Đề tài Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình hội nhập kinh tế ở Việt Nam

CNH-HĐH là một quá trình lâu dài, và vô cùng khó khăn. Như ta đã biết, nước Anh là nước tiến hành CNH đầu tiên phải mất tới 120 năm. Mỹ đi sau học tập được kinh nghiệm CNH, nhập khẩu được kĩ thuật và thu hút dong vốn đầu tư từ Châu Âu chuển sang nên rút ngắn được thời gian hơn, còn khoảng 90 năm. Nhật Bản CNH còn rút ngắn được hơn nữa, chỉ còn khoảng 50 năm. Các nước NIC đi sau rút ngắn quá trình CNH xuống còn 30 năm. Câu hỏi đặt ra là: tại sao cùng một điều kiện quốc tế như nhau, mà chỉ một nhóm nhỏ tiến hành CNH thành công. Việt Nam là một nước đi sau thì liệu thời gian CNH có được rút ngăn nữa không? Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, CNH phải đi đôi với HĐH để không bị tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này đỏi hỏi các chủ thể hội nhập cần tạo cho mình một tác phong công nghiệp, làm việc có hiệu quả. Muốn vậy, ngay từ bây giờ cần trang bị những kiến thức chuyên sâu để góp phần thực hiện chiến lược CNH-HĐHmột cách thành công.

doc18 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2345 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình hội nhập kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay nền kinh tế thế giới đang diễn ra một cách sôi động và các quốc gia trên thế giới cũng đang nhanh chóng thực hiện các chiến lược nhằm đưa kinh tế nước mình phát triển đi lên. Thực tế đã cho thấy, chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH) là chiến lược được lựa chọn. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất XHCN mới được thiết lập, chưa được hoàn thiện. Vì vậy phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, bằng cách thực hiện chiến lược CNH-HĐH. Đặc biệt trong xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang phát triển rất nhanh chóng; những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo ra vận hội mới, vừa cản trở, thách thức nền kinh tế của chúng ta, đan xen với nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, chúng ta phải chủ động sáng tao nắm bắt thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH, tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng, phát triển bền vững. Việc nghiên cứu về chiến lược CNH-HĐH không còn là mới mẻ. Tuy nhiên với mỗi sinh viên Việt Nam việc cần và có những hiểu biết về CNH-HĐH là hết sức cần thiết. Vì vậy em chọn đề tài “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình hội nhập kinh tế ở Việt Nam” để nghiên cứu. Với vốn kiến thức còn hạn hẹp nên khi thực hiện đề tài em vẫn còn mắc phải những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ dẫn nhiệt tình của thầy cô để giúp đỡ em hoàn thành đề tài này một cách thành công. NỘI DUNG I – CNH-HĐH, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA CNH-HĐH. 1) Khái niệm. CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện tất cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, và quản lí kinh tế xã hội là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao. CNH là quá trình biến một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp bằng việc trang bị kỹ thuật cơ khí cho các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong công nghệp. Trình độ của lực lượng sản xuất tương ứng với nội dung của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Nhằm mục đích tăng nhanh trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động và nâng cao năng suất lao dộng xã hội. HĐH là quá trình làm cho nền kinh tế mang tính chất và trình độ của thời đại ngày nay. Thời đại ngày nay với những biểu hiện chính như: tự động hoá sản xuất, công nghệ sản xuất vật liện mới, phát triển nguồn năng lượng mới, công nghệ sinh học, công nghệ điện tử và tin học. Điều này cho thấy HĐH tương ứng với nội dung của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật. HĐH cũng là quá trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất, mới nhất trong quá trình CNH. Thực chất HĐH là cái đích cần vươn tới trong quá trình CNH. Cái đích này không cố định đối với từng quốc gia hay một ngành nghề mà nó luôn thay đổi theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ văn minh của nhân loại. Thực hiện CNH trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay, quá trình trang bị công nghiệp cho các ngành phải gắn liền với quá trình HĐH công nghệ. Quá trình ấy cũng đồng thời là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghệ và cải biến các ngành kinh tế hoạt động theo tác phong công nghiệp. Đặc điểm của CNH-HĐH ở VN CNH gắn liền với HĐH, vừa thực hiện nội dung của cách mạng công nghiệp, vừa tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để HĐH những ngành, những khâu, lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt CNH-HĐH nhằm mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH và tăng sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc. CNH-HĐH trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại trở thành đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển. CNH-HĐH ở nước ta có những đặc điểm khác với quá trình CNH-HĐH ở các nước khác trên thế giới. Do điều kiện cụ thể của đất nước và bối cảnh tiến hành CNH-HĐH, và nhất là sự biến động không ngừng của nền kinh tế thế giới. 2 – Tính tất yếu khách quan của CNH-HĐH ở Việt Nam. CNH-HĐH ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan bắt nguồn từ yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng tồn tại trên một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất bao gồm các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất và đối tượng lao động. Các phương thức sản xuất trước CNTB đều dựa trên cơ sở vật chất-kỹ thuật với công cụ lao động ở trình độ thủ công, lạc hậu, cho năng suất thấp. Cơ sở vật chất của CNTB là nền đại công nghiệp và công nghệ hiện đại có năng xuất lao động cao hơn phương thức sản xuất phong kiến. Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lí, trình độ xã hội hoá cao, dựa trên nền tảng của khoa học - công nghệ tiên tiến, được hình thành có kế hoạch trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Phương thức sản xuất XHCN phải được phát triển trên cơ sở vật chất - kỹ thuật cao hơn TBCN. Phát triển và hoàn thiện cơ sở đó dựa trên những thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học - công nghệ. Với cơ cấu quốc dân cân đối, hợp lí: cho phép khai thác tối đa các nguồn lực trong nước, tham gia tích cực và có hiệu quả vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Kế thừa những thành quả về cơ sở vật chất-kỹ thuật mà nhân loại đã đạt được trong CNTB. V.I.Lênin đã tường nói: “Cơ sở duy nhất và thực sự để làm tăng của cải của chúng ta, để xây dựng XHCN chỉ có thể là đại công nghiệp…Không có một nền đại công nghiệp tổ chức cao, không thể nói đến CNXH nói chung được, mà lại càng không thể nói đến CNXH đối với một nước nông nghiệp được” Đối với các nước đã qua giai đoạn phát triển của CNTB, bức vào xây dựng CNXH, việc xác lập cơ sở vật chât-kỹ thuật của CNXH được tiến hành thông qua kế thừa, điều chỉnh và hoàn thiện cơ sở vật chất-kỹ thuật mà nhân loại đã đạt được trong CNTB theo yêu cầu của chế độ mới và phát triển nó ở trình độ cao hơn. Đối với những nước quá độ lên CNXH có điểm xuất phát thấp như VN, để có cơ sở của vật chất-kỹ thuật của CNXH, nhất thiết phải tiến hành CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. Coi đây là giải pháp có tính bắt buộc để xây dựng CNXH hiện thực. Tác dụng của CNH-HĐH CNH-HĐH tạo ra lực lượng sản xuất mới, tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên. Hình thành và mở rộng củng cố quan hệ sản xuất XHCN. CNH-HĐH góp phần củng cố và kiện toàn bộ máy Nhà nước XHCN, tăng cường liên minh công nhân-nông dân-trí thức. Hình thành và phát triển nền văn hoá mới XHCN. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức hợp tác và hội nhập kinh tế có hiệu quả. CNH-HĐH tạo tiền đề vật chất để xây dựng phát triển và hiện đại hóa nền quốc phòng an ninh. Mặt khác CNH-HĐH tạo tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế- chính trị, văn hóa-xã hội,quốc phòng và an ninh. II - CHIẾN LƯỢC CNH-HĐH Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ. 1- Mục tiêu của chiến lược CNH-HĐH Mục tiêu lâu dài củ chiến lược CNH-HĐH ở nước ta là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH dựa trên một nền khoa học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống vật xhất, thực hiện dân giàu, nước mạng, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu lâu dài, tổng quát của sự nghiệp CNH-HĐH của nước ta được Đảng Cộng sản VN tại đại hội lần thư VIII và tiếp tục khẳng định tại đại hội Đảng lần thứ IX và lần thư X là: “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển… Đẩy mạnh CNH-HĐH và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” Mục tiêu trước mắt: tập chung lỗ lực của nền kinh tế để đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, ra sức phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ sản. Phát triển nhanh các ngành công ngiệp, xây dựng và dịch vụ, phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển… 2- Quan điểm của Đảng về CNH-HĐH ở VN hiện nay. Những đổi mới về cơ chế kinh tế, lực lượng tiến hành CNH-HĐH về định hướng chiến lược, huy động vốn, yếu tố thời đại … trên cơ sở tổng kết thực tiễn, căn cứ vào tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển của thời kỳ mới. Đại hội VIII xác định quan điểm CNH-HĐH như sau. Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoai trên cơ sở xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả. CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh và bền vững. Khoa học công nghệ là động lực của CNH-HĐH. Kết hợp công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống. Tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở khâu quyết định. Lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn phương ấn phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Kết hợp phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng. Bước vào thế kỷ 21 trước những biến đổi to lớn của tình hình trong nước và quốc tế, đại hội IX nhấn mạnh them ba quan điểm: Con đường CNH-HĐH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. CNH-HĐH đất nước đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Theo đại hội đảng X: CNH ở nước ta là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoọat động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, xã hội từ dựa vào lao động thủ công là chính sang dựa vào lao động cùng với phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật, tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao. III- NỘI DUNG CỦA CNH-HĐH Ở VIỆT NAM. 1- Nội dung cơ bản của CNH-HĐH. 1.1- Phát triển lực lượng sản xuất, CNH-HĐH để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm trang bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân. Phương hướng: Hình thành cơ cấu kỹ thuật, công nghệ nhiều tầng, kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến, cải tiến công nghệ truyền thống, ưu tiên công trình quy mô vừa và nhỏ. Nhưng không loại trừ quy mô lớn nếu có hiệu quả và điều kiện cho phép. Trong những năm trước mắt: coi trọng loại công nghệ có vốn đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, tạo nhiều việc làm. Cần phát triển năng lực nội sinh thông qua việc ứng dụng khoa học và công nghệ. Phát triển công nghệ ngoại sinh thông qua tiếp nhận, chuyển giao công nghệ mới từ các nước tiên tiến trên thế giới. Tạo điều kiện nhanh chóng thực hiện việc trang bị kỹ thuật công nghệ để rút ngắn được khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển. Tạo cơ sở vật chất - kỹ thuât để khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực trong nước cho sự phát triển kinh tế nhanh. Thúc đẩy quá trình chuyển sang CNH-HĐH hướng mạnh vào xuất khẩu nhằm đạt hiệu quả cao. Giải pháp: Vừa tận dụng có hiệu quả các cơ sở hiện có, đồng thời vừa đầu tư mới theo chiều sâu. Cải thiện, nâng cấp, HĐH các kỹ thuật-công nghệ truyền thống, thực hiện CNH-HĐH nong nghiệp, nông thôn. Tranh thủ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư nước ngoài, giám định tốt việc nhập công nghệ và thiết bị. Tuy nhiên vấn đề môi trường luôn được đặt lên hàng đầu. Nâng cao năng lực quốc gia nhằm đổi mới và làm chủ các cộng nghệ nhập, sáng tạo công nghệ mới. Tăng cường cho đầu tư phát triển công nghiệp bằng mọi nguồn vốn, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ khoa học. 1.2 – Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lí. Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân hay kinh tế của một vùng, địa phương, cơ sở. Các bộ phận này có quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau, được thể hiện trong tỷ trọng giá trị của chúng trong tổng thể giá trị nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động, biến đổi do sự vận động, biến đỏi của lực lượng sản xuất và của quan hệ sản xuất. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là hợp lí, tiến bộ là tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỷ trọng khu vực dịch vụ ngày càng tăng; tỷ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội. Thông qua cách mạng khoa học – công nghệ và phân công lại lao động với những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện của nước ta, Đảnh ta xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý mà “bộ xương” của nó là cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020: Tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt 15-16%, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP chiếm 90%, tỷ trọng công nghiệp trong GDP chiếm 40-50% (trong đó công nghiệp chế biến chiếm 80-85%), sản lượng lương thực quy thóc đạt 30-40 triệu tấn, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp chiếm 45-50%. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, cần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư trên cơ sở phát huy thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức mạnh cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và nước ngoài, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng – an ninh. Tạo nên sức mua của thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước và đẩy mạnh xuất khẩu. CNH-HĐH ở nước ta nhằm mục tiêu xây dựng CNXH. Do đó CNH-HĐH không chỉ là phát triển lực lượng sản xuất mà còn là quá trình thiết lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN. 2- Những nội dung cụ thể của CNH-HĐH ở nước ta trong những năm trước mắt. Coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn. Phát triển công nghiệp, xây dựng: đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông – lâm - thuỷ hải sản. Phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế tác, công nghệ phần mềm và cong nghệ bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu. Khẩn trương thu hút vốn trong và ngoài nước để thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu, hoá dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo. Phát triển cong nghiệp và xây dựng cơ bản. Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất của nền kinh tế. Phát triển nhanh du lịch, các ngành dịch vụ: Trong những năm trước mắt, cần tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn, và có sức cạnh tranh như hàng không, hàng hải, bưu chíh - viễn thông, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểu… Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ: Nhằm khai thác triệt để tiềm năng củ từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả các vùng cùng nhau phát triển. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, mở của kinh tế là cầc thiết đối với tất cả các nước. Do đó CNH-HĐH không thể thành công nếu không mở củanền kinh tế. Sau thời kỳ khá dài đóng cửa, hiện nay, mở của nền kinh tế là nhu cầu cấp bách đối với nền kinh tếnước ta, là một nội dung của CNH-HĐH ở nước ta trong những năm trước mắt. Tuy nhiên, mở của hội nhập như thế nào cũng cần được cân nhắc kỹ càng nhằm tranh thủ những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trìng này với tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế. Tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm. Chuyển hướng chiến lược, xây dựng nền kinh tế mở đòi hỏi phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu. IV - NHỮNG TIỀN ĐỀ THỰC HIỆN THẮNG LỢI SỰ NGHIỆP CNH-HĐH. 1- Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. CNH-HĐH đòi hỏi nguồn vốn rất to lớn. Do đó mở rộng quy mô huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một điều kiện, tiền đề quan trọng để CNH-HĐH thành công. Nguồn vốn cho CNH-HĐH bao gồm vốn trong nước và vốn ngoài nước. Trong đó con đường để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa hoc và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất. Trong thời kì đầu, việc tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế là rất khó khăn. Vì thế cần phải tranh thủ, tận dụng mọi nguồn lực nước ngoài. Trong các nguồn lực bên ngoài thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có vai trò quan trọng, bởi cùng với nguồn vốn huy động được thì các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào cũng mang theo công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý hiện đại. Vì vậy, chính phủ phải có chính sách cụ thể nhằm thu hút và sử dụng FDI có hiệu quả. 2 – Đào tạo nguồn nhân lực Con người luôn đóng vai trò quan trong thực hiện các quá trình kinh tế-xã hội. Để CNH-HĐH thành công, trước tiên phải phát triển nguồn nhân lực. Thực hiện đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cả về trí lực lẫn thể lực. Phát triển giáo dục đào tạo, đây được coi là quốc sách số một. Đồng thời, phát triển khoa học – công nghệ. Phát triển y tế, bảo hiểm, dinh dưỡng…Chất lượng của nguồn nhân lực thực sự có ý nghĩa quy định mức độ thành công của quá trình CNH. Nếu một quốc gia không có đủ đội ngũ các nhà kỹ thuật, công nhân lành nghề thì không để tiếp thu được công nghệ hiện đại và có nguy cơ trở thành bãi rác thải công nghĩa của các nước phát triển. Vì vậy, việc xác lập một cơ cấu nguồn nhân lực thích hợp, đầu tư tài chính đủ cho công tác giáo dục và y tế, sử dụng nhân lực theo cơ chế thị trường kết hợp với những chính sách ưu đãi nhân tài thỏa đáng là nguồn gốc căn bản của những thành công trong tương lai. Về vấn đề này chúng ta nên học hỏi kinh nghiệm của Nhật Bản. Một trong những yếu tố giúp Nhật Bản có được sự phát triển thần kì và trở thành một cường quốc kinh tế như ngày nay đó là sự đầu tư và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó xây dựng giai cấp công nhân là một nhiệm vụ trọng tâm. 3 – Phát triển khoa học và công nghệ Khoa học và công nghệ được xác định là động lực của CNH-HĐH. Khoa học và công nghệ có vai trò lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, CNH-HĐH nói riêng của các quốc gia. Phát triển khoa học – công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ và kinh tế tri thức thế giới. Cố gắng đi ngay vào công nghệ hiện đại đối với một số lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Phát triển công nghệ, kết hợp đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập khẩu công nghệ để kết hợp với công nghệ nội sinh nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ của các ngành có lợi thế cạnh tranh, có tỷ trọng lớn trong GDP. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu để đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, nắm bắt các công nghệ cao cùng những thành tựu mớicủa khoa học và công nghệ…để từ đó đề xuất một chiên lược đúng đắn. 4 – Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong xu thế toàn cầu hoá, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp CNH-HĐH đất nước càng được tiến hành thuận lợi và càng thành công nhanh chóng bấy nhiêu. Thực chất của việc mở rộng kinh tế đối ngoại là việc thu hút nhiều nguồn vốn bên ngoài, là việc tiếp thu nhiều kỹ thuật và công nghệ hiên đại, là việc mở rộng thị trường cho sự nghiệp CNH-HĐH được thuận lợi. Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tạo ra mối liên hệ và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia. Do đó việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trở thành một tất yếu kinh tế, tạo ra khả năng và điều kiện để các nước chậm phát triển tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiêm tổ chức quản lý… để đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên cần đưa ra một đường lối kinh tế đối ngoại đúng đắn vừa đạt được hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ vững được độc lập, chủ quền dân tộc, xây dựng thành công CNXH. 5 – Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đây là tiền đề quan trọng quyết định thắng lợi của sự nghiệp NH-HĐH ở nước ta. Đảng phải tiên phong trong quá trình thực hiên CNH-HĐH, tự đổi mới không ngừng lãnh đạo và một nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong sạch, vững mạnh và có hiệu lực quản lý. Giữ vững ổn định về chính trị, Đảng Cộng sản VN phải là người lãnh đạo duy nhất, trực tiếp và toàn diện mọi hoạt động của đất nước. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc huy động các nguồn lực của đất nước nhằm đáp ứng yêu cầu của CNH-HĐH; phát triển kinh tế đối ngoại… CNH-HĐH phải theo đường lối của Đảng để đảm bảo thắng lợi theo định hướng XHCN Nhà nước có chức năng quản lý kinh tế xã hội, Nhà nước có sứ mệnh tổ chức thực hiện đường lối CNH-HĐH của Đảng thông qua việc thực thi cơ chế, chính sách và điều hành các hoạt động kinh tế - xã hộinhằm thực hiện các mục tiêu của CNH-HĐH mà Đảng đã đề ra. V – CNH - HĐH HOÀ NHẬP CHỨ KHÔNG HOÀ TAN. 1- CNH – HĐH và việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Việt Nam chủ động mở cửa hội nhập, điều đó khẳng định rằng: chúng ta đã có những chuẩn bị cho việc hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Có thể nói: Công cuộc CNH-HĐH hiện nay ở nước ta thực sự đang là một cuộc tiếp biến lớn lao, rất căn bản của văn hoá Việt Nam với thế giới văn hoá hiện đại. Với truyền thống luôn giữ vững bản sắc của mình, văn hoá Việt Nam không bao giờ bị văn hoá hiện đại thôn tính, mà sẽ tiếp thu những yếu tố văn hoá tiên tiến, hiện đại chứa đựng trong khoa học - công nghệ hiện đại, nó cộng sinh, làm phong phú và hiện đại thêm nền văn hoá của chính mình. Theo nghĩa đó, CNH-HĐH không những không là tác dụng xấu, mà là tác dụng tích cực, hay có thể nói, chúng đem lại những yếu tố mới cho việc làm sâu sắc thêm phong phú thêm bản sắc văn hoá Việt Nam. Hội nhập quốc tế không chỉ là nhập công nghệ mà là hoạt động toàn diện khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất - quản lý kinh tế - xã hội. Sự hội nhập sẽ làm tăng nhanh nhiều loại sản phẩm văn hoá, trong đó, bên cạnh các yếu tố tốt đẹp, có cả những yếu tố không phù hợp với văn hoá truyền thống, thậm chí độc hại nữa. Vì thế CNH-HĐH trong thời kì hội nhập cần phải đi đôi với việc giữ gìn bản sắc dân tôc. Điều đầu tiên phải thấy rằng, một trong những biện pháp để CNH-HĐH không chỉ đơn giản là nhập nội khoa học - kỹ thuật - công nghệ tiên tiến từ bên ngoài, mà là biết kết hợp các yếu tố nội sinh và ngoại sinh, trong đó, yếu tố nội sinh là gốc, là nền tảng. Bởi Đảng và Nhà nước ta chủ trương mục đích của HĐH không chỉ vì một cuộc sống tiện nghi, mà là phát triển con người và dân tộc Việt Nam, làm cho nền văn hoá Việt Nam ngày càng tiên tiến, hiện đại và ngày càng đậm đà bản sắc. Trong thời kì hội nhập, CNH-HĐH một mặt, để hoà vào được trình độ phát triển thế giời, mặt khác, giữ gìn được bản sắc văn hoá của mình, chúng ta cần phát huy các giá trị truyền thống để tiếp thu những thành quả khoa học - công nghệ - tin học hiện đại, lấy yếu tố nội sinh làm chủ thể nghĩa là yếu tố nội sinh phải đóng vai trò quyết định trong việc định hướng các mối quan hệ của chúng với các yếu tố ngoại sinh, còn các yếu tố ngoại sinh phải trở thành tố chất kích thích sự tiến hoá của các yếu tố nội sinh. Hội nhập trên cơ sở định hướng với sự lựa chọn tối ưu là làm sao tích hợp được nhiều tinh hoa đặc sắc của nhiều nền khoa học - kỹ thuật - công nghệ và cách điều tiết nền kinh tế - xã hội của nhiều nước một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm và điều kiện dân tộc mình. Nếu nhân danh sự tiếp thu mà bê nguyên xi những cái bên ngoài thì rất văn hoá sẽ bị mất gốc, bị đồng hoá. 2 – Vai trò quản lý của Nhà nước. Quản lý nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu  kinh tế  theo hướng CNH-HĐH là quá trình Nhà nước xây dựng và vận hành cơ chế quản lý kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hôi, phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan để tác động vào hệ thống kinh tế làm biến đổi về lượng, thay đổi mối quan hệ về chất của các bộ phận hợp thành hệ thống kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Quản lý của Nhà nước giúp hạn chế được những mặt tiêu cực trong quá trình hội nhập. Nhà nước phải chủ động phát triển, sử dụng cơ chế thị trường như một công cụ chủ yếu, hữu hiệu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đồng thời luôn có giải pháp hạn chế, sửa chữa các khuyết tật thị trường, cũng như định hướng, kiểm soát nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các công cụ điều hành kinh tế vĩ mô. Những điều này khẳng định vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định của quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH ở nước ta. KẾT LUẬN CNH-HĐH là một quá trình lâu dài, và vô cùng khó khăn. Như ta đã biết, nước Anh là nước tiến hành CNH đầu tiên phải mất tới 120 năm. Mỹ đi sau học tập được kinh nghiệm CNH, nhập khẩu được kĩ thuật và thu hút dong vốn đầu tư từ Châu Âu chuển sang nên rút ngắn được thời gian hơn, còn khoảng 90 năm. Nhật Bản CNH còn rút ngắn được hơn nữa, chỉ còn khoảng 50 năm. Các nước NIC đi sau rút ngắn quá trình CNH xuống còn 30 năm. Câu hỏi đặt ra là: tại sao cùng một điều kiện quốc tế như nhau, mà chỉ một nhóm nhỏ tiến hành CNH thành công. Việt Nam là một nước đi sau thì liệu thời gian CNH có được rút ngăn nữa không? Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, CNH phải đi đôi với HĐH để không bị tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này đỏi hỏi các chủ thể hội nhập cần tạo cho mình một tác phong công nghiệp, làm việc có hiệu quả. Muốn vậy, ngay từ bây giờ cần trang bị những kiến thức chuyên sâu để góp phần thực hiện chiến lược CNH-HĐHmột cách thành công. Qua việc nghiên cứu đề tài: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình hội nhập kinh tế ở Việt Nam”. Em có cái nhìn cụ thể hơn về chiến lược CNH-HĐH của đất nước. Từ đó định hướng được mục đích học tập của mình trong nhà trường. Với vốn hiểu biết còn hạn hẹp, bài viết của em còn nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý nhiệt tình từ phía các thày cô để giúp em hoàn thành đề tài một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế chính trị Mác-lênin. Văn kiện đại hội Đảng VIII, IX, X. Trang web VNEP_ORG_VN Vietnam Economic Portal.htm. Và một số tài liệu khác. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU NỘI DUNG I – CNH-HĐH, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA CNH-HĐH. 1) Khái niệm. 2) Tính tất yếu khách quan của CNH-HĐH ở Việt Nam. II - CHIẾN LƯỢC CNH-HĐH Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ. 1- Mục tiêu của chiến lược CNH-HĐH 2- Quan điểm của Đảng về CNH-HĐH ở VN hiện nay III- NỘI DUNG CỦA CNH-HĐH Ở VIỆT NAM 1- Nội dung cơ bản của CNH-HĐH. 2- Những nội dung cụ thể của CNH-HĐH ở nước ta trong những năm trước mắt. IV - NHỮNG TIỀN ĐỀ THỰC HIỆN THẮNG LỢI SỰ NGHIỆP CNH-HĐH 1- Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. 2 – Đào tạo nguồn nhân lực 3 – Phát triển khoa học và công nghệ 4 – Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại 5 – Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. V – CNH - HĐH HOÀ NHẬP CHỨ KHÔNG HOÀ TAN 1- CNH – HĐH và việc giữ gìn bản sắc dân tộc. 2 – Vai trò quản lý của Nhà nước. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12096.doc
Tài liệu liên quan