Đề tài Công tác kế hoạch sản xuất kinh doanh chiến lược sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp

Các doanh nghiệp khi thực hiện hạch toán kinh tế cần quán triệt 4 nguyên tắc sau: Thứ nhất: bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh dựa trên những chính sách và pháp luật Nhà nước: Theo nguyên tắc này doanh nghiệp được quyền tự do mua và bán hàng hoá trên thị trường theo giá cả thị trường, do quan hệ cung- cầu quyết định. Muốn vậy các doanh nghiệp có quyền chủ động tìm hiểu, nghiên cứu để nắm chắc nhu cầu thị trường và ra quyết định đúng đắn về sản xuất như: chủng loại, số lượng, chất lượng sản phẩm và thời gian sản xuất và bán hàng; chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hoá; chủ động tiêu thụ những hàng hoá theo nhu cầu và giá cả thị trường. Nói một cách tổng quát là doanh nghiệp được quyền chủ động quyết định sản xuất cái gì, bằng phương pháp nào, bán cho ai, với giá cả nào. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là quyền tự do doanh nghiệp, tự do mua và bán hàng hoá phải phục vụ mục tiêu hiệu quả kinh doanh xã hội mà Nhà nước quy định. Điều đó có nghĩa là thực hiện quyền tự do kinh doanh tự do mua và bán trong phạm vi chính sách và pháp luật của Nhà nước. Các chính sách và pháp luật của Nhà nước phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức đầy đủ và đúng đắn các quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá.

doc104 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác kế hoạch sản xuất kinh doanh chiến lược sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch( thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành. +. Giá thành thực tế: là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ. +. Giá thành sản xuất( giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất( chi phí vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung). Bởi vậy giá thành sản xuất còn có tên gọi là giá thành phân xưởng. +. Giá thành tiêu thụ: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm( chi phí sản xuất, quản lý và bán hàng ). Do vậy giá thành tiêu thụ còn được gọi là giá thành đầy đủ, được tính theo công thức sau: Giá thành toàn = giá thành + chi phí + chi phí bộ của sản phẩm sản xuất QLDN bán hàng *. Những vấn đề cần chú ý khi xác định giá thành sản phẩm. - Tính đúng, tính đủ chi phí vào giá thành sản phẩm: Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nó là công cụ quan trọng để các nhà quản lý nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất, vì vậy cần thiết phải tổ chức tính đúng, tính đủ chi phí vào giá thành của các loại sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất. +. Tính đúng là tính toán chính xác và hạch toán đúng nội dung kinh tế của chi phí đã hao phí để sản xuất ra sản phẩm. Muốn vậy phải xác định đúng đối tượng tính giá thành, vận dụng đúng phương pháp tính giá thành thích hợp. Giá thành phải được tính toán trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất được tập hợp một cách chính xác, kịp thời. +. Tính đủ là tính toán đầy đủ mọi hao phí đã bỏ ra trên tinh thần hạch toán kinh doanh thực sự, loại bỏ mọi yếu tố bao cấp để tính đủ đầu vào theo chế độ quy định. Tính đủ cũng đòi hỏi phải loại bỏ những chi phí không liên quan( trực tiếp) đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; những chi phí mang tính chất tiêu cực, lãng phí không hợp lý. Việc tính đúng, tính đủ chi phí vào giá thành sản phẩm sẽ phản ánh được đúng tình hình và kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh, xác định đúng đắn kết quả tài chính, khắc phục được hiện tượng “ lãi giả, lỗ thật”. Chính vì vậy, tính đúng tính đủ chi phí vào giá thành sản phẩm là việc làm cấp bách và thiết thực đối với các doanh nghiệp khi chuyển sang cơ chế thị trường. - Đối tượng tính giá thành sản phẩm: Xác định đúng đối tượng tính giá thành sản phẩm là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác xác định giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Đối tượng tính giá thành có ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn phương pháp xác định giá thành thích hợp cho đối tượng đó. Doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất ra sản phẩm hàng hoá trong kỳ kinh doanh, căn cứ vào tính chất sản xuất và đặc điểm cung cấp, sử dụng của từng loại sản phẩm đó mà xác định đối tượng tính giá thành thích hợp. +. Đối với các doanh nghiệp có loại hình sản xuất đơn chiếc thì đối tượng tính giá thành là từng sản phẩm, từng công việc như: đóng tầu, sửa chữa ô tô... việc xác định giá thành được tính theo khoản mục chi phí, trên cơ sở đó xác định giá thành của sản lượng hàng hoá. +. Đối với các doanh nghiệp có loại hình sản xuất hàng loạt thì đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm đã hòan thành theo khoản mục và trên cơ sở đó xác định giá thành bình quân cho từng đơn vị sản phẩm. +. Đối với các doanh nghiệp có loại hình sản xuất khối lượng lớn thì việc tính giá thành sản phẩm được tính theo khối lượng từng loại và tính giá thành toàn bộ lượng hàng hoá theo khoản mục. Trên cơ sở đó tính giá thành bình quân cho từng đơn vị sản phẩm. *. Phương pháp tính giá thành sản phẩm: Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hoặc hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành sản phẩm và đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Về cơ bản phương pháp tính giá thành bao gồm phương pháp trực tiếp, phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp tỷ lệ... Việc tính giá thành sản phẩm trong từng doanh nghiệp cụ thể, tuỳ thuộc vào đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành có thể áp dụng một trong các phương pháp nói trên hoặc áp dụng kết hợp một số phương pháp với nhau. +. Phương pháp tính trực tiếp ( phương pháp giản đơn ): được áp dụng trong các doanh nghiệp có số lượng mặt hàng ít, chu kỳ sản xuất ngắn. Giá thành đơn vị sản phẩm theo phương pháp này được xác định bằng cách lấy tổng số chi phí sản xuất sản phẩm cộng(+) hoặc trừ(-) số chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ so với cuối kỳ chia cho số lượng sản phẩm hoàn thành. +. Phương pháp hệ số: áp dụng đối với những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất thu được nhiều loại sản phẩm khác nhau và chi phí sản xuất không tập hợp riêng cho từng sản phẩm được mà phải tập chung cho quá trình sản xuất. Theo phương pháp này trước hết kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi để quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, rồi từ đó dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm: Giá thành đơn Tổng giá thành sản xuất vị của sản = các loại sản phẩm phẩm gốc Số lượng sản phẩm quy đổi( SP gốc) Giá thành đơn Giá thành Hệ số quy vị sản phẩm = đơn vị sản * đổi sản phẩm từng loại phẩm gốc từng loại Trong đó: Số lượng n số lượng hệ số quy sản phẩm = ồ sản phẩm * đổi sản phẩm quy đổi i=1 loại i loại i Tổng giá thành Giá trị sản Tổng chi phí Giá trị sản sản xuất của các = phẩm dở dang + sản xuất phát + phẩm dở dang loại sản phẩm đầu kỳ sinh trong kỳ cuối kỳ +. Phương pháp tỷ lệ: áp dụng ở những doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách sản phẩm khác nhau như: doanh nghiệp may mặc, da, giầy, dệt... Do đó chi phí sản xuất được tập hợp theo nhóm sản phẩm cùng loại và giá thành của từng loại sản phẩm được xác định bằng phương pháp tỷ lệ như tỷ lệ với giá thành kế hoạch, giá thành định mức. Giá thành thực Giá thành kế hoạch Tỷ lệ tế đơn vị sản = ( hoặc định mức ) * chi phí phẩm từng loại đơn vị sản phẩm từng loại Tỷ lệ Tổng giá thành sản xuất thực tế chi = của các loại sản phẩm * 100% phí Tổng giá thành sản xuất kế hoạch ( hoặc định mức) của các loại SP +.Phương pháp tổng cộng chi phí: áp dụng với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm: Giá thành thành phẩm = z1 + z2 + ...+ zn Phương pháp tổng cộng chi phí được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp khai thác, dệt nhuộm, cơ khí chế tạo, may mặc... +. Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ: đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạch các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được các sản phẩm phụ( các doanh nghiệp chế biến đường, rựu, mỳ ăn liền...) để tính giá trị sản phẩm chính, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp như giá có thể sử dụng được, giá ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên vật liệu ban đầu... Tổng giá giá trị sản tổng chi phí giá trị sản giá trị sản thành sản = phẩm chính dở + sản xuất phát - phẩm phụ - phẩm chính phẩm chính dang đầu kỳ sinh trong kỳ thu hồi dở dang cuối kỳ +. Phương pháp kết hợp: áp dụng trong doanh nghiệp có quy trình công nghệ và kết cấu sản phẩm phức tạp, đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp tính giá thành khác nhau. Trên thực tế kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ giá trị sản phẩm phụ... 3. Phương hướng và biện pháp hạ giá thành. Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Muốn hạ giá thành phải thực hiện đồng bộ nhiều phương hướng và biện pháp. Theo cách phân loại các biện pháp có liên quan đến việc giảm hoặc tăng từng loại chi phí và ảnh hưởng của nó đến giá thành sản phẩm, có thể áp dụng những biện pháp sau: a. Giảm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng trong giá thành sản phẩm: Trong giá thành sản phẩm để tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, cần cải tiết kết cấu sản phẩm, cải tiến phương pháp công nghệ, sử dụng tổng hợp nguyên liệu, lợi dụng triệt để phế liệu, sử dụng vật liệu thay thế, giảm tỷ lệ phế phẩm, giảm chi phí mua sắm, vận chuyển, bảo quản, cấp phát vật liệu... Tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng sẽ làm cho chi phí nguyên vật liệu... trong giá thành giảm và sẽ làm cho giá thành giảm, vì trong kết cấu giá thành tỷ trọng nguyên vật liệu chiếm bộ phận lớn nhất, có doanh nghiệp chiếm từ 60- 80%. Ta có thể tính theo công thức sau: Chỉ số Chỉ số Chỉ số Chỉ số hạ giá thành do = định mức * giá cả của - 1 * ng.vật liệu giảm chi phí tiêu dùng ng.vật liệu trong GT-SP ng.vật liệu ng.vật liệu Theo công thức này thì chỉ số hạ giá thành do 3 yếu tố tác động: chỉ số định mức tiêu dùng nguyên vật liệu kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo; chỉ số giá cả nguyên vật liệu và chỉ số chi phí nguyên vật liệu trong giá thành kỳ báo cáo. b. Giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm: Muốn giảm chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm cần tăng nhanh năng suất lao động, bảo đảm cho năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân và tiền công. Do đó cần: cải tiến tổ chức sản xuất; cải tiến tổ chức lao động áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và nâng cao trình độ cơ giới hoá, tự động hoá, hoàn thiện định mức lao động; tăng cường kỷ luật lao động, áp dụng các hình thức tiền lương, tiền thưởng và trách nhiệm vật chất để kích thích lao động; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ thuật của công nhân. Tốc độ tăng năng suất lao động tăng nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân và tiền công sẽ cho phép giảm chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm và do đó khoản mục tiền lương trong giá thành sản phẩm sẽ giảm theo tỷ lệ với tỷ trọng tiền lương trong giá thành. Ta có thể tính theo công thức sau: Chỉ số Chỉ số Chỉ số hạ giá thành lương bình quân chi phí tiền do tăng năng = - 1 * lương trong suất lao động Chỉ số năng giá thành suất lao động sản phẩm công thức này cho ta thấy chỉ số hạ giá thành sản phẩm do 3 nhân tố tác động: năng suất lao động, tiền lương bình quân và tỷ trọng tiền lương trong giá thành sản phẩm kỳ báo cáo. c. Giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm: Muốn giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm cần phấn đấu tăng nhanh và tăng nhiều sản phẩm hàng hoá sản xuất ra. Tốc độ tăng và quy mô tăng sản phẩm hàng hoá sẽ làm cho chi phí cố định trong giá thành sản phẩm giảm vì tốc độ tăng chi phí cố định chậm hơn tốc độ tăng và quy mô tăng sản lượng. Nói cách khác là tốc độ tăng chi phí cố định không lệ thuộc với tốc độ và quy mô tăng sản lượng. Để tăng sản phẩm hàng hoá cần sản xuất nhiều, muốn sản xuất nhiều phải sản xuất nhanh trên cơ sở tăng năng suất lao động, phải mở rộng quy mô sản xuất, tinh giảm bộ máy quản lý doanh nghiệp, giảm các hao hụt mất mát do ngừng sản xuất gây ra. Ta có thể tính theo công thức sau: Chi phí Chỉ số Chỉ số chi giảm giá thành chi phí cố định phí cố định do giảm chi = - 1 * trong giá thành phí cố định Chỉ số sản lượng sản phẩm II. giá cả sản phẩm. Khái niệm: Giá cả là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của hàng hoá. Các nhà kinh tế học cổ điển đã cho rằng: giá trị hiện thực( giá cả) là biểu hiện bằng tiền của giá trị tự nhiên( giá trị) và ngày nay các nhà kinh tế học Mác- Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng đó đưa ra khái niệm: Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Như vậy cái cốt lõi nhất của nó là giá trị. Khi sản xuất hàng hoá càng phát triển phạm trù giá cả ngày càng trở nên phức tạp. Ngày nay người ta thừa nhận rằng: giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đồng thời biểu hiện tổng hợp các quan hệ kinh tế như: cung, cầu, tích luỹ, tiêu dùng... Giá cả là tiêu chuẩn để các doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng kinh doanh hướng dẫn người tiêu dùng các loại sản phẩm dịch vụ trên thị trường. 2. Phương hướng xác định giá cả tiêu thụ: Giá cả là một trong những đặc trưng cơ bản của hàng hoá mà người tiêu dùng nhận thấy một cách trực tiếp nhất. Nó thể hiện 3 đặc trưng: thứ nhất, về mặt kinh tế: cần trả bao nhiêu tiền để có được hàng hoá đó; thứ hai về mặt tâm lý xã hội: thể hiện những giá trị thu được khi tiêu dùng hàng hoá; thứ ba giá cả thể hiện chất lượng giả định của hàng hoá. Ngày nay các công ty( doanh nghiệp ) có thể lựa chọn các mục tiêu sau đây khi định giá sản phẩm, dịch vụ của mình. *. Mục tiêu bảo đảm không phải đóng cửa sản xuất( bảo đảm sống sót): Giá cả trang trải được chi phí khả biến và một phần chi phí cố định. Tuy nhiên, bảo đảm sống sót chỉ là mục tiêu trước mắt. *.Tối đa hoá lợi nhuận: Tổng doanh thu của doanh nghiệp được xác định như sau: TR = Q*P Trong đó: Q: là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ tiêu thụ P: là đơn giá của một đơn vị hàng hoá, dịch vụ Doanh thu cận biên là mức tăng tổng doanh thu khi sản lượng tăng thêm một đơn vị. Doanh thu cận biên (MR) được xác định như sau: D TR MR = hoặc MR = (TR)’Q DQ Tổng chi phí( TC) của doanh nghiệp là những phí tổn phải chịu khi sản xuất ra hàng hoá hay dịch vụ trong thời kỳ đó. Chi phí được chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi. Chi phí cố định( FC) là chi phí không biến đổi theo mức sản lượng Chi phí biến đổi( VC) là chi phí thay đổi khi sản lượng thay đổi Chi phí bình quân ATC được xác định bằng cách: TC ATC = Q Chi phí bình quân chia thành chi phí cố định bình quân( AFC) và chi phí biến đổi bình quân( AVC). FC VC AFC = AVC = Q Q Chi phí cận biên( MC) là mức tăng tổng chi phí khi sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá. Được xác định như sau: DTC MC = hoặc MC = ( TC)’Q DQ Lợi nhuân là phần dôi ra giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Được xác định như sau: P = TR – TC Doanh nghiệp muốn tối đa hoá lợi nhuận thì phải thoả mãn điều kiện chi phí cận biên phải bằng doanh thu cận biên: MC = MR *. Tối đa hoá doanh thu: Dù số lượng bán ra có lớn bao nhiêu chăng nữa, song nếu giá bán bằng không thì tổng doanh thu cũng bằng không. Do đó thường có một mức sản lượng chọn trước làm cho tổng doanh thu đạt được mức tối đa. Mức sản lượng này thường được xác định bằng quy tắc: Tổng doanh thu chỉ tối đa với mức sản lượng mà ở đó doanh thu cận biên bằng không( MR = 0). *. Tối đa hoá số lượng tiêu thụ: Để đạt được số lượng tiêu thụ tối đa các công ty thường là định giá tương đối thấp. Nếu định giá quá thấp( dưới một ngưỡng nào đó, tuỳ theo loại hàng hoá) có thể không làm tăng được số lượng tiêu thụ, vì khi đó người ta cho rằng hàng hoá có chất lượng kém. Giá thấp sẽ làm giảm uy tín của sản phẩm, làm giảm lợi nhuận của công ty, thậm chí có thể bị lỗ. *. Tối đa hoá việc hớt phần ngọt của thị trường( giá hớt váng). Chiến lược giá hớt váng chỉ có ý nghĩa trong những điều kiện sau: +. Cầu lớn hơn cung hoặc sản phẩm độc quyền, sản phẩm đặc biệt, sản phẩm mới. +. Giá ban đầu cao nhưng không thu hút thêm các đối thủ cạnh tranh +. Giá cao tạo nên hình ảnh về một sản phẩm có chất lượng cao, sản phẩm thượng hạng. Khi xuất hiện các sản phẩm cạnh tranh và cung vượt cầu thì doanh nghiệp phải hạ giá. *. Giành vị trí dẫn đầu về chất lượng sản phẩm. Công ty có thể đề ra mục tiêu trở thành người dẫn đầu thị trường về chất lượng sản phẩm, vì vậy sẽ chọn chiến lượng giá cao. *. Những mục tiêu khác của việc định giá. Đối với một số ngành, đặc biệt về phía nhà nước, khi định giá còn tính tới yêu cầu bảo đảm sự phát triển ổn định của nền kinh tế trong một giai đoạn nhất định. Một vài doanh nghiệp trong những khoảng thời gian và đối với một vài loại sản phẩm ở một số địa điểm có thể chọn mục tiêu là thiệt hại ít nhất trong trường hợp phải bán phá giá( bán với giá thấp, chịu lỗ trong kinh doanh ). Tuy nhiên cần thận trọng khi quyết định bán phá giá vì nó gây thiệt hại và làm giảm uy tín của sản phẩm của doanh nghiệp. 3. Một số phương pháp định giá: Định giá cho sản phẩm là một khoa học và nghệ thuật, cần tính đến nhiều nhân tố. Có một số phương pháp sau: *. Định giá từ chi phí: Giá cả xác định từ chi phí sản xuất kinh doanh theo công thức sau: P = Ztb + Cth + Ln Trong đó: Ztb: là giá thành toàn bộ tính cho một đơn vị sản phẩm Cth: là các khoản thuế phải nộp( trừ thuế lợi tức) tính cho một sản phẩm. Ln: là lợi nhuận dự kiến thu được của một đơn vị sản phẩm Định giá từ chi phí được áp dụng cho nhiều doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước. *. Định giá theo quan hệ cung cầu: ở các mức giá thấp( PP0) số lượng cầu thấp hơn số lượng cung. Những nhà cung cấp muốn bán nhiều nhưng khách hàng không sẵn sàng mua số lượng lớn với giá cao. Rõ ràng nếu giá được cố định ở mức thấp thì sẽ có sự thiếu hụt về hàng hoá. Khách hàng không thể tìm đủ số lượng hàng hoá mà họ muốn mua. Người bán sẽ không tìm đủ khách hàng để họ mua hết số hàng hoá cần bán. ở mức giá mà có số lượng cung bằng số lượng cầu, thì giá này( P=P0) không có sự vượt cung cũng như vượt cầu. Nguời bán có thể tìm được khách hàng mua hết số cái mà họ cung cấp và người mua có thể tìm được tất cả số cái mà họ muốn mua. Giá cân bằng là giá mà ở mức giá đó số lượng cung bằng số lượng cầu với số lượng này gọi là số lượng cân bằng. Như vậy, nếu giá thị trường không bằng giá cân bằng, các hành động của người mua và người bán sẽ làm dịch chuyển nó hướng tới giá cân bằng. Khi giá cả thị trường bằng giá cân bằng, người bán sẽ không còn lý do thay đổi giá vì họ đã bán được nhiều như họ muốn, không nhiều hơn cũng không ít hơn. Người mua đang mua chính bằng số lượng như họ cần, vì thế không có áp lực từ phía người mua sẽ hướng tới thay đổi giá cả. P Đường cung P0 E Đường cầu Q Q0 Định giá sản phẩm theo quan hệ cung- cầu *.Định giá theo giá thị trường( định giá theo giá của đối thủ cạnh tranh): Phương pháp này còn gọi là phương pháp định giá theo giá hiện hành. Giá sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp đưa ra căn cứ vào giá của thị trường hiện hành để quyết định. Tuy nhiên doanh nghiệp có thể đưa ra mức giá cao hơn giá thị trường nếu chất lượng, uy tín của sản phẩm- dịch vụ của doanh nghiệp cao hơn các doanh nghiệp khác, ngược lại có thể đưa ra mức giá thấp hơn. Khi định giá theo phương pháp này, doanh nghiệp xác định giá của mình chủ yếu dựa trên cơ sở giá của đối thủ cạnh tranh và ít quan tâm đến chi phí của mình và nhu cầu. Trong trường hợp chi phí khó xác định được, hay phản ứng cạnh tranh không chắc chắn, các doanh nghiệp cảm thấy giá hiện hành là một giải pháp tốt. Người ta cho rằng giá hiện hành phản ánh sự sáng suốt tập thể về vấn đề giá cả, đảm bảo đem lại lợi nhuận công bằng và đảm bảo sự hài hoà của ngành nghề hoặc lĩnh vực kinh doanh. *. Định giá theo hệ số: Doanh nghiệp sẽ xây dựng một mức giá chuẩn cho một sản phẩm chuẩn, giá của các sản phẩm khác sẽ xác định theo giá của sản phẩm chuẩn và hệ số quy đổi. Pi = P0*Ki Trong đó: Pi là giá của loại sản phẩm i P0 là giá của sản phẩm chuẩn Ki là hệ số giá của loại sản phẩm i Phương pháp này được áp dụng cho các loại sản phẩm tương tự nhau như xác định giá cho các loại động cơ điện có công suất khác nhau, định giá cho một số loại xi măng có mác khác nhau, định giá cho một số loại thép xây dựng. Hệ số Ki được xác định dựa trên cơ sở các đặc điểm về kinh tế và kỹ thuật của sản phẩm. *. Định giá theo vùng giá chấp nhận được: Giá của sản phẩm dịch vụ đựơc ấn định trong khoảng giữa giá tối đa Pmax và giá tối thiểu Pmin. Giá tối đa là giá cao nhất mà đa số người mua chấp nhận mua hàng hoá. Nếu vượt ra ngoài giới hạn này người mua không có khả năng thanh toán. Giá tối thiểu là giá thấp nhất mà đa số người mua vẫn còn chấp nhận mua hàng hoá. Nếu giá thấp dưới Pmin nhiều người mua cũng sẽ không mua hàng hoá vì cho rằng chất lượng kém. Vùng giá đa số khách hàng chấp nhận mua hàng hoá có thể xác định trên cơ sở các nghiên cứu marketing. *. Định giá nhằm đạt được mức lợi nhuận mục tiêu đã đề ra: Nếu muốn giá đạt được lợi nhuận tối đa, cần tính giá sao cho giá bằng chi phí cận biên: P = MC. Tuy nhiên việc xác định được chi phí cận biên MC một cách chính xác cũng không đơn giản, vì vậy các nhà kinh doanh có thể xác định một mức lợi nhuận mục tiêu để xác định giá. Giá xác định nhằm đạt được lợi nhuận mục tiêu được tính như sau: B* P = Ztb + Cth + Q Trong đó: B* là tổng lợi nhuận mục tiêu đề ra Ztb là giá thành toàn bộ Cth là các khoản thuế( trừ thuế lợi tức) Q là số lượng sản phẩm tiêu thụ P Tổng doanh thu Lợi nhuận P0 Tổng chi phí Chi phí cố định Qo Q sản lượng hoà vốn Qo được xác định như sau: FC Qo = P – AVC Trong đó: FC là chi phí cố định AVC là chi phí biến đổi bình quân *. Định giá theo giá trị nhận thức được: Ngày nay nhiều công ty xác định giá sản phẩm dịch vụ của mình trên cơ sở giá trị nhận thức được. Họ xem nhận thức của người mua về giá trị, chứ không phải là chi phí của người bán là căn cứ quan trọng để định giá. Những yếu tố làm tăng giá trị của hàng hoá như: tuổi thọ, độ tin cậy, dịch vụ kèm theo, thời gian bảo hành, chất lượng, hình thức, kiểu dáng, mầu sắc. Vấn đề quan trọng của phương pháp định giá theo giá trị nhận thức được là xác định chính xác nhận thức của thị trường về giá trị của hàng hoá. Việc nghiên cứu thị trường là cần thiết để xác định nhận thức của thị trường về giá trị rồi dựa vào đó mà định giá cho có hiệu quả. *. Định giá qua đấu thầu: Ngày nay một số loại hàng hoá, tài sản, công trình xây dựng được định giá qua đấu thầu. Giá được xác định qua những người tham gia đấu thầu, do hội đồng chọn thầu quyết định. Giá bỏ thầu là một yếu tố quan trọng, đôi khi là quyết định để xét chọn thầu. *. Định giá phân biệt: Định giá phân biệt là đưa ra nhiều mức giá khác nhau cho cùng một loại hàng hoá, dịch vụ. Việc định giá phân biệt có thể có một số hình thức: +. Định giá theo nhóm khách hàng: nhóm khách hàng khác nhau được định giá khác nhau cho cùng một loại sản phẩm hay dịch vụ. +. Định giá theo số lượng mua: mua nhiều giá hạ, riêng ngành điện hiện nay ở nước ta mua nhiều nhưng giá cao. +. Định giá theo dạng sản phẩm: một số dạng sản phẩm có cùng tính năng tác dụng được lắp thêm một vài bộ phận phụ hoặc kiểu dáng khác nhau nhưng giá lại chênh lệch nhau. +. Định giá theo kiểu dáng bao bì, nhãn hiệu: một số công ty định giá cho cùng một loại sản phẩm ở các mức giá khác nhau dựa trên cơ sở kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu khác nhau. +. Định giá theo địa điểm: địa điểm khác nhau thì giá cũng khác nhau, mặc dù chi phí để tạo ra mỗi địa điểm là bằng nhau. +. Định giá theo thời gian: giá thay đổi theo mùa vụ, theo thời gian bán hàng trong ngày( theo giờ). +. Định giá theo thanh toán: thanh toán ngay toàn bộ giá sẽ thấp hơn so với trả chậm hay trả góp. iii. lợi nhuận. 1. Khái niệm và ý nghĩa của lợi nhuận. *. Khái niệm: Từ trước đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về lợi nhuận như sau: Các nhà kinh tế học cổ điển trước Mác cho rằng: cái phần trội lên nằm trong giá bán với chi phí sản xuất là lợi nhuận. Theo Các Mác thì: Giá trị thặng dư hay cái phần trội lên nằm trong toàn bộ giá trị hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì gọi là lợi nhuận. Các nhà kinh tế học hiện đại P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus thì cho rằng: lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra, bằng tổng số thu về trừ đi tổng số chi hay “ lợi nhuận là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của một doanh nghiệp và tổng số chi phí”. Các nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa trước đây cho rằng: lợi nhuận dưới chủ nghĩa xã hội là thu nhập thuần tuý của xã hội XHCN. Còn hiện nay thì coi lợi nhuận của quá trình kinh doanh là phần chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và chi phí bỏ ra để đạt được thu nhập đó. Vậy đứng về mặt lượng mà xét thì tất cả các định nghĩa đều thống nhất: lợi nhuận là thu dôi ra so với số chi phí bỏ ra. Kế thừa những tư tưởng đó và nhằm gắn với đối tượng nghiên cứu của đề tài thì lợi nhuận của doanh nghiệp có thể định nghĩa như sau: Lợi nhuận của doanh nghiệp là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư do lao động cho xã hội trong các doanh nghiệp tạo được tính bằng chênh lệch giữa tổng doanh thu đạt được với tổng chi phí bỏ ra tương ứng của doanh nghiệp bao gồm cả phần nộp thuế cho Nhà nước theo luật. *. ý nghĩa của lợi nhuận: +. Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ảnh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị sản xuất kinh doanh, tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, tổ chức bán hàng hoá dịch vụ theo giá cả thị trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và chất lượng của quá trình kinh doanh. Kinh doanh tốt sẽ cho lợi nhuận nhiều và khi lợi nhuận nhiều sẽ tạo khả năng để đầu tư tái sản xuất mở rộng, tiếp tục phát triển quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao hơn. Ngược lại làm ăn kém sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản. Vì vậy có thể nói rằng lợi nhuận tối đa là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp cạnh tranh trong cơ chế thị trường. +. Lợi nhuận của doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật khác như chỉ tiêu về đầu tư, sản xuất, sử dụng các đầu vào, chỉ tiêu chi phí và giá thành, chỉ tiêu các đầu ra và các chính sách tài chính quốc gia... Mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ giữa lợi nhuận với các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật khác được biểu hiện trên hai mặt sau: - Chỉ tiêu lợi nhuận đặt rõ nhiệm vụ cho việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật khác, cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh. Các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật khác phải xuất phát và phục vụ cho mục tiêu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. - Các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật khác( kể cả chính sách tài chính quốc gia) là những chỉ tiêu điều kiện, chỉ tiêu tiền đề mang tính chất bộ phận nhằm bảo đảm thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận và do đó nó có tác dụng điều chỉnh lợi nhuận, chẳng hạn như quan hệ với giá cả thị trường, giá cả cao thì lợi nhuận lớn, giá cả thấp thì lợi nhuận ít. Nhưng lợi nhuận cũng ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu và giá cả thị trường ... 2. Phương pháp xác định lợi nhuận. Lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định theo số tuyệt đối là tổng số lợi nhuận. Tổng số lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh số lượng và chất lượng của các mặt hoạt động kinh doanh. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào tổng mức tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và chi phí đã chi ra để đạt kết quả đó. Có thể xác định tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp theo công thức sau: n n n LNdn = ồ ( Qitt * Gitt ) - ồ Zitt + ồTitt i=1 i=1 i=1 Trong đó: LNdn: Là tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp Qitt: Là sản lượng hàng hoá loại i đã tiêu thụ Gitt: Giá cả hàng hoá loại i tiêu thụ Zitt: Giá thành hàng hoá loại i tiêu thụ Titt: Là thuế nộp cho Nhà nước theo quy định i= 1,n: Là số loại hàng hoá tiêu thụ Theo công thức này ta thấy tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc vào sản lượng sản phẩm tiêu thụ, giá cả thị trường của từng loại sản phẩm, cơ cấu mặt hàng, giá thành của sản phẩm tiêu thụ và thuế nộp cho Nhà nước theo quy định. Trong cách tính toán cụ thể, doanh thu được xác định bởi toàn bộ tiền bán sản phẩm, tiền gia công, tiền hoa hồng, dịch vụ sau khi thực hiện việc bán hàng hoá, trả hàng gia công hoặc cung ứng dịch vụ, chưa trừ một khoản phí tổn nào không phân biệt thu được tiền hay chưa thu được tiền. Còn chi phí chi ra để đạt được kết quả ấy của doanh nghiệp thường gồm các loại chi phí sau: +. Chi phí nguyên, nhiên, vật liệu, năng lượng thực tế sử dụng vào sản xuất kinh doanh, nó được tính theo mức tiêu hao hợp lý và giá thực tế xuất kho của doanh nghiệp. +. Khấu hao tài sản cố định dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh +. Tiền lương( tiền công) và các khoản mang tính chất lương phải trả, được tính căn cứ vào tính chất ngành nghề định mức lương trong đơn vị sản phẩm theo năng suất lao động xã hội, theo lương tối thiểu của từng khu vực, được chính quyền địa phương công bố trên cơ sở đã được chính phủ cho phép; hiệu quả kinh tế và tương quan hợp lý giữa các ngành nghề. +. Các khoản chi phí khác như chi phí quản lý: chi phí về mua hoặc sử dụng các tài liệu kỹ thuật, bằng sáng chế, giấy phép, dịch vụ kỹ thuật... các khoản chi tiêu liên quan trực tiếp đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ; các khoản tiền nộp quỹ BHXH, BH tài sản, các chi phí hợp lý, hợp lệ khác. 3. Phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp. Hiện nay lợi nhuận trong doanh nghiệp có thể được phân phối như sau: làm nghĩa vụ với Nhà nước dưới hình thức nộp thuế Chia cho các chủ sở hữu( với doanh nghiệp có nhiều chủ) Trích lập các quỹ doanh nghiệp d.Bổ sung các nguồn vốn để mở rộng quy mô kinh doanh hàng tháng, quý các doanh nghiệp tạm phân phối số lợi nhuận theo kế hoạch; sau khi kết thúc năm, sau khi được cấp có thẩm quyền hoặc kiểm toán xét duyệt các doanh nghiệp sẽ thanh quyết toán số tạm phân phôi. Theo chế độ tài chính hiện hành các quỹ của doanh nghiệp gồm: +. Quỹ đầu tư phát triển. +. Quỹ dự phòng tài chính +. Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm +. Quỹ khen thưởng phúc lợi +. Quỹ quản lý cấp trên Biện pháp tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp. a. Tăng sản lượng hàng hoá tiêu thụ: giả định các nhân tố khác không đổi thì việc tăng sản lượng hàng hoá tiêu thụ sẽ làm cho lợi nhuận tăng. b. Nâng cao chất lượng hàng hoá vừa nâng được giá bán vừa nâng sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thị trường. c. Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm. d.Phân tích thị trường, nắm chắc quan hệ cung- cầu để quyết định giá bán hợp lý trong từng thời điểm e. Tổ chức tốt các hoạt động quản lý, nâng cao trình độ cán bộ quản lý. Chương x: hạch toán kinh tế trong doanh nghiệp i. khái niệm và tác dụng của hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp. 1. Khái niệm hạch toán kinh doanh: Hạch toán kinh doanh là một phương pháp quản lý kinh tế hợp lý và tiết kiêm nhất, phương pháp này đòi hỏi dùng hình thức tiền tệ để tính toán các chi phí chi ra và đòi hỏi hao phí lao động ít mà mang lại hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu doanh nghiệp đề ra. Như vậy hạch toán kinh doanh là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì phạm trù hạch toán càng được ứng dụng rộng rãi và triệt để, nghĩa là đòi hỏi phải tính toán chính xác, đầy đủ các chi phí chi ra và kết quả thu được để biết được mức tiết kiệm hoặc lãng phí để làm cơ sở cho việc xây dựng các chiến lược trong kinh doanh. Với quan điểm trên, không nên hiểu đồng nhất phạm trù hạch toán kinh doanh và thống kê vì hạch toán và thống kê chỉ là một công cụ để thực hiện hạch toán kinh doanh. Cũng không nên thu hẹp phạm trù hạch toán kinh doanh chỉ là sự tính toán kỹ thuật thuần tuý các kết quả đạt được. Bản chất của hạch toán kinh doanh là một phạm trù kinh tế khách quan được biểu hiện trong việc vận dụng hệ thống các quy luật kinh tế, các phạm trù giá trị, các đòn bẩy kinh tế và một hệ thống các mối quan hệ kinh tế. Kết cục cuối cùng thì hạch toán kinh doanh là sự giải quyết đúng đắn các mối quan hệ kinh tế dựa trên hệ thống các mối quan hệ kinh tế qua sơ đồ sau: Với ngân sách Nhà nước Với các tổ chức giá cả và tài chính Với các tổ chức Ngân hàng Các mối quan hệ kinh tế của doanh nghiệp Với các đơn vị kinh doanh trong nền kinh tế Với các cơ quan nghiên cứu Các mối quan hệ kinh tế bên trong doanh nghiệp Dù trong điều kiện nào, việc thực hiện hạch toán kinh doanh đều phải hướng tới một mối quan hệ kinh doanh, đều phải hướng tới một mối quan hệ kinh tế bình đẳng các bên cùng có lợi, cùng tuân theo cơ chế quản lý vĩ mô. Ngoài ra khi nghiên cứu phạm trù hạch toán kinh doanh cũng cần phải phân biệt hạch toán kinh doanh với hiệu quả kinh doanh và với kế hoạch tiến độ sản xuất nội bộ. Sự khác nhau đó thể hiện: Hiệu quả kinh doanh là nhằm xác định những mục tiêu phải đạt được đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, còn hạch toán kinh tế là tạo ra những biện pháp để đạt mục tiêu đó. Còn đối với kế hoạch tiến độ sản xuất nội bộ, kế hoạch tiến độ nhằm xác định những nhiệm vụ, chỉ tiêu cụ thể cho các bộ phận và đơn vị sản xuất; hạch toán kinh doanh sử dụng các nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể giao cho cá nhân hoặc đơn vị và quy định rõ chế độ trách nhiệm vật chất trong khi thực hiện. Cũng có thể nói mối quan hệ này thể hiện ở chỗ: Kế hoạch có nhiệm vụ là giao những nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể cho đơn vị còn hạch toán kinh doanh có nhiệm vụ là tạo ra các động lực kinh tế để thực hiện các nhiệm vụ đó. 2. Tác dụng của hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp: Các phương pháp kinh tế trong doanh nghiệp đòi hỏi trình độ tự chủ cao đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như phải chủ động xây dựng chiến lược, kế hoạch, phương án kinh doanh và tổ chức thực hiện có hiệu quả cao. Bởi vì các phương pháp kinh tế trong kinh doanh dựa trên cơ sở sử dụng tổng hợp các đòn bẩy kinh tế để làm cho mọi người lao động quan tâm và có trách nhiệm vật chất đối với mọi công việc, mọi hoạt động của doanh nghiệp, luôn hướng họ, thúc đẩy và động viên họ tìm các biện pháp sáng tạo để giải quyết có hiệu quả các mục tiêu đã xác định. Một trong các phương pháp kinh tế chủ yếu có hiệu quả trong quản lý kinh doanh của doanh nghiệp là thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh. Hạch toán kinh doanh vừa là một phạm trù kinh tế, vừa là phương pháp kinh tế trong quản lý kinh doanh có hiệu quả cao. Hạch toán kinh doanh là một phạm trù kinh tế trong kinh doanh và quản lý kinh doanh vì nó phản ánh một hệ thống các quan hệ kinh tế khách quan. Đó là mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động; giữa các doanh nghiệp với nhau; giữa doanh nghiệp với ngân hàng, tài chính giá cả và các cơ quan nghiên cứu; giữa các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp với nhau... Hạch toán kinh tế là một phương pháp kinh tế chủ yếu trong quản lý kinh doanh đạt hiệu quả cao, bởi vì nó đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế để thúc đẩy mọi doanh nghiệp, mọi đơn vị trong từng doanh nghiệp và những người lao động chủ động, sáng tạo trong kinh doanh để đạt kết quả cao nhất với chi phí ít nhất nhằm đạt lợi nhuận nhiều nhất. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá và thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì việc thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ii. nội dung của hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp. Nội dung chủ yếu của hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp gồm: 1. Doanh nghiệp chủ động xây dựng các phương án và chỉ tiêu hạch toán kinh doanh có hiệu quả cao. Căn cứ vào cac chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước đã quy định, các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh phải chủ động xây dựng phương án kinh doanh và chỉ tiêu kinh doanh có hiệu quả cao. Chủ động và sáng tạo trong tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi quyền hạn của doanh nghiệp được Nhà nước quy định. Quyền chủ động đó bao gồm: +. Chủ động trong việc nắm bắt nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ thông qua giá cả thị trường. +. Chủ động trong việc quyết định phương án sản xuất kinh doanh phù hợp với yêu cầu thị trường và khả năng của doanh nghiệp. +. Chủ động trong việc tạo và tìm ra nguồn vốn sản xuất kinh doanh và trong việc chuẩn bị các điều kiện cho sản xuất kinh doanh. +. Chủ động trong việc tổ chức quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. +. Chủ động trong việc tổ chức bán hàng hoá theo nhu cầu thị trường và nhu cầu của nền kinh tế. Mục tiêu cần phải đạt được trong nội dung này là xác định đúng phương án kinh doanh và chỉ tiêu kinh doanh có hiệu qủa cao trên cơ sở khai thác tối đa khả năng của doanh nghiệp. Những lĩnh vực hoạt động này được quy định phù hợp với những chính sách và pháp luật Nhà nước, bảo đảm cho doanh nghiệp, những đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp và từng người lao động thực hiện đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn của mình trong kinh doanh. 2. Các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh cần ký kết các hợp đồng kinh tế. Chế độ tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp cho phép xác lập và phát triển các mối quan hệ hợp tác trực tiếp trong việc mua và bán hàng hoá, hiệp tác sản xuất. Thông qua các mối quan hệ hiệp tác đó, doanh nghiệp tìm được thị trường, ổn định cả về mua các điều kiện cho sản xuất, cả về bán những sản phẩm hàng hoá đã sản xuất ra. Để xác lập và phát triển các mối quan hệ trực tiếp trong việc mua và bán, về mặt pháp lý cần thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế. Xây dựng chế độ hợp đồng ký kết trong việc mua và bán là căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh, để đảm bảo quyền chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện có hiệu lực, đó là kỷ luật Nhà nước. Các bên ký hợp đồng phải chịu trách nhiệm thực hiện tốt hợp đồng, ai sai phạm sẽ phải chịu trách nhiệm vật chất và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong quá trình thực hiện hợp đồng hai bên có quyền thống nhất để điều chỉnh hợp đồng vì lợi ích chung của cả hai bên. Trong thực tế có các loại hợp đồng như: hợp đồng mua nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, hợp đồng về lao động, hợp đồng về bán hàng hoá... Nội dung của hợp đồng, các thủ tục ký kết, tổ chức thực hiện và thanh toán, quyết toán cần tuân theo các quy định của Nhà nước. 3. Các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh cần xây dựng và thực hiện tốt chế độ khuyết khích lợi ích vật chất và chịu trách nhiệm vật chất. Khuyến khích lợi ích vật chất và quy định trách nhiệm vật chất là động lực mạnh nhất của kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá. Nhưng nó chỉ trở thành động lực mạnh nhất khi việc khuyến khích lợi ích vật chất, quy định trách nhiệm vật chất được thực hiện đúng đắn, công khai và công bằng. Chế độ tiền thưởng trong các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh cần được xây dựng theo hướng chủ yếu là: +. Chế độ tiền thưởng từ phần giá trị làm lợi +. Chế độ thưởng tiết kiệm nguyên vật liệu và nhiên liệu, động lực nhằm khuyết khích mọi người và tập thể tìm biện pháp sử dụng đầy đủ, hợp lý và tiết kiệm. Chế độ thưởng sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất trong doanh nghiệp nhằm khuyến khích cán bộ, công nhân viên ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu qủa công tác. +. Chế độ tiền thưởng từ quỹ lương và tiền công của doanh nghiệp nhằm khuyến khích các cá nhân và tập thể hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất kinh doanh. +. Chế độ phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng quỹ doanh nghiệp nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, lợi nhuận nhiều. Chế độ trách nhiệm vật chất nhằm thúc đẩy những người lao động nâng cao tinh thần trách nhiệm để giảm lãng phí và tổn thất cho doanh nghiệp. Nếu vi phạm những quy định của doanh nghiệp thì phải chịu thiệt thòi về lợi ích, nếu gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường như: không hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước, vi phạm hợp đồng kinh tế, làm sai hỏng sản phẩm, gây thiệt hại cho doanh nghiệp... 4. Tổ chức tốt công tác hạch toán( kế toán, thống kê). Tổ chức tốt công tác hạch toán của doanh nghiệp đòi hỏi phải tính toán chính xác kết quả sản xuất kinh doanh và chi phí đã chi ra để xác định mức lãi hoặc lỗ. Mục tiêu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh là tăng lợi nhuận. Hạch toán kinh doanh phải làm cho mọi người biết rõ mức lãi hoặc lỗ của quá trình kinh doanh. Để làm được điều đó cần phải làm tốt một số vấn đề sau: +. Thực hiện đầy đủ, chính xác kịp thời chế độ ghi chép ban đầu. +. Tổ chức tốt công tác thống kê và kế toán +. Tính toán đầy đủ các chỉ tiêu kết quả và các chỉ tiêu chi phí tương ứng. +. Phân tích định kỳ kết quả, chi phí và hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng đơn vị và toàn doanh nghiệp. iii. nguyên tắc của chế độ hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp. 1. Thực chất và mục đích của hạch toán. a. Thực chất của hạch toán kinh doanh: Thực chất của hạch toán kinh doanh là xây dựng một cơ chế vận dụng các đòn bẩy kinh tế vào các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nói cách khác thực chất của hạch toán kinh doanh là xây dựng cac căn cứ, các tiêu chuẩn để thực hiện chế độ khuyến khích lợik ích vật chất vào lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì khi thực hiện hạch toán kinh doanh đòi hỏi chúng ta phải giao những chỉ tiêu, những nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân, từng đơn vị hạch toán, căn cứ vào mức độ thực hiện các chỉ tiêu và nhiệm vụ để thực hiện chế độ khuyến khích lợi ích vật chất, thưởng trên cơ sở giá trị làm lợi, phạt trên cơ sở giá trị bị thiệt hại. b. Mục đích của hạch toán kinh doanh: Mục đích cuối cùng của hạch toán kinh doanh là tạo ra được một hệ thống động lực để kích thích sản xuất và kinh doanh bằng hai hình thức cơ bản: +. Gắn chặt được quyền lợi ích với trách nhiệm của người lao động +. Tạo lập một cơ chế( bàn tay vô hình) để chuyển hàng hoá các hình thức sở hữu khác nhau thành chính sở hữu của bản thân mình. Trong thực tế khoán rất đa dạng gồm: khoán doanh thu, khoán sản lượng, khoán giá mua, giá bán hoặc dùng hình thức “ bán nguyên liệu”, mua thành phẩm ở trong các doanh nghiệp. 2. Các nguyên tắc của hạch toán kinh doanh. Thuật ngữ “ hạch toán kinh tế ” mà Lênin sử dụng vào năm 1921 ở xí nghiệp của Liên Xô có 3 đặc trưng sau: +. Xí nghiệp phải đạt doanh lợi, không bù lỗ nhờ tăng sản lượng, tăng năng suất, hạ chi phí và thực hiện tiết kiệm. +. Chấm dứt cấp phát qua ngân sách, buộc xí nghiệp phải vay vốn, trả lãi vốn, không ỷ lại vào ngân sách. +. Chuển toàn bộ trách nhiệm lên tập thể xí nghiệp mà trước hết là người lãnh đạo xí nghiệp. ở nước ta năm 1957 đã có văn bản nhằm thực hiện hạch toán kinh tế xí nghiệp. Năm 1961 – 1962 một số xí nghiệp đã bắt đầu thực hiện hạch toán kinh tế nội bộ. Từ đó đến nay, hạch toán kinh tế không ngừng được củng cố và hoàn thiện trong các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khi thực hiện hạch toán kinh tế cần quán triệt 4 nguyên tắc sau: Thứ nhất: bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh dựa trên những chính sách và pháp luật Nhà nước: Theo nguyên tắc này doanh nghiệp được quyền tự do mua và bán hàng hoá trên thị trường theo giá cả thị trường, do quan hệ cung- cầu quyết định. Muốn vậy các doanh nghiệp có quyền chủ động tìm hiểu, nghiên cứu để nắm chắc nhu cầu thị trường và ra quyết định đúng đắn về sản xuất như: chủng loại, số lượng, chất lượng sản phẩm và thời gian sản xuất và bán hàng; chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hoá; chủ động tiêu thụ những hàng hoá theo nhu cầu và giá cả thị trường. Nói một cách tổng quát là doanh nghiệp được quyền chủ động quyết định sản xuất cái gì, bằng phương pháp nào, bán cho ai, với giá cả nào... Tuy nhiên cần nhấn mạnh là quyền tự do doanh nghiệp, tự do mua và bán hàng hoá phải phục vụ mục tiêu hiệu quả kinh doanh xã hội mà Nhà nước quy định. Điều đó có nghĩa là thực hiện quyền tự do kinh doanh tự do mua và bán trong phạm vi chính sách và pháp luật của Nhà nước. Các chính sách và pháp luật của Nhà nước phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức đầy đủ và đúng đắn các quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá. Thứ hai: phải dùng đồng tiền để tính toán đầy đủ, chính xác toàn bộ kết quả của sản xuất kinh doanh và những chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó: Theo nguyên tắc này, hạch toán kinh doanh đòi hỏi phải tính toán kết quả sản xuất kinh doanh và chi phí đã chi ra bằng giá trị theo giá cả thị trường. Chỉ có như vậy mới có thể tiên hành so sánh giữa kết quả kinh doanh đã đạt được và chi phí đã chi ra để đạt được kết quả đó. Trên cơ sở này mà đánh giá phương án kinh doanh đề ra có khả năng đạt được hiệu quả cao hay thấp, lãi hay lỗ. Thực hiện nguyên tắc này cho phép bảo đảm sự thống nhất giữa hiện vật và giá trị trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, bảo đảm sự kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước. Các cơ quan kế hoạch tài chính, ngân hàng Nhà nước và bộ quản lý cần thống nhất các chỉ tiêu tính toán chủ yếu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện tốt nguyên tắc này. Cần nhấn mạnh thêm là đối với các doanh nghiệp thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao thì cần hạch toán kinh doanh theo giá cả Nhà nước quy định. Phần còn lại thì bình đẳng như các doanh nghiệp khác. Theo giá cả thị trường, theo quan hệ cung- cầu và cạnh tranh. Thứ ba: phải lấy thu nhập để bù đắp chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi: Doanh nghiệp hạch toán kinh doanh muốn tồn tại và phát triển với tư cách là một tế bào, một đơn vị kinh tế cơ sở trong nền kinh tế quốc dân, cần hoạt động có hiệu quả cao để một mặt lấy thu nhập của mình bù đắp chi phí đã chi, có tích luỹ để vừa bảo toàn và phát triển vốn và mặt khác đáp ứng được yêu cầu chung của sự phát triển kinh tế xã hội. Kinh doanh đạt hiệu quả càng cao, lợi nhuận càng lớn sẽ cho phép thực hiện tốt quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp và đóng góp xứng đáng vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước để thoả mãn những nhu cầu chung của xã hội. Trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá và quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, vấn đề kinh doanh có lãi là một đòi hỏi tất yếu, vì sự tồn tại và phát triển trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Riêng đối với doanh nghiệp có nhiệm vụ thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh theo giá cả của Nhà nước, nếu vì giá bao cấp làm cho kinh doanh của doanh nghiệp bị lỗ thì Nhà nước có chính sách bù lỗ, nhưng cũng chỉ bù lỗ cho nhiệm vụ Nhà nước giao, phần còn lại doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về vật chất. Thứ tư: thực hiện công bằng việc khuyến khích lợi ích vật chất và chịu trách nhiệm về vật chất đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình: Trong hạch toán kinh doanh đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệm vụ và quyền hạn, giữa nghĩa vụ và nghĩa vụ và quền lợi, đặc biệt là quyền lợi vật chất có ý nghĩa quyết định đến việc tạo động lực để nâng cao hiệu quả trong kinh doanh. Theo nguyên tắc này các doanh nghiệp thực hiện hạch toán kinh doanh có hiệu quả sẽ được các quyền hạn sau đây: +. Phần còn lại của doanh nghiệp sau khi hoàn thành nghĩa vụ với cấp trên và Nhà nước theo chế độ quy định sẽ được sử dụng để phát triển sản xuất, khuyến khích lợi ích vật chất đối với người lao động, đáp ứng nhu cầu phúc lợi tập thể của doanh nghiệp. +. Dùng lợi ích vật chất để phân phối và khen thưởng một cách công bằng theo kết quả lao động của từng đơn vị, từng người lao động trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy mọi người vì lợi ích kinh tế và chủ động tìm biện pháp đạt kết quả, chất lượng và hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên cũng cần nhân mạnh rằng trong kinh doanh theo cơ chế thị trường vấn đề rủi ro có thể xẩy ra làm thiệt hại đến hoạt động của doanh nghiệp và có thể bị thua lỗ, trong trường hợp đó về mặt nguyên tắc của hạch toán kinh doanh thì doanh nghiệp và lao động phải chịu trách nhiệm về sự rủi ro đó. Nhưng cần phân biệt cụ thể các nguyên nhân gây ra sự rủi ro để đề nghị Nhà nước xem xét giải quyết theo các chính sách và pháp luật. Trong những trường hợp kinh doanh thua lỗ do doanh nghiệp và người lao động gây ra thì doanh nghiệp và người lao động phải chịu trách nhiệm vật chất tương ứng với phần lỗ( hoặc lãng phí ) đã gây ra. Nguyên tắc khuyến khích lợi ích vật chất và chịu trách nhiệm vật chất là nguyên tắc bình đẳng, công bằng trong kinh doanh, nó là động lực của mọi hoạt động trong kinh doanh, mọi cố gắng trong kinh doanh. iv. Hạch toán kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp. Khái niệm: Hạch toán kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp là một phương pháp kinh tế để tính toán những chi phí đã chi ra của các phân xưởng, các ngành, các tổ chức sản xuất và cá nhân người lao động. Về lĩnh vực quản lý đó là hạch toán các phòng, ban trong doanh nghiệp. Đăc điểm và tác dụng của hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp. Đặc điểm: +. Nếu đối tượng hạch toán kinh tế là doanh nghiệp thì đối tượng của hạch toán kinh tế nội bộ là các phân xưởng, các ngành, các tổ sản xuất và cá nhân người lao động, về lĩnh vực quản lý đó là hạch toán các phòng, ban trong doanh nghiệp. +. Đi sâu vào nghiên cứu đặc điểm của nó ta thấy hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp là dùng hình thức tiền tệ để tính toán kết quả đã đạt được và chi phí đã chi ra của từng cá nhân, đơn vị như: phân xưởng, phòng ban, ngành sản xuất, tổ sản xuất; so sánh kết quả đạt được và chi phí đã chi ra để đạt kết quả đó; tính toán mức tiết kiệm hay lãng phí. Căn cứ vào thành tích đã đạt được về mặt kinh tế để thực hiện các hình thức khuyến khích vật chất và chịu trách nhiệm vật chất một cách thoả đáng. Hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp có tính chất tổng hợp vì nó tác động đến tất cả các yếu tố tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển và cũng tác động đến các yếu tố tạo điều kiện sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất. Hạch toán kinh tế doanh nghiệp và nội bộ doanh nghiệp giống nhau về bản chất và mục đích vì đều dùng tiền để tính toán chi phí bỏ ra với kết quả thu về và đều nhằm quán triệt quy luật tiết kiệm trong sản xuất và doanh nghiệp. Nhưng giữa chúng co điểm khác nhau đó là: doanh nghiệp hạch toán kinh doanh là đơn vị độc lập về kinh tế, có quyền tự chủ về tài chính, còn các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp chỉ có tính chất độc lập tương đối về mặt kỹ thuật sản xuất không có tính độc lập về kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4606.doc
Tài liệu liên quan