Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ thông qua các biện pháp như: đẩy mạnh thực hiện lộ trình giảm giá cước dịch vụ xuống mức ít nhất là ngang bằng với các nước trong khu vực; tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất và kinh doanh dịch vụ; phát huy lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng, từng thời kỳ; thay đổi phương thức và thái độ phục vụ để hướng tới khách hàng nhiều hơn, vì lợi ích của khách hàng Đáp ứng với những thách thức trong quá trình trong hội nhập, trước hết Nhà nước cần xây dựng một lộ trình mở cửa dịch vụ thích hợp, phù hợp với những cam kết quốc tế và sát với thực tế nước ta, tiếp đến các ngành, các cấp và các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chủ động, sẵn sàng đón nhận sự cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và nước ngoài.
20 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp cho vấn đề đó, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Từ đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân (CNH-HĐH) là nhiệm vụ hết sức quan trọng, Đảng ta đã xác định thực chất của CNH – HĐH nền kinh tế quốc dân là “Quyết tâm thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng“. Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm tăng trưởng nhanh ổn định, nước ta phải xác định rõ cơ cấu kinh tế hợp lý, trang thiết bị ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế. Mặt khác, nước ta là nước đang phát triển vì vậy quá trình ấy gắn liền với quá trình công nghiệp hoá để từ đó hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên CNH – HĐH cũng gặp không ít nhưng khó khăn và thách thức.
Việc xây dựng đúng đắn những quan điểm CNH-HĐH ở Việt Nam hiện nay có vị trí rất quan trọng đối với quá trình CNH-HĐH. Bởi xây dựng đầy đủ các quan điểm CNH-HĐH sẽ là cơ sở đúng đắn cho việc định hướng, định lượng chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nội dung và các bước đi của CNH-HĐH phù hợp với bối cảnh xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nghị quyết đại hội VIII của Đảng đã đưa sự nghiệp đổi mới lên tầm cao mới, đẩy mạnh CNH-HĐH. Mặt khác, CNH-HĐH đất nước phải chứa đựng được mục tiêu, chiến lược, nội dung, hình thức, phương hướng cách mạng của đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Để đạt mục tiêu nhất quán và xuyên suốt đó là dân giầu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh thì Đảng ta phải trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa 15 năm đổi mới đất nước.
CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân ở việt nam cũng không nằm ngoài xu hướng chung của thế giới. Vì vậy em xin được tìm hiểu đề tài "CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân ở việt nam, thực trạng và giải pháp cho vấn đề đó".
Trong quá trình tìm hiểu thì không tránh khỏi được những thiếu xót, vậy Em mong Thầy góp ý giúp đề tài được hoàn thiện hơn.
B. Nội dung
I. Khái niệm CNH-HĐH
Cho đến nay, có nhiều cách diễn đạt khác nhau về CNH-HĐH.
Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của liên hợp quốc (UNID) đã đưa ra định nghĩa sau đây: CNH là quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế và xã hội.
Hiện đại hoá lá quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ chỗ theo những qui trình công nghệ phương tiện phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra năng xuất lao động hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao.
Ở nước ta, theo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng lao động Việt Nam thì CNH xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Đảng ta đã xác định thực chất của CNH xã hội chủ nghĩa là “ quá trình thực tiễn cách mạng khoa học kỹ thuật, thực sự phân công mới về lao động xã hội và quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng “
Theo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tám ban chấp hành trung ương khoá VIII thì CNH,HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thử công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng xuất lao động cao.
II. Thực trạng CNH - HĐH nền kinh tế quốc dân ở việt nam
1. Những đặc điểm về CNH – HĐH nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam
CNH, HĐH ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những nét đặc thù này được thể hiện khái quát ở một số điểm sau đây:
- Thứ nhất: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong các tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biết đổi về chất,… của các tác nhân tham gia quá trình. Mục tiêu của quá trình CNH, HĐH mang tính bao trùm rất cao, theo đó đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng mục tiêu sâu xa hơn là nước ta trở thành một nước “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Thứ hai: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ thực hiện xong CNH rồi mới tiến hành HĐH, mà phải thực hiện đồng thời và đồng bộ CNH và HĐH như một quá trình thống nhất. Về đại thể, riêng về mặt kinh tế, có thể nhìn nhận quá trình này từ hai mặt thống nhất với nhau: (i) thứ nhất, đó là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại, cũng có nghĩa là tạo lập nền tảng vật chất- kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của nền kinh tế; và (ii) thứ hai, đó là quá trình cải cách hệ thống thể chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, hội nhập. CNH gắn với HĐH là cách làm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới.
- Thứ ba: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được “rút ngắn”. Việc cần được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Bên cạnh đó, bối cảnh mới trong nước cũng như trên thế giới cho phép nước ta có khả năng “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH. Về cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện được CNH, HĐH rút ngắn bao gồm hai mặt: (i) thứ nhất, đạt và duy trì một tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó (thực chất là tăng tốc để đuổi kịp); và (ii) thứ hai, lựa chọn và áp dụng một phương thức CNH, HĐH cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo kiểu phát triển tuần tự, để đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn (thực chất là lựa chọn con đường, bước đi và giải pháp CNH để đi nhanh tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà có thể thống nhất với nhau, và đang tiếp tục được làm rõ để định hình sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta.
- Thứ tư: Ở nước ta, quá trình CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với việc từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong thời gian qua, tại không ít diễn đàn khoa học và công trình nghiên cứu, mối quan hệ hai chiều giữa CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức đã từng bước được làm rõ. Về đại thể, có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Hay nói cách khác, phát triển kinh tế tri thức tạo điều kiện cho việc thực hiện mô hình CNH, HĐH “rút ngắn” ở nước ta. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình CNH, HĐH tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đi vào kinh tế tri thức. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Từ những nét trên đây, có thể thấy nội dung cốt lõi về kinh tế của CNH, HĐH ở Việt Nam trong thời gian tới như sau:
(1) Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định và bền vững;
(2) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ;
(3) Nắm bắt tri thức và công nghệ mới nhất để hiện đại hoá nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có;
(4) Phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa trên tri thức, khoa học và công nghệ;
(5) Không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. Những thuận lợi và khó khăn của quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam
Bối cảnh trong nước và quốc tế ngày nay hàm chứa nhiều thuận lợi
nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn đối với quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Những thuận lợi và khó khăn này tồn tại đan xen với nhau, có thể chuyển hóa cho nhau. Việc phân định một cách tương đối và nhận thức rõ những thuận lợi và khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định mục tiêu, nội dung và phương pháp tiến hành CNH, HĐH cũng như việc thực hiện các nhiệm vụ trong thực tế. Về đại thể, những thuận lợi và khó khăn được khái quát hóa ở một số điểm sau đây:
2.1 Thuận lợi
- Thứ nhất: Sau 20 năm đổi mới, thế và lực kinh tế của nước ta đã thay đổi mạnh mẽ, thể hiện ở những cái “mới” như:
+ Cấu trúc kinh tế mới: Cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò và chức năng mới của Nhà nước, xã hội năng động hơn, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế- xã hội được kết nối chặt chẽ hơn.
+ Tiềm lực kinh tế mới: GDP tăng trưởng với tốc độ khá cao liên tục trong nhiều năm, với cơ cấu ngành biến đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
+ Thế phát triển mới: Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng cấm vận kinh tế, quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế mở rộng, đã gia nhập ASEAN, ASEM, APEC, ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ và đang nỗ lực gia nhập WTO, v.v.
+ Động lực mới: Xuất hiện những động lực phát triển mới mạnh mẽ:
cạnh tranh thị trường, sự mở rộng các cơ hội, sức mạnh của tinh thần dân tộc trong cuộc đua tranh phát triển.
+ Lực lượng- chủ thể phát triển mới: Năng lực của các chủ thể phát triển (Nhà nước, nhân dân, doanh gia, đội ngũ trí thức và quản trị) được nâng cao. Các yếu tố bên ngoài (vốn, công nghệ- kỹ thuật, tri thức, thị trường...trở thành lực lượng thúc đẩy phát triển quan trọng.
- Thứ hai: Bối cảnh quốc tế với những xu hướng ưu trội bao gồm (i) toàn cầu hoá kinh tế, (ii) phát triển kinh tế tri thức, và (iii) hoà bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã và đang theo đuổi thực hiện chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Việc tham gia vào các quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa phương, hợp tác khu vực và quốc tế của nước ta góp phần phát huy hữu hiệu lợi thế so sánh của đất nước, thu hút được những nguồn lực dồi dào về vốn, công nghệ, tri thức, kỹ năng,… của thế giới cho công cuộc CNH, HĐH. Bên cạnh đó, việc tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế cũng tạo động lực cho việc đẩy mạnh những cải cách trong nước theo hướng hiện đại, phù hợp với khung khổ chung của quốc tế.
- Thứ ba: Là một nước tiến hành CNH muộn, Việt Nam có thể tận dụng được những lợi thế của “nước đi sau”. Bên cạnh việc thu hút những nguồn lực vật chất và trí tuệ quan trọng như nêu trên, các nước đi sau như Việt Nam còn có thể học hỏi kinh nghiệm phong phú về CNH, HĐH của các nước đi trước. Với những kinh nghiệm đổi mới của chính bản thân mình, Việt Nam có điều kiện để học hỏi và sáng tạo liên quan đến nhiều khía cạnh của CNH, HĐH. Một lợi thế nữa của nước đi sau là nền kinh tế nước ta dễ chuyển đổi cơ cấu, vì không lệ thuộc nhiều vào những cơ sở vật chất đã có (các phí tổn không phải là quá lớn khi thay đổi những cái cũ cần thay đổi). Điều này tạo dễ dàng cho chúng ta bắt tay vào phát triển kinh tế theo các định hướng cơ cấu đã chọn lựa, bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế
- Thứ tư: Nước ta có vị trí địa kinh tế thuận lợi, nằm ở trung tâm vùng kinh tế năng động Đông Nam Á, thuận lợi cho việc giao lưu và hội nhập quốc tế. Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú để phát triển một số ngành công nghiệp quan trọng. Đặc biệt, nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu trẻ và giá nhân công thấp, năng lực trí tuệ con người Việt Nam không thua kém các nước, tiếp thu nhanh các tri thức mới, dễ đào tạo, có khả năng sáng tạo. Bên cạnh đó, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng cho sự phát triển các khả năng sáng tạo. Những yếu tố trên tạo nên lợi thế quan trọng trong cạnh tranh quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để phát triển những ngành, những lĩnh vực hiện đại, có thể theo hướng rút ngắn.
2.2 khó khăn
- Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế chưa được đặt trên cơ sở đủ vững chắc,hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao, trình độ phát triển của lực lượng sản xuấtthấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, lạc hậu và còn nghiêng về hướng nội,v.v. là những đặc tính của nền kinh tế nước ta sau 20 năm đổi mới. Thể chế kinhtế thị trường định hướng XHCN ở nước ta chỉ mới đang hình thành, chưa đồngbộ và chưa vận hành tốt, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng và chưa có tínhkhuyến khích cao, v.v. Nói một cách ngắn gọn, nền kinh tế nước ta còn đangphát triển (lạc hậu, nghèo) và đang chuyển đổi (thể chế mới chưa hoàn thiệntrong khi thể chế cũ chưa hoàn toàn bị loại bỏ). Thực tế này là khó tránh khỏi đối với một quốc gia đang phát triển, có tính tạm thời và được khắc phục dần trong quá trình đổi mới, tuy nhiên nó đang là một trở ngại lớn đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay. Trong đó, thách thức đặt ra là nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
- Thứ hai: Tuy bối cảnh quốc tế thể hiện rõ ba xu thế ưu trội như nêu trên đây, song tình hình thế giới luôn luôn có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình toàn cầu hoá đặt nền kinh tế đất nước trước những khó khăn do cạnh tranh gay gắt, sự dễ bị tổn thương trước các cú sốc từ bên ngoài, và những ảnh hưởng “mặt trái” khác của kiểu toàn cầu hóa hiện nay. Nếu chúng ta không có chính sách, biện pháp để hạn chế và vượt qua những khó khăn trên, thì chúng có thể có những tác động mang tính “phá huỷ” ghê gớm, kéo lùi tiến trình phát triển của đất nước nhiều năm.
- Thứ ba: Là nước tiến hành CNH muộn, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam gặp phải những khó khăn của “nước đi sau”. Khó khăn rõ nét là chúng ta thường phải ở thế bất lợi trong cạnh tranh quốc tế, do năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, hàm lượng vốn và trí tuệ trong sản phẩm không cao, lại thường bị động trong việc tuân thủ các luật lệ kinh tế quốc tế… Bên cạnh đó, trong quá trình CNH, HĐH, nước ta phải đối mặt với các vấn đề về tài nguyên- môi trường, dân số và công ăn việc làm ngày càng gay gắt. Mức độ suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với sự xuống cấp của môi trường sống là hệ quả của CNH, HĐH trên quy mô toàn cầu, nhưng người gánh chịu lại chủ yếu là các nước chậm phát triển, trong đó có nước ta, đó là một khó khăn không thể lường hết được. Bởi vì nó làm cho chi phí của công cuộc CNH, HĐH tăng lên đáng kể đồng thời làm giảm tính bền vững của quá trình này. Trong khi đó, sự gia tăng của dân số, của lực lượng lao động nhanh hơn tốc độ tăng việc làm gây ra áp lực lớn giải quyết công ăn việc làm. Ở nước ta, đây là một bài toán chưa có lời giải hữu hiệu.
3. Một số tiêu chí của CNH - HĐH
Văn kiện đại hội VIII nêu “từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp” Văn kiện Đại hội IX nêu rõ hơn: “ ...... đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Song điều chưa rõ là lấy những tiêu chí nào để có thể xếp một nước vào hàng ngũ các nước công nghiệp hay hàng ngũ các nước công nghiệp theo hướng hiện đại và đến đâu thì có thể coi là cơ bản trở thành một nước công nghiệp hay một nước công nghiệp theo hướng hiện đại ? Đại hội VIII có nêu sơ bộ một số mục tiêu nặng về định tính (trừ tiêu chí GDP tăng gấp 8 đến 10 lần năm 1990) về lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ, quan hệ sản xuất, đời sống vật chất và văn hoá và coi là nếu thực hiện được thì sẽ là “một bước tiến lớn trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Trong khí cố gắng lượng hoá các tiêu chí đánh giá, cần nghiên cứu, xem xét việc lựa chọn các loại tiêu chí tiêu biểu và ước lượng mức tiêu chí cần đạt, dựa trên một số nguyên tắc nhất định.
Trước hết, không thể (hay rất khó) chọn một tiêu chí tổng hợp tiêu biểu cho công nghiệp hoá theo hướng hiện đại. Mặc dù cơ cấu kinh tế là tiêu chí cơ bản để phân biệt một nền kinh tế công nghiệp với nền kinh tế nông nghiệp, song tỷ trọng công nghiệp không đánh giá được mức độ hiện đại hoá (cơ cấu công nghệ) và bỏ qua phần dịch vụ trong đó có một bộ phận hiện nay không phải nhỏ còn là thô sơ, thủ công, chưa có tính chất công nghiệp. Với nhiều nước công nghiệp hiện nay, tỷ trọng công nghiệp lại có xu hướng giảm dần, nhường cho phần dịch vụ, nhất là dịch vụ công nghệ cao hay dịch vụ cao cấp. Nếu chỉ lấy phần công nghiệp chế tác có công nghệ mới và phần dịch vụ công nghệ cao để xác định tiêu chí CNH và HĐH thì trong thực tế khó bóc tách được ra từ các số liệu thống kê và cũng khó xác định mức sàn CNH, HĐH.
Trình tự xác định các tiêu chí đánh giá trình độ CNH, HĐH có thể tham khảo
phương pháp luận xây dựng các chỉ tiêu xã hội đã được sử dụng ở các nước : xuất phát từ mục tiêu phát triển cần đạt tới (ở đây là mục tiêu CNH, HĐH), xác định những thứ nguyên (chiều đo) của bài toán, cũng là những nhánh tương ứng với những đặc trưng CNH ở nước ta và từ mỗi nhánh đó lựa chọn những tham số hay chỉ tiêu bằng số có thể diễn đạt một cách định lượng mức độ đạt được của các tham số dặc trưng trên. Đối chiếu với tình hình của nước ta, việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá cần bảo đảm:
-- Thể hiện rõ định hướng và các đặc trưng CNH của Việt nam.
-- Tương hợp với các tiêu chí được dùng rộng rãi trên thế giới để dễ so sánh, đánh giá.
-- Các dữ liệu thống kê của Việt nam và quốc tế có đủ để tính toán các chỉ số định
lượng.
-- Đơn giản, thuận tiện, định nghĩa rõ ràng không thể nhầm lẫn.
Theo các yêu cầu trên, có thể sơ bộ nêu ra một danh mục các chỉ tiêu sắp xếp vào
mấy nhóm sau:
-- Nhóm chỉ tiêu kinh tế có thể bao gồm :
+ GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương.
+ Tỷ trọng giá trị gia tăng nông nghiệp so với tổng GDP.
+ Tỷ trọng sản phẩm công nghệ mới, công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu.
+ Năng suất lao động bình quân.
-- Nhóm chỉ tiêu xã hội gồm có:
+ Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng số lao động.
+ Tỷ trọng dân số đô thị.
+ Tỷ lệ thất nghiệp thực tế đô thị.
+ Chênh lệch thu nhập giữa nhóm cao nhất và nhóm thấp nhất.
-- Nhóm chỉ tiêu tri thức hoá và vốn con người:
+ Chỉ số phát triển con người (HDI).
+ Số sinh viên đại học đang tại trường trên 10000 dân.
+ Tỷ lệ số người có trình độ đại học trở lên trên tổng số người trên 6 tuổi
+ Số bác sĩ trên 10000 dân.
+ Tỷ lệ kinh phí R&D trong GDP.
+ Kinh phí giáo dục bình quân đầu người.
-- Nhóm chỉ tiêu chất lượng cuộc sống :
+ Suất tăng tự nhiên dân số.
+ Tuổi thọ bình quân.
+ Điện lượng sinh hoạt bình quân đầu người.
+ Số điện thoại trên 100 hộ dân.
+ Số sử dụng internet trên 100 hộ dân.
-- Nhóm chỉ tiêu về sử dụng tài nguyên và cải thiện môi trường:
+ Chi phí bảo vệ và cải thiện môi trường trong GDP.
+ Tỷ lệ chất thải được xử lý.
+ Tỷ lệ sử dụng nước sạch.
+ Lượng nguyên, nhiên liệu cho một đơn vị sản phẩm.
Danh mục những chỉ tiêu đánh giá trình độ CNH còn có thể nhiều hơn nữa, vấn đề này cần được nghiên cứu và chọn lọc kỹ hơn theo các yêu cầu đã nêu ở trên. Đối với mỗi chỉ tiêu, cần xác định trị số ứng với ngưỡng CNH quốc tế để so sánh với trình độ hiện tạicủa nước ta, tìm ra mức độ chênh lệch để có chương trình kế hoạch phấn đấu đuổi kịp. Ngưỡng CNH có thể chọn tương ứng với trình độ bình quân của các nước phát triển vào những năm 60 của thế kỷ trước hoặc những năm 80 - 90 của những nước công nghiệp hoá mới (NIC). Vì phải so sánh đồng thời nhiều chỉ tiêu và tiến trình CNH mỗi nước một khác nên khó bảo đảm tất cả các chỉ tiêu đều đạt ngưỡng như nhau, do đó cần phân tích các chiều hướng để có kết quả đánh giá thích hợp. Nếu chỉ cần đơn thuần so sánh với các nước đã CNH xem khoảng cách giữa nước ta và các nước đó còn bao xa thì, theo kinh nghiệm nước ngoài, có thể chỉ tính đến 4 chỉ tiêu về CNH cổ điển : tỷ trọng giá trị gia tăng nông nghiệp trong GDP; tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng số lao động; tỷ trọng dân số đô thị trong tổng dân số; giá trị GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương. (Ngưỡng CNH giới hạn dưới tương ứng có thể lấy lần lượt là 15%, 20%, 60% và khoảng hơn 6000 USD). Để đơn giản hoá trong so sánh, cũng có thể sử dụng một chỉ số tổng hợp kém chính xác hơn, bằng cách dùng một số trọng số cho mỗi nhóm chỉ tiêu và mỗi chỉ tiêu với điều kiện tổng số các trọng số của các chỉ tiêu trong một nhóm và của các nhóm trong tổng thể đều bằng 1.
Cũng cần phải nói rõ rằng phương pháp dùng hệ thống chỉ tiêu đánh giá không phải bao giờ cũng cho kết quả đáng tin cậy, có khi còn dẫn đến những kết quả lẫn lộn. Vì một mặt, trong việc đánh giá một tình trạng hay một trình độ phát triển, không thể lượng hoá được hết các yếu tố xem xét, nhất là các đánh giá về chất lượng như chất lượng cuộc sống, chất lượng của sự phát triển; đồng thời số chỉ tiêu sử dụng không thể quá lớn trong khi số biến số của tình hình thực tế lại gần như là vô cùng. Mặt khác, sự chủ quan trong việc lựa chọn tiêu chí và chỉ tiêu, trong cách tính toán các tham số và xác định các trọng số tính toán v.v. không tránh khỏi đưa thêm sai số vào trong bài toán. Vì vậy, cũng nên giữ mức độ thận trọng nhất định trong khi sử dụng các kết quả phân tích chỉ tiêu phát triển, tuy biết rằng khó tìm được phương pháp đánh giá đơn giản hơn và cho kết quả tường minh hơn.
Để có công cụ phân tích có độ tin cậy tốt, việc xác định các chỉ tiêu CNH ở nước ta cần được nghiên cứu một cách đồng bộ, hoàn chỉnh và chu đáo làm cơ sở phương pháp cho các nghiên cứu kinh tế dài hạn và đồng thời cung cấp tư liệu cho việc xây dựng các quy hoạch và kế hoạch phát triển đến 2010, 2015, 2020.v.v.
4. Kết quả thực hiện
Qua 10 năm thực hiện, đến nay đã đạt được nhiều kết quả quan trọng:
- Công nghiệp phát triển liên tục với tốc độ khá cao (trên 10%/năm) bao gồm cả
công nghiệp khai thác, chế biến, chế tác.
- Nông nghiệp đã đi vào vòng chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH, HĐH. Vấn đề
CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn đã được đề cập nhiều và đang tiếp tục nghiên cứu giải pháp.
- Chính sách khoa học và công nghệ : đã tìm hướng đổi mới quản lý khoa học, công
nghệ và tìm hiểu về kinh tế tri thức, dọn đường đưa khoa học, công nghệ (cùng với giáo dục đào tạo) đóng vai trò nền tảng và động lực của CNH, HĐH.
- Các mặt hoạt động khác (cải cách hành chính, cải cách thể chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, v.v.) đang được triển khai , có những kết quả rõ rệt.
Tuy nhiên, nếu so sánh với mục tiêu chiến lược đến năm 2010 “tạođược nền
tảng để năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” thì phần việc mấy năm qua thực hiện còn chậm trễ và thiếu động bộ:
- Đã qua 1/2 thời kỳ chiến lược và nếu tính từ năm 1994 đề xuất nhiệm vụ CNH,
HĐH đến nay đã hơn 10 năm, nhưng một số vấn đề mấu chốt về CNH, HĐH (sẽ nêu ở dưới) vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm hơn dự kiến, kể cả cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ v.v. Những chuyển dịch cơ cấu này cũng chính là những thước đo tổng hợp của kết quả thực hiện CNH, HĐH. Hiện còn những vấn đề đang lúng túng, mới chỉ rõ về phương hướng nhưng không cụ thể về giải pháp, thí dụ như công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, gắn kết công nghệ mới, công nghệ cao vào phát triển công nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ v.v.
- Nói chung, trong tổ chức thực hiện , vẫn thiếu một cái nhìn bao quát về các khía cạnh liên quan đến nhau trong đường lối CNH, HĐH. Tuy trong chủ trương có nêu, các điều kiện tiền đề của CNH, HĐH ta còn chưa hội đủ, vì vậy phải vừa tiến hành CNH, HĐH, vừa tiếp tục tạo các tiền đề cần thiết tương ứng với từng giai đoạn phát triển, song trong thực tế không có biện pháp cụ thể. Những mối quan hệ giữa CNH và HĐH, giữa kinh tế và công nghệ, giữa kinh tế, công nghệ và các mặt văn hoá , xã hội khác, giữa CNH, HDH và hội nhập quốc tế v.v. chưa được tổ chức nghiên cứu và có chính sách tích cực để hoàn chỉnh và thực hiện. Nói chung các bước đi của cả quá trình CNH, HĐH chưa được làm rõ, để có thể trong mỗi bước đi gắn kết CNH với HĐH, kinh tế với công nghệ, vừa thực hiện vừa tạo thêm tiền đề v.v. Công việc mang tính chiến lược và quy hoạch này cần phải tiếp tục nghiên cứu, nhất là trong điều kiện chúng ta vừa còn thiếu những tiền đề thuận lợi, lại vừa chủ trương CNH, HĐH rút ngắn thời gian.
III- Một số giải pháp cho CNH – HĐH nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam
Đúng như vậy CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân ở Việt nam từ nay đến 2010, một quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta là công cuộc CNH, HĐH đất nước không chỉ gồm những hoạt động kinh tế, mà bao quát một phạm vi rộng lớn, đúng với nghĩa CNH, HĐH toàn bộ đất nước. Và cũng cần có nhưng giải pháp để thúc đấy sự phát triển mạnh mẽ của CNH - HĐH.
1. Giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Do còn là một nước nặng về nông nghiệp, tỷ lệ dân số sống ở các vùng nông thôn chiếm phần lớn, cho nên Việt Nam tất yếu phải dành nhiều ưu tiên cho phát triển nông nghiệp và nông thôn trên con đường phát triển của mình. Trong nhiều năm qua, Đảng ta đã khẳng định CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương V khoá IX về "Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010" được ban hành ngày 18/3/2002 đã đề ra chủ trương toàn diện về CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn ở nước ta trong tình hình hiện nay.
Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu tổng quát của cả quá trình là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh.
Giải pháp CNH – HĐH cho nông nghiệp, nông thôn:
- Thứ nhất: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nông thôn và đổi mớicác chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, cần mở rộng các điều kiện tiếp cận của các chủ thể kinh tế nông thôn đến các thị trường, coi sự vận hành của cơ chế thị trường trong việc phân bổ nguồn lực và cạnh tranh thị trường là động lực kinh tế quan trọng thúc đẩy phát triển nông thôn. Các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn cần tập trung giải quyết những khó khăn của các chủ thể kinh tế nông thôn về các vấn đề đất đai, thị trường tiêu thụ, nguồn vốn, khoa học và công nghệ, lao động, v.v. Trong đó, chính sách đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cần được đổi mới theo hướng khuyến khích việc lưu chuyển đất đai từ người sử dụng này tới người sử dụng khác, từ mục đích sản xuất này tới mục đích sản xuất khác theo quy hoạch và quy định của pháp luật; không nên hạn chế việc tích tụ đất đai vào tay những người sử dụng có hiệu quả cao, tạo điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào nông nghiệp và tạo mặt bằng sản xuất cho các hoạt động công nghiệp ở nông thôn. Chính sách tài chính, tín dụng cần hướng tới việc tăng tỷ lệ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH, trong đó chú trọng đổi mới cơ cấu vốn đầu tư của nhà nước phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
- Thứ hai: Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, đa dạng hoá các loại hình tổ chức sản xuất- kinh doanh trong nông nghiệp và nông thôn trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Muốn vậy, trước hết cần tạo lập và hoàn thiện hành lang pháp lý điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các loại hình tổ chức sản xuất- kinh doanh ở nông thôn như các hộ gia đình, các trang trại, các hợp tác xã, và các loại hình doanh nghiệp khác trên cơ sở bình đẳng. Về lâu dài, cần có một đạo luật duy nhất điều chỉnh tất cả các loại hình tổ chức này. Cần khuyến khích phát triển rộng rãi các doanh nghiệp dân doanh ở nông thôn, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, coi đây là lực lượng chủ lực tạo việc làm mới, thực hiện xoá đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề và cơ cấu lao động ở nông thôn. Bên cạnh đó, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp và nông thôn.
- Thứ ba: Làm tốt công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, cần đẩy nhanh và nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển ngành và vùng theo nguyên tắc xác định các hướng sản xuất- kinh doanh trên cơ sở lợi thế so sánh của ngành và vùng. Cần có kế hoạch phối hợp giữa các ngành chuyên môn ở từng vùng, đồng thời có kế hoạch phối hợp hoạt động của các ngành chuyên môn với các cấp chính quyền ở nông thôn liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về tài chính công. Quy hoạch ngành và vùng cần được xây dựng gắn kết và đồng bộ với các quy hoạch khác ở nông thôn như: quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội; quy hoạch phát triển khu dân cư, làng, xã, thị trấn; quy hoạch xây dựng các trung tâm thương mại, chợ, khu, cụm công nghiệp, làng nghề,… ở nông thôn.
- Thứ tư: Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ vào phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nâng cao năng suất của từng người lao động nông nghiệp, nâng cao thu nhập của từng hécta đồng ruộng, của từng hộ nông dân. Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho việc nhập khẩu các công nghệ hiện đại, các loại giống tốt, đầu tư cho việc hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ khoa học phục vụ cho việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào thực tiễn sản xuất- kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng một số khu nông nghiệp công nghệ cao dựa vào công nghệ sinh học, công nghệ thông tin như các cơ sở sản xuất giống mới dựa vào công nghệ gen, các cơ sở trồng trọt, chăn nuôi sử dụng các giống mới cùng với những công nghệ mới tự động điều khiển quá trình sản xuất. Nhà nước có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu phát triển khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn và thực hiện xã hội hoá để mở rộng hệ thống khuyến nông đến cơ sở.
- Thứ năm: Nâng cao trình độ và đảm bảo tính đồng bộ của nguồn lao động nông thôn thông qua đổi mới chính sách đào tạo và dạy nghề. Trong thời kỳ đầu CNH, HĐH, cần điều chỉnh cơ cấu đào tạo đại học, cao đẳng và giáodục chuyên nghiệp theo hướng tăng đào tạo nghề nghiệp và trung học chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Nhà nước cần tăng cường đầu tư để nâng cấp các cơ sở dạy nghề của Nhà nước, đồng thời có chính sách khuyến khích xã hội hoá, phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng và khuyến khích thu hút những người được đào tạo về làm việc ở nông thôn, nhất là miền núi,vùng sâu, vùng xa.
2. Giải pháp phát triển các ngành công nghiệp
- Thứ nhất: Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng Chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2020. Chiến lược này phải giải quyết thoả đáng các vấn đề lớn như phương pháp luận và công cụ để xây dựng chiến lược; tiêu chí cụ thể để xây dựng chiến lược; xác định vị trí nền công nghiệp Việt Nam trong khu vực và trên thế giới; tư tưởng chiến lược chủ đạo phát triển toàn bộ nền công nghiệp; phân nhóm các ngành hoặc chuỗi các ngành công nghiệp đi kèm với chính sách phát triển ở mọi khía cạnh và các vấn đề về thể chế, tổ chức thực hiện, giám sát, điều chỉnh trong từng bước đi. Trong đó, cần xác định tư tưởng chiến lược mang tính chủ đạo là: (i) ưu tiên phát triển các ngành mũi nhọn và các ngành hướng mạnh về xuất khẩu dựa trên năng lực cạnh tranh; (ii) đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá, đổi mới công nghệ; (iii) đẩy mạnh CNH, HĐH nông thôn; và (iv) tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển công nghiệp, đặc biệt khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Thứ hai: Cải thiện vai trò của Nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển công nghiệp hướng tới việc huy động hữu hiệu các nguồn lực và khai thác tốt các tiềm năng của đất nước. Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các tư tưởng chiến lược chủ đạo phát triển công nghiệp thông qua việc tạo môi trường thích hợp và các chính sách ưu tiên, khuyến khích, cả đối với các ngành và đối với các doanh nghiệp (được trình bày cụ thể hơn ở các phần dưới đây). Đầu tư của Nhà nước cho phát triển công nghiệp đóng vai trò rất quan trọng, giải pháp cần quan tâm là nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước, và có tính toán kỹ lưỡng đến hiệu quả trước khi đưa ra các quyết định đầu tư mới.
- Thứ ba: Các biện pháp phát triển các ngành công nghiệp cần chú trọng phát huy lợi thế so sánh và dựa trên năng lực cạnh tranh của các ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp phải được đánh giá trên cơ sở khoa học, so sánh với các nước trong khu vực và có dự báo xu hướng trong tương lai. Đối với những ngành có năng lực cạnh tranh cao, Nhà nước có thể tăng cường đầu tư và khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với những ngành có năng lực cạnh tranh có điều kiện, Nhà nước có các chính sách trợ giúp có điều kiện và có thời hạn để nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời khuyến khích khu vực tư nhân và nước ngoài đầu tư vào những ngành này. Đối với những ngành có năng lực cạnh tranh thấp, cần tích cực điều chỉnh cơ cấu đầu tư, một mặt có thể hạn chế đầu tư để tránh gây lãng phí, kém hiệu quả, mặt khác có thể khuyến khích đầu tư thích hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh tuỳ theo đặctrưng cụ thể của từng ngành.
- Thứ tư: Các biện pháp thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp công nghiệp cần chú trọng đến việc huy động nguồn lực tiềm tàng của tất cả các loại hình doanh nghiệp. Cụ thể là:
+ Đối với doanh nghiệp nhà nước: Cần đẩy mạnh tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả của khu vực doanh nghiệp này thông qua các biện pháp như cổ phần hoá, công ty hoá, giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê, chuyển đổi hoạt động sang phương thức công ty mẹ- công ty con, hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh, v.v.; cần giảm thiểu độc quyền của doanh nghiệp nhà nước, mở cửa các lĩnh vực và thị trường cho sự tham gia của các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
+ Đối với doanh nghiệp dân doanh: Bảo đảm các doanh nghiệp này tham gia ngày càng sâu rộng vào đầu tư phát triển các ngành mà pháp luật không cấm, không giới hạn về quy mô phát triển, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. Khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa, thích hợp với những ngành sử dụng nhiều lao động, sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân đa dạng và luôn thay đổi của thị trường, đồng thời có thể dễ dàng đổi mới công nghệ.
+ Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Ngoài việc tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng cho hoạt động của các doanh nghiệp này, trong chiến lược xúc tiến đầu tư những năm tới, cần hướng đến những đối tác nước ngoài có tiềm lực mạnh về nguồn tài chính và khoa học-công nghệ. Khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành công nghiệp xuất khẩu, những ngành phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, và những ngành có hàm lượng khoa học-công nghệ cao. Đồng thời với việc thực hiện các biện pháp phát triển doanh nghiệp, cần tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích sự liên doanh, liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, tạo dễ dàng cho sự tích tụ vốn để hình thành những doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn. Đặc biệt khuyến khích sự liên kết giữa doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo nên mạng lưới các doanh nghiệp vệ tinh năng động, linh hoạt, giảm thiểu chi phí, nâng cao được sức cạnh tranh.
3. Giải pháp phát triển ngành Dịch Vụ
- Thứ nhất: Cần tiến hành cấp bách việc rà soát tất cả các ngành dịch vụ để đánh giá hiện trạng, năng lực cạnh tranh, tiềm năng và xu hướng phát triển của chúng, trên cơ sở đó xây dựng một chiến lược phát triển các ngành dịch vụ của Việt Nam từ nay đến năm 2020. Việc rà soát nên được thực hiện theo các ngành dịch vụ được phân định bởi Hiệp định chung về các Dịch vụ liên quan đến Thương mại (GATS) của WTO, bao gồm 12 ngành dịch vụ là: (1) Dịch vụ kinh doanh; (2) Dịch vụ liên lạc; (3) Dịch vụ xây dựng và thi công; (4) Dịch vụ phân phối; (5) Dịch vụ giáo dục; (6) Dịch vụ môi trường; (7) Dịch vụ tài chính; (8) Các dịch vụ liên quan đến sức khoẻ và các dịch vụ xã hội; (9) Các dịch vụ du lịch và liên quan đến du lịch; (10) Các dịch vụ giải trí và thể thao; (11) Các dịch vụ vận tải; và (12) Các dịch vụ khác. Việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển dịch vụ phải gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp và các chương trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Thứ hai: Tăng cường huy động các nguồn lực trong xã hội bằng cách mở rộng sự tham gia của khu vực tư nhân và nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh các ngành dịch vụ, giảm thiểu độc quyền nhà nước, tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường. Thí dụ, trong các ngành điện lực và viễn thông, Nhà nước cần tách chức năng quản lý đường trục quốc gia với chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp để có nhiều doanh nghiệp hơn tham gia kinh doanh. Ngày 11/3/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định 31/2005/NĐ-CP về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và hợp tác xã đều được tham gia sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo các phương thức đặt hàng, đấu thầu hoặc giao kế hoạch. Nghị định này được đánh giá là mở ra cho các chủ thể kinh tế ngoài nhà nước những cơ hội đầu tư, kinh doanh mới, vì vậy có thể tạo ra một cuộc chạy đua thực sự giữa các thành phần kinh tế trong việc sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích- những hàng hoá trước đây thường gắn chặt với các doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là phải thực hiện có hiệu quả Nghị định 31/ 2005/NĐ-CP trong thực tế. Trong một số ngành dịch vụ mang
tính xã hội như giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường v.v., cần đẩy mạnh
công tác xã hội hoá. Muốn vậy, Nhà nước cần xây dựng và ban hành các quy định pháp lý và các chính sách rõ ràng về phương thức và các hình thức xã hội hoá.
- Thứ ba: Nhà nước cần có các chính sách trợ giúp thích hợp những doanh nghiệp mới tham gia đầu tư và kinh doanh các ngành dịch vụ hoặc những doanh nghiệp tham gia đầu tư và kinh doanh các ngành dịch vụ mới, nhất là về phát triển nguồn nhân lực. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng kinh doanh dịch vụ đến các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, một mặt nhằm giúp các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường trong nước, mặt khác giúp đáp ứng các nhu cầu đời sống kinh tế-xã hội của những vùng này. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ ra nước ngoài dưới các hình thức đa dạng, từ cung cấp qua biên giới cho đến hiện diện thể nhân ở nước ngoài. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhận làm các dịch vụ được chuyển ra bên ngoài từ các nước phát triển, tiêu biểu là các dịch vụ như: kế toán, thiết kế kỹ thuật, thiết kế phần mềm…
- Thứ tư: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ thông qua các biện pháp như: đẩy mạnh thực hiện lộ trình giảm giá cước dịch vụ xuống mức ít nhất là ngang bằng với các nước trong khu vực; tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất và kinh doanh dịch vụ; phát huy lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng, từng thời kỳ; thay đổi phương thức và thái độ phục vụ để hướng tới khách hàng nhiều hơn, vì lợi ích của khách hàng… Đáp ứng với những thách thức trong quá trình trong hội nhập, trước hết Nhà nước cần xây dựng một lộ trình mở cửa dịch vụ thích hợp, phù hợp với những cam kết quốc tế và sát với thực tế nước ta, tiếp đến các ngành, các cấp và các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chủ động, sẵn sàng đón nhận sự cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và nước ngoài.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32408.doc