Đối với nhân dân Đào Động đền Đào Động là mốc son lịch sử đã bám vào mảnh đất đem tên "Ba đào lãng động" từ thuở các bậc tiền bối còn lênh đênh trên vạn chài sông Vĩnh đến khi hình thành làng Đào. Đức tin gửi vào thần điện, góp phần làm điểm tựa cho họ lên bờ khai hoang lấn biến, xây dựng Đào Động bát trang.
Với lịch sử dân tộc: đền là một điểm chốt, mắt xích quan trọng trong khu căn cứ quân đội nhà Trần. Đây là căn cứ quan trọng của tướng quân Phạm Ngũ Lão, phò mã Nguyễn Chế Nghĩa trong hai lần kháng chiến chống quân Nguyên (1285, 1288).
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác quản lý, khai thác và phát huy tác dụng di tích đền Đào Động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u Lý (1010), với chính sách khuyến nông của Vương triều, dân trong Đào Động có bước vươn mình, chuyển hẳn ngư nghiệp sang nông nghiệp. Sự kiện chính biến: Quách Bốc đánh chiếm kinh thành Thăng Long, gia đình Trần Lý, Trần Thư Độ, Trần Tự Khánh, Trần Liễu mộ hương dũng Long Hưng (Thái Bình) Thiên trường (Nam Định) cất quân đát dẹp, rước Lý Cao tôn về kinh, tiếp đến năm 1211 phù Lý Huệ Tôn lên ngôi, thanh thế họ Trần càng mạnh. Để chuẩn bị cho việc lớn, Trần Thị Dung mở ấp ở vùng Khuông Phù, Phù Ngự (xã Liên Hiệp). Trần Thừa đặt phủ đệ ở Tinh Cương (vùng xã Tiến Đức, bắc Hưng Hà)… Trần Liễu về tị nhậm vùng Hà Côi - Phụ Phượng (sách ngàn năm đất và người Thái Bình).
A Sào cách Đào Động 6 km xưa là bản doanh của Phụng Kiền vương Trần Liễu, ông đã xây dựng 4 trang: Đào Động, Lộng Khê, Tô Đê, ASào ven lưu vực sông Hoá, sông Vĩnh Thành 4 trung tâm kinh tế phồn thịnh được coi là: "Tứ cố cảnh triều Lý".
Từ giữa thế kỷ XIII Đào Động là địa điểm được Trần Hưng Đạo rất quan tâm. Sách ngàn năm đất và người Thái Bình chép: "Theo lệnh quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, yết kiêu đã dưa cả đội quân thuỷ lừng danh dưới tướng về đóng ở ngã ba sông Nông (Hưng Hà)… xuôi dòng Luộc, Hoá xa hơn nữa về phía Đông lại có cả một khu căn cứ lớn của nhà Trần: Đào Động, lộng Khê, Tô đê, ASào.. phụ phượng tứ cố cảnh triều Lý,4 nơi có cảnh sắc phong quang, dân cư trú một đều được xây dựng thành nơi tập trung quân lương quan trọng. ASào với một bên là sông Luộc, một bên là sông Hoá - nơi điền trang xưa của Phụng Kiền Vương đã được lấy làm đại bản doanh chính của vịquốc công tiết chế đố. Mặt phía Bắc có tiền đồn là Lộng Khê, chệch về phía Nam cách ASào 6km là căn cứ thuỷ bộ Đào Động được giao cho Phạm Ngũ Lão - vị tướng nổi tiếng quê làng Phù Đổng (Hải Dương) cai quản và dùng làm nơi tập luyện cả hai đạo bình thuỷ và bộ"
Trên địa bàn thuộc Đào Động và xã An Lễ tìm thấy miếu ông thời điện tiền tướng quân Phạm Ngũ Lão và quân phu nhân Anh Nguyên (tưởng truyền bà quê làng này, được Trần Hưng Đạo nhận làm con nuôi, sau gả cho Phạm Tướng quân. Lại tìm được bài vị "Trần Triều phò mã đô uý Nguyễn Thế Nghĩa" Tương truyền: Phạm Ngũ Lão coi luyện quân thuỷ, Nguyễn Chế Nghĩa coi bộ, các điểm tập trung ngày xưa như: đình Rất, đình Sinh, đình Bến, đình Bơi, đình Đào đều là bến đón quân về, tiễn quân đi. Khi trừ xong giặp Bắc dân lập đình để thờ các vị quan tướng thời Trần và các vị Thành Hoàng cũ thuộc trong ấp.
Cách đền Đồng Bằng 600m hiện còn đoạn luỹ thời Trần dài 200m, có địa danh cổng Tây. Trước đây còn cổng Đông, cổng Nam, cổng Bắc.. Đào Động từng được mệnh danh là bức thành đồng, tên làng Đồng Bình có từ sự kiện này. Xuôi cần Vật 100m là cánh dầm Bà, thực ấp của Hoa đào Anh Nguyên - quận chúa, xưa là bãi đỗ thuyền của đại quân nhà Trần Cầu Vật vốn là sới vật và bãi tập của quân thánh Dực do Trần Hưng Đạo quản lĩnh, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa phụ trách. Từ niên hiệu Trung Hưng (1285 - Trần Nhân Tông) đến các triều Anh Tôn (1293 - 1314), Minh Tôn (1314 - 1329)… Để tri ân dân bình Đào Động đã nhường cơm sẻ áo nuôi quân, nhà nhà là trại lính, xóm xóm là quân doanh Trần triều phò mã Đô Uy và Phạm Điện Soái đã ưu tiên hỗ trỡ việc khẩn điền. Nhiều binh sỹ trong các quân doanh trở lại làm dâu rẻ đưa người thân về xây dựng quê mới từ đó đất đai được khẩn hoang từ các thôn: Đào Lãng, Cúi Dất…. phát triển thêm các khu: Trung, Cầu, Đông, Đào, từ đây làng Đào Đông trở thành "Đào Động bát trang" một làng giàu có nổi tiếng của lộ An Tiêm.
Trong 20 năm chống giặc Minh xâm lược, Đào Động là căn cứ lớn của tướng Phạm Bội (quê xã An Bài cách Đào Động 2km). Trai làng nổi tiếng bởi tinh thần dũng cảm trung thành. Năm 1417 gần 100 trai làng đã theo thủ lĩnh Phạm Bội vào Lam Sơn tụ nghĩa dự lễ thề Lũng Nhai, theo Bình Định Vương 10 năm đánh đuổi giặc Minh.
Dưới triều Mạc Mậu Hợp, Đào Động và Tô Xuyên là hai tiền đồn quan trọng của phòng tuyến Đông Quynh - chạy từ Quỳnh Phụ sang Hưng Hà của binh bộ thượng thư Vũ ảm.
Trong phong trào Cần Vương chống Pháp, gần 100 dân binh Đào Động đã giúp Đôi chuẩn xây đồn cổ tiết, giữ phía Tây Cầu Vật thuộc làng, cùng đội Duẫn xây đồng Vũ Hạ (xã An Vũ) giữ ngã tư môi tại phía đông làng, nhiều lần đánh trả quân tuần tiễn nguỵ quyền các đồn Quỳnh Côi, Thuỵ Anh góp phần bắt sống và giết bang biện Nam triều Mai Đức Văn.
Ngay từ những năm 30 thế kỷ 20 dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam Đào Động đã có sở sở cách mạng.
Năm 1950, quân Viễn Chinh Pháp sử dụng khu đình Chợ làng Đào Động làm phủ lỵ huyện Phụ Dực, đóng bốt tại cầu Nghìn (An Bài), ngã tư Môi (An Vũ), chợ Đình, Cầu Vật (Đào Động) với số trên 1.000 lính quân dân Đào Động bám đất chiếm đến cùng. Ngày 23/6/1954 du kích xã đã cùng bộ đội tiểu đoàn 64 đại đoàn Đồng Bằng hạ bốt Cầu Vật, bao vây bức bốt quận (chợ Đồng Bằng) phải bỏ tháo chạy về Setơ Kiến An.
Trong kháng chiến chống Mỹ, trên 200 thanh niên Đào Động lớp lớp tòng quân. Tại địa phương trung đội trực chiến của thôn đã kết hợp với bộ độ huyện chiến đấu bảo vệ Cầu Vật trên quốc lộ 10 và ngày 20/8/1979 đã bắn rơi máy bay phản lực Mỹ được Quốc hội tặng huân chương chiến thắng hạng II.
2. Vị trí địa lý đền Đào Động.
Đào Động nằm giữa lưu vực sông Hoá và sông Đại Lẫm, ngược lên phía Bắc gặp sông Luộc ở khu vực Tuần Tranh (Ninh Giang), ngược về phía Tây 18km là cửa Hải Thị, tiếp vào sông Hồng, xuôi về phía Đông 7km gặp sông Thái Bình tại Cầu Xe. Theo dòng sông Hoá có đường ra cửa sông Thái Bình, theo dòng Đại Lẫm hợp với sông Diêm đổ ra cửa Trần (tức cảng Diêm Điền). Khách từ kinh thành có thể theo sông Hồng vào cửa Hải thị về sông Đại Lẫm, khách từ đông Bắc theo sông Thái Bình xuống ngã ba Cầu Xe xuống Tuần Tranh voà sông Hoá để đến Đào Động đều thuận lợi.
Khách từ mạn biển hoặc theo cửa Thái Bình qua sông Hoá hoặc cửa Diêm Điền qua sông Diêm đếu có thể đến tận sân đền Đồng Bằng. Năm 1910, người Pháp mở quốc lộ 10 từ Ninh Bình qua Nam Định sang thị xã Thái Bình, đi thị xã Kiến An và thành phố Hải Phòng, đường quốc lộ kề sát cạnh đền Đồng Bằng, việc giao thông đi lại về đền càng thuận tiện. Đền sát cạnh Cầu Vật cách thị xã Thái Bình 20km, cách thành phố Hải Phòng 70km, cách thị xã Kiến An 59 km.
III- Lịch sử di tích đền đào động.
1. Niên đại xây dựng đền.
Theo truyền thuyết đền là phủ đệ của thuỷ thần Vĩnh Công đại vương trấn Tam Kỳ giang linh ứng đại vương, có công phù vừa Hùng Duệ Vương dẹp loạn. Ngày 26/8 năm Mậu Thìn đời Duệ Vương ông tạ thế, vua cho tiền sửa sang phủ đệ thành đền miếu cho dân phụng thờ.
Đền thời Lý đền được củng cố, sách "Ngàn năm đất và người Thái Bình" xếp đền là "Một trong 4 tứ cổ cảnh triều Lý". Đến thời Trần đền miếu lộng lẫy, uy nghi. Điện tiền Phạm Ngũ Lão ngợi khen "Đây là cõi thần tiên nhất nước nhà".
Sang thời Lê, đền đã có đủ năm cung để đủ chỗ thờ Vĩnh Công đại vương và bốn ban công đồng tứ phủ (được đưa vào thờ).
Năm Thành Thái kỷ sửu (1889) được sự đỡ đầu của Thái Tử thiếu bảo Hoàng Trọng Phu, dân Đào Động mở rộng quy mô đền rộng 6000m2. Năm Khải Định thứ 9 (1925) có sự bảo lãnh của uỷ viên hội đồng tỉnh Thái Bình, Nghị viện dân biểu Bắc kỳ (chức vụ này đến 1937 mới bẩu), một điền chủ lớn ở phủ Kiến Xương là Phạm Luận đã sửa toà cấm điện từ kiến trúc hồi văn thành phương đình chồng diêm.
Trận bão tháng 9/1983 làm đỏ toà Phương Đình trên. Tháng 8/1984 bảo tàng Thái Bình kết hợp với UBND xã An Lễ đã phục hồi toà cấm này theo phong cách hồi văn mái chảy như trước năm 1926.
Kiến trúc ngày nay của đền Đào Động gần như giữ trọn vẹn lần đại tu cuối cùng năm 1889.
2. Đền Đào Động thờ thuỷ thần Vĩnh Công Đại Vương.
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí (tập III, NXB Khoa học xã hội). Phần tỉnh Nam Định, mục linh tích, chép: Đền Đào Động thuộc tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Dực thờ thuỷ thần Vĩnh Công Đại Vương, tương truyền là thái tử long cung giáng sinh ở Đào Động phù vua Hùng Duệ Vương dẹp loạn, sau hiển thánh được dân làng thờ. Phàm trong vùng có hạn hán, hoàng trùng, dịch bệnh … dân đến kêu cầu, đảo vũ… đều rất linh nghiệm….
Sách Thái Bình phong vật phú cũng chép tương tự.
Cuốn "Vĩnh Công Đại Vương - Hùng Triều Công Thần" do người quản giáo bách thần, Đông Các Đại học sỹ Nguyễn Bính viết:
"…. triệu tổ nước Việt ta khởi tử Lạc Long Quân, con trai vua Kinh Dương Vương, cháu ngoại vua Thần Nông, trị vì nước Sích Quỉ. Lạc Long Quân đi tuần thú phương Nam, tới hồ Động Đình, gặp tiên nữ Âu Cơ, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra 100 người con trai. Một hôm Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: ta là vốn Rồng, nang là giống Tiên, thuỷ hoả tương khắc, khó cùng ở lâu bền. Nay ta chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo ta xuống biển là việc lớn lâu dài, đoạn chia tay dắt 50 con xuống biển. Người con trưởng làm vua nước ta, đó là vua Hùng Vương đặt tên nước ta là Văn Lang, dựng đô ở Phong Châu, xây điện trên núi Ngũ Lĩnh, chọn người tài giỏi chia thành hai ban văn võ trị vì, phù truyền tử kế 18 đời, đều xưng hiệu Hùng Vương…
Vào đời Hùng Duệ Vương, tại trang An Cố, tổng Bình Lãng, huyện Thuỵ Vân (sau đổi là Thuỵ Anh nay là huyện Thái Thuỵ) có một người tên là Phạm Công, tinh tường nho, y, lý, số, làm nghề dạy học, sắc thuốc lấy vợ người làm Mai Diêm (nay là xã Thuỵ Hà, huyện Thái Thuỵ) họ Trần tên Lưu. Nhà này vợ chồng sống hạnh phúc, thích làm việc thiện như: góp tiền đúc chuông, tô tượng, sửa chùa không bao giờ thích cúng tiền, luôn giúp người nghèo, cho cơm kẻ đói…. chỉ hiềm một nỗi ngoài 40 tuổi mà chưa có con nên tâm trạng nhiều lúc rất buồn. Ông bà thường rủ nhau đi lễ các đền phủ lớn hoặc chu du các danh lam cổ tích và càng hết lòng chăm lo việc phúc….
Một hôm ông bà vãng cảnh trang Đào Động, bỗng gặp một cô gái đến vái lạy, thưa rằng: "Con là kẻ tha hương, cha mẹ mất sớm, không nơi nương tựa. Nay gặp ông bà hiền đức xin động lòng thường, cho con được về hầu hạ" Phạm Công, Trần Thị ngoảnh nhìn thấy thiếu nữ hình dung yểu điệu, tư chất thông minh, nói năng phải đạo… liền nhận đưa về nhà nuôi, đặt tên là Quí Nương.
Quí Nương càng lớn càng xinh đẹp, mặt hoa da phấn, mắt phượng mày ngài, tư chất thông minh, công dung ngôn hạnh đều đẹp. Một nhà hoà hiếu vui vầy.
Một hôm Quí Nương ra bãi biển tắm gội, trời đang xanh trong, bỗng nhiên trở gió, mua bão ầm ầm, chớp giật sấm rền và có một thần Giảo Long thần dài 8 thước (3,2m) hiện hình cuộn lấy Quí Nương 3 vòng. Lát sau, trời quang mây tạnh, Quí Nương tỉnh dậy vội trở lại nhà, từ đó trong người chuyển động và tự mang thai, ở nghén 13 tháng. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, thẹn nỗi không chồng có con, Quí Nương ra biển trở dạ sinh đẻ một mình, sinh ra một bọc máu đỏ, nang hoảng hốt đẩy bọc kia xuống biển. Hôm ấy là ngày 10 tháng giêng năm Đinh Tỵ (rắn có tài). Điềm trời xui khiến gặp lúc triều dâng đưa bọc thiêng vào sâu trong nội đồng.
Thời bấy giờ ở trang Đào Động có một ông già nghèo khó, đức hạnh tên là Nguyễn Minh làm nghề đánh cá bên sông. Đêm ấy buông vó đã sang giờ Tý (nửa đêm) mà không bắt được con cá nào. Mãi quá nửa đêm kéo vó thấy nặng, cố kéo lên thì thấy một bọc đỏ như máu, ông già sợ quá dùng sào đẩy ra, lát sau cất lên lại gặp bào thiêng, ông già càng sợ, lại dùng sào đẩy bào ra xa. Đến lần thứ ba vẫn gặp bào thiêng, già Nguyễn Minh vái lạy rằng: Nếu là điềm trời báo ứng, thánh chỉ thần đưa…. xin linh bào tự phanh xuất cho con dân được tỏ. Tức thì một tiếng sấm động trời, hương thơm toả ngát, ánh sáng chói loà, bọc thiêng tự nứt đôi sinh 3 thần xà. Đệ Nhất Xà ở lại Đào Động, Đệ Nhị Xà xuôi sông Đào Động về Ngự tại trang Thanh Do (nay là xã Thuỵ Thanh, huyện Thái Thuỵ), Đệ Tam Xà về với mẫu thần ở Hoa Diêm.
Biết điều kỳ là đêm qua, hương lão Đào Động sáng hôm sau đều đến thảo xá Nguyễn Minh, thấy long xà hùng dũng, tất cả bái lạy, tôn là linh xà, xin phép được nhận làm thần tử.
Từ khi Đệ Nhất linh xà ngự cử Đào Động, dân chúng đánh lưới nhiều cá, cất vó nhiều tôm, công việc làm ăn thuận lợi.
Ngày tháng thoi đưa kể đến vài năm, một hôm thần xà vái lạy dưỡng phụ (Nguyễn Minh) thưa rằng: "Ta vốn là hoàng tử Đức Long Vương ở biển Nam Hải vâng lệnh Ngọc Hoàng đại đế giáng vào cửa ngươi để thưởng công cho người hiền đức. Nay mai nước nhà có loạn lớn, vâng lệnh vua cha nay phải về thuỷ cung để luyện thuỷ quân dùng vào việc lớn về sau".
Triều hùng trị vì nối tiếp 17 đời. Đến đời vua Hùng Duệ Vương, vua sinh hạ toàn con gái. Trưởng công chúa đã gả cho thần núi Tản viên, thứ công chúa Tiên Dung chỉ thích du sơn, du thuỷ, sau theo chồng là Chử Đồng Tử về trời, vua hội đình thần truyền ngôi cho Tản Viên sơn thánh.
Bấy giờ có người cháu ngoại vua Hùng, họ Thục, tên Phán nghe tin vua định truyền ngôi cho phò mã, quên mình là cháu thì giận lắm liền chiêu mộ binh tướng, lại mượn quân nước láng giềng…. quân Thanh lững lẫy, chia thành 5 đạo từ các chấn hùng dũng tiến đánh Hùng Vương. Các tướng biên thuỳ chống cự không nổi đều dâng biểu xin cứu viện. Vua cho thêm tướng giỏi, quân đông đi cứu nguy, vẫn bị thua trận, nguy càng nguy gấp.
Hùng Vương cho lập đàn cao tế cáo trời đất, bách linh bách thần, đến giờ Tý ngày thứ 3 mơ thấy sứ giả nhà trời cưỡi mây hạ đàn bảo rằng: "Vận hội nhà Hùng chưa hết, nếu triệu được thần núi Tản Viên, thuỷ thần làng Đào Động hợp sức mà đánh thì quá 1 tuần là yên".
Đức vua tỉnh dậy, một mặt sai sứ đi triệu Tản Viếnơn thành, một mặt cử sứ xuống vùng biển về Đào Động trang để vời đức thuỷ thần. Sứ giả vừa tới đầu trang ấp (chỗ Tam Kỳ gặp sông Đào Đông - bến cửa Vĩnh) thì thấy gió mưa thét gào, đầy trời sấm chớp, nước cửa Vĩnh gầm lên, nước sông Tam Kỳ cuộn sóng và một thuỷ thần cưỡi sóng giữ nói lớn: "Ta là thuỷ thần sông Vĩnh, tự là Vĩnh Công chờ sứ giả ở đây" sứ giả vui mừng khôn xiết rước thần về kinh đô. Vĩnh Công triệu vương lão, trai tráng Đào Động chọn lấy 9 chàng trai khoẻ nhất sung làm gia thần thủ túc, lại cùng sứ giả xuống xuống Thanh Do, Mai Diêm đón đệ nhị linh xà, đệ tam linh xà về kinh bái yết vua. Vua Duệ thấy 3 ông, thân người đầu cá, dáng vóc như rồng, tiếng nói như sấm, lực địch vạn người, bàn mưu tính kế như thần thì cả mừng; phong thần Tản Viên là tướng tiên phong lo đánh các đạo sơn lâm. Vĩnh Công và nhị vị linh xã làm trung quân lo việc lấy quân vùng biển Sơn Nam và ái Châu để đánh vùng ven biển và hải đảo, lại cử thêm 1.000 tướng lĩnh, 12 vạn hùng binh theo 2 ông đánh giặc. Thần Vĩnh Công làng Đào Động và nhị vị long xà đi đến đâu, các loài ba ba, thuồng luồng và muôn trùng thuỷ tộc đều theo sóng cồn cùng kéo ra đảo, chỉ đánh vài trận quân Thục phải qui hàng. Phía vùng rừng núi, thần Tản Viên đưa cả hùm, beo, gấu ra trận, giặc khiếp đảm mà chết. Hai ông làm biểu tiếp báo về kinh, vua cho quân hai đạo được ca khúc khải hoàn.
Trong lễ mừng công, Vua Duệ Vương phong đức Vĩnh Công là thượng đẳng công thần, Vĩnh Công và các em vái tạ ơn vua không nhận chức tước, chỉ xin xá hết tô, binh, tạp dịch cho dân trang Đào Động để trả nghĩa tình mảnh đất và con người đã gắn bó với ông. Vua Hùng chuẩn tấu. Thần Vĩnh Công về Đào Động, tổ chức yến tiệc linh đình khen thưởng nam phụ, lão ấu. Thưởng công cho 9 gia thần thủ túc làng Đào theo mình xông pha trận mạc. Từ đó ông và dân Đào Động tình như cha con. Thần dạy dân cấy lúa trồng dâu, chăn tằm dệt lưới, dân làng Đào Động ngày càng no dư, xóm dưới làng trên luôn tiếng hát hò.
Lưu tại Đào trong vài tháng Vĩnh Công trở về phụng dưỡng song thân. ít lâu sau song thân qua đời, Vĩnh Công lo việc tang lễ chu đáo, phúng lễ 3 năm. Sau ngày đoạn tang, thần lại về Đào Động trang ở với dưỡng phụ, thọ trên 100 tuổi.
Một hôm, Vĩnh Công vời hương lão đến nhà dặn rằng: "Ta cùng các vị là dân lân dân ấp, ăn ở với nhau tình như ruột thịt, nghĩa như cha con. Nay ta vâng mệnh phải về hầu vua cha Long Vương, may ngày có nhớ đến ta thì lấy nhà ta đây là miếu sở, ngày ta ra đi làm ngày giỗ". Hương lão tất cả nức nở, bùi ngùi không nỡ chia tay, bỗng trời đất tối sầm, sấm chớp dữ dội, lát sau trời quang mây tạnh, chỉ còn lại áo xiêm của thần. Hôm ấy là ngày 25/8/Mậu Thìn. Dân lòng dâng biểu về kinh Vua Hùng Duệ Vương thương sót ban phong mỹ tự; chấn Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vương, Bát Hải Động Đình, lại cấp cho dân Đào Động 400 quan tiền, lo việc tang lễ, tu sửa lều tranh của thần Vĩnh Công thành miếu điện; hạ sắc miễn thuế cho dân, lấy lộc ấy thờ thần. Điểm lệ ấy truyền qua các đời, vì thế mà điện thần ngàn năm hương lửa không bao giờ tắt.
3. Đền Đào Động thờ công đồng tứ phủ.
Trên bảng văn trước đền Đào Động đề 4 chữ lớn: "Bát Hải Động Đình" - đình làng thờ Bát Hải, cũng có thể hiểu là nơi ngự của vua cha Bát Hải. Theo quan niệm của một số tín đồ ảnh hưởng đạo giáo cho rằng: Cõi trời là nơi ngự trị của vua cha Ngọc Hoàng. Cõi âm phủ do vua cha Diêm Vương trị vì, cõi sông biển do vua cha Bát Hải.
Mẫu Thoải là công chúa, con vua cha Bát Hải, các hương lão làng Đào Động còn nhớ một câu chuyện truyền kỳ : mẫu là người chuẩn mực của sự hoàn mỹ : mặt hoa da phấn, mắt phượng mày ngài, đức đủ công dung ngôn hạnh, có tài cầm kỳ thi hoạ được phụ vương cho thị nữ Tiểu Mai theo hầu. Thấy cảnh trần gian tươi đẹp, bà nhiều lần hoá thành nữ khách đi du lang các nơi danh lam Đại Việt. Một lần gặp được trang nam tử khôi ngô tuấn tú, đó là tiến sỹ Trương Kính Xuyên. Hai người đọc thơ, ngâm vịnh, tâm đầu ý hợp liền kết nghĩa tào khang; vợ chồng từng một thuở hạnh phúc. Thế rồi Tiểu Mai điêu ngoa đơm đặt nói xấu long cung công chúa, kính xuyên tin lời đầy đoạ nàng nơi sơn cùng thuỷ tận, sống với vườn trúc, rừng mai và chim muông cầm thú, phải ăn quả rừng, uống nước suối … May gặp tú tài Liễu Nghị tận tình đưa thư về thủ phủ. Vua cha sai Thái tử đem kiệu đón công chúa về, sai Xích Lân bắt Kính Xuyên, Thảo Mai trị tội, lại gả công chúa cho Liễu Nghị và phong cho công chúa chức Mẫu Nghi Thoải phủ, lưu cạnh bên điện vua cha.
Sự tích ấy mấy ngàn năm không ai biết tới, mãi đến khi bà Lê Thị Liễu Hạnh là cung nga hầu cận Ngọc Hoàng vì đánh vỡ chén quỳnh bị vua cha Ngọc Hoàng giáng vào cửa họ Lê làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, phủ Thiên Trường kể lại, dân Đào Động mới hay chuyện cũ, tích xưa, liền tả bị thần vị, lập cung thờ. Rước thánh mẫu Thoải thờ bên cạnh đức vua cha.
Khi mà Mẫu Thoải được hội nhập vào đền Đào Động thì tam toà thánh mẫu: Thiên Phủ, mẫu thượng ngàn cũng có mặt trong thần điện vua cha Bát Hải.
Khoảng từ niên hiệu Vĩnh Tộ, Đức Long, Dương Hoà… Thịnh Đức, triều Lê Thần tôn (1619 - 1662) chùa chiền mọc thiêm như nấm.
Tại trang Đào Động ngoài chùa Đào, dân bản xã lập thêm chùa Đồng Ông , chùa Đoài, có đủ tam bảo, chùa ông Hộ, ban phủ Mẫu Liễu. Đây cũng là thời kỳ Đào Động hồi sức sau nội chiến Nam Bắc triều, có điều kiện tu bổ mở rộng đền, lập thêm cung thờ từ vị Chầu Bà, Ngũ vị tôn ông, Tứ phủ quan hoàng, lập ban cô, ban cậu. Thế là đền làng Đào Động chính thức được tôn vinh là vua cha Bát Hải (phụ vương Mẫu Thoải). Từ đây Đào Động có danh nghĩa: Một trong những nôi sinh của đạo Mẫu. Đền Đào Động là chính từ của Mẫu Thoải.
Chương II: Giá trị văn hoá nghệ thuật
đền đào động
I. Nghệ thuật kiến trúc Đền Đào Động
1. Thế đất Đền Đào Động
Trước tiên ta tìm hiểu về thế đất làng Đào Động. Làng Đào Động là tâm điểm khu vực 9 sông khu vực hạ lưu sông Thái Bình phía Bắc có sông luộc, sông vĩnh, phía Đông có sông Hoá, sông vĩnh Bảo phía Nam có sông Diêm sông Lô, phía Tây có sông Đại lẫm Sông Tiên Hưng, trực tiếp vây bọc bởi sông vĩnh, sông Lẫm, sông Cô. Các thầy phòng thuỷ gọi là đất: Cửu Long quần thực, trên thực tế là vũng đất trũng, một vùng như trường “ Ba đào thuỷ động” được coi là nơi tụ hội linh khí của trời đất từ thời trần.
Đền Đào Động mở hướng Tây Nam, toạ lạc trên một triền đất cao rộng 20.520m2 (5 mẫu 5 sào Bắc Bộ) tự lưng vào sông vĩnh và 3 gò lớn: gò Đồng Hưng, gò Voi Phục, gò Ông He (cá he) trước mặt là sông Lẫm, xa hơn là Đầm Bà. Bên tả có trại Cúi, bên hữu có trại Cầu: gò đống lô xô chính giữa đền có giếng thiêng mnạh ngầm chẩy ra tận sông Đào Động. Tương truyền ai có lòng thành kinh được vào cung kêu cầu, thả lòng xuống giếng thiêng, nửa canh giờ sau bưởi chui qua lòng trôi trước cửa đền. Đố là miệng rồng. Thầy địa lý phán đây là mạch đất “ Cửu long quần thực, tiền tụ thuỷ, hậu tam sơn, tả Cúi, hữu Cầu, địa linh nhân kiệt, nhanh đăng bất tuyệt, phúc mãn thiên niên”.
Theo cụ già làng Đinh Văn Thiếp (sinh năm 1901) những kiểu đất trên là do cụ Tả Ao khi đi qua đền nói cho dân biết. Chuyện đó chưa tường hư thực. Xét các gò Đồng Ông Đống Hưng đều có mộ Hán, không rõ xưa vẫn là cồn, người Tầu lợi dụng đất ấy đặt mộ hay do con người sau khi đặt mộ trở đất đắp cao. Song dù sao cảnh đền quả có đẹp, phía trước mặt cạnh vườn là sông Đại Lẫm như dòng xà giang chảy qua, phía Bắc, phía Đông là sông Vĩnh uốn lượn như dải lụa nối vào sông cô Lạo thành 9 khúc, chia 2 ngả đổ vào sông Hoá và sông Diêm, xuôi ra cửa Trần và cửa Thái Bình. Phía nam đều là Cầu Vật và quốc lộ số 10 nối với thị xã Thái Bình, thành phố Nam Định, tỉnh lỵ kiến an , thành phố Hải Phòng. Giao thông thuỷ bộ đều tiện lợi.
2. Tổng thể kiến trúc đền Đào Động.
Đền Đào Động gồm 16 toà nhà lớn, cộng 82 gian. Nếu kể cả khu vực nhà bếp và công trình phụ thì tới 18 toà 100 gian xây dựng trên diện tích 2.000m2. Trừ cung điện nhà Vua và một vài chùa lớn như Ninh Phúc Tự (Bút Tháp, Hà Bắc) Thần Quang Tự (keo Thái Bình) có số toà, số gian trên dưới 100 gian... còn cả nước không có đền phủ nào to rộng, sánh với ngôi đền này.
Quần thể kiến trúc đền chia thành 4 tiểu khu, phía trước là 3 toà Đại Tiền Môn, tả hữu gồm 6 toà. Nhà lính (dành cho lính về gác trong hội đền) hành lang tả hữu, phía sau là 2 toà của thủ tự và nhân viên trị sự. 3 khu vực trên bao quanh 7 cung thờ thánh như khuôn viên chữ quốc lấy tim toà Trung Môn và Cấm Điện làm trục thần đạo, đền xây dựng đối xứng từng vì, từng toà. Khu vực trung tâm cao đẹp, khu vực ngoại biên và hành lang khiêm nhường liên kết thành một tổ hợp kiến trúc chặt chẽ, nổi bật điểm sáng mới Thờ Tự, dẫn dắt khách lễ qua đúng cửa từ thấp đến cao, từ cửa trình cô, trình cậu rồi vào cửa Công Đồng, qua tứ phủ Quan Hoàng rồi lên cửa chầu Bà, Tôn Ông. Nơi thân nghiêm nhất là cửa Mẫu và điện Vua Cha.
Khách tham quan có thể vào cửa tả ra cửa hữu, vào cổng, Đông ra cổng Tây thuận đường cửa đông đi tiếp các đền đài từ quan lớn Đệ nhất đến quan Lớn đệ Bát...
Nhà đến có 40 gian hành lang cho khách sắp lễ, tề chỉnh khăn áo (khi đến tế lễ, dự hội đền), rồi từ hành lang theo các mạnh vào 6 phủ dâng lễ. Lại có 3 gian nhà lính án cửa tả cạnh đền giám sát khách ra vào, có nhà thường trực trên trục sấn hành lang tả tiện việc giao dịch. Tổng thể kiến trúc đều vừa đẹp vừa khoa học, tôn được sự thiêng liêng thần điện.
3. Nghệ thuật kiến trúc cổng đến.
Từ trục thần đạo vào đến Đào Động có thể theo 3 công đó là Đại Tiền Môn (3 toà cổng chính), Đông Mô và Tây Môn. Đại Tiền Môn là cổng dẫn vào chính tâm cửa đền. Đông Môn dẫn khách vào hành lang Tả, Tây Môn dẫn vào hành lang bên hữu. Theo duy tâm ( và cũng vì thuận đường từ quốc lộ 10 vào). Vào cổng Đông ra cổng Tây là thuận đạo, phải phép, được lộc ( và cũng là lối ra đi lễ các đền khác như Đình Sinh, đền quan lớn Đệ Tam, Đệ Ngũ, Đệ Thất, chùa Tây..).
Hai cổng Đông Môn và Tây Môn
Đi từ dốc cầu vật, men theo 300m đường láng nhựa theo sông Đại Lẫm tới một sân lớn, giữa đào hồ tròn đường kính 16m chung quanh xây gạch, giữa hố đắp núi ngũ nhạc. Bốn mặt trồng cây cảnh và hoa bốn mùa. Phía Đông là đường lớn rẽ vào cổng Đông, phía Tây là đường lớn rẽ vào cổng Tây, gặp sân cổng rộng gần 2 sào Bắc Bộ, rẽ vào trung tâm là tới Đại Tiền Môn.
Kiến trúc hai toà cổng này khá đơn giảm. Đó là hai cột trụ rộng, trên đắp trụ đấu vuông 2 tầng. Cánh gà một bên ăn vào tường sân đền, một bên bắt vào hồ hành lang, phía trong phát triển cửa cuốn tò vò, trên trán xây một biển văn, đỉnh đắp văn hiệu, thành trên bên dưới soi chỉ mớ thành một bẳng văn. Trụ cột công soi chỉ kép, dưới đắp tảng vuông, 2 mặt sau cẩn cầu đối chữ Hán, Bảng văn cổng phía Đông đề 2 chữ lớn “Tả Môn” cổng Tây đề 2 chữ “ Hữu Môn”. Cả hai cửa đều lắp 2 cánh gỗ kiểu thượng sơn hạ mặt dưới bưng kín, sơn son, trên chạy song con bài.
Cổng chính: Đại Tiền Môn
Đại Tiền Môn gồm 3 ngôi lầu lớn trải dài 24m, lòng rộng 2m trung môn cao 8m (sấp sỉ nhà 3 tầng ), tả môn cao 6m. Riêng 2 cột đồng trụ góc cánh gà cao tới 5,6 m, gương tảng thứt cổ bông cao 1,08m mỗi mặt rộng 1,2m phần quả găng cao 2,4m, bền mặt mỗi chiều rộng 1m tạo dáng đứng vững chãi, bề thế không đâu có bằng.
Toà Trung Môn hùng dũng như cổng toà thành lớn, tầng thượng xây kiểu Mon đình, 3 toà, 10 mái, cao 3m, dài 3m, lòng rộng 1,2m. Mái tầng thượng đắp ngạc long ngậm đại bờ, góc bờ cánh đắp nghé hý cầu, đạo hay chỉ kép. Cả 3 toà đều bổ trụ đấu, cửa cuốn vòn. Bảng văn tầng thượng đắp 2 chữ lớn Thuân Thiên” bảng văn tầng cửa dưới đắp 4 chữ lớn “ Bát Hải Động Đình”
Phần thân cổng xây 4 trụ lớn: cao 5m bản rộng 0,6m trên chạy bao hơn hoa, dưới cuốn vòn trổ cổng rộng 2,4m cao 3m, đủ tầm cao khi rước kiệu không cần phải xuống đòn.
* Hai toà tả môn, hữu môn cách trung môn 1,35m (ngăn bằng hai tượng phù điệu Võ Sỹ Kim Cương) xây theo kiểu cổng thành luỹ, trên có lầu canh, dưới có tường vây bọc. Bốn góc, xây cột trụ bản rộng 0,8m cửa cuốn vòn, đóng cánh then bài thượng sở hạ mật.
Hai bức cánh gà nối từ tả hữu môn ra trụ biểu cũng uy nghi bề thế như bức tường thành cao tới 2,8m, nửa trên chia thành 5 ô vuông, trổ 5 ô tròn, phía dưới trát vữa da, quét vôi màu ghi.
Đây là toàn cổng lớn nhất trong các công trình nghệ thuật kiến trúc cổ trên đất Thái Bình và cũng là một trong những toà cổng hoành tráng hiếm có trong các đền, miếu Việt Nam.
4. Nghệ thuật kiến trúc khu đền chính.
Khu điện thờ đền Đào Động gồm 7 công trình kiến trúc lớn bố cục liên hoàn. Ngoài cùng là cung thời công đồng, trức cửa có hai bệ thờ lộ thiên thờ quan ngũ hổ, tiếp đến cung tứ phủ Quan hoàng rồi vào cung tứ phủ chầu Bà, sâu sau cùng là cung thờ Vua Cha Bát hải và cung cấm đặt tượng vua cha. Bên phải có điện thờ Tam Toá Thánh Mẫu, bên trái có điện thờ Ngũ Vị tôn Ông bố trí thành 5 lớp. Kiến trúc đăng đối theo tim gian giữa cung cộng đồng và hồi toà cung cấp.
Chỉ có toà Bái Đình (cung thờ Cộng đồng) và cung cuốn là có hệ thống cửa ra vào đóng mở, các cung khác chỉ có lối cửa mạch phía lối đi xuống sân hành lang, các toà mở thông nhau thành một không gian lớn, rộng gần 500m. Việc phân cung là căn cứ vào cấu trúc bộ mái, còn trên mặt nền là một mặt phẳng, tiện lợi cho việc đi lại lễ bái thông giữa các toà, điều nỳa giúp cho người ta đứng ở một điểm có thể bao quát được 6 phủ, 18 toà cửa võng rực rỡ vàng son, chiêm ngưỡng cả gần 100 câu đối khảm trai, sơn thiếp, cuốn thư đại tự thiếp vàng... tầng tầng lớp lớp ngai rộng, thuỷ đình, long đình, chấp kính, tán tía, lọng vàng.
Đây là một trong những di tích có phong cách phô diễn khéo giúp cho khách tham quan cảm thụ được toàn vẹn giá trị nghệ thuật khi đến thăm đền và cũng là hình thức thờ tứ phủ đồng đường. Cung công đồng là nơi khấn vái 4 cung đều nghe, một lễ có thể tới được cả tam toà, tứ phủ.
* Toà Bái Đình
Toà Bái Đình đền Đào Động rộng 5 gian, dài 19m, lòng rộng 7,2 m hiên rộng 1,2m. Kiến trúc đạo tầu chéo góc. Đại bờ đắp nổi hoa chanh, hồi nóc xây trụ đấu, đắp ngặc long, bở cánh soi 2 tầng chỉ mớ, góc hồi, đạo cất 3 tầng gồm long phục, rồng chầu, phượng mướn.
Hiên trước, bẩy trạ, long vấn, tứ quí hoá rồng 7 cột hiên tiền thửa toàn bằng đá phiến (cao 2,6m) đấu thượng soi 2 tầng, tảng trạm mặt hổ phù, liền khối đá thân cột. Toàn bộ nền thềm tam cấp được lát bằng 45 tấm đá xẻ bản rộng 0,4 x 1,2m dầy 0,02m ghép sít mạnh. Ngưỡng thượng, bao ngạch cửa liền tảng đá dài kín mỗi gian, cao 0,5m, bản dầy 0,2m, soi gọt đúng như ngưỡng ngạch gỗ, soi vỏ măng, chỉ mớ, trạm hoa cúc, hoa sen....
Mội thất đều cấu trúc kiểu lòng thuyền tứ trụ thượng quang đèn, hạ chồng cốn. Giường chạm văn mây , lá lật, đầu trạm hoa sen, 12 đầu dư chạm rồng, 12 cột hiên tiều hậu bằng đá được trạm long phi, long giáng hoặc trang tứ bình: mai điển, trúc tước tùng lộc, cúc diệp hoặc cẩn khắc câu đối.
Dọc hàng cột quận hậu lắp 3 toàn võng lớn. Gian trung tâm cửa dài 3m chiều cao 1,4m chia thành hai phần: trán cửa, diềm võng. Cả 3 toà cửa võng đều sơn son thiếp vàng, trảm khảm lưỡng long triều nguyệt, lưỡng phượng chầu đỉnh, tùng, cúc, trúc mai... Toàn bộ cột cái quân đều treo câu đối khảm trai, cân đối, thiếp vàng. Trên hàng xã trung gian trang trí 3 bước cuốn thư văn gấm to và đẹp.
* Cung thờ Quan Hoàng.
Cung dài 5 gian, cùng chung khẩu độ gian như toà bái đình 3 gian giữa làm theo kiểu lòng thuyền nhị trụ, thượng cốm hạ bẩy, 2 gian hồi gác mái bằng. Cốm gỗ trổ cuốn hình khánh, trạm hổ phù, long phụng hoặc trạm long vân, long giáng, hoặc cẩn câu đối. Hai tường hồi Đông và Tây bị ép giữa hệ đạo hai toà tiền tế và cung đệ tạm nên được xây bao lớn thấp chạy con song tiện; dưới chậy chỉ. Mỗi hồi trở một cửa mạch đóng cánh cửa khay thượng sơ hạ mật, xây bậc tam cấp.
Cửa võng gian trung tâm trán trạm mai long triều nguyệt, chìm phượng, hoa mài, thành riềm trạm lão mai, dưới cánh riềm nghê ghần cõng cửa - Hai bên cửa võng gian bên trạm đề tài hoa cúc, chim phượng, hoa cúc nở mãn khai thành mặt trời, gốc cúc thành mỏ, mặt đầu, bờm chim phượng, lá kết thành cánh, , cành kết thành đuôi, phong cách thể hiện thoáng nhã. Tất cả đều được sơn son thiếp vàng, trên xà ngang treo 3 bức đại tự lớn khung hoặc trạm nẹp giả lão trúc hoặc soi vỏ năng, trổ hoa lá, lòng hoa văn gấm quy bôi hoặc gấm toán tử. Trên 12 cốt đá gồm 24 mảng hoặc trạm tranh tứ bình các đề tài mai điểu, trúc tước, tùng lộc, cúc điệp và các câu đối khắc trên khung đá.
* Cung chầu Bà
Phong cách kiến trúc gần giống toà tài chính, xây kiểu chéo đan đầu góc. Đại bờ xây đầy đặn, chạy 2 tầng chỉ mớ. Hồi đắp trụ đấu có ngạc long ngậm đại bờ, chân trước ôm nóc, chân sau đạp bờ cánh, đuôi cuộn tròn thành vòng tròn âm dương. Góc bờ cánh đắp long mã, đao đắp song loan. Hai hồi trở hai cửa sổ cao 1,8m, rộng 1 m (lấy ánh sáng cho cung quan Hoàng và cung Đệ tứ). Nội thất làm kiểu lòng thuyền tứ trụ, thượng giá chiêng, hạ chồng giường, đấu trạm hoa sen, giường trạm hoa lá, đầu dự trạm rồng.
Cung tứ phủ Chầu Bà được trang trí 2 tầng cửa võng đề tài trạm khắc phong phú, đủ long chầu, phượng múa, nghê hý cầu, phượng hàm thư. Bên cạnh các gốc đào thụ, lão long cổ thụ có lâu đài, động tiên. Trên hàng xá trung, xà hạ treo 6 bức cuốn thư đẹp nhất trong quần thể di tích. Đặc biệt là hai bức cuốn thư hình chim phượng, và cá hoá rồng là những tác phẩm độc nhất vô nhị trong các thần điện tỉnh Thái Bình. Dưới 4 hàng cột treo 12 câu đối đều sơn son thiếp vàng. Đây là cung đẹp nhất trong quần thể di tích đền Đào Động.
* Cung lễ nghi thờ Vua cha Bát Hải.
Cung lễ nghi nhỏ, 3 gian dài 7m, lòng rộng 4,4m, xây kiểu hồi văn cách bảng. Nội thất keté cấu thượng giường hạ kẻ hiên trước không lắp cửa, có thể nhìn thông ra toà Bái Đình. Các thanh giường, đấu sen, xà, kẻ, bẩy, đều được sơn son thiếp vàng, vẽ văn mây bằng kim nhũ vàng tạo sự tôn kính đặc biệt với vua cha, vị thần chủ thể của đền. Cả 3 gian đều lắp cửa võng, các cột treo câu đối thiếp vàng. Vì cửa các bạo ngạch cột xà cũng đều được sơn son, kẻ chỉ nhũ hoặc vẽ long phọng thếp bạc phủ hoàng kim.
* Toà cung cấm:
Đây là nơi tôn nghiêm nhất trong toàn thể di tích Cung nối mái nóc và hoành qua hệ thống xà gối góc với toà Đệ Tứ Thành chữ Đinh gồm hai gian. Toà quanh năm cửa đóng then cài, chỉ dịp 10 tháng giêng dân mới vào làm lễ mộc dục, tuần rằm ông tứ mới vào quét dọn và thắp hương, ngày chỉ một lần vào cơi bấc, cấm khách lễ vào. Toà này ít trạm khắc chỉ có vài cửa ra vào được sơn son, vẽ rồng vàng, còn bên trong làm sơ sài kiểu lòng thuyền nhị trụ, thượng quang hạ kẻ, bào trơn đóng bén. Dưới thềm cung có giếng thiêng. Tương truyền đó là long khẩu (miệng rồng); phải là quan chức thần thế hoặc tín chủ có công lớn, lễ hậu mới được vào hầu sát long ngai, long thể. Giếng thiêng có mạch ngầm ăn thông ra cửa đền. Nếu là người chân tâm, phúc đức thả xuống giếng quả bưởi, nửa giờ sau quả bưởi trôi ngoài cửa sông, đó là điềm lành sẽ được “vua cha đoái thương phù trợ”.
* Điện tam toà thánh mẫu và Ngũ vị tôn ông.
Hai toà điện phủ quan trọng này chạy song song với toà cấm, mỗi toà 3 gian, kiến trúc kiểu thượng quang hạ kẻ, cột vuông. Lấy tường cung cấm và hồi cung đệ tứ làm tường hậu, tường hậu gian hồi cung đệ tam làm hồi phía Nam, trở hiên quay ra sân hành lang, trước hiên bổ các trụ vuông, đấu soi, tảng đơn, trên mi lan can thượng trang trí cuốn thư, con song và các ô hoa chanh, hoa sen, hoa cúc.
*Các toà hành lang
Chạy song song với đường trục cổng Đông Môn và Tây Môn là 2 dẫy hành lang nhà đền, mỗi bên đều xây thêm hai toà hành lang, 2 dẫy nhà chè. Phía đông gồm 3 gian nhà lính, 14 gian hành lang, 4 gian nhà chè. Phía tây xây 17 gian lang, 5 gian nhà chè. Sau đền còn xây 2 nhà của ban khách tiết, toà lớn rộng 5 gian, toà nhỏ dài 8 gian là nơi ăn ở làm việc của những người giúp việc. Các khu nha trên đều bị quân pháp tháo rỡ năm 1950 - 1951 về xông bốt cầu Vật hiện vẫn còn nền móng và mỗi bên còn sót lại 5 gian toà nhà này được xây theo kiểu hồi văn, kèo cầu quá giang vượ, cột gỗ xẻ mong, xà kèo bào trơn đóng bén.
5. Tượng pháp và các ban thời chính
Đền Đào Động có 9 ban thờ tính từ toà cấm ra các toà ngoài gồm ban thời đức Vưa Cha, các ban tam toà thánh Mẫu, ngũ vị tôn ông, tứ phủ Chầu Bà tứ phủ quan Hoàng, mẫu nghi thiên hạ, cộng đồng tứ phủ, lệ thờ thánh co thánh cậu và ban thờ ngũ hổ.
Xin được đề cập một số ban thờ và tượng pháp đặc sắc
Bàn thờ vua Cha Bát Hải
Vì vua Cha Bát Hải là thần chủ chính của đền, lại là phục vương mẫu thoải nên được dành trọn vẹn cung để tứ và cung cấm. Ngoài toà đệ tứ, trước cửa toàn cấm sơn son thiếp vàng được bầy một cổ long đình lớn đặt trên một án thờ lớn, cao 2,4cm. Đỉnh long đình trạm khắc rộng chầu phượng mớm, long án, 4 góc mặt bệ ghép xích đông trạm rộng. Hai tầng cửa võng ngoài trạm rộng trong trạm phượng, các cửa 3 mặt đềulắp cách cửa ô thượng hạ mật, tất cả sơn son thiếp vàng.
Trước cổ long đình xây một bệ thờ, ngoài bệ đặt ban thờ gỗ trên, ban thờ bầy một đỉnh đồng, 2 hạc đồng, 2 cây đèn đồng và một bát hương đồng lớn.
Chầu bên thánh tượng (cạnh long đình) che 2 tàn lớn màu vàng thêu rồng bằng chỉ kim tuyến, bầy hai tượng quan hầu cao 1m dáng thanh tú, đầu đội mũ hoa, vận áo thụng sơn màu xanh, nâu, xiêm trắng, chân đia hia, chắp tay đứng hầu.
Trong toà cấm điện: xây một bệ thờ tam cấp dài 2,4m, rộng 2,6m theo cấp độ từ 1,2m đến 1,6m, 2,2m. Tầng trên cùng đặt 4 bức bài vị. Tầng ban 2 đặt cỗ khám bình thiên rộng 2,6m sâu 1,4m, chạm khắc rồng chầu mặt nguyệt, long cuốn, tứ linh, hoa dây, tứ quí... Trong khám đặt một cỗ ngai, trên đặt tượng vua cha Bát Hải, tượng cao 1,6m (tính cả đế ngai tượng), đầu đội mũ bình thiên, mắt sáng, môi đỏ. Mình mặc áo long cổn, một tay cầm hốt, một tay phủ gối có tư thế của vua cha thuỷ phủ.
Trên ban bầy bộ tam sự bằng đồng, một bát hương đồng, một mâm bồng gỗ cỡ lớn và hai choé sứ Trung Quốc.
Dưới thềm gạch, gầm bệ thờ có một lỗ nhỏ, đường kính 0,2m gọi là giếng thiêng.
Ban thờ phủ mẫu
Ban thờ chiếm toàn bộ gian bên tủ, sát hồi hậu cung. Ban xây tam cấp. Bậc trên cùng đặt cổ khám bình thiên cao 1,4m, rộng 1,2m x 0,8m, trán chạm long hoá, cửa võng chạm hoa dây sơn son thiếp vàng, trong đặt 3 tượng mẫu, kích thước và phong độ giống hệt nhau: đều vấn tóc , cài trâm, có viền mũ trổ phượng, gương mặt đoan trang, cổ cao 3 ngấn, mình mặc áo lễ rộng tay, ngực có bối văn chạm phượng, tay phải cầm quạt, tay trái đặt phủ gối. Mẫu Thượng Thiên khoác áo đỏ (ngồi giữa) mẫu Thượng Ngàn khoác áo xanh (ở bên trái), Mẫu Thoải khoác áo trắng (bên phải).
Bậc thứ hai đặt cổ đèn lồng khung nứa, bọc giấy trang kim 5 màu tạo dáng như chiếc long đình nhỏ.
Bậc thứ ba bầy bát hương đồng chạm rộng.
Ban thờ Chầu bà.
Tứ phủ chầu Bà được thờ tại toà đệ nhị, kiến trúc toàn bằng đá. Cột được chạm rồng, cửa võng, cuốn thư sơn son thiếp vàng, ban thờ, đồ thờ được trang trí lộng lẫy vào bậc nhất trong tổng thể di tích.
Chính giữa gian trung tâm đặt một cỗ sập cổ dài 2,2m, rộng 1,65m; cao 0,8m; mặt sập soi chỉ măng lổ sập chia ô, chạm hoa cúc, hoa hồng, hoa đào, hoa lan. Bốn chân chạm hổ phù vai tiền, hậu, tả, hữu chạm dạ cá, giữa có hổ phù. Hai bên chạm hoa la, sơn son thiếp vàng.
Trên sập đặc một cổ môn đình: 3 trà, 12 mái, dài 1,9m; rộng 0,9m; cao 0,2m. Toà trung tâm: đỉnh mái chạm rỗng lồng đèn. Tầng trên đao chạm chim phượng, từng dưới chạm rồng. Hai toà tả hữu đao chạm chim phượng, từng dưới chạm rồng. Hai toà tả hữu đao chạm long phi. Cổ các chạm tùng, trúc, cúc, mai hoá rồng. Các hệ cột đều chạm rồng cuốn, cửa võng 3 toà ngoài chạm rồng, trong chạm chim phượng. Bệ 3 toà lắp dạ cá, chân quỳ.
Trước cửa môn đình bày một bát hương lớn; hai bên khám kính đặt tượng cậu ngồi ở tư thế quỳ xổm. Cậu bên phải đầu chít khăn vàng, mình mặc áo vàng, quấn trắng buộc ống cổ chân, chân đi hài vàng tay nâng lâm rượu. Cậu bên phải đầu chít khăn xanh, mình vận áo xanh, quần trắng, chân chống gối, chân quì, tay nâng chén rượu.
Hai bên sườn sập thờ đặt giá cắm 2 bộ chấp kính cán gỗ sơn son, lưỡi đồng và 2 quặt vả lớn trạm gấm toán tử, đường viền trạm rồng và gấm qui bối.
6. Các đồ thờ đẹp.
Không tính các bảng văn, câu đối chép kín trên các toà Đại Tiền Môn, cột trụ, cột đá liên vào cấu kiện kiến trúc.
Hiện đền Đồng Bằng dang trưng bầy 15 bức cuốn thư, 2 bức hoành phii, 46 câu đối gỗ, 24 bức câu đối trạm trên đá hoặc viết trên tường, 10 bức phù điệu. Từ toà đệ nhất đến hậu cung, 3 gian trung tâm đã lắp 5 tầng cửa võng, 5 lớp cuốn thư tạo thành nhiều tầng, nhiều lớp. Tất cả đều kết hợp giữa trạm bong, trổ thưng, sơn son thiếp vàng. Toàn bộ không gian cả 5 toà lớp lớp vàng son. Ngẩng lên trông vào đâu đâu cũng là tùng, các, trúc, mai, long, ni qui, phượng.
II- Lễ hội đề đào động.
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có lễ hội riêng của mình vừa là tưởng niệm sự tích một sự kiện lịch sử trọng đại của cộng đồng hay một thủ lĩnh có công lớn với nước, với dân hoặc với tôn giáo mà mình phụng sự, thông qua nghi lễ thờ phụng để bày tỏ lòng thành kính, biết ơn vừa củng cố đức tin và thỉnh cầu nguyện vọng.
Song hành với các lễ lớn là những ngày hội lớn. Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo theo phong tục tập quán, tín ngưỡng và nền văn minh đặc thù mà có những trò vui.
Hội lễ là tập hợp cộng đồng vừa có tính tín ngưỡng, vừa có tính chất giao lưu tình cảm, giao lưu văn hoá, góp phần giải toả tinh thần cho phần đông khách hội và biểu hiện tấm lòng hướng về cội nguồn.
Làng Đào Động xuân thu có hai lễ hội: hội lễ mộc dục thánh tượng và 10 giáng thiêng, hội chính vào tháng 8 (chính lệ từ 20 - 26/8).
1. Lễ hội tháng giêng (ngày 10 tháng giêng)
Lễ hội tháng giêng được chuẩn bị khá chu đáo. Ngay từ mồng một tết âm lịch, tiên chỉ và hương lão đã họp bàn cắt cử người để ngày 9 ra đền tẩy rửa thần điện. Sáng ngày 9 hương lão mời thầy làm lễ xuất thần. Tự các cụ dùng nước ngũ vị hương, vải sạch tắm rửa thánh tượng. Chiều tối lại mời thầy làm lễ yên vị các thần.
Ngày 10 tháng giêng tổ chức lễ hội "Ông Lềnh" - người trai làng được làng cấp ruộng cấy (khoảng 5 sào) để lo lễ đầu xuân. Lễ đầu xuân gồm 1 con lợn béo (độ 50kg), 1 mâm xôi đường kính 0,6m, cắm ngập chiếc đũa cả. Nếu gặp năm được mùa (Ông Lềnh" đương sự có thể sắm thêm lễ phụ bằng xôi, gà, song không bắt buộc.
Lợn tế thần, xôi lễ thánh bắt buộc ông Lềnh phải tự cấy, tự nuôi để gặt hái hải sản vật từ ruộng thuần, lúa của thần đem tế thần tỏ lòng thành kính công ơn thần.
Trước đêm hội lệ gia đình ông Lềnh phải nhờ bà con lối xóm đến giết lợn, đồ xôi, lòng gan tiết được luộc chín còn xương thịt để sống cả con. Khoảng giờ thìn (8 giờ) gia đình ông Lềnh nhờ mấy thanh niên ăn mặc sạch sẽ quần áo đẹp đội mâm , khiêng lễ. Dàn nhạc bát âm của giáp vào tận nhà cử nhạc lưu thuỷ rước lễ ra đình. Ông Lềnh chủ lễ mặc áo the khăn xếp, quần trắng,đi giầy da theo lễ ra trưởng giáp và 4 cụ bàn nhất ra nhận lễ, kiểm tra số lượng, chất lượng rồi đích thân dâng lễ trước ban thờ thần, tế thần đủ 3 tuần: tửu, lễ, tước rồi chia lộc theo thứ bậc.
Hội đầu xuân Đào Động có đủ các trò vui: đánh đu, đá cầu, chọi gà, song nổi trội nhất là thi đấu vật. Hội vật kéo dài suốt ngày 10 tháng giêng, năm nào cũng có từ 20 đến 25 cặp đô về đấu. Vì vậy mà cây cầu vượt qua sông Đào Động trên quốc lộ 10 được đặt tên là Cầu Vật.
2. Lễ hội tháng tám.
"Dù ai buôn xa bán xa
Hai mươi tháng tám giỗ cha thì về".
Đó là câu ca chỉ ngày giỗ Trần Hưng Đạo tại Kiếp Bạc, Hải Dương. Còn nhân dân Đào Động đã vận vào đền vua cha Bát Hải.
"Dù ai buôn xa bán xa.
Hai nhăm tháng tám giỗ cha thì về
Dù ai buôn bán trăm bề
Hai nhăm tháng tám nhờ về Đào thôn"
Theo thần tích thì vua cha Đào Động hoá ngày 25/8 năm Mậu Thìn, song lễ hội Đồng Bằng được khai mạc từ 20/8.
Đây là lễ hội chnhs của đền Đào Động được tổ chức long trọng.
Bộ máy tổ chức chi thành ba ban.
Ban Khánh Tiết: (Thượng do thủ từ chủ trì) lo việc tân trang đền đài, bao sái đồ thờ cúng, chuẩn bị phẩm vật tế thần.
Ban lễ tân: Lo chỗ tiếp khác từ quan trên về dự, khách xa, khách gần và tổ chức các trò vui (thường do thứ chỉ chủ trì).
Ban tự văn: Lo việc hành lễ, chọn các thành viên vào đội tế (do tiên chi chủ trì). Khó nhất là cử ông mạnh bái, phải đủ 5 tiêu chuẩn: đã hoặc đang giữ chức sắc ít nhất trong hàng quan xã, có học vấn từ bằng khoá sinh trở lên, gia đình tối thiếu có tứ đại đồng đường, có trai, có gái, gia đình phải trên thuận dưới hoà. Mạh bái phải đức độ, được dân kính trọng, trong năm gia đình không phạm đại tang.
Lịch trình lễ hội:
Khách về lễ đền Đào Động thường kéo dài từ 15/7 đến hết tháng 8 âm lịch đông nhất từ 15/8 - 30/8. Song chương trình lễ hội ghi trong hương ước và điển lệ" bản đền chỉ gồm 7 ngày.
Ngày 20/8 treo cờ kết hoa, dựng cột cờ đại cao 12m, kéo cờ hội, cắm cờ ngũ hành gián hàng đôi cắm trước cửa đình, hương lão vào đền dâng lễ cáo yết.
Ngày 21/8 làm lễ nghinh giá, rước kiệu từ đền ra đình Bơi, tổ chức hạ trải, thì vòng loại bơi trải .
Ngày 22, 23, 24 thi tứ kết, bán kết, chung kết bơi trải.
Ngày 25 thi giao chạ bơi trải với làng Cao Nội, Hải Dương và tổ chức đại tế ở đền.
Ngày 27 lễ tạ.
Lễ vật dùng trong hội lễ đền.
Trong 7 ngày lễ, nghi thức bày lễ đơn giản,mỗi ban chỉ có 1 mâm ngũ quả lớn, nhất thiết phải có chuối, cam, hồng, bưởi, nhãn...
Hoa thờ dùng toàn huệ trắng. Còn lễ vật của con công đệ tử thì nhiều lắm, tuỳ ý mỗi người. Song lễ vật tế thần ngày 25/8 phải đúng thể lệ gồm: 1 con bò đực lớn bỏ lòng ruột, để cả con. Một con bê đực lớn (bỏ lòng ruột) cạo sạch để cả con, một con lợn to (bỏ lòng ruột) cạo sạch để cả con. Mỗi lễ được đặt trên một án lớn xếp song hành trước của toà bái đình để tổ chức nghi lễ tế tam sinh.
Lễ tế thần Đào Động diễn ra các ngày 21, 22, 23, 24, 25, thỉnh thánh, tế chầu, đều đủ nghi lễ 3 tuần tiến lưu, tiến lễ, tiến tước. Ngày 25 tế Tam sinh.
Lễ rước thánh làng Đào Động được tổ chức long trọng và lỗng lẫy. Rước thánh từ đền ra đình Bơi để thần chứng giám cho lễ hạ trải, khai mạc hội đua thuyền.
Trong lễ hội đền Đồng Bằng chính lệ từ 20 - 26, song thực tế kéo dài suốt tháng 7. Đây là dịp cho các cung văn, các chiếu đồng hoạt động sôi động.
Hội làng Đào Động tưng bừng với hội đua thuyền, thi vật và các trò thi khác nhưu: đánh cờ tướng, thi tổ tôm, múa kỳ lân sư tử....
Hội làng Đào có vui hơn hội các làng khác xung quanh song yếu tố tế, lễ, lên đồng (đây là một trong hai trung tâm lên đồng lớn nhất ở Việt Nam sau Phủ Dầy Nam Định) vẫn lấn át phần hội.
Chương III- Công tác quản lý, khai thác và phát huy tác dụng di tích đền đào động.
Đền Đào Động là tài sản vô giá của nhân dân làng Đào, luôn được sự bảo trợ và trực tiếp chỉ đạo của chính quyền. Với tinh thần tập thể chính quyền chủ trương, hương lão dân chủ bàn bạc, các ban chuyên trách thực hiện không khuôn khổ phép vua và lệ làng, trên nền tảng của điển lệ lâu đời.
Đầu triều Nguyên: mọi việc tham mưu về tổ chức, tu bổ, tôn tạo, nghi lễ đều do hội đồng kỳ lão bàn bạc, rồi trình hội đồng kỳ mục. Sau khi họp liên tịch hội đồng lại cùng bàn bạc, thống nhất thành nghị quyết, nghị quyết đưa sang tranh thủ ý kiến của quan chức đương nhiệm hàng xã. Các việc sám sanh hoặc ghi lễ thường chính quyền chỉ là hình thức lấy lệ. Việc thu chi lớn hoặc tu sửa lớn xã cử thủ quĩ đứng ra cùng dân lo liệu và đích thân lý trưởng Đào đọng và lý phó thôn chỉ đạo.
Năm 1940, Nghị viện dân biểu Bắc kỳ Phạm Luận người làng Nam Huân, xã Đình Phùng, huyện Kiến Xương (trước đây đỡ đầu xây lại hậu cung) tranh thủ được lý lịch, hội đồng kỳ mục Đào Đồng và các quan xã, huyện đã đứng ra đấu thầu doanh thu đến với điều kiện không được làm phương hại đến bất kỳ một cơ sở vật chất nào, hỏng đâu sửa đấy, lo lễ vật, nhang đèn.
Cách mạng tháng 8 thành công, Nghị Luận đơn phương xoá hợp đồng, rút gia đình về quê ở. Uỷ ban hành chính xã cử ông Đinh Văn Thạnh ra trông coi đền. Khách đến lỗ đền thưa vắng.
Năm 1950, Pháp đô hộ đánh chiếm Thái Bình: đình Bơi, đình Vật thành bốt giặc, 10 gian phục vụ, 10 gian nhà chè bị dỡ về làm đền luỹ, miếu đền bị lãng quên. Mãi đến 1957 lễ hội mới được phục hồi.
Những năm 1965 - 1969 chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc ngày càng khốc liệt. Mười người ra trận chỉ vài người trở về. Đài phát thanh Sài Gòn ngày đêm đọc danh sách "sinh Bắc tử Nam" kích động tâm lý. Khiến những người yếu lòng lũ lượt rủ nhau về đền kêu cầu phó thủ tướng Lê Thanh Nghị phải ra văn bản: Cấm mở hội đền Phủ Dầy (Nam Định), đền Đồng Bằng (Thái Bình). UBND xã An Lễ phải dùng biện pháp chính quyền đóng cửa đền vào tháng tám, cử du kích xã trông coi, không cho dân vào đền, đặt lễ ngoài sân kêu cầu hoặc cử người quì đội lễ tín đồ quay mặt vào đền cúng bái.
Ngày 22/12/1986, Bộ Văn hoá (chấp nhận tờ trình của UBND tỉnh Thái Bình và Sở Văn hoá thông tin, đã ra quyết định số 225 VH/QĐ, công nhận đền Đồng Bằng (Đồng Bình - Đào Động) là di tích lịch sử văn hoá kiến trúc quốc gia. Từ đó đền Đào Động chính thức có bằng văn bản là Đồng Bằng và bước đầu hình thành ban quản lý.
ở Đào Động theo văn bản đề nghị của UBND xã An Lễ, được chủ tịch UBND huyện quyết định thành lập Ban quản lý di tích, do ông chủ tịch UBND xã làm trưởng ban, ông chủ tịch mặt trận tổ quốc và trưởng ban văn hoá xã làm phó ban. Các ông trưởng công an, xã đội trưởng, uỷ viên tài vụ xã, trưởng ban khánh tiết nhà đền làm uỷ viên.
Ban có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo các tiểu ban dưới quyền để thực hiện mọi chức năng: bảo vệ, huy động vốn, tu bổ, tôn tạo, tổ chức lễ hội và phát huy tác dụng di tích đền Đào Động.
Ban quản lý di tích Đào Động đã làm tốt việc vận động nhân dân tự nguyện đóng góp dưới hình thức các tập thể nhận từng hạng mục tự đứng ra huy động vốn, thuê thợ, mua vật liệu, tự đôn đốc thi công.
Để tuyên truyền giới thiệu phát huy, tác dụng di tích, ngoài việc truyện tranh "sự tích đền Đồng Bằng" khổ 21 x 30, phát hành nội bộ tập " tài liệu hướng dẫn tham quan đền Đồng Bằng" khổ 21 x 30 dầy 24 trang. Tờ Pôlôgam "Di tích lịch sử đền Đồng Bằng khổ 21 x 30.
Sách "lễ hội truyền thống tỉnh Thái bình". "Ngàn năm đất và người Thái Bình" cũng đề cấp đến giá trị kiến trúc, lễ hội đền Đồng Bằng.
Cho đến nay, ngày 10 tháng giêng âm lịch chưa tổ chức hội theo lễ cũ. Chỉ có một số cụ già biết ngày thánh đản tu sửa lễ ra đền, mang ý nghĩa lẽ đầu xuân. Hội tháng tám bước đầu được tổ chức khá qui cũ, vui lòng khách, an toàn di tích.
Một vài kiến nghị trong công tác tu bổ tôn tạo và phát huy tác dụng di tích.
Về cơ bản công tác tu bổ, tôn tạo và phát huy tác dụng di tích đền Đồng Bằng khá tốt chỉ còn một số hạn chế cần khắc phục.
Trong công tác tu bổ tôn tạo di tích.
Từ các hạng mục công trình, một toà nhà, một bệ thờ đến tổng thể từng cụm đền muốn tu sửa, tôn tạo nhất thiết phải có luận chứng, thiết kế được trưng cầu ý dân, sự góp ý của các chuyên gia bảo tàng tỉnh và sự phê duyệt của Sở Văn hoá thông tin thể thao tỉnh. Hạn chế tối đa việc đưa thêm tượng Cô, tượng Cậu tân thời, cái y môn đời mới, các đồ hàng mã vào các cung, các phủ.
Cần qui định chặt chẽ lại việc lễ bái ở đền Đồng Bằng để giữ được sự linh thiêng của tế, rước thân.
Cần giám định nội dung các bài hát văn của cung văn cho phù hợp với sự tích. Nội dung cần xúc tích, nêu được sự tích, công trạng và những lời thỉnh cầu có nội dung lành mạnh, có tính giáo dục trên tình thần kế thừa nghệ thuật hát văn truyền thống.
Ban quản lý di tích cần hợp tác với đài phát thanh, truyền hình tỉnh để đưa giới thiệu đền trên các chương trình du lịch, văn hoá… để phổ cập giá trị của đền với quần chúng, giới thiệu kỳ công về lịch sử đền… Xây dựng quan hệ hợp tác với các di tích: Cửa Ông (Quảng Ninh); Kiếp Bạc (Hải Dương); Phủ Dầy (Nam Định) để tuyên truyền giới thiệu khách tham quan du lịch cho nhau.
Kết luận
Đối với nhân dân Đào Động đền Đào Động là mốc son lịch sử đã bám vào mảnh đất đem tên "Ba đào lãng động" từ thuở các bậc tiền bối còn lênh đênh trên vạn chài sông Vĩnh đến khi hình thành làng Đào. Đức tin gửi vào thần điện, góp phần làm điểm tựa cho họ lên bờ khai hoang lấn biến, xây dựng Đào Động bát trang.
Với lịch sử dân tộc: đền là một điểm chốt, mắt xích quan trọng trong khu căn cứ quân đội nhà Trần. Đây là căn cứ quan trọng của tướng quân Phạm Ngũ Lão, phò mã Nguyễn Chế Nghĩa trong hai lần kháng chiến chống quân Nguyên (1285, 1288).
Đền chứa đựng những giá trị to lớn về văn hoá tinh thần và văn hoá vật chất.
Tiểu sử thuỷ thần "Vĩnh công đại vương" là bản sao sáng tinh thần tự tôn, tự cường dân tộc của người Việt trong buổi đầu dựng nước, là bản anh hùng ca hùng khí Văn Lang.
Tổng thể kiến trúc đền là một công trình khoa học trong kết cấu kiến trúc. Một quần thể 4 toà rộng 19,6m sâu 21m với tổng diện tích mặt sàn 411m2 có 5 sối mái gối nhau mà không dột. Hai gian mái bằng hồi cung đệ nhị đã rút ngắn máng thoát cho cả 3 cung và 3 phủ.
Hệ thống ánh sáng qua các cửa sổ đủ đến mọi góc một bình diện 411m2.
Với qui mô rộng lớn, kiến trúc hoành tráng, trạm khắc tinh xảo, vàng sơn rực rỡ và hàng trăm đồ vừa cổ vừa quí, vừa đẹp, vừa độc đáo. Thực chất đền Đào Động là một bảo tàng cổ vật lớn và chính ngôi nhà cũng là bản gốc của nghệ thuật kiến trúc điêu khắc cổ.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình "Bảo tồn di tích lịch sử văn hoá" - Nguyễn Đăng Duy, Trịnh Minh Đức - Trường Đại học Văn hoá Hà Nội - 1993
2. Bảo tàng di tích lễ hội - Phan Khanh, NXB Thông tin 1992
3. Hồ sơ di tích đền Đồng Bằng Ban quản lý di tích danh thắng Thái Bình - 1986.
4. Đất và người Thái Bình - Sở Văn hoá thông tin Thái Bình - 1990.
5. Lịch sử Việt Nam - Tập I- NXB Khoa học xã hội - Hà Nội 1971
6. Thái Bình sự kiện và nhân vật - Bùi Duy Lan, Phạm Minh Đức - Sở Khoa học CNMT và Sở Văn hoá thông tin Thái Bình
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35146.doc