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân, chúng ta thậm chí còn cấm đoán không cho nhân dân có quyền tự do buôn bán, kinh doanh phục vụ lợi ích của mình và góp phần phát triển xã hội. Do đó chúng ta không phát huy được sức mạnh của toàn dân, nhân dân không có quyền tự do làm giàu cho chính mình, mọi thứ đều được cào bằng chứ không phải là phân phối theo lao động đã làm nảy sinh tư tưởng chán nản, làm cầm chừng vì có làm tích cực hay không thì cũng chỉ được hưởng chế độ như nhau, mọi người hưởng chế độ phân phối làm cho nhiều lúc thì lương thực thừa thãi còn nhiều lúc thì khan hiếm lương thực làm lòng dân lung lay, niềm tin vào Đảng có phần suy giảm.
Về kinh tế chúng ta nhà nước hoá về kinh tế, chúng ta đã quá nông vội trong
việc xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân còn trong kinh tế nhà nước thì thực chất các xí nghiệp nhà máyvận hành theo cơ chế: “cấp phát và giao nộp” họ chỉ được vận hành theo yêu cầu và văn bản của nhà nước do đó đã làm thủ tiêu sự sáng tạo của các doanh nghiệp, nên họ đã tư động xé rào do thiếu vật tư, tư liệu sản xuất. Trong nông nghiệp nông dân không thể yên tâm khi sản phẩm thu được nộp cho hợp tác xã và bị cào bằng nên khoán chui đã trở thành phổ biến của các địa phương. Các quan hệ hàng hoá tiền tệ bị hình thức hoá. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp đã gây ra những hậu quả nặng nề mà cho tới giờ chúng ta vẫn chưa thể khắc phục được. Mọi sản phẩm được cào bằng nên động lực về lợi ích kinh tế của nền kinh tế nói chung và các chủ thể kinh tế, người lao động nói riêng bị thủ tiêu, đời sống của nhân dân sa sút, sản xuất đình trệ nền kinh tế hoạt động một cách thiếu sinh khí. Các doanh nghiệp nhà nước thiếu trách nhiệm vì “lãi nộp nhà nước lỗ nhà nước chịu” . Trong nền kinh tế bên cạnh thị trường có tổ chức do nhà nước nắm giữ là thị trường tự do phát triển không thể khiểm soát được, sự vi phạm những nguyên tắc của nhà nước làm nền kinh tế rơi và tình trạng khủng hoảng. Có thể nói trong nền kinh tế việc thực hiện kế hoạch hoá chủ yếu được tiến hành theo cách giao chỉ tiêu và pháp lệnh, với cách đó các cấp dưới và các đơn vị cơ sở chỉ làm một việc duy nhất là nghiêm chỉnh chấp hành, họ không phải suy nghĩ xem phải làm gì và làm như thế nào để có hiệu quả vì mọi việc đã có cấp trên tính toán và chịu hậu quả. Tóm lại cái gọi là hoạt động kinh doanh cuẩ họ hết sức thụ động và ngồi chờ nhà nước. Do đó từ những năm 70-80 nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng sản xuất thì đình đốn, giá cả thất thường, tỉ lệ lạm phát đã lên mức phi mã(năm 1986 tỉ lệ lạm phát đã lên 774,7%)
Nhưng hậu quả về kinh tế kéo theo một loạt sự xuống cấp về xã hội. Một bộ phận những người có chức có quyền đã lợi dụng để làm giàu cho mình một cách phi pháp theo kiểu đục nước béo cò, những người nắm giữ quyền phân phối sản phẩm như các mậu dịch viên thì hách dịch tự cho mình có quyền bán cho ai, bán như thế nào, nạn thất nghiệp có phần gia tăng. Trong nông nghiệp nông dân chỉ còn sức lao động vì mọi ruộng đất đều bị xung vào hợp tác xã, trong khi đó hợp tác xã thì làm ăn không hiệu quả sản xuất thì phân tán. Có thể nói cả một thời kì dài kinh tế nước ta rơi vào suy thoái và đòi hỏi phải có luồng gió mới để phát triển kinh tế xã hội.
1.3.2. Những biến động trên thế giới ảnh hưởng mạnh mẽ đến kinh tế nước ta:
Có thể nói thế kỉ 20 là một thế kỉ đầy biến động có ảnh hượng mạnh mẽ tới nền kinh tế nước ta. Trước hết đó là sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xôvà Đông Âu làm cho nước ta mất đi một chỗ dựa vững chắc về kinh tế và chính trị, nguồn viện trợ to lớn để ổn định nền kinh tế bị cắt giảm đột ngột, hơn nữa giờ đây chúng ta phải đơn thương độc mã trong sự bao vây thù địch của hệ thống tư bản chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh và thủ đoạn hơn cả về kinh tế và chính trị.
Trên thế giới ngày nay xu hướng toàn cầu hoá trở thành xu thế chủ đạo đang ngày càng lôi cuốn các nước. Đã có hơn 120 nước tham gia vào các tổ chức kinh tế chính trị khác nhau và nổi lên ba khu vực chính đó là khu vực thị trường chung( EU ), khu vực mậu dịch tự do, và khu vưc Châu á-Thái Bình Dương làm cho kinh tế nước ta đứng trước những nguy cơ và thách thức lớn thúc đẩy kinh tế phát triển đồng thời tạo sức ép cạnh tranh với kinh tế khu vực và thế giới.
Sự phát triển của Trung Quốc đã chứng tỏ sự tồn tại và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, chúng ta cần phải học hỏi những kinh nghiệm thành công của Trung Quốc để áp dụng vào kinh tế nước nhà.
Thế giới đang biến động phức tạp bên cạnh xu thế đối thoại hoà bình thì chiến tranh vẫn đang gia tăng, sự can thiệp quá sâu và nội bộ các nước của Mĩ làm một cuộc chạy đua vũ trang mới đang diễn ra nguy cơ chiến tranh hạt nhân huỷ diệt đang đe dọa loài người, sự gia tăng đột ngột của chủ nghĩa khủng bố....và hàng loạt những nguy cơ khác đòi hỏi loài người phải chung sức phấn đấu vì hoà bình cho nhân loại.
1.3.3. Kinh tế thị trườngvà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Sự sa sút về kinh tế trong những năm 70-80 buộc Đảng ta phải thẳng thắn nhìn nhận lại mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp và tìm ra một mô hình kinh tế mới phù hợp để phát triển. Đảng ta đã nhận ra rằng “chủ nghĩa xã hội với những mục tiêu tốt đẹp nhưng không sử dụng cơ chế thị trường thì không thể thành công, không thể biến những ý tưởng tốt đẹp đó thành hiện thực của cuộc sống” (7/8-5 ) Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một điểm xuất phát thấp, cơ cấu kinh tế mang đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu với hơn 80% dân số làm nông nghiệp, trong thời gian đầu chúng ta quá vội vàng sao chép một cách nguyên si mô hình kinh tế của các nưóckhác mà không tính đến điều kiện lịch sử. Chủ nghĩa Mác-Lê Nin khẳng định cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng tái tạo cả nông nghiệp, vì vậy chúng ta cần có một mô hình kinh tế không những phải đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho đời sống nhân dân mà còn đòi hỏi phải có tích luỹ đáng kể cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là con đường đi đúng đắnđể xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Với những đặc trưng của mình kinh tế thị trường sẽ khuyến khích mọi người cùng tham gia xây dựng kinh tế để phục vụ cho nhu cầu lợi ích của mình và góp phần vào xây dựng đất nước. Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cao nhất trong sự nghiệp đấu tranh của Đảng và nhân dân ta, nhờ chuyển sang kinh tế thị trường nền kinh tế nước ta đã có những bước thay đổi căn bản. Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ phát huy được nguồn lực trong dân mà còn hạn chế được những yếu tố tự phát, những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường tư do “chúng ta đã có độc lập dân tộc, còn phải tiếp tục làm cho dân giàu nước mạnh điều đó chỉ có thể sử dụng đọng lực của kinh té thị trường và vai trò của nhà nước”(28/29-5 ) Trải qua những năm đổi mới nhờ chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế phát triển đời sống của nhân dân được cải thiện bước đầu niềm tin vào chủ nghĩa xã hội được củng cố. Chủ nghĩa xã hội giờ đây không còn là những lý thuyết trừu tượng, xã rời thực tế mà giờ đây gắn liền với những vấn đề cụ thể đời thường, phù hợp với cách nghĩ của hàng triệu quần chúng
2.Công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hôi chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1 Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
2.1.1 Các thành phần kinh tế cơ bản của nền kinh tế Việt nam
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định nước ta có năm thành phần kinh tế cơ bản đó là kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, nhưng đại hội Đảng lần thứ IX đã quyết định bổ xung thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy kinh tế nước ta có những thành phần sau:
+Kinh tế nhà nước: thành phần kinh tế này lấy sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất làm cơ sở kinh tế; nó bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, tài sản thuộc sở hữu của nhà nước như đất đai, ngân sách, các nguồn dự trữ, tài nguyên...vốn của nhà nước trong các công ty cổ phần, trong liên doanh...nhìn chung kinh tế nhà nước do nhiều bộ phận cấu thành lên nhưng nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước.
+ Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã : thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, có thể là từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã hoạt động của kinh tế hợp tác dựa trên nguyên tắc tự nguyện bình đẳng cùng có lợi, quản lý dân chủ, các hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên và phân phối theo kết quả lao động và cổ phần. Kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác là nền tảng của kinh tế quốc dân.
+ Kinh tế tư bản nhà nước : là hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa nhà nước và tư bản tư nhân trong và nước ngoài mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư.
+Kinh tế cá thể tiểu chủ: thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân họ, phát triển trong nhiều ngành nghề ở thành thị hoặc nông thôn. Thành phần kinh tế này có thể tồn tại độc lập hoặc tham gia vào các loại hình hợp tác, các doanh nghiệp dưới mọi hình thức. Và nhà nước hướng họ vào con đường hợp tác trên cơ sở tự nguyện, không gò ép cùng có lợi.
+ Kinh tế tư bản tư nhân: Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và quan hệ người bóc lột người mặc dù không còn nguyên nghĩa như trong xã hội cũ. Thành phần kinh tế này tồn tại trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh được pháp luật cho phép, nó có thể được nhà nước liên doanh dưới nhiều hình thức cả tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài để hình thành loại hình kinh tế tư bản tư nhân và nhà nước.
Có thể nói sự phát triển của nhiều hình thức sở hữu với nhiều thành phần kinh tế thì sự thống nhất và cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Mặc dù sự hoạt động của mỗi thành phần kinh tế có sự khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội và luôn hướng vào việc đáp ứng nhu cầu ccủa xã hội và dân cư trên thị trường. Muốn kinh doanh có hiệu quả thì họ phải có mối liên hệ lẫn nhau và hàng hoá sản xuất phải đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và được thị trường chấp nhận.
Trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội mỗi thành phần kinh tế đều là yếu tố tham gia điều tiết nền kinh tế song đều chịu sự tri phối điều tiết của yếu tố cơ bản đó là kinh tế quốc doanh dưới sự chỉ đạo của chính sách kinh tế và pháp luật của nhà nước .
Tuy có sự thống nhất lẫn nhau trong nền kinh tế song giữa các thành phần kinh tế luôn có sự đấu tranh gay gắt về lợi ích kinh tế của mình. Các mâu thuẫn diễn ra hết sức phức tạp vì các thành phần kinh tế luôn tồn tại và tác động lẫn nhau trong suốt thời kì quá độ. Chúng ta cần phải có những chính sách, những phương pháp giải quyết hiệu quả những mâu thuẫn trên và làm tăng tính thống nhất của các thành phần kinh tế.
2.1.2. Đặc điểm của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta:
Trải qua 15 năm đổi mới có thể nói nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa đã phát huy được những thành công của nó. Sự phát triển ccủa kinh tế tư nhân, cá thể trong những năm đã qua đã làm cho nền kinh tế trở nên sống động, nhưng không có nghĩa là nó sẽ được tự thân vận động mà phải đặt trong tổng thể nền kinh tế có lãnh đạo quản lí.
Vì nền kinh tế là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên đòi hỏi kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nắm vững vị trí then chốt, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước là công cụ quan trọng để nhà nước định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngày nay các doanh nghiệp nhà nước cũng phải thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, nộp ngân sách đầy đủ và có lãi. Trên cơ sở đó nhà nước cũng tạo điều kiện về chính sách, pháp luật để cho thành phần kinh tế nhà nước phát triển và trở thành chủ chốt trong nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế hợp tác được nhà nước hỗ trợ đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, giải quyết nợ tồn đọng để kinh tế hợp tác và kinh tế nhà nước trở thành chủ đạo trong nền kinh tée.
Nhà nước khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển rộng rãi không hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề sản xuất có lợi cho kinh tế quốc dân nhưng đồng thời cũng đảm bảo cho sự kiểm soát của nhà nước. Kinh tế tư bản tư nhân chưa được tham gia vào một số ngành kinh tế chủ lực nắm vị trí then chốt trong nền kinh tế như điện, thông tin liên lạc, than ... Ngày nay trong mô hình kinh tế các thành phần kinh tế không tồn tại một cách riêng rẽ mà ngày càng phát triển nhiều hình thức đan xen hỗn hợp dưới dạng công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn làm cho nền kinh tế linh hoạt hơn và đảm bảo sự quản lí của nhà nước.
Ngày nay chúng ta hướng kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ đi vào con đường kinh tế nhà nước kinh tế hợp tác dưới nhiều hình thức để nhằm tiến tới kinh tế xã hội chủ nghĩa.
2.2 Thực trạng của nền kinh tế sau 15 năm đổi mới:
2.2.1. Những thành công đã đạt được trong kinh tế xã hội:
Đại hội VII của Đảng đã đưa ra “ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991-2000”nhằm mục tiêu thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, ổn định kinh tế chính trị xã hội ...tạo điều kiện cho kinh tế đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỉ 21. Mặc dù còn rất nhiều khó khăn thách thức nhưng nhìn chung nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể:
Trước hết nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, trong những năm 70-80 do chưa tìm được con đường đi đúng đắn cho mình
kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, lạm phát ở mức phi mã (1986tỉ lệ lạm phát là 774,7 ) tốc độ tăng kinh trưởng tế còn chậm chạp, nền kinh tế khép kín bị động. Trải qua quá trình đổi mới 15 năm nền kinh tế nước ta không những thoát khỏi tình trạng khủng hoảng mà còn đang phát triển với tốc độ tương đối khá( tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm 90 là trên 8%, trong đó năm 1995 là 9,5%) lạm phát được kìm hẫm và ổn định( năm 1995 là12,7%) Tổng sản phẩn trong nước tính đến năm 1994 tăng 8,5% trong đó sản xuất công nghiệp tăng là 13%, nông nghiệp tăng 4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20,8%.
Tổng sản phẩm trong nước(GDP) sau 10 năm tăng gấp đôi tình trạng khan hiếm nay đã không còn, lương thực và các mặt hàng thiết yếu cho đời sống nay không những đủ mà còn thừa một phần phục vụ cho xuất khẩu. Đặc biệt là trong nông nghiệp, trước kia chúng ta từ một nước đói phải nhập lương thực từ nước ngoài nay chúng ta đã là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, cà phê đứng thứ ba, hàng thuỷ sản chiếm 25% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Hàng năm tốc độ tăng nông nghiệp là 5% bình quân lương thực tăng từ 370kg/ người năm 1995 lên 435kg/ người năm 2000, sản lượng lương thực tăng 1,3 triệu tấn một năm, trị giá nông lâm thuỷ sản năm 2000 là 4tỉ USD gấp 1,6 lần năm 1995. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực trong GDP tỉ trong nông nghiệp giảm từ 38,7% xuống còn 25%, công nghiệp tăng từ 22,7% lên 34,5% dịch vụ tăng từ 38,6% lên40.5%(từ năm 1995 và năm 2000)
Quan hệ sản xuất đã có bước phát triển quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước giữ vâi trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, cac doanh nghiệp nhà nước đang từng bước phát triển, hình thành các tổng công ty nắm những lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế như điên, thông tin liên lạc, xây dựng, ngân hàng...các thành phần kinh tế khác cũng đang phát triển khá nhanh. Cơ cấu vốn của các khu vực kinh tế năm 1995 là doanh nghiệp nhà nước chiếm 58,1%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 5.7%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 36,2% như vậy doanh nghiệp nhà nước vẫn có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và chiếm một tỉ trọng lớn.
Đời sống của nhân dân được cải thiện, GDP tính theo đầu người của nước ta là 400USD mặc dù so với kinh tế thế giới thì đó vẫn là mức thấp nhưng đó là cố gắng lớn của Đảng và nhân dân ta. Mỗi năm chúng ta tạo thêm được 1,2 đến 1,3 triệu việc làm mới. Tỉ lệ hộ đói nghèo giảm từ 30% xuống còn 11%. Người có công với cách mạng được quan tâm chăm sóc. Tỉ lệ tăng dân số giảm từ
2.31% xuống còn 1,53%, tuổi thọ bình quân tăng từ 65 tuổi lên 68 tuổi, những dịch vụ xã hội được đảm bảo, trường học khang trang, y tế phát triển, về cơ bản chúng ta đã phổ cập xong giáo dục tiểu học và chúng ta đang tiến tới phổ cập trung học, số sinh viên đại học cao đẳng tăng gấp 1,5 lần ... tao được một mặt bằng dân trí cao để phát triển kinh tế tri thức. Từ chỗ bị bao vây cấm vận nước ta đã chủ động hội nhập kinh tế thế giới, bình thường hoá quan hệ với các nước khác, nước ta đã gia nhập ASEANnăm 1995 và đang tiến tới gia nhập WTO, nhịp độ tăng xuất khẩu gấp 3 lần nhịp độ tăng GDP. Đầu tư nước ngoài tăng trong 5 năm đã có 1500 dự án với số vốn lên tới 20,7 tỉ USD, trong đó chủ yếu là từ các nước ASEAN và Châu ÂU. Đầu tư của các nước ASEAN tăng từ 17,3% (1991-1995) lên 29,8%(1996-2000) đầu tư của EU cũng tăng tương ứng tư 23,2% lên 25,8%, vốn đầu tư của các nước EU, Mĩ, Nhật chiếm 42,6%.
Như vậy trải qua 15 đổi mới đã khẳng định một lần nữa con đường đi của Đảng và nhân dân ta là hoàn toàn đúng đắn.
2.2.2. Những mặt còn yếu kém hạn chế của nền kinh tế nước ta:
Tuy chúng ta đã đạt được những thành công trong công cuộc đổi mới nhưng bên cạnh đó vẫn còn những bất cập yếu kém mà chúng ta cần phải khắc phục, và đó là những điều không phải một sớm một chiều mà chúng ta có thể làm được.
Về cơ bản nước ta vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nền kinh tế vẫn còn lạc hậu, công nghệ thì yếu kém, nhu cầu vốn đầu tư cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá lớn nhưng đại bộ phận nhân dân tiêu xài còn lãng phí. Nền kinh tế nước ta còn chưa phát triển ổn định, sức cạnh tranh còn thấp nhịp độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây chậm dần năm 2000 có chiều hướng tăng nhưng vẫn chưa đạt được tốc độ tăng trưởng cao như giữa thập niên 90. Năng suất lao động còn thấp, chất lượng nhiều sản phẩm chưa tốt, giá thành cao, nhiều sản phẩm nông lâm thuỷ sản hàng công nghiệp còn ứa đọng, thiếu thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước.
Kinh tế thị trường nước ta tuy đã hình thành nhưng đang ở trong thời kì sơ kai, mang nhiều yếu tố tự phát, hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp vừa chưa đủphát huy sức mạnh của cơ chế thị trường, vừa chưa hạn chế được những tiêu cực của nó. Hệ thống pháp luật mặc dù có nhiều tiến bộ song vẫn chưa hoàn chỉnh và nghiêm minh. Lạm phát vẫn còn là mối lo ngại chưa được kiềm chế vững chắc, tài chính tiền tệ chưa ổn định thiếu lành mạnh và còn chưa đủ độ tin cậy, Doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu tính đến tháng 7-1997 số doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ là 17% ví dụ như công ty dệt Nam Định năm 1995 thua lỗ 130 tỉ đồng, công ty dâu tằm năm 1995 thua lỗ 73,3 tỉ đồng
Một số vấn đề xã hội bức xúc và gay gắt vẫn chưa được giải quyết tốt, tình trạng không có việc làm ở thành thị và nông thôn dẫn tới hiện tượng một số bộ phận dân cư ở nông thôn kéo ra thành thị để kiếm việc làm làm mất ổn định xã
hội, ở nước ta lực lượng lao động tăng tự nhiên là 1,2 triệu người trong khi đó tỉ lệ thất nghiệp thành thị là 7,4%(1triệu người), còn ở nông thôn nếu tính số người có việc là 250 ngày trong năm thì có 9 triệu người thất nghiệp. Công tác giáo dục chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn nhiều phiền hà sách nhiễu tiêu cực. Tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, tội phạm phát triển, mức sống của nhân dân một số vùng còn thấp, phân phối xã hội ở nhiều nơi còn nhiều bất công khiếu kiện ở nhiều nơi còn xảy ra phức tạp.
Việc cải cách nền hành chính nước ta còn chậm chạp, thiếu kiên quyết, tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều khi các chủ trương chính sách đúng đắn khi thực hiện lại biến dạng, không đạt được kết quả do phải qua nhiềunấc quan liêu và những thủ tục phiền hà. Nhiều nghị quyết đã đề ra nhưng làm thiếu tập chung, không làm tới nơi tới chốn làm sai làm chậm, chỉ nói mà không làm, chần chừ do dự, không giám chịu trách nhiệm để làm.
Văn hoá xã hội còn nhiều điều nhức nhối, nạn tham nhũng và sự tha hoá biến chất của một số cán bộ có chức có quyền đã trở thành một nguy cơ mới đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng, đời sống của nhân dân thành thị và nông thôn có khoảng cách lớn. Ngay trong đại hội Đảng đã chỉ ra bốn nguy cơ với nước ta đó là: nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nguy cơ trệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ diễn biến hoà bình và nguy cơ nạn tham nhũng đang ngày càng gia tăng.
2.3. Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lí nhà nước trong nền kinh tế: Trong lịch sử cách mạng Việt Nam sự lãnh đạo của Dảng đã trở thành một tất yếu của lịch sử. Nhờ sự lãnh đạo của Đảng chúng ta đã giành được những thắng lợi quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Trước những điều kiện trong nước và bối cảch thế giới hết sức phức tạp sự lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng trong việc có xây dựng thành công hay không chủ nghĩa xã hội, trong kinh tế Đảng ta chủ trương có xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bài học sâu sắc đối với chúng ta là phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về mục tiêu, nguyên tắc với linh hoạt trong giải pháp. Chúng ta không được coi thị trường là mục tiêu mà chỉ là phương tiện để chúng ta phát triển kinh tế.
Cùng với việc sử dụng động lực của kinh tế thị trường ngay từ đầu Đảng ta đã chủ trương phát triển lực lượng sản xuất phải đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất. Đảng ta đã lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới ở nước ta, giữ vững được nguyên tắc trung thành với lý luận Mác- Lê Nin tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sự lãnh đạo của Đảng làm giảm bớt tiêu cực của kinh tế thị trường, giúp cho công cuộc xây dựng kinh tế thị trường không chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trong việc lãnh đạo kinh tế thì không phải mọi việc đều do Đảng thiết kế sẵn mà đó là quá trình cách mạng khởi đầu bằng ý nguyện và hành động của đông đảo quần chúng, các chủ trương chính sách được tìm tòi kiểm nghiệm qua thực tiễn cuộc sống, là sự thống nhất giữa ý Đảng lòng dân với phương trâm “lấy dân là gốc”. Sau khi nước ta giành độc lập các thế lực thù địch vẫn gia sức chống phá nhà nước ta trên mọi lĩnh vực, trên mọi mặt trận cả kinh tế và an ninh quốc phòng, nhưng nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng chúng ta vẫn giữ vững được nền chuyên chính vô sản. Có thể nói bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu do lãnh đạo không nhất quán, không đổi mới kịp thời theo điều kiện lịch sử rất quan trọng trong công cuôc lãnh đạo của Đảng ta.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp đầy khó khăn phức tạp, có sự đan chen đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới “cái xã hội chủ nghĩa” và cái “không xã hội chủ nghĩa” đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải nắm vững chuyên chính vô sản vì nếu chỉ có một sai sót nhỏ thì ngay lập tức các thế lực thù địch sẽ tấn công và sự chuyển hướng xã hội chủ nghĩa là con đường tất yếu. Trong kinh tế nếu không có sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước thì kinh tế thị trường sẽ thành kinh tế thị trường tự do và phát triển theo một hướng khác. Lịch sử phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới chứng tỏ vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế được mở rộng là một xu hướng tất yếu và ngày càng được nâng cao với hai nhân tố tác động: sự phát triển của khoa học kĩ thuật, của lực lượng sản xuất và trình độ xã hội hoá ngày càng cao, quốc tế hoá tăng cường. Có thể nói ngay trong xã hội tư bản hiện đại thì sự quản lý của nhà nước cũng rất quan trọng để nhằm điều tiết thị trường, hạn chế những khuyết tật của xã hội, nhà nước tạo điều kiện cho kinh tế phát triển bằng những chính sách của mình đảm bảo quản lí tài sản quốc gia như tài nguyên, cơ sở vật chất kĩ thuật... Trong nền kinh tế thị trường ngày nay việc quản lí kinh tế không chỉ gói gọn trong các thành phần kinh tế quốc doanh tập thể mà là tất cả các thành phần kinh tế hợp pháp, là thị trường xã hội do đó nhiệm vụ của nhà
nước vừa phải tạo lập thị trường vừa điều tiết sự vận động của cơ chế thị trường trong đó việc tạo lập thị trường là quan trọng nhất. Thị trường nước ta đang trong tình trạng vừa thiếu vừa rối loạn, những nhân tố mất ổn định còn tiềm ẩn, trong khi các nhân tố tạo trật tự mới như hệ thống ngân hàng tài chính, bộ máy quản lí nhà nước còn yếu kém và tiêu cực. Hiện nay trên mộy số lĩnh vực nhà nước vẫn làm thay chức năng của thị trường như quy định giá cả, tỉ giá, lãi xuất ...Nhà nước khuyến khích tự do sản xuất, kinh doanh công khai hợp pháp, đa dạng hoá sở hữu và nhà nước chỉ tác động điều chỉnh các quan hệ kinh tế, quy luật chứ khôngtrực tiếp quyết định để các nguồn lực di chuyển theo chiều ngang, hình thành cơ chế khách quan để tối ưu hoá các hoạt động của sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường sự quản lý của nhà nước chỉ ở tầm vĩ mô, nhà nước tác động vào kinh tế thị trường theo ba chiều hướng chính là hành chính pháp chế, kinh tế và thông tin.
3. Đường lối của Đảng và nhà nước trong quá trình phát triển và ổn định kinh tế thị trường:
3.1. Tạo môi trường thông thoáng và bình đẳng cho các thành phần kinh tế:
Có thể nói trước đây kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ bị kìm hãm, còn kinh tế nhà nước thì hoạt động theo nguyên tắc trên chỉ đạo làm gì thì làm nấy làm nền kinh tế không ổn định, có mặt hàng thì thừa thãi, có những mặt hàng khan hiếm, giá cả không ổn định... Trong thời kì đầu đổi mới do chưa đổi mới trong tư duy với cung cách làm ăn cũ nên một số doanh nghiệp bị thua lỗ. Trong nền kinh tế khu vực kinh tế nhà nước chiếm một tỷ trọng lớn nhất về tài sản cố định, lao dộng lành nghề và chất xám nhưng lại làm ăn thiết hiệu quả nhất, hàng năm đòi hỏi nhà nước phải bao cấp lớn nhất, kinh tế tập thể cũng thế kinh tế tư nhân làm ăn có hiệu quả song lại chiếm tỉ trọng nhỏ ( lao động chiếm 13,2% nhưng làm ra lượng của cải 23,2%-42,8% tổng sản phẩm xã hội trong những năm 80)và bị phân biệt đối xử. Khu vực kinh tế nhà nước luôn đòi hỏi nhà nước bao cấp vì họ là của nhà nước, của tập thể, của xã hội chủ nghĩa trong khi đó một tư nhân muốn thành lập đơn vị kinh doanh thì phải xin rất nhiều các loại giấy phép kinh doanh, rào cản thuế quan, rào cản kinh tế, phải qua nhiều cửa, nạn cửa quyền sách nhiễu lớn, đo đó giữa các thành phần kinh tế chúng ta cần đối xử bình đẳng mới có thể phát huy được tiềm năng kinh tế của khu vực kinh tế tư nhân. Để nền kinh tế phát triển bình đẳng thì cần hạn chế sự bao cấp với các doanh nghiệp nhà nước, xoá bỏ những vật cản trong sản xuất và lưu thông, thi hành chính sách một cửa, bãi bỏ một số giấy phép không cần thiết để khuyến khích mọi người tích luỹ đầu tư, tạo niềm tin cho doanh nghiệp tư nhân
các thể phát triển đầu tư lớn làm giàu chính đáng. Kinh nghiệm thế giới cho thấy một quốc gia hưng thịnh là nơi mọi người có thể yên tâm đầu tư sinh lợi tích nhỏ thành lớn, vốn ít thành nhiều. Giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước vẫn còn nhiều bất bình đẳng, cồn quá nhiều thủ tục phi lí nhất là chế độ đăng kí kinh doanh, thuế quan còn nhiều phiền hà độc quyền.
Thực sự kinh tế tư nhân đã phát triển song chưa xứng với tiềm năng và nhiều nhà kinh doanh còn vẫn chưa thực sự yên tâm và đầu tư lâu dài. Tạo môi trường bình đẳng thông thoáng thực sự là điều kiện cho Việt Nam phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Tăng cường vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa các doanh nghiệp nhà nước có vai trò chủ đạo và là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô vì thế chúng ta cần có những chính sách đúng đắn để nâng cao vai trò của các doanh nghiệp nhà nước.
Trước hết chúng ta cần đảm bảo vững chắc sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực then chốt, vốn lớn kĩ thuật cao, góp phần đảm bảo cân đối của nền kinh tế quốc dân như điện, thông tin liên lạc, ngân hàng ...Bên cạnh đó chúng ta cần xắp xếp lại có thể chuyển thành kinh tế tư nhân hoặc cho thuê, giải thể các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài không có tiềm năng vươn lên làm kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp nhà nước phải được đối xử như tất cả các thành phần kinh tế khác, phải chuyển từ cơ chế tập chung bao cấp sang hạch toán kinh doanh, có thể trong thời gian đầu cácdoanh nghiệp vẫn còn quen dựa dẫm nhưng nhà nước cần có những chính sách thích hợp để các doanh nghiệp không ỉ lại. Các doanh nghiệp nhà nước có quyền tự do về phương hướng đầu tư, đổi mới công nghệ, tự chủ về tài chính, phân phối thu nhập ...và phải luôn tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường đó là quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả...để tồn tại và phát triển. Để làm được điều này chung ta cần tăng cường cổ phần hoá doanh nghiệp để tạo vốn, quản lí và sử dụng vốn hiệu quả, khuyến khích công nhân gắn bó với doanh nghiệp, mở rộng thị trường. Tuy nhiên tỉ lệ cổ phần trong mỗi doanh nghiệp thì nhà nước vẫn chiếm đa số( hơn50%)
Lâu nay khi đi tìm giải pháp cho các doanh nghiệp nhà nước chúng ta thường đi tìm những giải pháp về sở hữu mà ít quan tâm đến nhân tố con người. Trong bất kì một doanh nghiệp nào tư nhân hay nhà nước, trong bất kì một xã hội nào dù là tư bản hay xã hội chủ nghĩa thì đội ngũ lãnh đạo có vai trò quan trọng, kinh tế có phát triển hay không làm ăn có hiệu quả hay không chính là do sự linh hoạt sáng tạovà năng động của đội ngũ lãnh đạo. Do đó để phát triển doanh nghiệp nhà nước chúng ta cần đào tạo một đội ngũ lãnh đạo có trìng độ cao, nhạy bén trong kinh doanh để có thể giúp kinh tế nhà nước nắm được thị trường. Kinh tế quốc doanh luôn chịu sự quản lí của nhà nước do đó bbộ máy nhà nước cũng cần sử dụng và chọn lọc những nhân tài để xây dựng định hướng chiến lược kinh tế vĩ mô. Việc xây dựng và phát huy vai trò chủ đạo của hệ thống doanh nghiệp nhà nước tuỳ thuộc rất nhiều vào chất lượng linh hoạt của bộ máy nhà nước.
3.3. Mở rộng quan hệ hợp tác với khu vực và quốc tế :
Ngày nay không có nền kinh tế nào muốn phát triển lại không có sự giao lưu với các nước khác trên thế giới. Một đất nước với nền kinh tế khép kín thì không thể phát triển vì không có quốc gia nào lại cho rằng mình có đủ tiềm năng đủ mọi điều kiện kinh tế để phát triển không cần giao lưu với nước khác. Dođó ngày nay xu hướng quốc tế hoá đang dần trở thành xu hướng chủ đạo, sự biến động về kinh tế chính trị không còn là phạm vi một nước mà là phạm vi khu vực và thế giới. Thế giới đang diễn ra hết sức phức tạp và biến động khôn lường chúng ta phải hội nhập kinh tế quốc tế để có thể tiếp thu những bài học thành công hay thất bại trong phát triển kinh tế của các nước khác áp dụng linh hoạt vào nước nhà. Trong thời đại ngày nay sự tiến bộ về khoa học công nghệ ngày càng diễn ra nhanh chóng do đó chúng ta cần hội nhập để nắm bắt công nghệ tiên tiến, cung cách quản lí có hiệu quả của các nước khác để rút ngắn quãng đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp tác cùng có lợi.
Không chỉ có thế chúng ta tham gia vào kinh tế quốc tế để góp tiếng nói vào công cuộc bảo vệ hoà bình nhân loại cùng cả thế giới chống lại các thế lực phản nhân loại
C. Kết Luận:
Trải qua 15 năm đổi mới và phát triển chúng ta có thể khẳng định được rằng đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn: Kinh tế thị trường chính là cỗ xe tốt hơn cả trong con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Như thế không có nghĩa rằng xây dựng nền kinh tế thị trường là liều thuốc vạn năng là mục đích mà kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để chúng ta tiến tới chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh trong nước cũng như quốc tế có nhiều biến động khôn lường, thuận lợi và khó khăn đan xen lẫn nhau, Đảng ta phải lãnh đạo toàn dân phát huy được tinh thần cách mạng, đẩy nhanh công cuộc đổi mới nắm lấy những thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn thử thách nếu không chúng ta càng tụt hậu xa hơn về kinh tế kéo theo nó là sự bất ổn về chính trị và an ninh quốc phòng. Kinh tế thị trường làm cho nước ta thay da đổi thịt, đời sống của nhân dân đi vào ổn định, mối quan hệ với các nước khác ngày càng phát triển. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội ở Liên Xô và Đông ÂU ảnh hưởng mạnh mẽ tới kinh tế nước ta nhưng do sự nhạy bén trong đường lối kinh tế xã hội, áp dụng có hiệu quả kinh tế thị trường nên không những chúng ta không bị sụp đổ theo mà đang ngày càng có tiếng nói trên diễn đàn quốc tế. Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng đặt ra những vấn đề xã hội gay gắt như sự phân hoá giàu nghèo, sự ra tăng các tệ nan xã hội ...đòi hỏi chúng ta phải có những chiến lược kinh tế hợp lí nhằm giảm bớt tiêu cực xã hội.
Cuộc sống của nhân dân được cải thiện, nền kinh tế có chỗ đứng trên thế giới và trong khu vực... có thể nói sự phát triển của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật chung của thế giới và cũng phù hợp với ý muốn của nhân dân và lợi ích nước nhà. Kinh tế thị trường Xã Hội Chủ Nghĩa có thể thành công hơn kinh tế thị trường Tư Bản Chủ Nghĩa.
Tài liệu tham khảo
1. Chống lạm phát và quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam - Võ Đại
Nhà xuất bản Khoa học xã hội - 1991 /92 trang
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới - Lê Du Phong/ Nguyễn Thành Độ
- Nhà xuất bản chính trị Quốc gia - 1999/344 trang
3. Dự thảo văn kiện đại hội Đảng IX của Đảng - tháng 7 năm 2000
4. Kế hoạch hoá và quan hệ thị trường - Nguyễn Thành Bang/Võ Duy Kiệt
Nhà xuất bản sự thật - 1990/83 trang
5. Kinh tế thị trường định hướng XHCN - PTS. Nguyễn Cúc
Nhà xuất bản Thống Kê- 1995/ 87 trang
6. Một số vấn đề về con đường đi lên CNXH ở nước ta
Nguyễn Phú Trọng - Tạp chí cộng sản số 15 tháng 8/2001
7. Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 ban chấp hành TW khoá VI
8. Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam
Phan Thanh Phố - Nhà xuất bản Giáo dục - 1996/274 trang
9. Vấn đề đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Mai Hữu Thực - Tạp chí nghiên cứu trao đổi số 4/2000
10. Về đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng tại đại hội IX.
Nguyễn Tấn Dũng - Tạp chí cộng sản số 21 tháng 11/2001
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34548.doc