Đề tài Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tại nước ta hiện nay

Thực tế đã cho thấy với một nguồn tài nguyên diều kiện thiên nhiên khắc nghiệt nhưng Nhật Bản đã vươn lên băng CNH-HĐH và ý chí con người, hiện nay họ đang dứng trong 7 nước công nghiệp hàng đầu thé giới. Với thực trạng tình hình giáo dục đào tạo của nước ta hiện nay em cho răng còn thiên về số lượng, chất lượng chưa cao đồng đều, sinh viên được đào tạo ra có lý thuyết nhưng khả năng vận dụng kém, không linh hoạt. Vi vậy theo em , ngoài việc phổ cập giáo dục cần phải tiến hành cải tiến chương trình giáo dục để nâng cao khả năng ứng dụng, tính năng động của đội ngũ tri thức trẻ, tăng giờ thực hành, giờ thực tế. làm cho đội ngũ tri thức trẻ kế thừa và thực hiện ý tưởng của đảng trong công cuộc CNH-HĐh đất nước. Thứ nữa là phát huy lợi thế về vị trí địa ly để mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh teed chính trị, thông thương với nước ngoài nhanh chóng, tiếp thu công nghệ mới.

doc30 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 933 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tại nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dộ lên CNXH,trong diêu kiện cơ sở vật chất- kỹ thuật còn ở trình đọ thấp kém, công cụ lao động thô sơ, cơ cấu kinh tế dựa trên nông nghiệp là chủ yếu, đa số dan cư sống bằng nghề nông nghiệp, cơ cấu nghành nghề trong nông nghiệp cũng đơn giản – cơ bản là độc canh lúa nước. Nền sản xuất vật chất của xã hội dựa trên sản xuất nhỏ là chủ yếu và mang nặng tính tự cấp tự túc, tỷ xuất hàng hoá trong nên kinh tế tế thấp. Trong đIêu kiện chiến tranh ác liệt, nền kinh tế với cơ sở vật chất – kỹ thuật nói trên khó tồn tại và phát triển bình thường. Cho năm 1990, công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 22,6% thu nhập quốc dân. Thu nhập bình quân đầu người là nước thuộc nhóm nghèo nhất thế giới và có nguy cơ tụt hậu xa hơn. Từ tình hình nói trên. nếu không có sự thay đổi và phát triển thì nền kinh tế không thể tăng trưởng nhanh, đất nước không thể vượt qua tình trạng nghèo nàn và kém phát triển. Vì vậy , con đường tất yếu để ta thoát khỏi tình trạng đó là phảI tiến hành CNH-HĐH . Bên cạnh yêu cầu thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của xã hội mới là dân giàu nước mạnh ,xa hội công bằng văn minh, sự nghiệp CNH- HĐH đất nước ở nước ta con do yêu cầu của sự phát triển kinh tế hàng hoá quyết định. Sản phẩm của nền sản xuất xã hội không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội nói chung, mà chúng còn phảI được đem bán, chúng phảI có khả năng cạnh tranh trên thị trường , có khả năng giữ vững và mở rộng thị trường .v.v. Dop vậy, các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phảI được sản xuất dựa trên môt nền tảng vững chắc của cơ sơ vât chất –kỹ thuật hiên dại một cơ cáu lành nghề linh hoạt,hợp lý ,chi phí trên một dơn vi sản phẩm ở mức thấp nhât .Phân công lao dộng ở trình dộ cao, kỹ thuật hiện đại, tạo ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường, khả năng thu lợi nhuận lớn, tăng khả năng tích luỹ cho nèn kinh tế vầ tham gia vào quan hệ kinh tế quốc tế ở mưc độ cao hơn.Từ đó lại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển hơn nữa. Ngoài những cơ sở kinh tế đã nêu trên, sự nghiệp CNH đất nước ở nước ta còn do yêu cầu bảo vệ tổ quốc, tăng cường tiềm lực quốc phòng của quốc gia chi phối. Sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế ở mỗi nước luôn đi đôi với sự nghiệp bảo vệ, giữ gìn những thành quả mọi mặt đã đạt được. Trong tình hình phức tạp của bầu không khí chính trị kinh tế hiện nay, các lực lượng phản động trong nước và ngoài nước luôn tìm mọi cách để cản trở, phá hoại sự nghiệp phát triển kinh tế nói riêng và sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta nói chung. Vì vậy chúng ta luôn phảI tăng cường, củng cố, hiện đại hoá lực lượng quốc phòng để nó trở thành lực lượng hùng mạnh, có khả năng bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN, để cùng chung sức với các dân tộc bảo vệ nền hoà bình thế giới, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Hiện đại hoá quốc phòng, tăng sức mạnh vật chất – kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, dành thế chủ động trong mọi biến động chính trị.. chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền công nghiệp hiện đại và một nền kinh tế phát triển mạnh vững chắc. Tóm lại tính tất yếu khách quan của CNH- HDH được bắt nguồn từ yêu cầu của sự phát triển kinh tế, chính trị xã hội, yêu cầu củng cố an ninh quốc phòng và yêu cầu của việc mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoàI của đất nước. Tác dụng của CNH- HDH Việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước có tác dụng về nhiều mặt. CNH- HDH, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại và cơ cấu kinh tế mới tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người với thiên nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế, do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân; góp phần quyết định tới thắng lợi cuả xã hội mới của nước ta. CNH- HĐH tạo đIều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ cuả đất nước và tạo công ăn việc làm cho người lao động. - Mỗi bước phát triển mới của cơ sở vật chất- kỹ thuật do quá trình công nghiệp hoă đem lại sẽ tạo ra những đIều kiện mới cho việc xây dựng nền văn hoá mới, thủ tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội, tạo thuận lợi cho sự phát triển tự do toàn diện của con người- nhân tố trung tâm của thời đại, đưa đất nước đến trình độ văn minh cao hơn. CNH- HĐH góp phần cung cấp và đảm bảo cho quốc phòng cac yếu tố vật chất- kỹ thuật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh, chủ quyền cuả đất nước. CNH- HĐH tạo nhiều khả năng cho nước ta trong việc tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế, do đó tận dụng được sức mạnh trong nước và sức mạnh kinh tế quốc tế. Chính vì những tác dụng to lớn, tích cực, toàn diện đã nêu trên, từ đại hội III dến nay, Đảng ta luôn khẳng định vị trí hết sức quan trọng của CNH- HĐH trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta. Đồng thời, qua mỗi lần đại hội, Đảng ta lại nhận thức sâu thêm và cụ thể hoá thêm nhiệm vụ này cho thích hợp với đIều kiện và hoàn cảnh của đất nước ta trong những thời kỳ. Trong hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đại Hội VII, Đảng ta còn nêu rõ:” Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. CNH- HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng XHCN” II. Nội dung cơ bản của sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta trong các thời kỳ 1. Những yếu tố chủ yếu tác động đến sự nghiệp công nghiệp hoá ở nước ta Sự nghiệp CNH-HĐH đất nước từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc chiụ tác động của nhiều yếu tố : khách quan, chủ quan,bên trong, bên ngoài , kinh tế,chinh trị xã hội, khoa học công nghệ v. .v. Các yếu tố trên diễn ra trong từng thời kỳ , với tưng quốc gia có khác nhau . Để thuận lợi trong nghiên cứu, người ta thường khái quát thành hai loại: yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài Các yếu tố bên trong bao gồm: tièm năng kinh tế tự nhiên của quốc gia(vị trí địa ly, nguồn tài nguyên , khoáng sản trên ,trong lòng đất, tài nguyên rừng, nguồn đọng vật cùng các nguồn thuỷ hải sản v.v.) tiềm năng kinh tế –xã hội (lực lượng lao động,truyền thống văn hoá , lịch sử, các nghề thủ công truyền thống cuả dân tộc ... năng lượng định hướng lãnh đạo của Đảng cầm quyền cùng sự điêu tiết của nhà nước . Các yếu tố bên ngoài bao gồm: các thành tựu khoa học- công nghệ thế giới, đường lối đối ngoại của các quốc gia, tất cả những thành tựu cũng như những xu hướng biến động của nền kinh tế toàn cầu. Cả yếu tố bên trong lẫn yếu tố bên ngoài đều là điều kiện phát triển kinh tế nói chung, đồng thời cũng là những điều kiện quyết định nội dung CNH- HĐH nói riêng của mỗi quốc gia. Hai yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến nội dung của công nghiệp hoá là cách mạng khoa học kỹ thuật và quan hệ kinh tế quốc tế. Về cách mạng khoa học kỹ thuật, đây là yếu tố tác động sâu sắc đến nhiều mặt trong đời sống kinh tế, xã hội của các nước, là yếu tố chủ yếu đưa nền văn minh nhân loại từ trình độ thấp lên trình độ cao và do đó nó có tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến sự nghiệp CNH- HĐH ở các nước chậm phát triển. Cho đến nay, trong lịch sử đã diễn ra ba cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật vĩ đại và mỗi cuộc cách mạng đó có đặc trưng cơ bản riêng. Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất ( cách mạng công nghiệp) diễn ra ở Anh bắt đầu những năm 60 của thế kỷ XVIII và kết thúc vào năm 1820. Nội dung cơ bản của nó là biến lao động thủ công thành lao động cơ khí, trong đó về năng lượng đặc trưng là việc sử dụng máy hơi nước. Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 2 diễn ra từ nửa sau thế kỷ XIX. Nội dung và đặc trưng cơ bản của nó là phát minh và ứng dụng rộng rãi động cơ đốt trong và điện năng. Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ba được gọi là cách mạng khoa học- công nghệ bởi những phát minh khoa học đều trực tiếp dẫn đến hình thành các nguyên lý công nghệ sản xuất chứ không chỉ dừng lại ở công cụ sản xuất như các thời kỳ trước. Cách mạng khoa học- công nghệ có nhiều nội dung. Về quy mô và dung lượng tri thức, các nhà khoa học đã đánh giá chúng phát triển theo cấp số nhân. Nhưng ở đây chỉ đề cập đến những nội dung có liên quan đến các kỹ thuật, công nghệ đang có triển vọng nhất hiện nay. Đó là: kỹ thuật điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học và công nghệ vũ trụ. Kỹ thuật điện tử: thành tựu nổi bật của kỹ thuật điện tử là việc phát minh và sử dụng rộng rãi máy tính điện tử. Trong thời gian ngắn máy tính điện tử đã trải qua bốn thế hệ, thế hệ thứ năm chuẩn bị ra đời với khả năng có thể giải hàng trăm tỷ phép tính trong một giây. Hiện tại máy tính không chỉ để tính toán mà là phương tiện cho hầu như tất cả các hoạt động của con người và là cơ sở thiết yếu của công nghệ thông tin hiện đại. Công nghệ thông tin: là lĩnh vực công nghệ phát triển nhanh nhất, thúc đẩy quá trình chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin. Những bước phát triển nhảy vọt của công nghệ thông tin gắn liền với sự hoàn thiện của máy tính. Một bước nhảy vọt trong công nghệ thông tin những năm gần đây là sự ra đời của mạng máy tính. Từ cuối những năm 1980 đến đầu những năm 1990 mạng máy tính phát triển, nối mọi nơi trên thế giới, làm hình thành siêu xa lộ thông tin và internet. Công nghệ vật liệu mới: được hình thành bằng việc sử dụng phương pháp khoa học để chế tạo vật liệu thay thế cho vật liệu tự nhiên. Nhiếu loại vật liệu mới với những ưu điểm đặc biệt đã ra đời Công nghệ sinh học: đang được dự kiến là công nghệ hàng đầu khi bước vào thế kỷ XXI. Trong đó những bộ phận đang được nghiên cứu và ứng dụng nhiều nhất là: Gen ( hay công nghệ di truyền); công nghệ dung hợp tế bào ( tổng hợp tế bào từ những tế bào sinh vật có tính di truyền khác nhau); công nghệ gây men ( công nghệ phản ứng sinh vật). Trong đó thành công lớn nhất của các nhà khoa học là đã vẽ được bản đồ gen của con người vào những ngày đầu của thế kỷ XXI. - Công nghệ vũ trụ: bao gồm việc nghiên cứu chế tạo các thiết bị máy móc cho việc bay vào vũ trụ( như vệ tinh nhân tạo, phi thuyền trở người, phi thuyền đóng tên lửa) và đang dự kiến lợi dụng những điều kiện đặc biệt của khoảng không vũ trụ ( vô trùng, trọng lực cực nhỏ..) để chế tạo những sản phẩm mới ( như dược phẩm có độ sạch cao..). Trong các nước phát triển hiện nay, cách mạng khoa học- công nghệ đang diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và có tác động rất to lớn. Tác động cơ bản nhất là làm thay đổi cơ cấu các ngành kinh tế ở các nước phát triển.Nó thể hiện trên nhiều mặt. Nó làm thay đổi tỷ lệ giữa ba ngành lớn ( công nghiệp,nông nghiệp, dịch vụ). Ngành thứ nhất không ngừng thu nhỏ lại, tỷ lệ ngành thứ hai lúc đầu mở rộng sau đó thu nhỏ, ngành thứ ba không ngừng mở rộng. Nó làm thay đổi cơ cấu nội bộ từng ngành lớn ví dụ như ở ngành dịch vụ các ngành phục vụ truyền thống như ngân hàng, bảo hiểm, ăn uống.. không ngừng được mở rộng; các nghề tư vấn, thiết kế.. đang có xu hướng tăng lên; các ngành phục vụ cho phát triển đới sống hiện đại như y tế, giáo dục, du lịch.. phát triển tương đối nhanh. Đặc biệt công nghệ cao đang hiện đại hoá các ngành sản xuất và dịch vụ truyền thống tạo ra những ngành nghề mới, giá trị tăng cao, thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu hướng về kinh tế tri thức. Từ làm thay đổi cơ cấu ngành nghề cách mạng khoa học- công nghệ còn làm thay đổi cơ cấu sản phẩm trong điều kiện khoa học- kỹ thuật mới là làm giảm vật tư, giảm năng lượng, giảm không gian và giảm lao động. Nó còn làm thay đổi chế độ, cách thức sản xuất ra sản phẩm. Sản xuất tập trung, quy mô lớn, sản xuất hàng loạt và chủng loại ít được thay thế bằng sản xuất phi tập trung, quy mô nhỏ, khối lượng nhỏ, chủng loại nhiều. Cách mạng khoa học- công nghệ còn tác động đến yếu tố chủ thể của nền sản xuất xã hội là người lao đông. Người lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ mới, đòi hỏi phải có nhiều kỹ năng và trí tuệ hơn. Do đó chi phí đào tạo tay nghề cho ngưòi lao động cao hơn trước. Không những thế công nghệ- kỹ thuật mới còn làm thay đổi cơ cấu lao động. Nghành thứ ba phát triển đã tạo cơ hội kiếm việc làm cho nhiều người lao động dôi ra trong các ngành khác và số lao động mới của xã hội. Ngoài ra cách mạng khoa học- công nghệ trong các nước phát triển còn làm thay đổi việc phân bố địa bàn sản xuất: Một mặt nó tạo điều kiện mở rộng phạm vi không gian, phân bố địa bàn hoạt động sản xuất; mặt khác nó hạn chế tác động của hoàn cảnh tự nhiên đối với việc bổ trí lực lượng sản xuất trong nền kinh tế. Tác động chung nhất của cách mạng khoa học- công nghệ trong các quốc gia phát triển là nó làm tăng năng suất lao động xã hội ở các nước tăng lên rất cao. Thêm nữa, cuộc cách mạng này đã tạo cho mọi quốc gia những cơ hội để phát triển. Như ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường.. thuộc về các nước phát triển. Vì thế các nước chậm phát triển đang đứng trước những thách thức to lớn. Khoảng cách chênh lệch giàu- nghèo giữa các nước ngày càng mở rộng, cạnh tranh kinh tế diễn ra ngày càng gay gắt. Về quan hệ kinh tế quốc tế trong những năm gần đây kinh tế hàng hoá đã phát triển vượt khỏi phạm vi quốc gia và mở rộng ra phạm vi quốc tế. Sự phát triển của kinh tế hàng hoá đến trình độ cao- kinh tế thị trường đã làm cho thị trường thế giới phát triển cả về chiều rộng lẫn chiếu sâu. Từ đó, thị trường thế giới và kinh tế hàng hoá đà thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động quốc tế và sự hợp tác quốc tế cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia cũng tăng lên.Mức độ và phạm vi của quan hệ kinh tế quốc tế đã phát triển chưa từng thấy trong những năm gần đây. Việc tham gia và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế có tác động nhiều mặt đến quá trình phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hoá nói riêng của các quốc gia. Sự tác động đó bao gồm cả tác động tích cực lấn tiêu cực, song tác động tích cực là chủ yếu. Quan hệ kinh tế quốc tế tạo khả năng to lớn để nước ta có thể tiếp cận những thành tựu vĩ đại của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, thu hút thêm các nguồn vốn bên ngoài, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lí của các nước đi trước trên con đường công nghiệp hoá đất nước. Nó cũng giúp chung ta tiếp nhận sự giúp đỡ của bạn bè năm châu, giải quyết những khó khăn mà khả năng đất nước bị hạn chế, sử dụng có hiệu quả hơn những nguồn lực bên trong vốn có của đất nước mình. Về yếu tố bên trong: Nếu như các yếu tố bên ngoài là cách mạng khoa học- kỹ thuật và quan hệ kinh tế quốc tế tác động mạnh hơn đến yếu tố kỹ thuật, công nghệ trong quá trình CNH- HĐH đất nước thì yếu tố bên trong đặc biệt là các tiềm năng kinh tế- các lợi thế so sánh của Việt Nam lại có tác động nhiều hơn đến cơ cấu ngành nghề trong quá trình CNH- HĐH ở nước này Dù kỹ thuật hiện đại hay thô sơ thì Việt Nam vẫn phải phát triển kinh tế và thực hiện CNH- HĐH đất nước trên cơ sở những tiềm năng kinh tế của mình. Song các yếu tố bên ngoài sẽ có tác động rất tích cực đến việc sử dụng các tiềm năng, các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả và nhanh chóng rút ngắn về trình độ phát triển với các nước khác trên thế giới. + Về vị trí địa lý, Việt Nam nằm ở phía đông bàn đảo Đông Dương và là quốc gia ven biển. Như vậy, Việt Nam ở gần các tuyến đường biển quan trọng và là nơi có các tuyến đường hàng không đi qua hoặc kề cận lãnh thổ. Đây là một ưu thế của Việt Nam so với một số nước khác như Lào, Campuchia.. .. Đường biển dài đã tạo cơ hội cho ngành giao thông vận tải của Việt Nam phát triển. Bên cạnh nó các hoạt động kinh tế khai thác các tiềm năng của biển như: đánh bắt, nuôi trồng thuỷ, hải sản, khai thác tài nguyên thiên nhiên vùng thềm lục địa, du lịch biển có điều kiện phát triển. + Về tài nguyên thiên nhiên, đất đai là một loại tài nguyên quan trọng ở Việt Nam. Số lượng 7 ha đất trồng trọt cùng với khí hậu nhiệt đới, gió mùa, độ ẩm cao tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành nông, lâm nghiệp phát triển. Tuy vậy, khí hậu của Việt Nam cũng có mặt khắc nghiệt, gây ra biến cố như bão, lũ lụt, hạn hán.. làm ảnh hưởng sâu sắc lên mọi hoạt động kinh tế. Riêng về khoáng sản, tài nguyên khoáng sản của Việt Nam không giàu nhưng phong phú. ở Việt Nam hiện đã phát hiện khoảng 100 loại quặng kim loại và phi kim loại. Tiềm năng này cho phép phát triển các cơ sở khai khoáng, chế biến và tinh chế rất lớn. Tuy vậy, cùng với tình trạng chưa phát triển của cơ sở hạ tầng, nhiều mỏ khoáng sản lại nằm ở các vùng heo hút, hiểm trở của đất nước. Điều đó cũng gây không ít khó khăn cho việc khai thác và vận chuyển trong quá trình sản xuất- kinh doanh. + Về nguồn nhân lực, Việt Nam là nước đông dân, bước vào thế kỷ XXI dân số Việt Nam có trên 80 triệu người(đông dân thứ 2 ở các nước Đông Nam á và thứ 13 trong số 216 quốc gia trên thế giới). Như vậy, Việt Nam có khoảng 40 triệu lao động tỷ lệ lao động trẻ cao, và chủ yếu tập trung ở các thành phố. Cho đến cuối thập kỷ 90, lao động trình độ thấp vẫn chiếm tỷ lệ cao( khoảng trên 80%) . Tình hình nguồn nhân lực nói trên có thuận lợi cho phát triển nhiều ngành kinh tế mới. Đặc biệt lao động trẻ có khả năng tiếp thu công nghệ mới nhanh. Tuy vậy, chính dân số đông cũng gây khó khăn cho vấn đề cải thiện mức sống, đặc biệt yêu cầu mở rộng thị trường lao động để giải quyết vấn đề việc làm trong khi tiềm năng về vốn của đất nước rất hạn chế. Các tiềm năng kinh tế nói trên có ảnh hưởng rất sâu sắc đến việc lựa chọn cơ cấu các ngành công nghiệp ở Việt Nam trong các giai đoạn phát triển. Đặc biệt việc lựa chọn cơ cấu ngành nghề trong thời kỳ đầu của quá trình CNH- HĐH. 2. Nội dung cơ bản của CNH- HĐH trong thời kỳ quá độ ở nước ta Với trình độ kinh tế- xã hội ở điểm xuất phát của quá trình xây dựng xã hội mới cũng như tại thời điểm hiện nay còn thấp kém, với điều kiện bên trong, bên ngoài có nhiều phức tạp, khó khăn, qua tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước sự nghiệp CNH- HDDH đất nước ở Việt Nam phải tiến hành trong một quá trình lâu dài. Quá trình đó gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn đều phải giải quyết các vấn đề liên quan đến 2 nội dung cơ bản, đó là kỹ thuật (công nghệ) và cơ cấu ngành nghề. Song ở giai đoạn đầu, do điều kiện thiếu vốn nghiêm trọng và do sức ép của vấn đề bức xúc là giải quyết việc làm nên nội dung công nghiệp hoá tập trung vào phát triển những ngành nghề thu hút nhiều lao dộng để tạo ra tổng sản phẩm xã hội và giá trị hàng hoá cao hơn. ở các giai đoạn sau, xét riêng về mặt kỹ thuật- công nghệ thì càng rút ngắn thời gian để tiếp thu những thành tựu khoa học- công nghệ mới nhất của nhân loại, càng tiến gần tới đích thành công của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước Quá trình CNH- HĐH trong thời kỳ quá độ ở nước ta phải giải quyết hai nội dung sau: Một là: Tiến hành cách mạng khoa học- kỹ thuật để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật mới. Trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay, kỹ thuật thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, do đó về mặt kỹ thuật- công nghệ phải tiến hành cách mạng khoa học- kỹ thuật. Thực chất của cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật ở nước ta có nội dung bao hàm của cả ba cuộc cách mạng kỹ thuật mà thế giới đã trải qua. Cách mạng khoa học- kỹ thuật ở nước ta là một quá trình không thể thực hiện trong một thời gian ngắn, hay kết thúc ở ngay chặng đường đầu tiên. Bởi quá trình đó sẽ thực hiện đổi mới về kỹ thuật- công nghệ. Do những điều kiện đặc thù của Việt Nam, nên sự đổi mới về kỹ thuật- công nghệ sẽ mang các tính chất sau: một mặt, sự đổi mới về kỹ thuật công nghệ sẽ được tiến hành tuần tự từ trình độ kỹ thuật thủ công qua các trình độ cao hơn( như kỹ thuật cơ khí) và tiến tới áp dụng công nghệ hiện đại nhất; mặt khác, sự đổi mới tiến hành có tính nhảy vọt, cách quãng trong những trường hợp nhất định đối với từng bộ phận của nền kinh tế. Tức là, trong một số cơ sở và một số lĩnh vực nếu có đủ điều kiện, có thể áp dụng ngay kỹ thuật tiên tiến nhất, hiện đại nhất, bỏ qua các trình độ kỹ thuật trung gian. Hai là: xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí: Cơ cấu kinh tế- kỹ thuật là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực và các vùng kinh tế. Tính chất hợp lí của một cơ cấu kinh tế- kỹ thuật phải bao gồm những vấn đề cơ bản sau: - Phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật khách quan,trước hết là quy luật kinh tế. Phù hợp với xu hướng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. - Cho phép khai thác tốt các tiềm năng của đất nước, tiềm năng của ngành, của doanh nghiệp ở cả chiều rộng lẫn chièu sâu. - Cơ cấu ngành nghề trong quá trình hoạt động phải bổ sung cho nhau, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh. Cho phép khai thác các tiềm năng của đất nước trong tương quan giữa yêu cầu phát triển kinh tế hiện tại với yêu cầu phát triển kinh tế trong tương lai( cơ cấu kinh tế của các giai đoạn cũng bổ sung cho nhau- cơ cấu kinh tế của giai đoạn trước phải tạo đà cho cơ cấu kinh tế ở giai đoạn sau) - Cơ cấu kinh tế- kỹ thuật xây dựng trên cơ sở kinh tế hàng hoá và sự quốc tế hoá đới sống kinh tế, đó là cơ cấu kinh tế”mở”. Nội dung CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010 a. Một số kết quả thực hiện CNH- HĐH đất nước giai đoạn 1991- 2000 Để đánh giá được một cách tương đối sác thực cả về thành tựu cũng như những khiếm khuyết của công cuộc CNH- HĐH đất nước trong thập kỷ 90, trước hết cần đề cập những nội dung chủ yếu của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước ở giai đoạn này. Trước hết về kỹ thuật- công nghệ: trong điều kiện năng lực tích lũy vốn của nền kinh tế thấp, trình độ quản lý, trình độ của người lao động còn hạn chế, vấn đề việc làm vẫn mang tính bức súc. Việc đổi mới kỹ thuật- công nghệ được thực hiện theo phương châm: kết hợp công nghệ nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn- tiên tiến, lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện. Về cơ cấu ngành nghề: - Phát triển nông- lâm- ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và các ngành kết cấu hạ tầng dịch vụ cho nông nghiệp - Tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, mở rộng kinh tế dịch vụ thành ngành kinh tế quan trọng theo hướng khai thác triệt để các khả năng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng suất khẩu. - Phát triển công nghiệp khai thác, trong đó đẩy mạnh việc thăm dò khai thác dầu khí và một số loại khoáng sản. Phát triển có lựa chọn một số ngánh sản xuất tư liệu sản xuất: hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng và một số bộ phận thuộc kết cấu hạ tầng của nển kinh tế (sân bay, bến cảng, kho tàng..). Phat huy năng lực khoa học trong nước và tranh thủ sự hợp tác quốc tế để phát triển ngành công nghiệp điện tử và tin học Xây dựng và phát triển các vùng kinh tế điển hình, từ đó hình thành các vùng kinh tế chuyên môn hoá. Với những nội dung cụ thể đặt ra như trên, sự nghiệp CNH- HĐH đất nước giai đoạn 1991- 2000 đã đạt được những thành tựu lớn như sau: Thành tựu nổi bật nhất đó là công nghiệp Việt Nam đã đạt được bước phát triển vượt trội so với các giai đoạn trước. Từ năm 1991 đến 1998, mức tăng trung bình hàng năm là 13%, riêng giai đoạn 1991- 1995 là 13,7%. Trong khi đó giai đoạn 1976- 1980, mức tăng trung bình hàng năm của công nghiệp Việt Nam là 0.6%, giai đoạn 1986- 1990 là 6.1%. Nếu tính riêng, một số ngành có mức tăng trung bình hàng năm trong giai đoạn 1990- 1998 rất cao. Ví dụ, thép cuộn: 30.5%, ắc quy và pin: 30%, dầu thô:21.1%. Sự phát triển của khu vực công nghiệp đã làm tăng tỷ phấn công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Năm 1990, công nghiệp chiếm 18.8% GDP, năm 2000, tỷ lệ trên là 34%. Ngoài ra, công nghiệp phát triển đã có tác động rất lớn đến sự phát triển các ngành khác. Về cơ cấu ngành có sự thay đổi đáng kể, một số cơ sở thuộc các ngành công nghệ cao đã hình thành trong nền kinh tế, các ngành kinh tế chủ chốt như khai thác dầu mỏ, thép, dệt may, giày dép phát triển mạnh,khu vực dich vụ nhờ sự phát triển của công nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Nhiều khu công nghiệp và khu chế xuất được xây dựng. Những sự phát triển nói trên đã làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế, trình độ kỹ thuật của nền kinh tế đã có nhiều tiến bộ. Nền công nghiệp Việt Nam đã bước đầu phát triển theo hướng hội nhập quốc tế, năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Điều đó thể hiện công nghiệp Việt Nam đã dần chiếm lại thị phần trong nước và mở rộng xuất khẩu ra nước ngoài. Giá trị xuất khẩu của một số mặt hàng công nghiệp giai đoạn 1991- 1998 tăng rất nhanh. Ví dụ, hàng điện tử tăng 480 lần, than đá tăng 100 lần, giày dép tăng 91.4 lần, hàng dệt may tăng 8.5 lần, dầu thô tăng 2.15 lần. Những số liệu và tình hình nêu trên cho thấy kết quả thực hiện nội dung CNH- HĐH đất nước trong thập kỷ 90 là cao. Những thành tựu đó có dược do nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân quyết định hàng đầu là do tác động của cơ chế quản lý mới (tuy chưa hoàn thiện) và những nỗ lực thu hút và tập trung vốn để phát triển công nghiệp. Tổng vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp giai đoạn 1991- 1998 khoảng 52000 tỉ VNĐ, chiếm 45% tổng vốn đầu tư trong nước. Trong giai đoạn 1990- 1991 là 78%. Các khoản vay ưu đãi của chính phủ cũng giành cho phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm. Tới tháng 10 năm 1998, có 11.3 tỷ UUSSDD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào công nghiệp. Bên cạnh những thành tựu, công nghiệp Việt Nam vẫn còn những điểm yếu, có thể kể như: Trình độ kỹ thuật- công nghệ của nhiều cơ sở công nghiệp Việt Nam vẫn ở trình độ thấp. Đánh giá chung, trình độ kỹ thuật- công nghệ Việt Nam chậm hơn các nước công nghiệp từ 2 đến 3 thế hệ. Công nghệ cấp thấp, lỗi thời chiếm 60 đến 70%, trong khi công nghệ hiện đại chỉ chiếm 30 đến 40%. Do vậy mức tiêu hao năng lượng trên đơn vị sản phẩm lớn (gấp 1.2 đến 1.5 lần so với các nước khác trong khu vực), sản phẩm chất lượng kém, chủng loại đơn điệu và năng lực cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Thiếu vốn, thiếu đầu vào trung gian. Do thiếu đầu vào, để hoạt động các cơ sở công nghiệp phải nhập khẩu sản phẩm sơ chế hoặc bán thành phẩm, nhưng việc nhập khẩu lại có khó khăn về tài chính. Trong khi đó nhiều nguồn trong nước vẫn chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Hạn chế về năng lực chuyên môn và quản lý trong nguồn nhân lực để thực hiện công nghiệp hoá đất nước theo hướng hội nhập và hiện đại hoá nền kinh tế quốc gia. Những bất cập về thể chế, chính sách quản lý của nhà nước. Năng lực cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt Nam thấp và sự hạn chế về thị trường tiêu thụ. Những vấn đề nêu trên đang cần tìm lời giải ở sự nghiệp CNH- HĐH trong thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ mới của nước ta Nội dung CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010 Sự nghiệp CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010 nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội mười năm, đó là:” Đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt chất lượng đới sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân.Tạo nền tảng của đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường vững chắc. Thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản. Vị thế nước ta trong quan hệ quốc tế được củng cố và nâng cao” Từ những thành tựu và tồn đọng của giai đoạn trước, để thực hiện những mục tiêu nói trên, sự nghiệp CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010 có những nội dung như sau: Về kỹ thuật- công nghệ: tiếp tục thực hiện phương châm kết hợp công nghệ nhiểu trình độ. Song hiện nay trình độ kỹ thuật- công nghệ trong nền kinh tế đã được nâng cao hơn một bước so với trước nên việc giải quyết vấn đề kỹ thuật- công nghệ giai đoạn hiện nay là nhằm tập trung cơ hội để đạt được trình độ công nghệ hiện đại. Trên cơ sở đó báo cáo chính trị của Đại Hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã xác định: “ Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa áp dụng công nghệ tiến bộ, đi nhanh về một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao” Về cơ cấu ngành, cơ cấu vùng: tiếp tục khai thác những mặt tích cực của cơ cấu kinh tế- kỹ thuật giai đoạn 1991- 2000. Cơ cấu kinh tế kinh tế- ký thuật của Việt Nam trong giai đoạn mới được định hướng thay đổi theo hướng phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tỷ trọng khu vực dịch vụ và công nghiệp tăng lên, tỷ trọng khu vực nông nghiệp sẽ giăm xuống. Để trở thành quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020, dự kiến vào năm 2010, công nghiệp Việt Nam sẽ chiếm 37- 38% GDP và 40- 41% vào năm 2020. Đặc biệt cơ cấu kinh tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên cả thị trường trong nước và ngoài nước. Về chi tiết có những điểm đáng chú ý như sau: - Phát triển mạnh công nghiệp chế biến (nông sản, thuỷ sản), các ngành may mặc, da giày. - Tập trung phát triển một số lĩnh vực công nghệ cao: công nghệ thông tin, phần mềm. - Xây dựng có chon lọc một số cơ sở công nghiệp nặng then chốt như: năng lương, hoá chất, luyện kim, cơ khí. - Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, hàng không, bưu chính- viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng...Đặc biệt sớm phổ cập sử dụng tin học và internet trong nền kinh tế và đời sống xã hội. - Tiếp tục xây dựng và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng (giao thông, thông tin, thuỷ lợi, hệ thống cấp thoát nước..) - Phát huy vai trò động lực của các vùng kinh tế trọng diểm,tạo diều kiện cho các vùng khác phát triển,tăng cường mối liên kết giữa các vùng nhằm giải quyết tình trạng kém phát triển ở một số vùng và cả nền kinh tế. III. Những vấn đề cần giải quyết để tiếp tục thực hiện chiến lược CNh- HĐH ở Việt Nam Sự nghiệp CNH- HĐH đất nước để đi đến thành công phụ thuộc vào nhiều vấn đề. 1. Tạo nguồn vốn tích lũy cho CNH- HĐH Quá trình CNH- HĐH, quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật việc phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải cò nhiều vốn. Vốn và sử dụng vốn là vấn đề đặc biệt quan trọng. Không có vốn mà nói đến CNH- HĐH thì chỉ là ảo tưởng. Vấn đề này xuất phát từ việc CNH- HĐH kéo theo sự thay đổi lớn vế số lượng và chất lượng, về cơ cấu ngành sản xuất, nhiều ngành mới xuất hiện nên đòi hỏi phải có vốn đầu tư mới có thể đáp ứng yêu cầu đó. Theo tính toán của các nhà kinh tế thì yêu cầu tích luỹ và đầu tư để công nghiệp hoá phải đạt 20% GNP. Trong khi đó nền kinh tế nước ta đã cho thấy GNP bình quân theo đầu người hiện nay vẫn ở trong nhóm thấp nhất thế giới ( khoảng 200USD/người) và mức tích luỹ mới đạt 8% GNP. Còn đầu tư so với GNP chỉ hơn 10%. Do đó huy động vốn cho CNH- HĐH là một nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời gian tới. Việc tạo nguồn vốn ở nước ta hiện nay có thể dựa vào hai nguồn vốn, đó là: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Trong Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng đã đặt ra vấn đề:” Nguồn vốn trong nước lâ quyết định, vốn từ nước ngoài là quan trọng”. Với nguồn vốn trong nước thì tính quyết định của nó đã được khẳng định bằng kinh nghiệm của rất nhiều nước trên thế giới. Một số nước Châu á cho thấy thời gian đầu của công nghiệp hoá họ phải huy động ở trong nước khoảng 50% đến 80% số vốn cần thiết và phải duy trì trong nhiều năm mức đầu tư trên 30%GDP mới trở thành những” Con Rồng” như hiện nay. Đối với nước ta, huy động nguồn vốn tích luỹ trong nước cấn phải thực hiện mạnh mẽ các biện pháp sau: - Khai thác có hiệu quả các tiềm năng kinh tế của đất nước( lao động, tài nguyên..); phát triển các ngành nghề, sử dụng tối đa công suất của máy móc, thiết bị hiện có, tạo thêm việc làm cho người lao động để tăng sản phẩm cho đất nước trong đó có sản phẩm thặng dư- tiền đề của tích luỹ. - Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế phải được coi là đường lối chiến lược, nhất quán được thể chế hoá bằng pháp luật để mọi cá nhân, mọi tổ chức có vốn yên tâm mạnh dạn bỏ vốn đầu tư cho sản xuất- kinh doanh. - Huy động nguồn vốn trong nhân dân: qua kết quả điều tra xã hội học vào năm 1994 nguồn vốn trong dân ước tính gần 20 triệu cây vàng và 2 nghìn tỷ đồng tiền mặt. Để thu hut nguồn tiền nhàn rỗi này phục vụ cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, cần mạnh dạn sử dụng các công cụ như cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước, các hình thức tiền gửi và cho vay với các mức lãi suất phù hợp. - Thực hiện tốt chính sách tiết kiệm. Khái niệm tiết kiệm cần được hiểu là tiết kiệm cả trong sản xuất và tiết kiệm trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, có thể thực hiện tiết kiệm bằng việc khắc phục những phong tục, tập quán lạc hậu; hạn chế những lãng phí từ khâu lập dự án, thiết kế, thi công cũng như trong suốt quá trình hoạt động của các cơ sở kinh tế; chống những thất thoát trong quản lý kinh tế- xã hội bằng cách nâng cao năng lực quản lý và đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả; tiết kiệm của cải nhờ tái chế, chắt lọc các đồ thừa, phế thải.. Tăng tỷ lệ vốn ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển kinh tế. Muốn vậy phải thực hiện đổi mới hoạt động thu- chi và quản lý ngân sách, trong đó đặc biệt mở rộng diện thu thuế và chống thất thu thuế. Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận thu được từ mọi hoạt động sản xuất- kinh doanh để tái đầu tư Nguồn vốn ngoài nước gồm các khoản đầu tư nước ngoài của các công ty và các doanh nghiệp tư nhân, của chính phủ và các tổ chức quốc tế; các khoản đi vay từ các chủ thể nói trên; các khoản viện trợ, các khoản trợ giúp từ các kiều bào nước ngoài.. Để tăng các nguồn vốn bên ngoài, cần phải giải quyết những vấn đề cơ bản sau: - Thực hiện thu hút vốn bằng nhiều hình thức quan hệ quốc tế( hợp tác về vốn- đầu tư trực tiếp quốc tế và đầu tư gián tiếp, ngoại thương, du lịch dịch vụ, xuất khẩu lao động..) và từ nhiều chủ t hể ( các quốc gia, các tổ chức quốc tế không phân biệt chế độ chính trị, tôn giáo hay sắc tộc ) trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc tế. - Tôn trọng các cam kết quốc tế cũng như thực hiện đúng hạn, đầy đủ các hợp đồng kinh tế quốc tế để tạo ra và giữ gin ưu tín trong quan hệ quốc tế - Giáo dục lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước, thu hút bà con việt kiều ở nước ngoài hướng về tổ quốc và giúp đỡ về tinh thần, vật chất, trí tuệ cho sự nghiệp CNH- HĐH nước nhà. Một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng là phải quản lý tốt và sử dụng có hiệu quả cao, chống thất thoát, lãng phí các nguồn vốn, dù đó là nguồn vốn trong nước hay ngoài nước 2. Đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học- công nghệ mới Tăng cường lực lượng nghiên cứu khoa học là vấn đề cần thiết và thường xuyên. Đối với nước ta, lực lượng nghiên cứu khoa học đều thiếu và có nhiều hạn chế Sự nghiệp CNH- HĐH cũng như yêu cầu phát triển tiềm năng khoa học của đất nước, đòi hỏi phải tăng cường lực lượng cho nghiên cứu khoa học và đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới. Để đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học- công nghệ có hiệu quả, cần sử dụng các biện pháp căn bản sau: - Tổ chức và duy trì thường xuyên các phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong mọi tấng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi. Tạo ra một không khí thi đua trong nghiên cứu khoa học làm cho quá trình lao động đồng thời là quá trình tìm tòi sáng tạo những giải pháp kỹ thuật mới. - Thông tin nhanh chóng, chính xác các thành tựu khoa học- kỹ thuật của trong nước và quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu cũng như ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới, nâng cao hiệu quả trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học- kỹ thuật. - Có chính sách và biện pháp khuyến khích đối với những cá nhân có thành tích trong nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo; khuyến khích các cơ sở ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới. - Nhà nước cần dành tỷ lệ ngân sách đầu tư cho nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng những thành tựu khoa học- kỹ thuật mới một cách thích đáng. - Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và khoa học công nghệ 3. Làm tốt công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất Đây là công việc cần thiết, thậm chí phải hoàn thành về cơ bản trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá đất nước. Bởi vì quá trình công nghiệp hoá đất nước đổng thời là quá trình xây dựng những cơ sở kinh tế mới, là quá trình khai thác những tiềm năng để phát triển kinh tế. Công tác điểu tra cơ bản thăm dò địa chất tạo cơ sở cho việc xác định các tiềm năng bên trong của nền kinh tế đất nước. Đánh giá chính xác các nguồn khoáng sản; điều kiện địa chất từng vùng, các nguồn thuỷ sản hải sản; lực lượng lao động; các ngành nghề thủ công truyền thống.. sẽ góp phần hình thành cơ cấu ngành nghề phù hợp với các điều kiện tự nhiên, xã hội của đất nước; bố trí các cơ sở kinh tế hợp lý ở từng vùng, có cơ sở để mở rộng hợp tác mọi mặt với các nước. Để công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất có kết quả chính xác, cần giải quyết các vấn đề cơ bản sau: - Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công nhân làm công tác điều tra cơ bản, công tác thăm dò địa chất. - Tăng cường lực lượng vật chất, kết hợp sử dụng nhiều phương pháp trong công tác điều tra cơ bản và thăm dò dịa chất. - Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, cần tranh thủ sự giúp đỡ cũng như tăng cường hợp tác quốc tế đối với công tác này. 4. Chuẩn bị lực lượng lao động cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Quá trình sản xuất nói chung,đặc biệt là qúa trình phát triển kinh tế, phát triển sản xuất trong đieeuf kiện cách mạng khoa học công nghệ, yếu tố người lao động – yếu tố con người ngày càng có vai trò quan trọng. Nó đóng vai trò quyết định sự thành công của công nghiệp hoá đất nước. Lực lượng lao động cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước bao gồm đội ngũ cán bộ khoa học-kỹ thuật , đội ngũ cán bộ quản lý, cac chuyên gia và đông đảo các công nhân lành nghề. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự phát triển kinh tế- xã hội. Lý luận thực tiễn cho thấy trong quá trình công nghiệp hoá con người luôn đóng vai trò trung tâm và mục đích đầu tiên của sự nghiệp công nghiệp để tạo ra sự tăng trưởng và phát triển cho nền kinh tế. Để có thể tạo ra tốc độ cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia đạt được tốc độ cao khi chúng ta giải quyết tốt và thực hiện đồng bộ cả hai nhân tố của quá trình sản xuất đó. Và những thành tựu của khoa học- kỹ thuật và công nghệ hiện nay đã khẳng định rằng mặt kỹ thuật của các yếu tố tự nhiên của sản xuất ngày càng phức tạp và hiện đại hơn, hơn nữa con người Việt Nam chịu ảnh hưởng lâu dài của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Điều đó sẽ dẫn đến kém sức sáng tạo, trình độ khoa học kỹ thuật thấp, kỹ năng kỹ sảo trong lao động yếu. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta chủ yếu xây dựng mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp, việc tiếp nhận và chuyển giao công nghệ chiếm một vị trí quan trọng dể chúng ta có thể nâng cao năng lực sản xuất hiện tại, theo kịp những tiến bộ của phương thức sản xuất trên thế giới. Như đã nói ở trên yếu tố tự nhiên của sản xuất ngày càng phức tạp tất yếu phải đòi hỏi không ngừng nâng cao trình độ của người công nhân, các cán bộ quản lý để có thể áp dụng những thành tựu đó vào sản xuất. Không những thế cạnh tranh đang buộc chúng ta duy trì khả năng sản xuất đã có và phải cải tạo nó theo hướng nâng cao hiệu quả. Đó là đòi hỏi đảm bảo năng lực nội sinh trong nước, có như vậy mới đứng vững được trong cuộc cạnh tranh quyết liệt hiện nay. Việc này chỉ có thể thực hiện được bởi bản thân những con người Việt Nam mang kinh nghiệm sản xuất, kiến thức khoa học- công nghệ cao. Mỗi giai đoạn của quá trình CNH- HĐH đất nước, lực lượng lao động được chuẩn bị có tỷ lệ tương ứng với ngành nghề đã xác định. Do khoa học- kỹ thuật và cơ cấu ngành nghề thay đổi, cần gắn bó chặt chẽ các quá trình đào tạo- bố trí sử dụng- nâng cao tay nghề một cách thường xuyên Tổng hợp những vấn đề đó, Đảng ta đặt con người vào vị trí trung tâm trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước “ Đẩy mạnh hơn nứa sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người- động lực trực tiếp cho sự phát triển”. Việc xây dựng và đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học- kỹ thuật công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta cần thông qua hệ thống giáo dục đào tạo hoàn chỉnh. Trước hết nhà nước cần đổi mới cơ cấu nội dung chương trình các môn học sao cho phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của khoa học- công nghệ.Đưa sự nghiệp giáo dục đào tạo thành sự nghiệp của toàn dân.Vừa đầu tư theo chiều rộng vừa đầu tư theo chiều sâu. Kết hợp giáo dục mọi mặt cho ngươì lao động với chế độ đãi ngộ thích đáng đối với nhân tài, tạo mọi điều kiện cho người lao động tích cực làm việc, phát huy hết tài năng, tránh tình trạng bị mất chắt xám như các nước đang phát triển trước đây và các nước Đông Âu trong thập kỷ 90. Chỉ trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đó chúng ta mới có thể có được đội ngũ cán bộ khoa học- kỹ thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực. Từng bước đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu mới của công cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trên thế giới đang phát triển như vũ boã hiện nay. 5. Vấn đề xây dựng kết cấu hạ tầng Kết cấu hạ tầng chi phối tất cả các giai đoạn phát triển của nền kinh tế, do đó muốn cho nền kinh tế cất cánh, mỗi quóc gia phải có một cơ sở hạ tầng phù hợp. Ví như Châu Âu, Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2 từ trong hoang tàn đổ nát họ đã thắt lưng buộc bụng, dồn vốn xây dựng đướng xá, sân bay, bến cảng,.. để phục vụ trực tiếp cho phục hồi và phát triển kinh tế. Nước ta, một nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên kết cấu hạ tầng quá thấp kém cả về số lượng lẫn chất lượng, nay bước vào quá trình CNH- HĐH việc xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp phải tiến hành xây dựng hoàn chỉnh đồng loạt các kết cấu hạ tầng. Đặc biệt là cơ sở hạ tầng của ngành giao thông vận tải, .. Giao thông vận tải là cửa mở, là đòn sóc với toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội, thúc đẩy các quá trình giao lưu văn hoá và kinh tế, phát triển và phân phối lực lượng sản xuất trên quy mô toàn lãnh thổ. Là cầu nối để mở rộng giao lưu quốc tế, trước hết là với các nước láng giềng và trong khu vực. Trong sự nghiệp CNH- HĐH hiện nayviệc xây dựng và mở rộng kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải vừa là điều kiện vừa là nội dung cơ bản để tạo cơ sở quan trọng cho sự nghiệp đổi mới nền kinh tế. 6. Vấn đề nâng cao hiệu lực, vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước Quá trình công nghiệp hoá ngày nay không còn tính tự phát như trước đây nó đã từng ở các nước đi trước. Nhà nước đóng vai trò quan trọng không chỉ với chức năng quy định luật lệ làm trọng tài, bảo hộ, khuyến khích hoặc trừng phạt bằng các công cụ hành chính, kinh tế mà Nhà nước còn có thể đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy công nghiệp hoá thông qua các chức năng đầu tư hình thành các cơ sở ban đầu, chia sẻ rủi ro trong các lĩnh vực mới. Chính vì thế, tạo môi trường thuận lợi cho sự nghiệp CNH- HĐH thì các chức năng trên của Nhà nước phải được đảm bảo, tức là phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước thể hiện ở các mặt chính sau đây: + Tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để gắn quá trình công nghiệp hoá đất nước với quá trình công nghiệp hoá thế giới và trong khu vực. + Xây dựng chính sách tiền tệ tài chính đúng đắn đặc quyền cho những hàng thiết yếu đối với sản xuất, tiêu dùng, xuất khẩu thông qua trợ cấp có chọn lọc, thuế quan định ngạch, hỗ trợ giá. + Nghiên cứu quy hoạch, kế hoạch hướng dẫn các nhà đầu tư theo quy hoạch của Chính Phủ chỉ đạo thực hiện các công trình điểm của quốc gia về công nghiệp hoá và phát triển công nghiệp trong từng thời kỳ một cách phù hợp để hình thành nên những “ cực tăng trưởng” của nền kinh tế quốc dân. + Hỗ trợ các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế nâng cao năng lực tiếp thị, nắm bắt thông tin để mở rộng thị trường trong và ngoài nước. + Tạo môi trường luật pháp nhằm duy trì cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế các doanh nghiệp. + Chịu trách nhiệm chính trong công việc đầu tư nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội. V . Vai trò của CNH –HĐH Đặt công nghiệp hoá trong bối cảnh của phát triển kinh tế với nội dung cơ bản là phát triển cơ cấu kinh tế trên cơ sở công nghioệp hiện đại nhằm dẩy mạnh nhịp độ phát triển đồng thời hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Tổ chức phat triển tốt công việc CNH-HĐH mới có khả năng thực tế để quan tâm đầy đủ tới sự phát triển toàn dân và toàn diện của nhân tố con người. Công nghiệp hoá còn tạo vật chất, kỹ thuật cho việc củng cố phát triển tiềm lực phát triển tiềm lực quốc phòng vưng mạnh vì chỉ có phát triển kinh tế mạnh mới ó thể tạo ra cơ sở vật chaat kinh tế cho an ninh quốc phòng phát triển. Mặt khác công nghiệp hoá còn tạo ra nhiều khả năng cho việc thực hiện tót phân công và hợp tác quốc tế khoa học công nghệ tăng cường trọng lượng tiếng nói của ta trên diễn đàn quốc tế Logic và lịch sử đã chưng minh quá trình cải tạo xã hội nhanh nhất đó là CNH . Trên thế giới công nghiệp hoá đã biến đổi nhiều nước từ xãn hội lạc hậu thành nước văn minh, đứng vị trí hàng đầu thế giới .Trong xu hướng phát triển như vũ bão hiện nay của thế giới, công nghiệp hoá ngay càng khẳng định vị trí quan trọng tất yếu của nó ,đặc biệt là động viên các nước đang ở tình trạng kém phát triển thì con đường cải tạo xã hội thông qua công nghiệp hoá là con đường ngắn nhất. Công nghiệp hoá là cuộc cách mạng về lục lượng sản xuất làm thay đỏi căn bản khoa học kinh tế san xuất làm tăng năng xuất lao động. Công nghiệp hoá chính là thực hiện xã hội hoá về mặt kinh tế với tốc độ cao, góp phần ổn định và ngày càng nâng cao dời sống vật chất . Quá trình công nghiệp hóa sẽ giải quyết tốt các nhiệm vụ được giao của sự phát triển kinh tế đó là nâng cao vai trò kinh tế của nhà nước ,nâng cao khả năng tích luỹ ,mở rộng sản xuất, phát triển hiều nghành nghề mới, đáp ứng cac nhu cauviệc làm của người lao động và các mối quan hệ kinh tế giữa các nghành, các vùng và giữa các nước đặt ra . CNH-HĐH là con đường đã chọn mở hướng đi cho chúng ta tiến tới một cái đích cao hơn trong quá trình theo đuổi nền khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến của nước phát triển trên thế giới. Với những bước đi vững chawc đứng đắn chúng ta tin tưởng răng đất nước ta xẽ tiến tới được cái đích đó dể Việt Nam tở thành một trong các cường quốc có nền kinh tế phát triển nhất tronh khu vực Đông Nam á nói riêng và trên thế giới nói riêng. C. Kết luận Một lần nữa chung ta khẳng định lại rằng mục tiêu của quá trinh CNH-HĐH ở nước ta là đưa đất nước từ một nước nônh nghiệp lạc hậu và lối sản xuất nhỏ, thủ công tiến lên một nước công nghiệp với cơ sở vật chất hiện đại, QHSX tiến bộ, phù hợp với sự phat triển của LLSX, các nguồn lực trong và ngoài nước được khai thác sở dụng và phát huy hết tềm năng, tiến tới mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Trong điều kiện nước ta còn nhièu khó khăn, CNH-HĐH không thể thực hiện một sớm một chiều mà đảng ta xác định đây là quá trìng trải qua nhiêu thập kỷ. Hơn 30 năm qua quá trình công nghiệp hoá đất nước tuy chưa làm nên được bước hảy vĩ đại, nhưng đã tạo nên tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá từ nay vê sau. Giai đoan hiên nay là giai đoạn chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật trang bị tri thức cho con người để tiến vào thế ky 21. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 năm1996 đã xác định: “ giai đoạn từ nay đến 2000 là quan trọng thời kỳ phát triển, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng trnh thủ thời cơ, vượt qua thử thách dẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát huy nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm2000 : Tăng trưởng kinh tế nhanh hiệu quả cao và bền vững giải quyết vấn đề bức xúc của xã hội đảm bảo quốc phong an ninh, cải thiện đời sống nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn ở đầu thế kỷ sau. Là sinh viên kinh tế – một chủ nhân tương lai của đất nước trong giai đoạn chuẩn bị hành trang của mình em rất quan tâm đến đường lối chinhd sách đổi mới của đảng, nhà nước về những chiến lược phát triển kinh tế . Theo em, với vị trí trung tâm và vai trò chủ thể của quá trình CNH-HĐH đất nước. Hình thành một lớp người năng động có tri thức, có bản lĩnh kinh doanh, xông xáo dám nghĩ dám làm quả là cần thiết. Thực tế đã cho thấy với một nguồn tài nguyên diều kiện thiên nhiên khắc nghiệt nhưng Nhật Bản đã vươn lên băng CNH-HĐH và ý chí con người, hiện nay họ đang dứng trong 7 nước công nghiệp hàng đầu thé giới. Với thực trạng tình hình giáo dục đào tạo của nước ta hiện nay em cho răng còn thiên về số lượng, chất lượng chưa cao đồng đều, sinh viên được đào tạo ra có lý thuyết nhưng khả năng vận dụng kém, không linh hoạt. Vi vậy theo em , ngoài việc phổ cập giáo dục cần phải tiến hành cải tiến chương trình giáo dục để nâng cao khả năng ứng dụng, tính năng động của đội ngũ tri thức trẻ, tăng giờ thực hành, giờ thực tế.. làm cho đội ngũ tri thức trẻ kế thừa và thực hiện ý tưởng của đảng trong công cuộc CNH-HĐh đất nước. Thứ nữa là phát huy lợi thế về vị trí địa ly để mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh teed chính trị, thông thương với nước ngoài nhanh chóng, tiếp thu công nghệ mới. Thứ3 là: nhà nước cần nâng cao chức năng định hướng, dẫn dắt thực hiện công cuôc CNH-HĐH có định hướng, có công nghệ hiện đại như là một thứ vũ khí- một con người năng độnh có tri thức sẽ đưa đất nước đi lên. Đất nước ta đã và đang tiến lên một cách vững chắc, khẳng định con đường CNH-HĐh đất nước là đúng đắn và khách quan. Mặc dù còn nhiều sai làm và khó khăn nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam, con người Việt Nam sẽ tiếp bước cha anh, ra sức bảo vệ và phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp.Sự nghiệp CNH-HĐH chác chắn sẽ thành công. D. Tài liệu tham khảo 1. Cơ chế thị trường và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam 2. Đề cương bài giảng kinh tế chính trị học Mac –Lênin Đại học luật Hà Nội 3. Định hướng XHCN ơ Việt Nam 4. Giáo trình kinh tế học Mac _Lênin , Nhà xuất bản chính trị quốc gia 5. Kinh tế chính trị học Mac-Lênin 6. Một số vấn đề về chủ nghĩa Mac-Lênin trong thời đại hiên nay- nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 1996 7. Tạp chí quả ly xây dựng nhà nước: các số năm 1996-1997 8. văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ V,VI,VII,VIII 9. Vai trò nhà nước trong phát triển nền kinh tế 10. Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong nên kinh tế thị trường . 11. Về quản lý kinh tế. 12.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI- nhà xuất bản sự thật 13. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX- nhà xuất bản chính trị quốc gia 14. Sự lãnh đạo của đảng trong điều kiện cơ chế thị trường.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9645.doc
Tài liệu liên quan