Đề tài Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư

Đề tài: Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư MỤC LỤC Mục lục Phần mở đầu Phần nội dung Chương 1: Lý luận chung về đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lý đầu tư 1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển 1.1.1. Đầu tư 1.1.2. Đầu tư phát triển 1.1.2. Mối tương quan giữa đầu tư và đầu tư phát triển 1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển 1.2.1. Qui mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn 1.2.2. Thời kì đầu tư kéo dài 1.2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài 1.2.4. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển 1.2.5. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao 1.3. Sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư 1.3.1.Đặc điểm thứ nhất 1.3.2. Đặc điểm thứ hai 1.3.3. Đặc điểm thứ ba 1.3.4. Đặc điểm thứ tư 1.3.5. Đặc điểm thứ năm Chương 2: Thực trạng về đầu tư phát triển và đánh giá sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010 2.1.Thực trạng chung về đầu tư phát triển ở Việt Nam 2.2. Thực trạng chung về công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển ở Việt Nam 2.3Đánh giá thực trạng sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam 2.3.1. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ nhất 2.3.1.1. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng tiền vốn đầu tư 2.3.1.1.1 Khả năng tạo lập huy động vốn đầu tư phát triển ngày càng tăng 2.3.1.1.2 Tình hình các nguồn vốn cho đầu tư phát triển 2.3.1.1.3 Một số bất cập trong việc huy động vốn hiện nay và giải pháp khắc phục 2.3.1.2. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng nguồn nhân lực 2.3.1.3. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng nguồn vật tư 2.3.2. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ hai 2.3.2.1. Thực trạng về lập kế hoạch vốn đầu tư cho thời kỳ đầu tư kéo dài 2.3.2.2. Tình trạng đầu tư dàn trải 2.3.2.3. Công tác quản lý giám sát còn thực hiện chưa tốt, dẫn đến tình trạng các công trình sai phạm, chất lượng thấp xảy ra ngày càng nghiêm trọng. 2.3.2.4. Nghiên cứu tình huống cụ thể trường hợp tập đoàn Vinashin 2.3.3. Đánh giá sự quán triệt của đặc điểm thứ ba: 2.3.3.1 Thực trạng về hoạt động xây dựng cơ chế trong họat động đầu tư 2.3.3.1.1 Cơ chế vận hành chính sách đầu tư: 2.3.3.1.1.1.Cơ chế vận hành chính sách đầu tư còn nhiều hạn chế 2.3.3.1.2.Quá trình bảo hành bảo trì ở Việt Nam vẫn chưa được đề cao đúng mức. 2.3.3.2. Phương pháp dự báo khoa học: 2.3.3.2.1. Phân loại 2.3.3.2.2. Quy trình dự báo 2.3.3.2.3. Tình hình các phương pháp/mô hình dự báo ở Việt nam 2.3.4. Đánh giá sự quán triệt của đặc điểm thứ tư 2.3.5. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ năm Chương 3: Giải pháp tăng cường quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư 3.1. Dự báo xu hướng đầu tư phát triển trong giai đoạn 2011- 2015 3.2. . Giải pháp tăng cường quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư. 3.2.1. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ nhất 3.2.1.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình huy động vốn 3.2.1.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình sử dụng vốn 3.2.2. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ hai 3.2.2.1. Giải pháp tiến hành phân kì đầu tư 3.2.2.2. Giải pháp Thực hiện tốt cơ chế giám sát cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động đầu tư 3.2.3. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ ba 3.2.3.1. Giải pháp xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học 3.2.3.2. Giải pháp quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các kết quả đầu tư vào sử dụng và hoạt động tối đa công suất 3.2.3.3. Giải pháp quan tâm đúng mức đến độ rễ thời gian trong đầu tư 3.2.4. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ tư 3.2.4.1. Giải pháp hoàn thiện các chủ trương , quyết định đầu tư 3.2.4.2. Giải pháp lựa chọnn đia điểm dầu tư hợp lý 3.2.5. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ năm 3.2.5.1. Giải pháp hoàn thiện, nâng cao hoạt động nhận diện và quá trình đánh giá mức độ rủi ro 3.2.5.2.Giải pháp xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro 3.2.5.3. Giải pháp đối với Nhà nước Phần kết luận Tài liệu tham khảo

doc68 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2137 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uy hoạch còn xuất phát từ ý muốn chủ quan chưa gắn với nghiên cứu nhu cầu thị trường và khả năng của doanh nghiệp, như sự phát triển quá nhanh của diện tích cà phê, hồ tiêu, muối, nuôi cá tra, cá ba sa …tạo ra sự dư thừa nhu cầu, khiến cho bà con nôgng dân được mù nhưng mất giá vì khả năng mua gom của các doanh nghiệp và tiêu thụ trên thị trường là có hạn. Ba là, việc lồng ghép các quy hoạch giữa các ngành với nhau và giữa các ngành với vùng, lãnh thổ chưa tốt. Hiện nay công tác quy hoạch chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố và do nhiều cấp quản lý. Mỗi ngành có quy hoạch phát triển riêng của ngành đó, mỗi địa phương có quy hoạch riêng của địa phương. Những quy hoạch riêng lẻ này nhiều khi mâu thuẫn , trùng chéo nhau, không tuân thủ quy hoạch tổng thể chung của vùng và quốc gia dẫn đến lãng phí vốn nhà nước . Điển hình là việc quy hoạch phát triển ngành mía đường không gắn với quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu ở cá địa phương như : Nhà máy đường Linh Cảm ( Hà Tĩnh) hay Nhà máy đường Quảng Bình Thừa Thiên - Huế xây dựng xong không có nguyên liệu phải di dời đi nơi khác. Các nhà máy chế biến tinh bột sắt, chế biến dứa cùng xây dựng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá và Ninh Bình là những điển hình trong việc thiếu kết hợp giữa quy hoạch ngành và quy hoạch sử dụng đất đai. Bên cạnh xu hướng khép kín trong cả quy hoạch (cả quy hoạch lãnh thổ và quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch sản phẩm) đã dẫn tới sự tốn kém, lãng phí các nguồn lực nhà nước, tiêu biểu là : Dự án thoát nước Tân Kỳ - Tân Quí (TP.Hồ Chí Minh) đã hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng lại phải phá đi để làm đường giao thông gây lãng phí gần 1 tỷ đồng; Nhà máy xử lý nước thải của Khu công nghiệp Bắc Thăng Long - Vân Trì (Hà Nội) với giá trị công trình là 65,55 tỷ đồng và 1.255 triệu yên Nhật, hoàn thành bàn giao từ tháng 10/2005 nhưng không thể vận hành (kể cả là vận hành thử) do chưa được cung cấp nguồn điện. Hậu quả của vấn đề quy hoạch sai, quy hoạch thiếu đồng bộ không chỉ dưng lại ở vấn đề tốn kém, lãng phí vốn nhà nước trong thời điểm hiện tại mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triến này của các ngành, các vùng kinh tế vì phải sửa quy hoạch và làm lại mất them nhiều thời gian và kinh phí. Điều này cho thấy hơn lúc nào hết cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng các quy hoạch đi cùng với nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của các chủ đầu tư, gắn quyền hạn với trách nhiệm của các cấp quản lý, nguời có thẩm quyền và trách nhiệm bồi thường thiệt hại cụ thể, nếu để xảy ra những rủi ro do nguyên nhân chủ quan về quy hoạch đầu tư. 2.3.5. Đánh giá sự quán triệt của đặc điểm thứ năm: “ Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao” Thực trạng về chuẩn bị công tác quản trị rủi ro Công tác quản lý rủi ro trong đầu tư còn chưa được chú ý một cách đúng mức. Quản lý dự án là một nhiệm vụ khó khăn và đầy thử thách vì có nhiều thông số để xác định hậu quả cuối cùng của nó. Mặc dù các kỹ thuật quản lý dự án cổ điển - có thể xác định mục tiêu, chi phí, thủ tục cần thiết - đã được chứng minh cùng với các phương pháp có thể quản lý dự án một cách hiệu quả, nhưng các dự án vẫn bị vướng mắc trong khi đã được lên kế hoạch và kiểm soát chu đáo. Các lý do thường đe dọa một dự án không được nhận dạng. Những năm qua, đầu tư phát triển ở nước ta không ngừng tăng nhanh cả về quy mô, lĩnh vực với sự tham gia rộng rãi của toàn xã hội. Tuy nhiên, việc nhận dạng, đánh giá, kiểm soát nhằm hạn chế tác động xâú từ các ảnh hưởng nêu trên tới dự án chưa được chúng ta chú trọng, còn đối phó bị động. Thực tế đã phản ánh qua một số dự án đầu tư sản xuất mía đường, xây dựng hệ thống cảng biển, các khu chợ đầu mối…Chính các tác động không ổn từ môi trường xung quanh và điều chỉnh từ nội tại dự án dẫn tới phải thay đổi nhiều tiêu chí cơ bản được dự tính ban đầu và làm thay đổi hiệu quả đầu tư của dự án. Đó chính là sự tồn tại của rủi ro đối với dự án. Rủi ro xuất hiện khi tồn tại đồng thời hai yếu tố cơ bản: yếu tố gây ra rủi ro và đối tượng chịu tác động, ảnh hưởng. Sớm chủ động nhận dạng, phân tích, đánh giá, có biện pháp kiểm soát và giảm thiẻu các tác động xuấy của rủi ro là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo khả thi, hiệu quả của dự án. Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn luật được ban hành trong thời gian qua đã xác lập hành lang pháp lý quan trọng tạo điều kiện phát triển bền vững các hoạt động xây dựng ở nước ta và đưa ra các yêu cầu của pháp luật nhằm quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình đạt hiệu quả. Tại khoản 6, điều 1, Nghị định của Chính phủ số 112/2006/NĐ - CP, ngày 29/9/2006 đã quy định rõ nội dung thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình của người quyết định đầu tư trước khi phê duyệt dự án là: - Xem xét các yếu tố bảo đảm tính hiệu quả của dự án bao gồm: sự cần thiết đầu tư, quy mô công suất, công nghệ; thời gian, tiến độ thực hiện dự án; phân tích tàichính, hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án. - Xem xét các yếu tố bảo đảm tính khả thi của dự án bao gồm: sự phù hợp với quy hoạch; nhu cầu sử dụng đất, tài nguyên (nếu có); khả năng giải phóng mặt bằng, khả năng huy động vốn đáp ứng tiến độ của dự án; kinh nghiệm quản lý của chủ đầu tư; kết quả thẩm định thiết kế cơ sở; khả năng hoàn trả vốn vay; giải pháp phòng chống cháy nổ; các yếu tố ảnh hưởng đến dự án như quốc phòng, an ninh, môi trường trên cơ sở ý kiến bằng văn bản của các cơ quan liên quan và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Như vậy, theo các quy định hiện hành của Nhà nước, việc xem xét và khẳng định tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng công trình phải được làm rõ về nhiều mặt trong suốt thời gian phân tích hoạt động của dự án (vòng đời của dự án) trước khi ra quyết định đầu tư thực hiện dự án. Chương 3: Giải pháp tăng cường quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư 3.1. Dự báo xu hướng đầu tư phát triển trong giai đoạn 2011- 2015. Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 là phát triển nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững; tăng cường tiềm lực phát triển của đất nước. Nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế; đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đổi mới mạnh mẽ khoa học và công nghệ; nâng cao rõ rệt chất lượng giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và y tế, văn hóa, thể dục thể thao. Cải thiện đời sống nhân dân đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội. Nên xu hướng đầu tư phát triển vẫn chú trọng : Tiếp tục tập trung đầu tư nhằm chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả, phát huy được lợi thế từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm, tăng cường trang thiết bị có công nghệ tiên tiến, hiện đại hóa từng phần các ngành sản xuất công nghiệp, trước hết tập trung các ngành và sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh. Chú trọng đầu tư cho cơ sở hạ tầng các ngành kinh tế, xã hội, tập trung lĩnh vực giao thông, viễn thông, phát triển nguồn năng lượng, hệ thống thủy lợi đầu mối, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, cần đầu tư mở rộng sản xuất nông nghiệp đồng bộ hóa với phát triển công nghiệp chế biến. Đầu tư phát triển hạ tầng du lịch gắn với tôn tạo di tích cách mạng, di tích lịch sử, văn hóa, đầu tư bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai, phát triển hạ tầng đô thị. Tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực: hoàn thiện, nâng cấp và tăng cường đầu tư thiết bị dạy và học hệ thống giáo dục phổ thông, từng bước hiện đại hóa hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng. Tăng cường đầu tư chiều sâu và hiện đại hóa các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ. Tập trung nhiều hơn cho các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo. Tiếp tục ưu tiên đầu tư cho các vùng còn khó khăn, các tỉnh thường bị thiên tai, bão lũ. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư mạnh vào hạ tầng kinh tế, xã hội, nhằm tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế của đất nước. Tổ chức thực hiện có hiệu quả, theo đúng tiến độ của các dự án, công trình quan trọng quốc gia đã được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư và các dự án đã được phê duyệt, các chương trình mục tiêu quốc gia. Việc thực hiện các dự án, công trình, chương trình quan trọng phải nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ta trong kế hoạch 5 năm; tập trung vào các mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển giáo dục, đào tạo, dạy nghề, phòng chống dịch bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Hơn nữa, môi trường đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015 theo một số chuyên gia nhận định : -Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2011 sẽ đạt 7,2%, mức cao thứ 3 trong các nước châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ- theo Ngân hàng Standard Chartered. -Về xếp hạng môi trường kinh doanh năm 2011, Việt Nam tăng 10 bậc và hiện đứng thứ 78/183 nước có mức độ thuận lợi kinh doanh năm 2011. Việt Nam đứng thứ 4 trong các nước có mức độ cải thiện tốt nhất trong bảng xếp hạng 2011. Đặc biệt, nếu tính 5 năm gần đây, Việt Nam chỉ xếp sau Trung Quốc về mức độ cải thiện, nhờ tạo thuận lợi cho việc thành lập doanh nghiệp bằng cách áp dụng cơ chế một cửa, kết hợp thủ tục chứng nhận đăng ký kinh doanh với đăng ký mã số thuế và bỏ quy định xin giấy phép khắc dấu- theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới và Công ty Tài chính quốc tế (IFC) Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng trong tăng trưởng GDP so với các nền kinh tế khác trên toàn cầu. Trong phương diện phát triển kinh tế, viễn cảnh kinh tế Việt Nam là lạc quan so với các khu vực khác trên thế giới, với dự đoán của giới phân tích là tăng trưởng GDP thực tế hàng năm trung bình ở mức 6,7% giai đoạn 2010-2011 và sẽ tăng thêm đạt mức trung bình 7,2% giai đoạn 2012-2014. Điều này tạo thêm sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư phát triển ở Việt Nam hơn nữa tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, hứa hẹn một giai đoạn huy động và thực hiện hoạt động đầu tư phát triển nổi bật. 3.2. . Giải pháp tăng cường quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư. 3.2.1. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ nhất Vốn cho đầu tư phát triển lớn và thường năm khê động trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Vốn này thường nằm dưới dạng nhưng công trình xây dựng dở dang và tất nhiên nó không sinh lời, không đem lại lợi nhuận cho chủ đầu tư trong suốt quá trình thực hiện dự án. Vì vậy, để đảm bảo được hiệu quả đầu tư thì chúng ta cần có những biện pháp thích hợp để thu hút, sử dụng nguồn vốn của dự án một cách có hiệu quả 3.2.1.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình huy động vốn Các dự án đầu tư phát triển thường đòi hỏi một khối lượng vốn không hề nhỏ . Và để huy động được một khối lượng như vậy là điều không hề dễ dàng. Xét trên gốc độ toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguốn vốn đầu tư nước ngoài trong đó " Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng". Vốn trong nước ổn định, bền vững, giảm thiểu được những hậu quả xấu đối với nền kinh tế do những tác động của thị trường tài chính tiền tệ và nền kinh tế thế giới. Trong khi đó, nguồn vốn nước ngoài giúp ta tận dụng tối đa các lợi thế so sánh của đất nước , nhanh chóng tạo năng lực tích lũy nội địa cao để đảm bảo vai trò quyết định của vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng kinh tế. Và để huy động vốn có hiệu quả, chúng ta cần tập trung vào các giải pháp sau: - Thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa các giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vốn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Thông qua việc đánh giá kết quả của các đợt phát hành trái phiếu chính , rút ra kinh nghiệm để có biện pháp điều chỉnh nhằm tận dụng tối đa công cụ trái phiếu chính phủ trong việc huy động vốn. Kho bạc Nhà nước không trực tiếp bán lẻ tín phiếu hay trái phiếu Chính phủ, hay công trái quốc gia mà để tổ chức đấu thầu từng đợt qua Ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường chứng khoán dựa trên nhu cầu vốn. Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ nên được ưu tiên phát hành trong nước để thu hút mọi nguồn ngoại tệ trong dân cho đầu tư phát triển, lãi suất hấp dẫn trước hết phải để chính người dân được hưởng mà chưa cần phải phát hành trên thị trường quốc tế. - Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đối với các ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, nên xem xét cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua với tỷ lệ không quá 49% vốn cổ phần của ngân hàng đó và một nhà đầu tư mua không quá 30% vốn cổ phần của một ngân hàng Việt Nam. Việc nâng tỷ lệ này, vẫn đảm bảo tỷ lệ chi phối của phía Việt Nam trong ngân hàng, mặt khác cho phép thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Hơn thế nữa, gắn liền với huy động vốn, chúng ta còn thu hút công nghệ ngân hàng hiện đại, trình độ quản trị điều hành ngân hàng tiên tiến, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước. - Tiếp tục đổi mới lĩnh vực thanh toán, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong ngành tài chính, như: thực hiện thu thuế và lệ phí, bảo hiểm,... bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức khác, như: thu cước phí bưu chính viễn thông, thu tiền điện nước, phí sử dụng cáp truyền hình, các hoạt động thu phí và thanh toán ổn định khác,... cũng cần chủ động và sẵn sàng phối hợp với ngân hàng trong sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức có khối lượng chi tiền mặt lớn, như: Bảo hiểm xã hội, các doanh nghiệp và tổ chức có đông người lao động,...sử dụng việc chi trả lương qua hệ thống ATM của ngân hàng. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt, quy định mức giá trị của các khoản thanh toán không được sử dụng tiền mặt. Về phía hệ thống ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư hiện đại hóa công nghệ, phát triển dịch vụ, phát triển mạng lưới máy rút tiền tự động ATM,... Thực hiện giải pháp này không những huy động được khối lượng vốn rất lớn trong xã hội vào hệ thống ngân hàng mà còn tiết kiệm các khoản chi khổng lồ cho các hoạt động tiền mặt, góp phần hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong xã hội. - Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các NHTM và tổ chức tín dụng hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn rất lớn và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư. Đặc biệt là các NHTM cổ phần cũng nâng cao khả năng quản trị kinh doanh vốn, nên thị trường liên ngân hàng, đầu tư vốn trên thị trường tiền gửi của các tổ chức tín dụng phát triển mạnh mẽ hơn. Nhiều NHTM đa dạng hóa danh mục tài sản có, không chỉ cho vay trực tiếp, mà còn phân tán rủi ro bằng cách đầu tư trên thị trường tiền gửi, bán buôn vốn ngắn hạn cho các NHTM khác có điều kiện mở rộng cho vay an toàn, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, công trái và tín phiếu Kho bạc nhà nước, trái phiếu đô thị, trái phiếu doanh nghiệp... Khi cần vốn khả dụng, các ngân hàng có thể giao dịch các loại giấy tờ có giá trên thị trường mở với Ngân hàng Nhà nước, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế. - Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước, như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, đổi mới thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của thị trường vốn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của Việt kiều, vốn đầu tư của người dân trong thành lập và bỏ vốn kinh doanh,... cần được thực hiện theo hướng vừa thúc đẩy các kênh xúc tiến đầu tư, mời gọi đầu tư, vừa cải tiến các quy trình, thủ tục, vừa chống tiêu cực, phiền hà, nhưng phải giám sát chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, chống các hoạt động lừa đảo hay tiêu cực khác.  3.2.1.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình sử dụng vốn Mỗi dự án đầu tư đều trải qua 3 giai đoạn: lập dự án đầu tư, thực hiện dự án đầu tư và vận hành kết quả đầu tư. Trong 3 giai đoạn này, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại của 2 giai đoạn sau. Vì vậy, muốn quá trình sử dụng vốn được hiệu quả , trước tiên ta phải chú trọng khâu lập dự án. Dự án đầu tư phải có sự nghiên cứu đầy đủ, tìm hiểu kĩ càng về môi trường, điều kiện vĩ mô, quy hoạch, thị trường .., lường trước được càng tình huống có thể xảy ra cũng như biện pháp xử lí. Giai đoạn này đòi hỏi người lập dự án phải có chuyên môn, kinh nghiệm nhằm loại bỏ các dự án không khả thi hoặc lợi nhuận thấp, lựa chọn thực hiện các dự án khả thi nhất nhằm tránh gây lãng phí nguồn vốn đầu tư. Sang đến giai đoạn thực hiện dự án đầu tư, cần có sự phối hợp giữa chuyên gia kinh tế cũng như các chuyên gia trong lĩnh vực được đầu tư, xây dựng để tiến hành quá trình mua sắm, thi công, xây lắp công trình đảm bảo tiến độ và chất lượng. Đối với nguồn vốn tư nhân, do trách nhiệm sử dụng vốn hiệu quả thường gắn liền với lợi ích của cá nhân chủ đầu tư nên hiệu quả sử dụng vốn thường cao hơn. Còn với các doanh nghiệp sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn tín dụng được nhà nước bảo lãnh,.. thì hiệu quả sử dụng vốn vẫn là vấn đề còn nhức nhối. Trong những năm vừa qua, phần lớn các DNNN được sắp xếp lại theo hướng cổ phần hóa đã nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đối với nền kinh tế, sản xuất kinh doanh đã có lãi, nhiều DN  đã mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, khắc phục tình trạng lỗ lũy kế và có vốn tích lũy để tái sản xuất mở rộng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều doanh nghiệp Nhà nước hiện nay hoạt động kém hiệu quả, không bảo toàn được vốn, còn tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự chi viện của Nhà nước.   Về cơ cấu vốn trong doanh nghiệp bao gồm nhiều nguồn như nguồn vốn chủ sở hữu, vốn được bổ sung từ lợi nhuận hàng năm, các quỹ của xí nghiệp, vốn đi vay của các tổ chức tín dụng; vốn đi chiếm dụng của khách hàng. Mỗi loại vốn  phản ánh tính chất và nguồn hình thành khác nhau. Thực tế hiện nay cần đi sâu xem xét công tác quản lý vốn của DN chủ yếu là các loại vốn trong thanh toán như công nợ phải thu; các khoản nợ phải trả trong đó có nợ vay ngân hàng. Bởi lẽ những khoản nợ này chiếm tỷ trọng lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu công tác quản lý tốt thì khả năng phát sinh những khoản nợ này chỉ tồn tại trong thời gian nhất định và ngược lại nếu công tác quản lý yếu kém (nợ từ các năm trước chuyển sang) thì công nợ sẽ tăng lên. Vấn đề đặt ra là không cho phép DN để khách hàng chiếm dụng vốn lâu ngày, chỉ được phép chiếm dụng trong thời hạn cho phŠp khoảng trong vòng 1 tháng (khoảng 30 ngày). Mô hình của các DN khi đã được sắp xếp lại và tiến hành cổ phần hóa được cấp có thẩm quyền phê duyệt là hai hướng đi lâu dài trong tương lai của mỗi DN. Để triển khai mô hình này đạt hiệu quả kinh tế cao đòi hỏi phải có nhiều yếu tố, chính sách tác động, trong đó đổi mới phương thức quản lý và điều hành của Giám đốc DN giữ vai trò quyết định. Vốn là một trong những yếu tố không thể thiếu được trong giai đoạn ban đầu khi tiến hành cổ phần hóa, xác định giá trị DN. Như vậy cái gốc của vấn đề vẫn là bắt nguồn từ sản xuất kinh doanh. Nếu sản xuất kinh doanh khá, sản phẩm cạnh tranh được với thị trường thì không những có lợi nhuận mà vốn cũng được quay vòng nhanh, ngược lại nếu sản xuất kinh doanh kém hiệu quả thì vốn sẽ bị ứ đọng. Để từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN cần tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DN, kinh nghiệm cho thấy chỉ có cổ phần hóa thì vốn mới được quản lý chặt chẽ hơn. Trước hết, đối với DNNN, kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN. Thực hiện đầu tư vốn thông qua các Công ty đầu tư tài  chính của Nhà nước. Từ thực tế hiện nay, vẫn còn nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ, tiến độ thực hiện chậm, hiệu quả hoạt động của nhiều DNNN còn thấp, tình trạng thất thoát, lãng phí và tham nhũng chưa được khắc phục. Thứ hai là, trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn phải giải quyết nhu cầu chi tiêu lớn cho an ninh quốc phòng và các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội khác nên việc trợ giúp cho các DN cũng rất hạn hẹp. Bản thân các ngân hàng thương mại cũng là DN nên nguồn vốn cho vay cũng là  nguồn vốn huy động. Nếu DN không trả được nợ thì ngân hàng cũng sẽ không có vốn để quay vòng và ngược lại. Nên DN phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh là chính, tận dụng mọi nguồn thu và huy động vốn từ nhiều nguồn để giảm bớt những áp lực  khó khăn nói chung. Thứ ba là, đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp lại để cổ phần hóa, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và quyết định phương án sắp xếp lại DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới DNNN. Đồng thời, tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng để giúp cho các DN đổi mới công nghệ bằng nguồn vốn trung dài hạn để mua sắm các loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và xây dựng nhà xưởng để DN có đủ sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế. Thứ tư, đối với tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vốn vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có dự án khả thi và có khả năng trả nợ. Thứ năm, tăng cường đôn đốc thu hồi nhanh vốn nhanh, thực hiện phương thức "tiền vào hàng ra, tiền trao cháo múc" hạn chế tối đa nhất các khoản vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng trong thanh toán. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó tạo ra lợi nhuận trong DN, nâng cao đời sống của người lao động. Thứ sáu là phát triển mạnh các DN vừa và nhỏ, khuyến khích đầu tư cho các DN tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cần phát triển mạnh mẽ các mô hình DN tư nhân, mô hình này rất thích hợp với nền kinh tế thị trường ở nước ta. 3.2.2. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ hai 3.2.2.1. Giải pháp tiến hành phân kì đầu tư Hoạt động đầu tư phát triển là một hoạt động phức tạp, gồm nhiều công việc từ khâu chuẩn bị cho đến khu ra thành quả khai thác. Giai đoạn lập dự án sẽ cho kết quả là một bản dự án hoàn chỉnh, chi tiết, cụ thể. Giai đoạn thực hiền đầu tư sẽ được tiến hành dựa trên bản dự án này. Các công việc của giai đoạn thực hiện đầu tư cần tuần thủ đúng kế hoạch của dự án đã lập ra. Và đây cũng chính là giai đoạn mà vốn thường nằm khê đọng dưới dạng các công trình, vật kiến trúc xây dựng dở dang. Các công trình máy móc, nguyên vật liệu chịu sự tác động của tự nhiên dẫn đến hao mòn về mặt lí hóa. Do đó, các khâu của giai đoạn thực hiện dự án cần được thực hiện nhanh chóng nhưng vẫn phải đám bảo chất lượng công trình. Muốn như vậy, trong giai đoạn này cần phải có sự phân kì đầu tư một cách hiệu quả, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, khắc phục tình tráng thiế vốn, nợ đọng vốn. Và quan trọng là chuẩn bị tốt một kế hoạch vốn đầu tư, phải quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư như: 1. Công trình xây dựng trước khi triển khai phải được lập tiến độ thi công xây dựng. Tiến độ thi công xây dựng công trình phải phù hợp với tổng tiến độ của dự án đã được phê duyệt. 2. Đối với công trình xây dựng có quy mô lớn và thời gian thi công kéo dài thì tiến độ xây dựng công trình phải được lập cho từng giai đoạn, tháng, quý, năm. 3. Nhà thầu thi công xây dựng công trình có nghĩa vụ lập tiến độ thi công xây dựng chi tiết, bố trí xen kẽ kết hợp các công việc cần thực hiện nhưng phải bảo đảm phù hợp với tổng tiến độ của dự án. 4. Chủ đầu tư, nhà thầu thi công xây dựng, tư vấn giám sát và các bên có liên quan có trách nhiệm theo dõi, giám sát tiến độ thi công xây dựng công trình và điều chỉnh tiến độ trong trường hợp tiến độ thi công xây dựng ở một số giai đoạn bị kéo dài nhưng không được làm ảnh hưởng đến tổng tiến độ của dự án. Chú ý: Trường hợp xét thấy tổng tiến độ của dự án bị kéo dài thì chủ đầu tư phải báo cáo người quyết định đầu tư để quyết định việc điều chỉnh tổng tiến độ của dự án. 5. Khuyến khích việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng trên cơ sở đảm bảo chất lượng công trình. Chú ý: Trường hợp đẩy nhanh tiến độ xây dựng đem lại hiệu quả cao hơn cho dự án thì nhà thầu xây dựng được xét thưởng theo hợp đồng. Trường hợp kéo dài tiến độ xây dựng gây thiệt hại thì bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại và bị phạt vi phạm hợp đồng. Và các nhà đầu tư cần có chiến lược đầu tư dài hạn về nguồn nhân lực, về đối tác chiến lược, về công nghệ… và phải có nguồn tài chính dài hạn có tính ổn định 3.2.2.2. Giải pháp Thực hiện tốt cơ chế giám sát cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động đầu tư Cơ chế giám sát cộng đồng trong hoạt động đầu tư xây dựng của các bộ ngành, địa phương và các DNNN được Thủ tướng Chính phủ ban hành trong Quyết định số 80/2005/QĐ-TTG ngày 18/04/2005, Quy chế giám sát cộng đồng ra đời, một mặt chính thức công bố về mặt luật pháp là cho cộng đồng có quyền làm, mặt khác là đưa người giám sát vào một hệ thống có tổ chức để thực hiện quyền phản ánh của mình, tiếp cận với hệ thống quản lý Nhà nước về đầu tư. Qua giám sát, cộng đồng có thể phát hiện và báo cho cơ quan có thẩm quyền về những việc làm xâm hại đến lợi ích của mình; những tác động tiêu cực của dự án đến môi trường sinh sống của cộng đồng trong quá trình thực hiện đầu tư, vận hành dự án, từ đó góp phần làm giảm thiểu các hành vi gian lận, sai trái của các cơ quan, đơn vị thực hiện các chương trình, dự án đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Để cơ chế này đi vào thực tế và phát huy tác dụng, cần thực hiện những giải pháp sau: Thứ nhất, công khai hóa các thông tin về hoạt động đầu tư công theo quy định của Nhà nước. Chỉ khi nào công tác khai hóa thông tin tốt thì người dân mới biết để tham gia và giám sát cộng đồng mới đạt hiệu quả. Ví dụ như đầu tư sau khi có quyết định được duyệt, phải công khai quyết định ở nơi thực hiện dự án về chủ đầu tư, diện tích sử dụng đất, nguồn vốn, ai thiết kế, ai thi công và công khai ở nơi công cộng như trụ sở ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố - nơi thực hiện dự án. Thứ hai, cần có một tổ chức đủ mạnh và có uy tín ( như Mặt trận Tổ Quốc ) ở địa phương sở tại để thu nhập, thẩm định lại ý kiến đóng góp ( vì nhiều khi ý kiến của cộng đồng không thực sự chuẩn xác ) và tổ chức để cho người dân, cộng đồng thực hiện ý kiến đóng góp cho dự án, phản ánh của người dân theo quy chế, phải được thực hiện qua Ban giám sát là để phần nào đó tránh gây phiền hà, phức tạp trong quá trình quản lý điều hành, triển khai dự án của chủ đầu tư, ban quản lý dự án, nhà thầu, đồng thời tránh chuyện người dân biết sai phạm mà không biết phản ánh với ai hoặc họ tiến hành những hoạt động giám sát mang tính tự phát. Việc giám sát của người dân chỉ nên dừng ở các vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng như đất đai, môi trường, trật tự xã hội, các vấn đề liên quan đến kỹ thuật như dự toán, thiết kế thì đã có các cơ quan chức năng xử lý. Ngoài ra, cộng đồng cũng cần giám sát việc giải quyết các kiến nghị của cơ quan chức năng để cơ quan này phải giải quyết đến nơi đến chốn. Đây là quy chế dành cho cộng đồng, nên cần phải được tuyên truyền, phổ biến sâu đến tất cả cộng đồng dân cư để biết để thực hiện. Thứ ba, có cơ chế khuyến khích, động viên, khen thưởng đối với các cá nhân, tổ chức, báo chí, cơ quan ngôn luận có công khám phá ra những sai phạm trong quá trình thực hiện dự án đầu tư. Có như vậy, chất lượng của các dự án đầu tư công mới được cải thiện, góp phần giảm thất thoát lãng phí, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Thứ tư, cần đặc biệt đề cao và thực hiện tốt vai trò của các cơ quan dân cử là Hội đồng nhân dân các cấp đến Quốc hội trong việc quyết định và giám sát các hoạt động đầu tư công theo đúng quy định của pháp luật. 3.2.3. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ ba Vận hành kết quả đầu tư là giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ một dự án đầu tư, quyết định tới việc dự án đầu tư có đạt được mục tiêu đề ra không. Đó cũng là giai đoạn thu hồi lại vốn và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư. Giai đoạn này thường kéo dài, phụ thuọc trực tiếp vào quá trình quản lí hoạt động của các kết quả đầu tư. Để hoạt động đầu tư đạt được hiệu quả tốt nhất, thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư cần được làm tốt. Bởi vậy, một số giải pháp sau có tác dụng tăng cường hiệu quả cho công tác quản lí ở các giai đoạn : 3.2.3.1. Giải pháp xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học Đối với mỗi dự án, điểm mấu chốt là sản phẩm của dự án được chấp nhận trên thị trường, đáp ứng được các nhu cầu của thị trường thì nhà đầu tư mới có thể hoàn lại vốn và sinh lời. Vì vậy, công tác dự báo là vô cùng quan trọng, phải được thực hiện tỉ mỉ và nghiêm túc ngay từ khi lập báo cáo khả thi và phải thường xuyên được cập nhật trong suốt quá trình vận hành do nhu cầu thị trường thường xuyên thay đổi. Trước hết phải xác định được nhu cầu thị trường cho sản phẩm dự án trong tương lai, khả năng cung ứng sản phẩm trong từng năm và cả đời dự án, từ đó mới có các quyết định thu hẹp hay mở rộng sản xuất cho phù hợp. Việc phân tích, đánh giá tiềm năng và quy mô của dự án cần dựa trên cơ sở phân tích các tác động của môi trường vĩ mô như : chính sách pháp luật, kinh tế, văn hóa xã hội,… ; tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát ;… ảnh hưởng tới triển vọng ra đời của dự án và quá trình vận hành kết quả đầu tư. Cần nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiên cứu triển khai, những giải pháp khoa học đưa ra cần có khả năng ứng dụng cao vào thực tế. Để làm được điều này, cần có sự phối hợp giữa các viện nghiên cứu ở các bộ ngành, các lĩnh vực với các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Nhà Nước cần đóng  vai trò quan trọng trong hoạt động nghiên cứu triển khai, do đây là hoạt động đòi hỏi vốn đầu tư lớn không phải doanh nghiệp nào cũng đủ khả năng triển khai thực hiện. 3.2.3.2. Giải pháp quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các kết quả đầu tư vào sử dụng và hoạt động tối đa công suất Quá trình vận hành thực chất là quá trình sản xuất kinh doanh cho nên vai trò của công tác quản trị là hết sức quan trọng. Có một cơ chế quản lí tốt tức là đã có một cách thức huy động và sử dụng các nguồn lực (vốn, nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên,…) một cách có hiệu quả. Việc quản lí tốt hay không lại phụ thuộc vào cách thức tổ chức của bộ máy quản trị, đến lượt nó lai phải đảm bảo các nguyên tắc : - Thực hiện được các mục tiêu, chương trình kế hoạch đã vạch ra - Thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo quản lí - Tổ chức bộ máy phải tinh gọn nhưng hiệu quả - Quan hệ giữa các bộ phận lãnh đạo, điều hành, quản lí phải rõ ràng - Quyền hạn đi đôi với trách nhiệm - Hợp tác nhằm thực hiện mục tiêu chung Hơn nữa, trước sự phát triển của khoa học công nghệ xảy ra hiện tượng hao mòn vô hình, đó là hiện tượng suy giảm thuần túy về giá trị của các tài sản cố định. Sự hao mòn vô hình ngày càng diễn ra mạnh mẽ, các máy móc thiết bị có thể bị lỗi thời nhanh chóng. Sự phát triển của khoa học công nghệ cũng đồng thời làm cho vòng đời của sản phẩm ngắn lại. Vì vậy, sau khi hoàn thành giai đoạn thực hiện đầu tư phải nhanh chóng đưa thành quả đầu tư vào sử dụng, phát huy tối đa công suất nhằm tránh hao mòn vô hình. Một nguyên nhân khác dẫn đến yêu cầu này đó là vốn phục vụ cho dự án thường là vốn đi vay, bị khê đọng, không sinh lời trong suốt quá trình đầu tư những vẫn phải chịu chi phí (lãi suất vay). Vì vậy, đưa công trình vào sử dụng càng sớm càng giảm thiểu chi phí, nhanh chóng thu hồi vốn và có lãi. Để có thể làm như vậy, chủ đầu tư cần chuẩn bị một lương vốn nhất định phục vụ chu kỳ đầu của sản xuất, tránh tình trạng sau khi xây xong dự án lại phải nằm chờ và phải đảm bảo nguồn cung lâu dài cho dự án. 3.2.3.3. Giải pháp quan tâm đúng mức đến độ trễ thời gian trong đầu tư Đầu tư trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm, gọi là độ trễ của đầu tư. Phương thức quản hội, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu tư, vai trò kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý lý hoạt động đầu tư cần có sự thống nhất hợp lý với các chỉ số kinh tế, kỹ thuật của dự án đầu tư. Quán triệt đặc điểm này cần nâng cao hiệu quả công tác đánh giá kết quả, chi phí, hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ giữa kết quả kinh tế xã nghèo... nhưng rất quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống và vì hội thu được với chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên phương diện chủ đầu tư và toàn xã nhà nước các cấp. Thực tế có những khoản đầu tư không trực tiếp tạo ra tài sản mới cho doanh nghiệp  như đầu tư cho y tế, giáo dục, xoá đói giảm mục tiêu phát triển. 3.2.4. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ tư Địa điểm lựa chọn để đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lâu dài đến kết quả đầu tư. Lựa chọn địa điểm không thuận lợi sẽ làm tăng chi phí, giảm hiệu quả của hoạt động đầu tư. Do đó trước hết phải có chủ trương và quyết định đầu tư đúng đắn, sau đó là phải nghiên cứu để tìm ra được địa điểm thích hợp. Một số giải pháp sau được đưa ra : 3.2.4.1. Giải pháp hoàn thiện các chủ trương, quyết định đầu tư Trên góc độ vi mô : Để đưa ra đựoc quyết định đúng đắn thì các nhà đầu tư cần phải xác định rõ ràng quy mô, tính chất, đặc điểm của dự án chuẩn bị đầu tư, nghĩa là trả lời được câu hỏi : đầu tư cái gì?- để xác định sản phẩm sản xuất ra, mục tiêu lợi nhuận, công suất thực hiện; Đầu tư bao nhiêu?- để xác định quy mô nhà máy xí nghiệp, công nghệ máy móc sử dụng;... Như vậy công tác chuản bị đầu tư là vô cùng quan trọng, liên quan đến hiệu quả và chất lượng đầu tư sau này nên trong quá trình lập dự án cần đề cập đến mọi khía cạnh để đánh giá khả năng thực hiện và đem lại hiệu quả chắc chắn. Do đó phải có quá trình thực địa và tham khảo ‎kiến chuyên gia. Trên góc độ vĩ mô: Nhà nước là người điều hành, quản lí hoạt động đầu tư chung trên tất cả các lĩnh vực. Mọi quy định của nhà nước đều gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các nhà đầu tư. Vì thế, Nhà nước cần có những quy hoạch cụ thể, đúng hướng, có tầm nhìn chiến lược, lâu dài cũng như phải ban hành những chính sách nghiêm minh, tạo môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư. Các chính sách của Nhà nước cần được quốc tế hóa, thể hiện tầm nhìn xa, sách lược, tránh tình trạng ”luật cứ đưa ra rồi không hợp lí lại sửa”, sẽ gây bất lợi cho các nhà đầu tư. Từ đó cũng làm cho hoạt động đàu tư kém hiêu quả, gây cản trở cho sự phát triển kinh tế. 3.2.4.2. Giải pháp lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý Sau khi đã dưa ra được các quyết định đầu tư đúng đắn, các nhà đầu tư cần phải quan tâm đến việc lựa chọn địa điểm hợp lí bởi các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ngay tại nơi nó được tạo dựng. Việc lựa chọn địa điểm có ảnh hưởng đến công suất và năng lượng phục vụ của công trình. Dưới đây là một số giải pháp giúp ích cho công tác lựa chọn địa điểm : - Các công trình xây dựng lên không có nghĩa là sẽ giữ nguyên hiện trạng cho đến khi kết thúc sử dụng mà sẽ còn được mở rộng, nâng cấp, kể cả thu hẹp nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất. Cần nghiên cứu rõ dư án quy hoạch của nhà nước, của địa phương, vùng miền để tìm ra được nơi đầu tư hợp lí. Dự trù được các họat động thu hẹp hay mở rộng có thể diễn ra nhằm tính toán thi công đảm bảo tránh tổn thất, lãng phí. - Tìm địa điểm có vị trí thuận lợi mà có thể dễ dàng hợp tác với các doanh nghiệp sản xuất trong vùng hoặc thuận lợi để tận dụng ưu thế cạnh tranh. Việc này không đồng nghĩa là địa điểm rẻ thì chỉ bỏ ra ít chi phí hơn nên thu được lợi nhuận cao hơn mà địa điểm lựa chọn cần phải phù hợp với việc sản xuất sản phẩm đáp ứng đòi hỏi, nhu cầu của khách hàng mục tiêu. Ngoài ra cũng phải tính đến các yếu tố tác động đến công trình như : môi trường tự nhiên, môi trường chính trị, kinh tế-xã hội,… nhằm hạn chế được tối đa rủi ro không may sẽ xảy ra. Bộ máy quản lí, hành chính địa phương cũng sẽ tạo thuận lợi cũng như gây trở ngại đối với các hạng mục đầu tư. - Ngoài các yếu tố khách quan của môi trường vĩ mô như trên thì nhà đàu tư khi lựa chọn địa điểm cũng phải tính đến các chi phí phải bỏ ra : chi phí giả phóng mặt bằng, chi phí thuê/ mua đất, chi phí đầu tư bổ sung về cơ sở hạ tầng (đường xá, điện nước,…). Chi phí cung cấp các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra của dự án. Do vậy, khi tiến hành nghiên cứu, tính toán để đưa ra quyết định, nhà đầu tư có thể dùng phương pháp toán học để xác định chi phí hợp lí nhất. - Hiện nay vấn đề bảo vệ môi trường cũng thu hút rất nhiều sự quan tâm từ xã hội. Người tiêu dùng hiện nay ưa chuộng sản phẩm ‘xanh’, không gây ô nhiễm môi trường. Vì thế, khi chọn địa điểm, nhà đầu tư cũng nên chú trọng đến việc xây dựng hệ thống xử lí chất thải, đảm bảo an toàn cho môi trường sống xung quanh, thậm chí các vùng lân cận. Tóm lại, cần lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý, dựa trên những xăn cứ khoa học, dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, chính trị xã hội, môi trường văn hóa... Cần xây dựng nhiều phương án để lựa chọn phương án tốt nhất, từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư. Các yếu tố và căn cứ để lựa chọn khu vực và địa điểm cụ thể -Gần các nhà cung cấp và người tiêu thụ.               -Đặc điểm thị trường lao động . -Hệ thống giao thông và tiếp cận dịch vụ. -Chi phí và độ tin cậy của dịch vụ công cộng. -Bất động sản phù hợp. -Khoảng cách với đối thủ cạnh tranh. -“Khả năng có thể tuyển dụng” nhân viên – sự phù hợp. -Hiệu quả của quá trình phê duyệt và giải toả địa điểm của chính quyền địa phương -Mức độ và chất lượng hỗ trợ từ cơ quan hữu quan/cơ quan xúc tiến đầu tư trong việc chọn địa điểm -Khả năng có thể gây ô nhiễm môi trường. 3.2.5. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ năm Mục tiêu của bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng là lợi nhuận, nhưng lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải phân tích các yếu tố rủi ro có khả năng xảy ra ở tất cả các khía cạnh có liên quan đến việc thực hiện đầu tư để tìm ra giải pháp cần khắc phục. Một số giải pháp đó là : 3.2.5.1. Giải pháp hoàn thiện, nâng cao hoạt động nhận diện và quá trình đánh giá mức độ rủi ro Lập kế hoạch quản lí rủi ro : Trước tiên phải chú trọng đến công tác dự báo, phân tích tình hình kinh tế xã hội để đưa ra nhận định chính xác nhất có thể về rủi ro. Nếu không lường trước được rủi ro khi thực hiện dự án đầu tư thì sẽ không chuẩn bị được những biện pháp phòng ngừa và khắc phục, dễ dẫn đến việc đi sai hướng của dự án, có khi còn kéo theo những rủi ro khác xảy ra (hiệu ứng domino) gây ra nhiều tổn thất cho nhà đầu tư, thậm chí có thể còn phải ngừng dự án. Hơn nữa, việc lường trước rủi ro là không hề đơn giản, không phải chỉ cần một hoặc một nhóm vài người là có thể làm được mà cần một tập thể các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực xem xét vấn đề trên nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau đóng góp y kiến để đưa ra được những dự đoán tốt nhất, lập kế hoạch quản lí rủi ro kèm theo kế hoạch dự phòng (những hoạt động sẽ thực hiện khi có rủi ro xuất hiện), kế hoạch rút lui (thực hiện cho những rủi ro có tác động lớn đến yêu cầu mục tiêu của dự án) và quỹ dự phòng (bất ngờ) hay tiền trợ cấp được dành ra để giảm nhẹ chi phí, tổn thất. Nhận biết rủi ro : Tiếp đó là khâu nhận biết rủi ro, quy trình nắm bát những gì không tiềm tàng từ bên ngoài liên quan tới mỗi dự án. Một số công cụ và kĩ thuật nhận biết rủi ro có thể sử dụng : braíntorming, kĩ thuật Delphi, interviewing, phân tích SWOT. Khi nhận định rủi ro có thể xảy ra thì việc đánh giá rủi ro cũng vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí kinh tế cho dự án.Khi đánh giá được đúng mức độ rủi ro, dẫn đến hành động hợp lí, giải pháp sát thực tế giảm thiểu được chi phí phát sinh. Có thể một dự án sẽ có nhiều rủi ro xảy ra, tuy nhiên cần phải xác định được các mức độ của các rủi ro đó ra sao, rủi ro nào là nghiêm trọng, có khả năng gây tổn thất nặng nhất, dễ xảy ra nhất. Dự án có mức độ rủi ro cao thì cần tập trung giải quyết, dự án nào có mức độ rủi ro thấp hơn thì cần ít chi phí hơn. Phân tích rủi ro : Cần có những phương pháp , mô hình định lượng để phân tích rủi ro như : - Định tính : Đánh giá khả năng có thể xảy ra và tác động của quy mô và mức độ ưu tiên, bằng một số phương pháp : Ma trận xác suất ; Kỹ thuật theo dõi 10 danh mục rủi ro hàng đầu ; đánh giá của chuyên gia ;… - Định lượng : phân tích cây quyết định (Decision tree analysis) ; mô phỏng (simulation) Ngoài ra có thể nghiên cứu các trường hợp sự án có tính chất tương tẹ rồi xem xét, áp dụng vào trường hợp riêng của mình. 3.2.5.2.Giải pháp xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro Từ việc nhận định và phân tích rủi ro sẽ đưa ra biện pháp phòng chống cho phù hợp. Trong công tác phòng chống cần đề cao quản lí và giám sát việc xử lí rủi ro, không để tình trạng sau khi xử lí lại để tái phát trở lại hoặc gây ra những rủi ro khác. Việc xử lí rủi ro phải được xem như là một yếu tố cơ bản trong hướng quản lí dự án. Việc đối phó rủi ro phải có hướng chủ động để tạo ra thời gian cho các nhà quản lí tìm ra được các hướng khác nhau và các kế hoạch hành động rồi từ đó lựa chọn cách giải quyết mà nó đúng với mục tiêu của dự án nhất. Có 4 chiến lược chính để đưa ra giải pháp đối phó với rủi ro : - Tránh rủi ro : loại trừ một cách rõ ràng mối đe dọa hay rủi ro, thường là loại trừ nguyên nhân của rủi ro có thể xảy ra. - Chấp nhận rủi ro : chấp nhận kết quả nếu rủi ro xảy ra. - Thuyên chuyển rủi ro : luân phiên hậu quả rủi ro và giao trách nhiệm quản lí cho bên thứ ba. - Giảm nhẹ rủi ro : giảm bớt ảnh hưởng của một sự kiện rủi ro bằng cách cắt giảm những gì có thể khi sự cố xảy ra. 3.2.5.3. Giải pháp đối với Nhà nước : Rủi ro xảy ra do những nguyên nhân khách quan và chủ quan trong suót quá trình đầu tư. Các cchủ đầu tư không thể giải quyết tốt nhất những rủi ro xảy ra nếu như Nhà nước không tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi. Vì thế, Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp sau :  Giải quyết những vấn đề trong cải cách thủ tục hành chính, chống các hiện tượng quan liêu, tham ô, tham nhũng : Thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp sẽ cản trở cho dự án đầu tư, gây ra nhiều thiệt hại cho các bên tham gia. Chẳng hạn, nếu khâu thủ tục trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư lằng nhằng thì sẽ làm cho quá trình lập dự án đầu tư hoặc phê duyệt dự án bị chậm lại làm cho dự án mất tính khả thi, lỡ cơ hội cạnh tranh của các Doanh nghiệp,… Vì vậy, việc đầu tiên nên làm chính là hệ thống hoá và rà soát lại toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật một cách rõ ràng và minh bạch, tạo sự thông thoáng cho các hoạt động đầu tư, tránh những quy định không còn phù hợp với những thay đổi trong thời kì hội  nhập kinh tế quốc tế.    Cần lắng nghe những đóng góp cũng như phản ánh từ phía các nhà đầu tư để có thể hiểu được thực tế hoạt động của các dự án và có những điều chỉnh hợp lý. Bên cạnh đó, cũng tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, tránh tâm lý chán nản trước một quyết định đầu tư được đưa ra. Trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật, để tạo môi trường kinh doanh công bằng và hiệu quả cần có sự phát triển đồng đều của tất cả các loại thị trường trong nền kinh tế.               Hoàn thiện hơn cơ chế thực hiện quy hoạch dự án đầu tư, tránh việc cứ đưa ra chính sách mà không cân nhắc kĩ, sai lại sửa làm cho các chủ đầu tư không thể bắt kịp theo những chính sách của Nhà nước, gây các vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án, mất tính hiệu quả của nó. Do đó, Nhà nước cần có tầm nhìn chiến lược, đưa ra những chính sách, pháp luật mang tính tối ưu cao, tạo hành lang pháp lí cho các nhà đầu tư, thiết lập môi trường pháp lí thông thông thoáng để các nhà đầu tư dễ dàng thực hiện. Để phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam, cần thực hiện những giải pháp cơ bản như sau : Thứ nhất, tạo môi trường và điều kiện cho tự do sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa sở hữu, đa dạng hóa thành phần kinh tế. Bảo đảm tự do hành nghề theo quy định của luật pháp, tự do lưu thông hàng hóa, tự do hóa lãi suất tín dụng. Doanh nghiệp được tự quyết định và chủ động trong kinh doanh. Đây là điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất hàng hóa, tạo lập cơ sở quan trọng để hình thành và phát triển các loại thị trường. Thứ hai, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách. Bảo đảm mọi hoạt động của người mua, người bán, người sản xuất, người tiêu dùng thực hiện trong khuôn khổ luật pháp và được điều chỉnh bằng luật pháp. Đó là cách để các tư tưởng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả trong thực tiễn, bảo đảm cơ sở ổn định và lâu dài, tạo dựng niềm tin cho người sản xuất kinh doanh. Thứ ba, xây dựng đồng bộ các chính sách về thị trường, mặt hàng, các chính sách về tài chính tiền tệ, đất đai, lao động, khoa học và công nghệ, đầu tư,... Sự đồng bộ, nhất quán của các chính sách sẽ tạo hợp lực thúc đẩy sự phát triển của hệ thống thị trường. Thứ tư, giải pháp tăng nguồn cung ứng hàng hóa cho thị trường. Hàng hóa cho thị trường giống như lương thực cho cuộc sống của con người. Ở tầm vĩ mô, Nhà nước phải cân đối tổng cung và tổng cầu hàng hóa (cả hàng hóa vô hình và hàng hóa hữu hình) theo các thời hạn khác nhau. Trên cơ sở đó, kích thích tăng hoặc kìm hãm giảm lượng hàng hóa lưu thông. Đổi mới cơ cấu nền kinh tế phải xuất phát từ yêu cầu tiêu dùng xã hội, dân cư và thông qua thị trường chứ không phải là sự áp đặt chủ quan duy ý chí. Đồng thời, Nhà nước phải có quy hoạch, kế hoạch cụ thể, phù hợp để định hướng phát triển, phân bố và sử dụng hợp lý các nguồn lực. Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp phải tăng đầu tư tích lũy, nhất là đổi mới công nghệ, thường xuyên thay đổi mới mẫu mã sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường. Để phát triển thị trường, phải có cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải điều chỉnh, hoàn thiện để thích ứng với môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế, từng bước xóa bỏ độc quyền hành chính. Thứ năm, đầu tư tạo tiền đề cho sự ra đời và kích thích sự phát triển của các loại thị trường. Đối với những vùng kinh tế chậm phát triển, kinh tế tự cấp tự túc còn phổ biến như vùng núi, vùng sâu, vùng xa phải đầu tư xây dựng hệ thống giao thông thuận lợi cho giao lưu hàng hóa giữa các vùng, xây dựng chợ hoặc trung tâm thương mại để có nơi trao đổi, mua bán hàng hóa. Ở những nơi kinh tế và thị trường phát triển chủ yếu đầu tư theo chiều sâu (đầu tư chất xám, phương tiện kỹ thuật hiện đại), phải phát triển dịch vụ, hình thành các trung tâm phát luồng và định hướng thị trường (thị trường bán buôn, trung tâm giao lưu kinh tế với nước ngoài, sở giao dịch hàng hóa, sở giao dịch chứng khoán, trung tâm đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực...). Thứ sáu, đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, nhà kinh doanh. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Thực hiện đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại, đa dạng hóa các hình thức kinh doanh quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. III- Phần kết luận: Đầu tư phát triển là một công tác hết sức quan trọng đối với nền kinh tế nước ta hiện nay, góp phần duy trì và nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế. Đây là cơ sở, là tiền đề cho các hoạt động đầu tư khác, có những tác động to lớn đến nền kinh tế cũng như đời sống nhân dân. Với định hướng phát triển kinh tế ổn định, bền vững trong thời gian tới, hoạt động đầu tư phát triển trở lên hết sức quan trọng, cần được sự quan tâm đúng mức của Đảng và nhà nước. Gia nhập WTO, giành được niềm tin của các nhà đầu tư trong nước cũng như quốc tế là tiền đề cho sự phát triển của chung của đất nước. Nhà nước và Chính phủ Việt Nam đang tạo môi trường đầu tư ngày càng tốt hơn đã thu hút nguồn đầu tư lớn. Sự phát triển của hoạt động đầu tư trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của kinh tế đất nước tuy nhiên còn tồn tại rất nhiều vấn đề cần đến sự quản lí chặt chẽ của nhà nước. Quản lí hoạt động đầu tư phát triển trong nước sẽ là một trong những điều kiện quan trọng để Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh và tiến bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1, Giáo trình “Kinh tế đầu tư ” PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt PGS.TS Từ Quang Phương, nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân 2, Giáo trình “Lập dự án đầu tư” PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân 3, Chương 8, Giáo trình quản lí rủi ro trường Đại học Kinh tế quốc dân 4, Định hướng sử dụng ODA,Lê Quốc Hội,Giảng viên, Đại học Kinh tế quốc dân (NEU) Nghiên cứu viên, Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) 5, Báo cáo phân tích ngành ngân hàng tháng 11 năm 2009, công ty cổ phần chứng khoán MHA, 6, Báo cáo phân tích ngành chứng khoán diễn biến năm 2010 và triển vọng 2011, Phòng Nghiên cứu – Phân tích, Công ty CP Chứng khoán Phố Wall 7, Báo cáo thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2009, bộ phận phân tích đầu tư, công ty CP chứng khoán FPT. 8, Báo cáo ngành ngân hàng quý III năm 2010, Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng và đầu tư phát triển Việt Nam, phát hành ngày 30-10-2010. 9, Báo cáo tiến độ về hiệu quả viện trợ “ Nâng cao hiệu quả viện trợ vì sự phát triển bền vững” Tài liệu phục vụ Diễn đàn hiệu quả viện trợ lần thứ nhất và Hội nghị nhóm tư vấn không chính thức giữa kỳ dành cho Việt Nam (Hội nghị CG) năm 2010, Tháng 6 năm 2010. 10, Đổi mới cơ cấu đầu tư của nền kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng (Phần 1)/ TS.Bùi Nhật Quang – IAMES 11. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2003, “Chính sách đầu tư nước ngoài trong tiến trình Hội nhập kinh tế quốc tế” . Tài liệu Hội Thảo quốc tế về “Việt Nam sẵn sàng gia nhập WTO”, tháng 6/2003 tại Hà nội. 12. Bộ Kế hoạh và Đầu tư, 2003, Report on FDI implementation in 2003, the Ministry of Planning and Investment, www.mpi.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnhom 1.doc
Tài liệu liên quan