MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam đã có một lịch sử thành văn trên hai nghìn năm. Phật giáo Việt Nam cũng có một lịch sử hai nghìn năm đồng hành cùng dân tộc. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta, Phật giáo đã để lại dấu ấn sâu rộng trong lịch sử tư tưởng và văn hoá nước nhà. Đặc biệt vào thời Lý – Trần là thời kì vẻ vang, oanh liệt của dân tộc, Phật giáo lúc này trở thành quốc giáo. Phật giáo giữ vai trò là một cột trụ lớn của hệ tư tưởng và văn hoá Việt Nam. Vì lý do đó mà tôi chọn đề tài: “Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam dưới triều đại Lý – Trần và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế-xã hội thời Lý – Trần” nhằm tìm hiểu Phật giáo thời kỳ này có nét đặc sắc nào mà lại trở thành một trong những cội nguồn sức mạnh, là sức sống tinh thần và vũ khí tinh thần của con người Việt Nam trong thời Lý – Trần cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc để xây dựng và bảo vệ nhà nước thống nhất, độc lập dưới thời Lý – Trần.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SỰ DU NHẬP PHẬT GIÁO VÀO VIỆT NAM VÀ NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ PHẬT GIÁO LÝ - TRẦN
1. Khái quát quá trình du nhập Phật giáo vào Việt
2. Những nét cơ bản về vai trò , vị trí của Phật giáo thời Lý - Trần
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU ĐẠI LÝ TRẦN
2.1. Tiền đề kinh tế-xã hội, tư tưởng cho sự phát triển Phật giáo thời Lý - Trần
2.2. Tinh thần dung thông của Phật giáo thời Lý – Trần
2.3. Tính nhập thế của Phật giáo Đại Việt dưới thời Lý – Trần
KẾT LUẬN
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3874 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam dưới triều đại Lý Trần và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế-xã hội thời Lý Trần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một thời kì có sự lựa chọn, dung hoà giữa văn hoá Ấn Độ và văn hoá Trung Hoa.
Thế kỷ I, II SCN ở Luy Lâu đã có sư Mâu Bác, Khương Tăng Hội, Khâuđàla, Mahakyvực… đến truyền đạo Phật. Kinh điển căn bản của Thiền tông là kinh Lăng già, kinh giải thích mối quan hệ giữa Phật tinh và nhân tâm. Thiền tông đề cao tam giới, phủ nhận sự tồn tại của ngoại giới. Thiền tông không tính đến tìm Phật cõi Niết Bàn xa xôi mà tìm Phật ngay trong tâm. Phật tại tâm, tâm là Niết Bàn, là Phật. Quốc sư Yên Tử nói với Trần Thái Tông: “Núi vốn không có Phật, Phật là ở nơi tâm, tâm lặng lẽ sáng suốt ấy là chân thật” (20, tr.345). Tu theo Thiền Tông đòi hỏi nhiều công phu và khả năng trí tuệ, do vậy mà chỉ phổ biến ở giới trí thức thượng lưu. Năm 580, tăng sĩ người Ấn Độ tên là Tìniđalưuchi sang Giao Châu đến Luy Lâu vào tu Phật ở chùa Pháp Vân, sau đó về tu ở chùa Trấn Quốc. Các tăng sĩ Việt Nam đến thụ giáo với thiền sư Tìniđalưuchi khá đông: Pháp Hiền, Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Thanh Biện. Năm 820, thiền sư Vô Ngôn Tông sang Giao Châu, tu ở chùa Kiến Sơ (Phù Đổng – Bắc Ninh) lập ra dòng thiền Quan Bích Vô Ngôn Thông.
Cùng với Thiền Tông, Tịnh độ tông cũng đã sớm qua Trung Quốc truyền vào nước ta. Tịnh độ tông chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài để cứu giúp chúng sinh thoát khổ. Đó là việc hướng họ đến một cõi Niết bàn cụ thể là cõi Tịnh độ, được hình dung là một cõi cực lạc do đức Phật Adiđà cai quản. Chỉ cần niệm đến tên Ngài là mọi phiền não, tội lỗi đều tan hết: “Nhất Cú Di Đà tiêu vạn tội”. Tu theo Tịnh độ tông là “hạnh trụ toạ tâm, bất uy nghi, nhất tâm bất loan quán tưởng đức Adiđà” nghĩa là không cần đến bàn thờ uy nghi chỉ cần trụ vững hạnh kiểm tốt, toàn niệm tên đức Adiđà là có thể vãng lai sinh về thế giới cực lạc. Thực chất triết lý cơ bản của Tịnh độ tông cũng là Phật ở trong tâm. Hình dung cụ thể về Niết Bàn là để có đích mà hướng tới, cúng tượng Phật và niệm danh Phật là để thường xuyên nhớ tới lời dạy của người mà làm theo. Nhờ cách tu đơn giản như vậy, Tịnh độ tông đã trở thành Phật giáo của giới bình dân và phổ biến tên toàn cõi Việt Nam: đâu đâu người ta cũng gặp người dân tụng niệm: “Nam mô Adiđà Phật”, tượng Adiđà cũng thuộc loại tượng Phật lâu đời và phổ biến hơn cả.
Mật tông là tông phái chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí như dùng linh phù, mật chú, ấn quyết… để thu hút tín đồ và mau chóng đạt đến giác ngộ và giải thoát. Phật giáo Mật Tông từ Tây Tạng qua con đường Vân Nam vào Việt Nam. Phật giáo Mật Tông du nhập vào nước ta không tồn tại như một tông phái riêng, độc lập mà nhanh chóng hoà vào dòng tín ngưỡng dân gian, đạo giáo phù thuỷ với những truyền thống cầu đồng, dùng pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma và chữa bệnh.
Phật giáo du nhập vào nước ta cho đến đời Đường, lúc mà Phật giáo cực thịnh ở Trung Quốc, thì cũng là lúc Phật giáo Giao Châu phát triển mạnh. Đại La trở thành trung tâm đầu mối Phật giáo ở Giao Châu, nhiều vị cao tăng người Việt xuất hiện. Tầng lớp nhà sư người Việt này đóng vai trò tiền thân cho các tầng lớp các nhà sư người bản địa sau này lĩnh sứ mạng đáng kể vào văn hoá chính trị khi đất nước giành được quyền độc lập tự chủ.
2. Những nét cơ bản về vai trò, vị trí của Phật giáo Lý - Trần.
Khi nhà Đinh, tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư thì Phật giáo chưa trở thành quốc đạo, nhưng dấu tích của Phật giáo cũng như vai trò của các tăng sư cũng rất rõ ràng. Nhà tiền Lê đã lập ra ba ban: văn - võ - tăng. Sang đến thời Lý - Trần, Phật giáo đã phát triển đến mức cực thịnh. Phật giáo lúc này đã đứng đầu trong tam giáo và có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Không phải chỉ với giai đoạn hiện nay các nhà nghiên cứu mới đề cập đến việc đánh giá vai trò của Phật giáo ở giai đoạn lịch sử thời Lý - Trần. Ngay ở thời Lý - Trần (nhất là giai đoạn cuối thời Lý đến đầu thời Trần) các nhà Nho đã từng phân tích, phê phán Phật giáo.
Vai trò Phật giáo trong đời sống xã hội mà “các phương tiện để mở lòng mê muội, các đường lối soi rõ sống chết” tức là phương tiện để giải quyết các vấn đề nhân sinh quan của con người.
Trong lĩnh vực chính trị, Phật giáo lúc này đã để lại dấu ấn sâu sắc vì nó là lực lượng chi phối thế giới quan của con người nhất là của giai cấp thống trị. Vai trò chi phối này của Phật giáo được biểu hiện ở triết lý nhập thế của nó cũng như việc tham gia chính sự của các thiền sư. Phật giáo còn có vị trí quan trọng trong việc kiến tạo mô hình nhà nước quân chủ theo Nho giáo nhưng không hoàn toàn là Nho giáo, khác biệt với mô hình Nho giáo phương Bắc. Trong phong trào giải phóng dân tộc, vai trò của Phật giáo được thể hiện thông qua hoạt động tích cực của các thiên sư, của các tăng ni, phật tử.
Trong lĩnh vực kinh tế Phật giáo không chỉ tồn tại dưới vai trò là một tôn giáo mà còn có tiềm lực kinh tế. Đó là do nhà vua có những chính sách: cấp dụng ruộng đất cho nhà chùa trở thành một đơn vị kinh tế, một tổ chức có tài sản. Một số chùa lớn có cả điền nô, kho lẫm. Theo bia chùa Vạn Phúc (tức chùa Phật Tích ở Tiên Sơn, Hà Bắc) thì năm Long Thụy Thái Bình thứ tư (1057) nhà vua đã xây trên 100 ngôi chùa ở đây và cúng hơn 100 thửa ruộng”
Tuy nhiên, Phật giáo Lý - Trần không chỉ phát huy được vai trò tích cực trong lĩnh vực kinh tế, chính trị mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến đạo đức, văn hoá, giáo dục, lối sống, phong tục…
Phật giáo, xét về bản chất là hệ thống tư duy tôn giáo mà hạt nhân là triết học Phật giáo đã có sự tương đồng với quan niệm đạo đức và sinh hoạt truyền thống của người Việt Nam. Vì vậy trong lĩnh vực đạo đức và sinh hoạt truyền thống đều có dấu ấn nhất định của đạo đức Phật giáo. Đạo đức cao nhất của Phật giáo là “Đại bi”. Có tác giả cho rằng “lòng nhân ái” Việt Nam được rút ra từ tinh thần đạo đức Nho giáo và Phật giáo”, rằng “những nguyên tắc của đạo đức Phật giáo với sự tin tưởng ở kiếp sau, của sự cứu giúp của đấng tối cao, cũng biến thành những nguyên tắc sống hàng ngày của nhân dân như: ở hiền gặp lành, chị ngã em nâng, thương người như thể thương thâm” (2, tr9).
Tinh thần bình đẳng, bác ái, thái độ từ bi hỉ xả và sự tu dưỡng về thập thiên, ngũ giới mà đạo Phật đòi hỏi ở mỗi người phật tử không khỏi liên hệ với tình cảm xót thương, nỗi khổ đau của dân chúng và những khái niệm: khoan, từ, phúc, huệ. Tầng lớp trên của xã hội đã thấu triệt tinh thần bác ái, thương dân, đức hiếu sinh của nhà Phật, biết gác lại lợi ích vị kỷ của một cá nhân một dòng họ mà bước vào sự hoà đồng của dân tộc, vì sự nghiệp chung của dân tộc.
Nhiều hành vi thể hiện đức từ bi của nhà Phật trong các bậc nhân chủ thời Lý đã bị một số nhà Nho theo tinh thần triệt để Nho giáo phê phán một cách gay gắt. Chẳng hạn lòng thương xót những người bị cầm tù của Lý Thánh Tông: “Trẫm ở trong thâm cung, mặc áo hồ cừu, sưởi lò than thú, khí lạnh còn đến thế. Huống chi những người bị giam cầm trong ngục, khổ sở vì gông cùm, ngay gian chưa định rõ, bụng không đủ no, áo không kín thân thể, một khi gặp cơn gió bấc thổi há chẳng phải vô tội chết oan ư? Trẫm rất lấy làm thương xót” (16,tr.38). Chính tinh thần nhân ái, thương người theo nhân sinh quan từ bi của Thiền Tông đã có tác dụng tích cực trong việc đoàn kết dân tộc lúc bấy giờ. Từ đó, đã tập hợp mọi tộc người thành khối đoàn kết vững mạnh để đối phó với mọi kẻ thù xảo quyệt luôn trong tư thế rình chờ người khác hở cơ để tràn xuống. Nó là sợi dây nhân ái liên hệ cộng đồng anh em trong quốc gia tạo thành sức mạnh cố kết dân tộc. Trong không khí sục sôi của dân tộc khi ấy, tinh thần bình đẳng bác ái của Phật giáo đã tác động quan trọng vào sự hình thành tư tưởng bình đẳng dân tộc trong dân tộc ta, để không ngồi im chịu sự áp bức bóc lột của dân tộc khác. Và tư tưởng vô ngã của Phật cũng tác động đến tinh thần không ngại hi sinh vì độc lập tự do của đất nước. GS. Trần Văn Giầu đã từng nói: “Theo sát cuộc đấu tranh của dân tộc ta từ trước đến nay không tư tưởng nào lớn hơn Phật giáo, trừ chủ nghĩa cộng sản. Bình minh của lịch sử dân tộc ta đã gắn với Phật giáo. Phật giáo là ngọn đuốc văn minh ở xứ ta, và ông còn đánh giá đóng góp lớn nhất của Phật giáo vào lịch sử tư tưởng Việt Nam: “Mườn vạn quyển kinh còn hai hay bốn chữ… và bốn chữ đó là cốt lõi của Phật giáo: cứu khổt, cứu nạn”. Sau này tác giả Nguyễn Lang cũng đánh giá cao tư tưởng từ bi của Phật giáo: “Có thể từ bi không phải là một đường lối chính trị, nhưng chính trị từ bi là một nền chính trị nhân bản đáng được “ủng hộ”.
Tình hình phát triển đến mức cực thịnh của Phật giáo Lý - Trần cũng như ảnh hưởng của các tăng lữ trong thời kỳ này đã chi phối đến giáo dục, khoa cử (thi tam giáo). Năm 1150, triều đình quyết định “đem Nho giáo , Đạo giáo và Phật giáo để thi kẻ sĩ. Ai đỗ thì cho xuất thân” (Theo Việt sử thông giám mục, IV). Thông qua hai kì thi về tam giao dưới triều Lý Cao Tông (1195) và triều Trần Thái Tông (1247), ta thấy Phật giáo cũng có vị trí quan trọng trong việc lựa chọn nhân tài giúp nước. Vào 1299, sử cũ cho hay nhà nước còn in sách khoa giáo nhà Phật phát hành trong cả nước.
Phật giáo thời Lý - Trần còn ảnh hưởng đến nguồn cảm hứng sáng tác văn học của các tác giả thời kì này. Trong thời kì này cảm xúc văn học về đề tài Phật giáo thực sự hoà nhập vào văn hoá chính trị, tức là tư tưởng của thời đại, nên thời kỳ này đã để lại nhiều tác phẩm văn hoá mang tinh thần Phật giáo có giá trị. Những hình ảnh văn học súc tích ngắn gọn đã làm cho tính chất tôn giáo của đạo Phật đầy khắc khổ dày vò trở nên thanh thản, say mê, sảng khoái. Như vậy, qua các sáng tác của mình, các thiên sư, các phật tử đã thể hiện tư tưởng của mình về thời cuộc chính trị, các tư tưởng đức trị.
Để hiểu rõ hơn về vai trò của Phật giáo Lý - Trần với tư cách là quốc giáo chúng ta đi vào tìm hiểu, nghiên cứu kiến trúc chùa tháp, cũng như số lượng các tăng ni, phật tử, các tông phái thời Lý - Trần. Số lượng chùa tháp thời Lý rất lớn. Do các vua, hoàng hậu, đại thần ra sức xuất tiền của dựng chùa, có chùa thì do làng xã quyên góp tiền xây dựng. Rất nhiều chùa tháp có quy mô lớn hoặc kiến trúc độc đáo được xây dựng trong thời gian này như chùa Phật tích, chùa Dạm, chùa Diên Hựu, chù Phổ Minh, chùa Quỳnh Lâm, chùa Hương Lãng, chùa Linh Xứng… Việc sùng đạo Phật của các vua thời Lý - Trần được nhà sử học Lê Văn Hưu nhận xét… “Cho đến đời sau mới xây tường cao ngất trời, tạc cột chùa bằng đá, làm chùa thờ Phật lộng lẫy hơn cả cung điện rồi người dưới bắt chước kẻ trên, có kẻ huỷ cả thân thể, đổi lốt mặc bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, nhân dân quá nửa làm sư, trong nước chỗ nào cũng có chùa” (12, tr 156).
Do sự ủng hộ của quý tộc quan liêu mà ảnh hưởng Phật giáo lan rộng khắp mọi miền đất nước. Năm 1010, vừa mới dời đô ra Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho xây dựng một loạt chùa ở đây. Ông Lê Văn Hưu đã nhận xét: “Lý Thái Tổ lên ngôi chưa được hai năm, tôn miếu chưa xây dựng, xã tắc chưa lập mà dựng được 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại sửa được chùa quán ở các lộ, cấp độ diệp cho hơn một 1000 người ở kinh sư (Thăng Long) làm tăng”… (10, tr 45). Thời Lý - Trần còn thể hiện sức mạnh của mình qua việc đúc tứ đại khí bằng đồng (những vật tượng trưng của đạo Phật: chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, tượng Phật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm và vạc Phổ Minh).
Chùa nhiều và số lượng tăng sư theo đó mà tăng dần lên. Trong thời Lý có nhiều đợt độ dân làm sư.
1010, vua Lý Thái Tổ ra lệnh độ dân làm sư.
1014, vua lại chuẩn y lời tâu của tăng thống Thẩm và Uyển xin lập đàn chay ở chùa Vạn Tuế trong thành Thăng Long để tăng đồ đến thụ giới.
1016, hơn 1000 người ở kinh đô Thăng Long được độ làm sư tăng đạo số tăng sư tăng cả về chất lượng lẫn số lượng. Có thể kể đến là nhà sư: Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Giác Hải, Pháp Loa, Huyền Quang. Còn các tông phái về cơ bản vẫn bao gồm: Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, đến thời Lý Thánh Tông, xuất hiện Thiền Thảo Đường và năm 1299 Trần Thái Tông lập ra phái thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Với vai trò, vị trí quan trọng như vậy, Phật giáo Lý - Trần đã thấm sâu vào mọi cơ tầng xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của Phật giáo vua quan quý tộc thời Lý - Trần đã không ngừng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nó đến mọi miền của tổ quốc. Phật giáo đã góp phần quan trọng trong việc làm nền những chiến thắng vĩ đại thời Lý - Trần.
CHƯƠNG 2:
ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
DƯỚI TRIỀU ĐẠI LÝ – TRẦN
2.1. Tiền đề kinh tế - xã hội , tư tưởng cho sự phát triển Phật giáo thời Lý – Trần.
Năm 938 với sự kiện Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên Bạch Đằng giang đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: chấm dứt ngàn năm Bắc thuộc, bước vào giai đoạn đầu của thời kỳ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền độc lập. Trải qua các triều đại Ngô - Đinh – Tiền – Lê (938-1009) đã bước đầu đạt được cơ sở kinh tế – chính trị – xã hội cho một nền quân chủ phong kiến trung ương tập quyền độc lập. Sang triều đại nhà Lý (1010-1225), với khoảng thời gian lịch sử hơn 200 năm, đã tiếp tục xây dựng và phát triển nền quân chủ ấy với hai nhiệm vụ cơ bản, là độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia. Hai nhiệm vụ này tồn tại song song trong suốt chiều dài lịch sử của triều đại nhà Lý cũng như nhà Trần sau này. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ mật thiết với nhau: mỗi bước tiến của sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc là một bước tạo ra những điều kiện căn bản cho công cuộc thống nhất quốc gia, đồng thời mỗi bước củng cố chặt chẽ khối đoàn kết dân tộc là một bước tạo ra sức mạnh cho sự nghiệp bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Nhận thức được hai nhiệm vụ lịch sử, trọng đại đó, trước tiên triều đại nhà Lý đã thực hiện hàng loạt các chủ trương, chính sách và biện pháp tích cực, có hiệu quả nhằm thực hiện hai nhiệm vụ lịch sử nói trên.
Trước hết là việc chọn trung tâm kinh tế – chính trị cho cả nước. quyết định rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long của Lý Thái Tổ nhằm “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu” (Chiếu dời đô). Việc dời đô của triều đại nhà Lý phản ánh khát vọng và ý chí độc lập của dân tộc, quyết tâm giữ vững nền độc lập lâu dài cho dân tộc. Cùng với việc dời đô là việc đặt tên cho nước là “Đại Việt”, điều đó muốn nói lên ý thức tự tôn của dân tộc Việt Nam trước hoàng đế Trung Hoa.
Triều Lý còn tăng cường tổ chức quân đội bao gồm cấm vệ quân và quân các lộ để đối phó với nguy cơ xâm lược và giữ vững an ninh trong nước. Chính sách “Ngụ binh ư nông” (gửi lính ở nhà nông) là quốc sách quân sự được nhà Lý tích cực thực hiện nhằm tạo ra lực lượng chiến tranh dự bị cho các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược.
Song song với chiến lược và sách lược bảo vệ nền độc lập dân tộc, nhà Lý đã thực hiện chế độ chính trị nhằm củng cố thiết chế trung ương tập quyền, để quản lý quốc gia một cách thống nhất từ trung ương tới các lộ, phủ, huyện, hương giáp. Chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất chiếm ưu thế trong xã hội tạo ra cơ sở quan trọng cho chế độ trung ương tập quyền. Chế độ này bao gồm 3 bộ phận: ruộng công xã, ruộng phong cấp và ruộng quốc khố chế độ tư hữu về ruộng đất cũng tồn tại nhưng chiếm một tỷ lệ nhỏ trong xã hội, điều này khiến cho sự phân hoá giai cấp, sự hình thành giai cấp địa chủ chưa mạnh mẽ. Để thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc, triều đại nhà Lý đặc biệt chú ý đến chính sách khoan giảm đối với thần dân của triều đình, đến chính sách dân tộc (Sách sử đã ghi lại)… Một chủ trương mở rộng cho sự phát triển văn hoá tư tưởng: Nho – Phật – Lão, văn hoá cung đình, văn hoá dân gian, tín ngưỡng Phật giáo, tín ngưỡng bản địa, ra sức xây chùa tháp nhưng đồng thời cũng bảo tồn và xây dựng miếu thần.
Đến nhà Trần chế độ tư hữu về ruộng đất cũng xuất hiện và có xu hướng gia tăng. Đầu triều Trần nhà nước cho phép bán ruộng đất công thành ruộng đất tư. Đến 1929, việc bán đất đai đã trở nên tương đối phổ biến. Thích hợp với quan hệ kinh tế đó là một xã hội có kết cấu giai cấp tương ứng. Giai cấp phong kiến thống trị là tầng lớp quý tộc và quan liêu, đại biểu là vua nắm mọi quyền hành ở triều đình và trong xã hội. Tiếp đó là tầng lớp địa chủ lúc đầu còn ít nhưng về sau tăng dần lên. Tăng lữ là một tầng lớp xã hội đáng kể và là một lực lượng đông đảo từ cuối Bắc thuộc đến đầu thời Trần. Nhà nước phong kiến đã sử dụng tầng lớp này cùng với tầng lớp Nho sĩ mới xuất hiện để duy trì sự ổn định xã hội và củng cố quyền lực triều đình. Đông đảo quần chúng nhân dân bị thống trị gồm nông dân, nông nô, nô tỳ. Do nhiệm vụ cứu nước mà mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và nhân dân thời kỳ này chưa diễn ra một cách quyết liệt nhưng nó vẫn âm ỉ và cuối cùng phát triển thành những cuộc khởi nghĩa nông dân vào nửa cuối thế kỷ XII và nửa cuối thế kỷ XIV. Chúng ta cũng cần phải lưu ý một mâu thuẫn nữa trong xã hội Trần. Cùng với sự phát triển của triều Trần, tầng lớp lãnh đạo, quan lại có sự phân hoá, một bên là quý tộc tôn thất nhà vua có thế lực, cơ sản nghiệp, cơ xu hướng ủng hộ Phật giáo với một bên là ngoại tộc đi lên bằng tài năng, trí tuệ có xu hướng ủng hộ Nho giáo. Mâu thuẫn này biểu hiện rõ ở hệ tư tưởng, một bên đề cao Phật giáo, một bên đề cao Nho giáo.
Về kinh tế: nhà nước phong kiến thời Lý – Trần đặc biệt quan tâm đến sản xuất nông nghiệp. Sức lao động của nông dân trên đồng ruộng, sức kéo trong nông nghiệp được bảo vệ. Chủ trương khẩn hoang, xây dựng và quản lý các công trình thuỷ lợi để ngăn chặn lũ lụt của nhà nước phong kiến đã được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng. Nông nghiệp phát triển tạo điều kiện cho đẩy mạnh thủ công nghiệp. Các nghề dệt lụa, nung gạch ngói, làm đồ gốm, luyện kim, đúc chuông và mỹ nhhệ đều phát đạt việc trao đổi hàng hoá trong nước và buôn bán ở nước ngoài cũng được đẩy mạnh. Quang cảnh buôn bán nhộn nhịp ở Thăng Long, ở các thị trấn và ở cảng Vân Đồn. Bên cạnh đó, giao thông thuỷ bộ và các hệ thống trạm dịch, trong thời Lý – Trần cũng được mở mang thêm.
Cùng với những bước phát triển về kinh tế, chính trị, nền văn hoá Đại Việt thời Lý – Trần cũng phát triển mạnh. Điều đó được thể hiện qua hệ thống giáo dục, thi cử văn học. Chủ đề của những áng thơ văn thời Lý – Trần không những xoay quanh vấn đề của Phật giáo, mà còn xoay quanh những vấn đề của đạo Nho và nhất là của đời sống hiện thực. Ngoài ra nghệ thuật sân khấu ca vũ nhạc cũng có bước tiến bộ đáng kể: hát ả đào, hát chèo, hát tuồng. Kiến trúc và điêu khắc đạt được thành tựu quan trọng. Sự phát triển của kinh tế, chính trị, văn hoá của Đại Việt thời Lý – Trần là cơ sở điều kiện cho vườn hoa tư tưởng của thời Lý – Trần nói riêng, của dân tộc nói chung tươi tốt và có nhiều hương sắc.
2.2. Tinh thần dung thông của Phật giáo Lý – Trần.
2.2.1. Sự dung thông các tông phái Phật giáo thời Lý – Trần:
Phật giáo truyền bá vào nước ta chủ yếu là ba tông phái lớn: Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Thực trạng Phật giáo thời Lý- Trần cho thấy sự hỗ dung tư tưởng và tín ngưỡng giữa các tông phái này. Trong đó xu hướng phát triển của Thiền tông là nổi bật về mặt tư tưởng triết lý nhân sinh, còn Tinh độ tông và Mật tông thiên về lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo. Người ta khó có thể xác định đặc điểm riêng cho từng tông phái. Thiền thời Lý. Ta chỉ có thể nói một khuynh hướng nào đó nổi trội hơn. Vì các tông phái này tồn tại song song trong một thời gian dài và tác động qua lại lẫn nhau. Ví như sự kiện Sư Thường Chiếu (thế hệ thứ 12 của dòng Vô Ngôn Thông) đã đến tu ở chùa Lục Tổ tại Dịch Bảng (tức là Đình Bảng sau này) vốn là trung tâm cổ xưa của phái Tìniđalưuchi. Như vậy từ sớm hai phái này đã có sự tiếp xúc, có không ít những điểm giống nhau giữa chúng về tư tưởng cũng như về phương pháp tu tập. Về một số vấn đề triết học Phật giáo, quan điểm cả phái Tìniđalưuchi rất gần gũi với phái Vô Ngôn Thông. Cả hai phái này đều sử dụng một số kinh như Diệu Pháp Liên Hoa, Kim Cương Bát Nhã… Nhà sư Bản Tịch thuộc thế hệ thứu 13 của phái Tìniđalưuchi đã hiểu thấu các phép đốn giác và tiện giác. Mà quan điểm về đốn ngộ được xây dựng trên bản thể của Thiền Tông, Nam Tông và cũng là của phái Vô Ngôn Thông.
Phái Thiền Vô Ngôn Thông cũng như các phái Thiền khác vẫn đặc biệt chú ý đến “tâm”, vì đấy chính là phạm trù cơ bản của Thiền Tông. “Tâm” được coi như là nguồn gốc của các pháp, của thế giới hiện tượng. Từ quan niệm đó mà các sư phái Vô Ngôn Thông và một số nhà sư phái Tìniđalưuchi đặc biệt chú trọng đến cái gọi là “Chân như”. “Chân như” là bản thể vũ trụ, ẩn trong mọi pháp của thế giới hiện tượng, trường tồn bất biến. Hai phái này không những chịu ảnh hưởng lẫn nhau mà còn chịu ảnh hưởng của các tông phái Phật giáo, trước hết là Mật giáo. Khuynh hướng Mật giáo nổi bật ở phái Tìniđalưuchi. Thiền Tìniđalưuchi không đi theo khuynh huớng cực đoan “bất lập văn tự, giác ngoại biện truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật” mà nó vẫn coi trọng kinh sách. Nhiều sư của phái này thường tụng niệm những lời chú Đàlani, Đàlani tam ma địa, đại bi tâm. Đàlani mang tính chân ngôn cũng nói lên rằng phái Thiền này có yếu tố Mật giáo bởi vì nhiều nhà nghiên cứu cho rằng kinh tổng trì Đàlani là kinh của Mật giáo. Cũng nhờ yếu tố Mật giáo này nó đã làm cho phác Tìniđalưuchi gần gũi với tín ngưỡng phong thủy, sấm vĩ, cầu đảo… Theo “Thiền uyển tập anh” sư Thiền Tham cùng thời với Minh Không cũng tiếp tục khuynh hướng Mật giáo, (nổi tiếng trong việc chữa bệnh cho vua bằng pháp thuật), “chuyên tâm học kinh Tổng trì Đàlani, đọc thuộc lòng không sót một chữ… Phàm trong nước có cầu đảo việc gì, sư đều đứng làm chủ”. Phái thiền Vô Ngôn Thông cũng chịu ảnh hưởng của Mật giáo tuy không sâu đậm như phái Tìniđalưuchi. Theo Thiền Uyển tập anh “sư không lộ chuyên tâm nghiên cứu pháp môn Đàlani “rồi sư bay lên trên không, đi dưới nước, phục hổ giáng long muốn nghìn kì quái, không ai trắc lường được”.
Phái Thiền Thảo Đường là một phái thiền riêng của thời Lý. Nhiều nhà sư trong phái này cũng chịu ảnh hưởng của khuynh hướng Mật giáo như Đại Biên, Bát Nhã là sư chuyên về phù phép. Thời Trần ít chịu ảnh hưởng của Mật giáo so với thời Lý. Ta có thể thấy điều đó qua tác phẩm của Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thái Tông. Nhưng đến thời Pháp Loa ảnh hưởng của Mật giáo tăng lên rõ rệt.
Ngoài ra, Thiền Tông còn chịu ảnh hưởng của Tịnh Độ Tông. Sư Trì Bát thuộc phái Tìniđalưuchi chịu ảnh hưởng của Tinh Độ Tông khi tin vào cõi tây Phương cực lạc và Phật Adiđà. Vào thế kỉ thứ III, 3 thiền phái Tìniđalưuchi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường dần nhập làm một. Sự sát nhập của ba thiền phái trên và do ảnh hưởng của Trần Thái Tông đã đưa đến sự phát triển lớn của thiền phái Yên Tử thành thiền phái Trúc Lâm mang đậm màu sắc Việt Nam.
Sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử không chỉ đáp ứng nhu cầu thống nhất các Tông phái Phật giáo mà còn đáp ứng nhu cầu xã hội: Sáng tạo ra một ý thức hệ thống nhất và độc lập trên cơ sơ những tiền đề ý thức hệ đã có sẵn. Sự thống nhất ý thức hệ đó được công cuộc chống ngoại xâm thúc đẩy, tạo điều kiện trên cơ sở lòng yêu nước căm thù quân xâm lược.
2.2.2. Dung thông Nho – Phật - Đạo
Không chỉ đợi đến thời đại Lý – Trần mới xuất hiện “tam giáo đồng nguyên” mà ngay từ thế kỷ thứ II, Việt Nam đã trở thành mảnh đất tốt để Tam giáo lớn mạnh trong lòng bao dung của người Việt. Hơn nữa, Phật giáo cũng có ưu điểm lớn là tinh thần khoan dung và tự do Phật giáo không bao giờ chống đối hay chỉ trích Nho giáo cùng Lão giáo. Theo lời của giáo sư Trần Quốc Vượng thì tâm thức người Việt là sự cởi mở, đa nguyên, đa dạng… có cái “duy lý” của Nho giáo, có cái “tâm linh” của Phật, có cái “siêu việt” của Lão – Trang và có cả cái mê tín “thần ma” của căn tính tiểu nông” (15,tr.496).
Phật giáo thời Lý – Trần được coi như một quốc giáo nhưng nó không độc tôn mà vẫn có mặt pha trộn với Nho giáo và Lão giáo. Việc Phật giáo hỗn dung với Đạo giáo thì cũng đã diễn ra. Như nhà sư La Quý An dùng pháp thuật cao cường triệt để phá đi những yểm mạch của Cao Biền (thái thú đời Đường thống trị nước ta) ở khắp các mạch núi sông của ta, bằng các cây tháp gọi là Bát vạn sơn, nhằm triệt tiêu những nhân tài đất Việt. Hoặc hiện tượng các nhà sư thời Lý dùng phép thuật bùa chú của Đạo giáo, phù thuỷ đế được tôn thờ làm thánh thần. Hoặc việc bộ tượng của Đạo giáo: Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu được bày thờ phổ biến trong các điện thờ Phật. Hoặc việc dựng chùa cũng viện đến thuật phong thuỷ của Đạo giáo, như “xây chùa phải chọn khu đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái – trống không hoặc có sông hồ, ao ngòi bao bọc, bên phải có núi hổ cao dày lớp lớp quay đầu chầu lại hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, long tán hoặc có hình long, phượng, quy, xà chầu bái, ấy là đất có long ngai tay hổ vậy…” (1,tr.242).
Ở Thiền Phái Vô Ngôn Thông thời Lý, chúng ta thấy có khuynh hướng dung hòa tư tưởng Phật giáo với tư tưởng Lão – Trang. Cách trình bày về “chân như diệu tính” của các nhà sư phái Vô Ngôn Thông rất gần gũi với cách trình bày về “đạo” của Lão – Trang. Sách Lão Tử nói rằng đạo “nhìn mà không thấy gọi là di, nghe mà không thấy gọi là hy”. Thiền sư Minh Trí (thuộc hệ thứ 10 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông) thì viết:
“Giáo ngoại khả biện truyền
Hy di tổ phật uyên” (19, tr 523)
Đạo giáo là sự pha trộn một ít triết lý Lão – Trang với hình thức tín ngưỡng dân gian nguyên thủy, như sấm truyền, bùa phép, cầu cúng… Phật giáo dung hòa với Đạo giáo nên rất dễ đi sâu vào tín ngưỡng người Việt.
Phật giáo và Đạo giáo còn giống nhau ở tư tưởng xuất thế nhưng phương thức khác nhau. Văn học Phật giáo kết hợp với tính chất phiêu diêu tiên cảnh của Đạo gia. Sự kết hợp này có ngay từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta nhưng đến thời Trần thì phát triển đến đỉnh cao của sự kết hợp bởi nó có lối sinh hoạt thoáng nên rất gần với Đạo gia. Thêm nữa cả Phật và Đạo đều đề cao con người tự nhiên, bình đẳng nên rất dễ dung hòa với nhau. Trong thơ ca của thiền phái Trúc Lâm cũng tràn ngập thiên nhiên nào trăng, nào gió, nào hoa, nào chim… một không khí tiêu dao bàng bạc của con người lắng trong thiên nhiên, mặc cho thiên nhiên chuyển hoá, theo như thiên nhiễn đã định và không can thiệp vào… Phái Trúc Lâm đã có một thái độ hoà mình vào thiên nhiên một cách bình dị, không truy cầu lạc thú dù là lạc thú thưởng thức thiên nhiên. Những người theo đạo Lão Trang tìm thấy thiên nhiên cái quy luật của cuộc sống và chủ trương vô vị. Phái Trúc Lâm mượn thiên nhiên để diễn tả quy luật của cuộc sống và làm môi trường diệt dục chứ không phải để ẩn náu trong thiên nhiên. Như vậy nhân sinh quan của phái Trúc Lâm là quan niệm nhân sinh Đại thừa pha lẫn ít nhiều màu sắc Lão giáo, không đẩy con người đến thái độ yếm thế, cực đoan, khuyên con người cứ sống như đã sống và phải sống tiết dục.
Theo lời của Nguyễn Đăng Duy: “Đến Nho giáo đối với Phật giáo, thì đây là chuyện khá kỳ cục, nhưng Phật giáo và Nho giáo vẫ đi đựơc với nhau” (1, tr.242). Những triết lý của Phật giáo Lý-Trần đã góp phần làm cho những tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời kỳ này không phải là phiên bản nguyên mẫu của Nho giáo Trung Hoa. Do hoàn cảnh lịch sử khách quan của công cuộc giữ nước trong thời kỳ độc lập, tự chủ đòi hỏi giới quân sự phải biết trọng dụng trí thức nên chính các vị sư cũng giỏi cả Nho học, tinh thông cả dịch học của Nho, khoa địa lý phong thủy của Lão. Các nhà tu hành trí thức này có ý thức quốc gia, có lòng yêu nước trong sáng, học vấn uyên bác cả về giáo lý đạo mình và kinh điển của đạo khác nên có một tinh thần đại đồng, không bị hình thức sắc tướng làm mê chấp, làm cho các vị ấy đã sớm biết đoàn kết, đứng chung dưới ngọn cờ dân tộc để phù trợ chặt chẽ cho các chính sách, đường lối của triều đình, cả về đối nội lẫn đối ngoại. Với tinh thần khoáng đạt, các nhà sư khi cố vấn, gián nghị các vua đều không câu chấp, lúc thì vận dụng Lão, khi thì trưng dẫn Nho để thuyết phục. Pháp sư Đỗ Pháp Thuận đã được Lê Đại Hành hỏi về vận nước, Ngài khuyên vua dùng đường lối “vô vi” của đạo Lão. Trong buổi đầu rực rỡ của dân tộc, các vua còn quyết định tuyển chọn nhân tài giúp nước qua hai kỳ thi về tam giáo. Lần thứ nhất mở 1195 triều Lý Cao Tông, lần thứ hai 1247 triều Trần Thái Tông. Vào thời Lý, vua Lý Thánh Tông là đệ tử thế hệ thứ nhất của phái Thảo Đường đã sai xây Văn Miếu (1070), tô tượng Chu Công, Khổng Tử, cùng khắc tên 72 vị tiên hiền để thờ. Điều đó chứng tỏ Phật giáo đã có sự kết hợp với Nho giáo.
Đền thời Trần, Nho giáo dần chiếm được vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần cũng như trong tổ chức xã hội. Nhưng Phật giáo thời Trần cho đến giữa thế kỉ XIV vẫn giữ được sự thịnh vượng của nó. Nó phát triển trong sự dung hòa với Nho giáo. Chính các Phật tử như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông đã mở rộng Nho giáo Thái Tông mở các khoa thi 1232, 1247. Các khoa thi khác tiếp tục được tổ chức để kén chọn nhân tài. Năm 1253, Thái Tông mở Quốc Học Viện ở kinh sư để giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Năm 1267, Thánh Tông chọn các Nho sinh có học thức vững vàng để bổ nhiệm.
Theo tinh thần rất mực đề cao chữ hiếu của Nho giáo thì các nhà tu hành đạo Phật phạm vào điều bất hiếu đầu tiên. Bởi vì học tu hành ép xác khổ hạnh là trái với điều con cái không được hủy hoại thân thể, nhất là họ không sinh con nối dõi tông đường là thuộc vào đại bất hiếu. Thế nhưng Phật giáo và Nho giáo vẫn đi được với nhau và để tồn tại Phật giáo đã phải chấp nhận nhiều điều theo tinh thần của Nho giáo, ví như phải bỏ tục hỏa táng theo tục thổ táng, kinh Phật cũng luôn xen vào chữ hiếu đễ việc Nho giáo rất mực đề cao chữ hiếu đã tác động vào Phật giáo sinh ra lệ ngài Mục Kiền Liên báo hiếu cứu mẹ. Rằm tháng bảy cúng xá tội vong nhân trên chùa, mở cửa ngục xã tội những can nhân, trong đó có mẹ ngài Mục Kiền Liên. Từ sự tích này thành lễ chúc thực trong đám tang người Việt, khi thi hài còn quàn trong nhà. Nhà sư, các bà vãi, con cháu kể về những điều “Nhị thập tứ hiếu” đối với người đã khuất và cha mẹ còn sống.
Tinh thần “tam giáo đồng nguyên còn được thể hiện trong lời đáp của Thiền sư Viên Chiếu khi được hỏi về ý nghĩa của Phật giáo và Thánh (Nho):
“Trúc tắc kim ô chiếu
Dạ lai ngọc thố minh”
(Ngày thì mặt nhựt sáng soi
Đêm về vằng vặc khung trời ánh trăng) (3, tr.1, Chương IV)
Sự ngụ ý bảo tuy ứng dụng của Nho và Phật trong đời khắc nhau, nhưng điều đem lại cho đời ánh sáng (giác ngộ) ví như ngày cần ánh sáng mặt trời (kim ô: quạ vàng), đêm cần ánh sáng vầng trăng (ngọc thố: thơ ngọc).
Hay Trần Thái Tông (1218 – 1277) khi viết bài tựa cho Thiền Tông chỉ nam vua ám chỉ trách nhiệm độ đời của Phật hay Nho là một. “Lục Tố nói: “Bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác gì nhau. Như thế đủ biết đại giác lý của đức phật ta lại phải nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời” (3, tr.1, chương IV). Trong bài “Tọa thiền luận”, vua so sánh tam giáo về pháp môn tu luyện và nêu lên sự tương đồng như sau: “Thích - ca văn phật vào núi Tuyết Sơn, ngồi ngay ngắn trong sáu năm, chim bồ các làm tổ ở trên đầu, cỏ mọc xuyên qua bắp vế mà thân tâm vẫn bình thản” Tử Cơ (Đạo gia) ngồi tựa ghế thân như cây khô, lòng như tro nguội. Nhan Hồi (Nho gia) nguồi quên chân tay rã rời, thông minh dẹp bỏ, lìa xa cả trí ngu để hòa chung với đạo lớn. Ba bậc thánh hiền của Tam giáo đời xưa đó nhờ ngồi định mà có thành tựu” (3. tr.1 – 2, chương IV).
Tuyết Sơn tức là Hy – mã - lạp – sơn (Himalayas). Chim bồ các có sách dịch là chim thước, hoặc dịch là chim khách. Tứ cơ tức là Nam Quách Tử Cơ, được chép trong Nam Hoa Kinh là Trang Tử.
Trong bài “Giới sát sinh văn”, vua nêu lên chỗ tương đồng của Tam giáo về mặt hành thiên: “Sách Nho dạy làm điều nhân đức, kinh Lão dạy yêu thương nguời và vật, Phật chủ trương hãy giữ gìn giới và cấm sát sinh” (3, tr.2, chuơng IV). Chính đi theo khuynh hướng dung hòa, trung đạo, không chấp biên kiến này mà các vua Trần đã giải quyết, điều hòa được mâu thuẫn đương thời trong thực tiễn cũng như trong lý luận, tập hợp, đoàn kết toàn dân xung quanh nhà Trần để đánh đuổi ngoại xâm, xây dựng đất nước, tạo nên một thời đại phong kiến anh hùng bậc nhất trong lịch sử. Với tinh thần bao dung, mềm dẻo, sáng tạo, người Việt đã không tiếp thu các hiện tượng văn hóa ngoại sinh một cách hoàn toàn, mà chỉ tiếp thu những yếu tố ngoại lại phục vụ cho nhu cầu tâm linh xã hội của mình đồng thời cải biến các yếu tố đó sao cho phù hợp. Những cái khác nhau của Nho, Phật, Đạo lại bổ sung cho nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội sao cho quy củ, Đạo giáo lo thể xác con nguời sao cho mạnh khỏe, Phật giáo lo cho tâm linh con người sao cho thoát khổ. Và trong thế đa đung, hỗn dung tư tưởng và tôn giáo đó ta vẫn thấy sự nổi trội của Phật giáo cả trong đời sống học thuật và trong tư tưởng, trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Phật giáo đã hòa vào tinh thần tiếp biến văn hóa của người Việt vốn có từ xa xưa, đó là ưu điểm lớn nhất khiến cho Phật giáo luôn chiếm giữ vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần, tâm linh của nguời Việt.
2.2.3. Phật giáo với sự hỗn dung tín ngưỡng dân gian
Sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa tạo nên cái mà người ta gọi là “dòng Phật giáo dân gian” và nó cũng đã tồn tại lâu dài trong lịch sử Việt Nam. Vả lại, Việt Nam vốn là một xứ sở gắn liền với nghề nông nghiệp trồng lúa nước, nên con người sớm nảy nở tín ngưỡng tôn thờ các hiện tượng tự nhiên: mây, mưa, sấm, chớp… Khi mà Phật giáo du nhập vào nước ta, đã bén rễ hỗn dung ngay vào tư tưởng này. Sự hỗn dung ấy biểu hiện ra ở Thạch Quang Phật, tượng Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện ở chùa Luy Lâu (nay là chùa Dâu ở Thuận Thành – Bắc Ninh). Điều đó cho ta thấy tín ngưỡng buổi ban đầu ở Việt Nam đã hòa ngay vào triết lý văn hóa, tín ngưỡng bản địa, đó là triết lý “mẹ sinh” (1, tr.233). Tín ngưỡng mẹ sinh nảy nử từ thời nguyên thủy. Khi hái lượm là phương thức sinh sống của con người. Triết lý này đã tạo nên đặc trưng nổi bật của Phật giáo Việt Nam, là khuynh hướng thiên về nữ tính. Các vị Phật Ấn Độ vốn xuất thân là đàn ông sang đến Việt Nam thành Phật Ông – Phật Bà. Chẳng hạn: Bồ Tát Quán Thế Âm đã biến thành Phật bà Quan Âm với nghìn mắt, nghìn tay. Ngoài ra còn các vị Phật bà khác nữa: Quan Âm Thị Kính, Phật Bà chùa Hương, rất nhiều các vị Bồ Tát và các vị thánh Mẫu (Mẫu Thủy, Mẫu Địa, …). Sự kết hợp này đã làm cho Phật giáo phát triển về mặt lễ nghi.
Cư dân nông nghiệp còn thờ phổ biến Trời, Đất. Ở người Việt thờ trời đất gọi là thờ thổ công, thổ địa. Tục thờ trời đất cũng tác động vào chùa không có ngôi chùa nào không có bàn thờ ông Thổ Địa (thể hiện ông mặt đỏ, râu dài, đội mũ cánh chuồn, mặc áo long bào, ngồi trên bục hai bên có lính hầu), bàn thờ ông Thiên Lôi. Việc thờ thần Thổ Địa có ngôi chùa còn lập đền thờ riêng, như chùa Tây Phương (Hà Tây).
Tín ngưỡng thờ thần cũng phát triển phổ biến ở cấp độ làng.Thần làng, ấp là những vị có công đánh giặc ngoại xâm, những vị có công lập làng khai hoang mở đất, những vị tổ nghề, thần còn là hồn thiêng sông núi. Từ đó, đã dẫn đến việc một số nhà sư trở thành thần thánh và được thờ trong chùa, theo kiểu “tiền Phật hậu Thánh”. Nhà sư Từ Đạo Hạnh được tôn làm Thánh, vì ông đã hóa phép đầu thai sinh ra vua Lý Thánh Tông. Ông được thờ trong chùa Láng (Hà Nội) quê ông và ở chùa Thầy (Hà Tây) nơi ông tu hành trút xác đầu thai. Ngoài ra các vị thần thánh là những người có công đánh giặc cũng được đưa vào thờ trong chùa. Điều đó nói lên một thực tế nước ta liên tiếp phải chống giặc ngoại xâm mà Phật giáo không thể không thừa nhận.
Trong đời sống tâm linh người Việt, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên diễn ra rất sâu rộng nhất so với các loại hình tín nguỡng kể trên. Thờ cúng tổ tiên mang ý nghĩa là nhớ về cội nguồn, biết ơn cha mẹ là người nuôi nấng, dạy dỗ, sinh thành ra ta và là thần linh phù hộ cho ta trong cuộc sống thường ngày. Đối với Phật giáo lý tưởng cao quý nhất là mong thành Phật để được lên cõi Niết Bàn, không còn gì vương vấn ở cõi trần thế này. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tác động vào chùa thành hình thức thờ Sư Tổ như chùa Diên Phúc thời Lý, nhưng mạnh mẽ là phải kể từ khi Nho giáo được đề cao, với việc coi trọng hiếu đễ. Việc thờ Tổ trong chùa đã làm cho chùa trở thành một gia đình gia tộc. Ca dao có câu:
“Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”
Và Việt Nam đức Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng truyền thống. Có khả năng giúp đỡ mọi người thoát khỏi tai họa, làm nên mây mưa để mùa màng tốt tươi, cứu độ cho người chết… Vì vậy, Phật giáo ngày càng ăn sâu vào đời sống tâm linh của người Việt.
Chính tính chất sâu sắc về mặt tình cảm của tín ngưỡng bản địa và tính cao thâm, hệ thống của tín ngưỡng Phật là ưu thế để hai dòng tín ngưỡng không loại trừ nhau mà còn bổ sung cho nhau. Nó đã góp phần tạo nên giá trị truyền thống của văn hóa Việt, đối trọng với văn hóa duy lý truyền thống Trung Hoa. Trong quá trình song song cùng tồn tại do sự tác động qua lại, khiến cả hai dòng tín ngưỡng đều có những biến đổi. Tuy nhiên sự hỗn dung này là quy chúng về cùng một hệ thống và không tạo ra một nhân sinh quan mới hoàn toàn mà đó là một nhân sinh quan tổng hợp gồm nhiều sự phát triển song song vừa hòa quyện vào nhau.
2.3. Tính nhập thế của Phật giáo Đại Việt dưới thời Lý – Trần
Ngược dòng thời gian gần 2000 về trước, khi Phật giáo vào nước ta với tư cách là “sứ giả của hòa bình và của tình thương thân ái” thì ngay từ ngày ấy tinh thần nhập thế đã phải coi là chuẩn mực tối cao của việc hành đạo rồi. Chính các tính chất “từ bi hỉ xả, cứu khổ, cứu nạn” trong tinh thần Phật giáo đã dẫn đến sự nhập thế này và đã làm cho Phật giáo ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian. Chúng ta có thể đánh giá tinh thần nhập thế của Phật giáo dưới nhiều góc độ, chiều cạnh khác nhau. Từ những hoạt động “đời sống thường ngày” của các chùa chiền, của các tăng ni phật tử nơi thôn xóm, chốn kinh thành. Ta thấy “đất vua chùa làng”, đã từ lâu mái chùa, sân đình, khuôn viên chùa là nơi sinh hoạt văn hóa của đông đảo dân làng, không phân biệt già trẻ, gái trai, chức tước, địa vị. Với xóm làng, nhà sư không chỉ là người tu hành mà còn là ông thầy - ông thầy nêu cao tấm gương đạo đức, ông thầy dạy chữ, ông thầy thuốc và ở nhiều nơi nhiều lúc là ông thầy về tổ chức xã hội và điều hành công việc làm ăn kinh tế nữa. Trong buổi đầu dựng nước và giữ nước, nhà chùa chính là trường học, là nơi học tập kiến thức, xây dựng nếp sống văn hoá và cũng là nơi dạy học cho đại đa số quần chúng. Chính vì là nơi các bậc trí thức lớn lên nên các thiền sư trong phái Vô Ngôn Thông đã có công lớn trong việc giúp vua giúp nước phát triển văn hoá.
Đạo lý Phật giáo tuy nhằm vào mục đích cuối cùng là “xuất thế” nhưng không đối lập với tinh thần “nhập thế” (cái gọi là xuất thế không phải là thoát ly, trốn tránh thế gian mà là cải tạo thế gian). Lục Tổ Huệ Năng (môn đệ của Bồ Đề Đạt Ma) khuyên:
“Phật Pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly Thế mích Bồ Đề
Khắp như cầu thố giác”
(Pháp tu của Phật ở ngay cõi thế gian
Không thể tìm thấy giác ngộ ở bên ngoài cõi thế gian
Tìm Bồ Đề ở ngoài thế giới
Như tìm lông rùa sừng thỏ thôi) (10, tr.40)
Điều này nói rõ tu hành là phải ở trong cõi người, muốn giác ngộ cũng phải ở trong cõi người mà giác ngộ. Con nguời muốn cầu đạo không thể từ bỏ, trốn tránh thế giới này để bo bo hoàn thiện cái thân của mình để tu thành chính quả. Bởi vì một cá nhân muốn thành Phật thì ngoài việc có đầy đủ thông minh, trí tuệ, còn phải phát nguyện tâm từ bi rộng lớn để phổ độ chúng sinh. Do vậy, Phật giáo với tinh thần xuất thế mà làm sự nghiệp nhập thế. Con người phải giác ngộ ngay trong nghiệp cảnh thế gian cũng giống như bông hoa sen tỏa hương thơm ngát trên vũng bùn lầy đầy nước đọng. Đời là bể khổ nhưng cái khổ ấy cũng lại là cơ hội để con người đạt đạo chính giác. Ai chưa nếm mùi khổ hạnh thì chưa có cơ hội thành chính quả.
Phật giáo Lý – Trần là một nền Phật giáo nhập thế tích cực. Tùy nghi, tùy thời, nhâm vận, đó là hành động của những người đã giác ngộ ở một đất nước trong lúc mọi người đều hăm hở, hăng hái chống giặc, nếu cứ ôm khư khư giáo lý nhà Phật, đóng kín cửa chùa, thì thật chẳng hợp thời đúng lúc chút nào. Đi sâu hơn một chút ta thấy Phật là Thiện. Trong Thiện có nhiều mức độ, có thiện lớn, thiện nhỏ, thiện vĩ đại như đức Phật từ bỏ ngai vàng để đi tìm con đường giúp chúng sinh thoát khỏi sông mê bể khổ, thiện nhỏ như làm một điều tốt lành nho nhỏ. Người Phật tử Việt Nam thời Lý – Trần luôn làm theo điều thiện lớn khi đứng giữa ngã ba đường cần có sự lựa chọn, dù có phải vi phạm vào giới luật. Chấp vào những giới luật để làm những điều thiện nhỏ mà bỏ qua điều thiện lớn thì chẳng khác nào “ngu trung”, “ngu hiếu” trong Nho giáo vậy ở đây muốn hợp thời, đúng lúc thì phải học theo Thượng Sĩ là không trái với đời người, trộn lẫn cùng thế tục, phải đứng ngay trong hàng ngũ dân tộc, cầm gươm lên ngựa tiêu diệt quân xâm lược. Đã giác ngộ thì mọi hành động, cử chỉ, suy nghĩ đều là Thiền. Và ở đây đánh giặc cứu nước cũng là Thiền. Theo tác giả Nguyễn Hùng Hậu: “Thiện lớn, đức lớn, hợp thời, đúng lúc, tùy nghi lúc này là ở cứu dân tộc, quê hương, đất nước, khỏi cảnh thảm họa là nạn ngoại xâm. Vì thế thiện lớn, đức lớn đó mà các Phật tử sẵn sàng cầm gươm lên ngựa, sẵn sàng vi phạm giới luật (cấm sát sinh) giết một người cứu muôn người. Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng, những người Phật tử không giáo điều ôm khư khư giới luật mà không được giết hại chúng sinh trong đó có cả kẻ thù, quân xâm lược đang giết hại đồng bào. Không thể vì một điều thiện nhỏ cho cá nhân mà quên điều thiện lớn cho dân tộc, ở đây phá giới là theo tinh thần phá chấp” (8, tr.397). Trong các tông phái Phật giáo thì Thiền Tông Việt Nam có quan niệm về nhập thế rõ ràng hơn cả. Một vị tổ Thiền đã đưa ra phương châm “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (Một ngày không làm là một ngày không ăn”. Thiền Tông Việt Nam có tinh thần thương người, đặc biệt là cứu con người là trên hết. Vì thế mà Phật giáo Việt Nam có câu:
“Dù xây chín cấp phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người”
Chính vì vậy việc cứu đất nước, muôn dân trăm họ là công việc khẩn cấp hơn cả. Vì vậy sau này Thiền sư Viên Chiếu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp cũng có đôi câu đối dán trước cửa chùa Linh Sơn, nơi ông làm giáo thụ:
“Phật giáo thị nhập thế phi yếm thế
Từ bi nãi sát sinh dĩ độ chúng sinh”
(Đạo Phật là nhập thế chứ không phải Yếm thế
Từ bi là không sát sinh để cứu độ chúng sinh). (10)
Trong khi kinh Phật nói đến thế giới cực lạc Tây Phương, đó là cái đích là mục tiêu hướng tới. Mục đích cuối cùng của Phật giáo là “biến cõi người này thành cõi Tịnh độ trang nghiêm, biến địa ngục thành thế giới cực lạc. Đó mới là tôn chỉ chân chính của Phật giáo chứ không phải yêu cầu mọi người trốn tránh thế giới này để sang Tinh độ Tây Phương mà hưởng phúc.
Tính nhập thế củ Phật giáo Lý - Trần còn được biểu hiện ở việc tham gia chính sự của các nhà sư. Nhiều thiền sư đã tham gia tích cực vào đời sống chính trị xã hội, uy tín và địa vị cao trong triều đình, là những cố vấn, những người trợ giúp đắc lực cho nhà vua. Triều đình đã sử dụng các nhà sư vào mục đích chính trị, nhất là vào việc bang giao. Như các nhà sư Vạn Hạnh, Viên Thông, Nguyễn Huy Tường, Đa Bảo. “Thiền uyển tập anh” chép: “Khi vùa (Lý Thái Tổ) lên ngôi thường mời sư (Đa Bảo) vào cung hỏi han về đạo, ân lẽ rất hậu. Đến cả việc chính sự trong triều, sư đều được tham gia quyết định”.
Đối với Tuệ Trung Thượng Sĩ, đạo với đời không tách rời nhau, đời cũng là đạo mà đạo cũng là đời. Ông đã dưỡng chân tu đạo ở cõi đời bụi bặm này: “Góc bể chân trời là nơi nuôi dưỡng chân tính của ta”. Thiền của Tuệ Trung Thượng Sĩ là cái gì rất gần gũi với đời sống, ở ngay trong chính đời sống hàng ngày. Cuộc đời và con người Thượng Sĩ đủ là một minh chứng ông vừa là nhà hoạt động quân sự, vừa là một thiền gia. Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Tuệ Trung Thượng Sĩ thể hiện qua những câu sau đây trong bài “Phật tâm ca”.
“Vạn pháp chi tâm đức Phật tâm
Phật tâm khước dữ ngã tâm hợp
Pháp nhĩ như nhiêu hoàn cổ kim”.
(Tâm của vạn pháp là tâm của Phật
Tâm của Phật lại phù hợp với tâm của ta.
Cái phép đó vẫn tự nhiên như vậy từ xưa đến nay) (21, tr. 271).
Vạn pháp là muôn vật, là thế giới hiện tượng xung quan chúng ta. Tâm của vạn pháp theo cách trình bày của Tuệ Trung Thượng Sĩ, ta hiểu là cái lẽ biến chuyển tự nhiên của vạn vật. Ở đây Tuệ Trung muốn nêu lên nguyên tắc: hãy đưa tâm của ta hợp với tâm của vạn pháp và như vậy là đã đạt đến tâm Phật và chúng ta hiểu điều này là sống hợp với quy luật tự nhiên, ấy chính là giác ngộ. Hãy sống hoà vào cuộc đời, không làm trái với quy luật tự nhiên, đó là nguyên tắc sống của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Trần Nhân Tông đã từng viết về nguyên tắc sống của Tuệ Trung: “Hỗn tục hoà quang, dữ vật vị thường xúc ngỗ” (sống chung với đời tục, hoà ánh sáng trong bụi bậm, đối với mọi vật chưa từng xúc phạm hay làm trái ngược).
Chúng ta có thể thấy nguyên nhân dẫn đến Phật giáo Việt Nam có tinh thần nhập thế tích cực như vậy. Thứ nhất: Do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hộ lúc bấy giờ. Xã hội Việt Nam dưới thời Lý – Trần đang phát triển mạnh theo xu hướng phong kiến. Vì thế, Phật giáo xuất thế, yếm thế không thể đáp ứng nổi nhu cầu của xã hội, nhất là nhu cầu có một hệ tư tưởng, quản lý xã hội “trị quốc, bình thiên hạ”. Thứ hai, luồng không khí mới của thời đại cũng đã ảnh hưởng đến các chùa, làm cho các thiền sư phải có cách ứng xử của mình, phải có tư tưởng nhập thế tích cực. Sang thế kỉ XIII với sự thành lập vương triều Trần, Phật giáo đã có bước chuyển mới. Phật giáo trong thời kì này nhập thế hơn, nó mgắn liền với các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Thời Trần, mọi sự tiên tri, bùa chú, phù phép có tính chất phù thủy hầu như vắng bóng trong tư tưởng của các đại biểu giới tu hành. Đối với họ, bên cạnh những triết lý giải thoát của Thiền Tông là những vấn đề có khuynh hướng nhập thế và có liên quan đến đời sống hiện thực Phật giáo Lý – Trần không phải chỉ tồn tại dưới dạng một tín ngưỡng thông thường trong dân gian với sự hành đạo của các nhà sư, cũng không chỉ biểu hiện trong việc xây chùa, dựng tháp, đúc chuông, tô tượng mà bằng triết lý, thế giới quan tôn giáo của mình, trước hết là triết lý nhập thế. Có thể nói tinh thần dân tộc đã thổi luồng sinh khi mới vào Phật giáo thời Lý – Trần. Từ đó nó đã tạo nên động cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên thành công.
KẾT LUẬN
Khảo sát toàn bộ hoạt động chính trị xã hội, tư tưởng, tôn giáo,… thời Lý – Trần chúng ta thấy một hiện trạng là sự đa dung, hỗn dung những tư tưởng, những tôn giáo, nói là “đa dung” nhưng không phải là cào bằng, nói là “hỗn dung” nhưng không phải là không có chủ đạo. Trong tính đa dung, hỗn dung đó ta vẫn thấy sự nổi bật của Phật giáo. Nét đặc biệt trong quá trình du nhập Phật giáo là không có sự miệt thị, kì thị, nhất là không có chiến tranh tôn giáo. Sự du nhập của Phật giáo trong lịch sử Việt Nam diễn ra một cách tự nhiên, hoàn toàn không phải là sự cưỡng ép của bạo lực, quyền lực. Chính vì vậy Phật giáo đã có sự đồng hành lâu dài trong lịch sử Việt Nam. Sự tồn tại của nó đã để lại dấu ấn dù ít dù nhiều, đôi khi là rất sâu sắc trong hầu hết các lĩnh vực khác nhau của xã hội Việt Nam kể từ thời phong kiến trở về trước mà nổi bật nhất là thời kỳ Lý – Trần. Qua hai chương, niên luận đã đi vào tìm hiểu đặc điểm của Phật giáo Lý – Trần ở thời kỳ đầu là sự du nhập, rồi phát triển mạnh mẽ đạt đến sự phát triển rực rỡ vào thời Lý – Trần, đứng đầu trong tam giáo. Phật giáo bước vào giai đoạn hoàng kim đồng thời cũng mang những đặc sắc riêng của Phật giáo Việt Nam và có vai trò tích cực trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực Phật giáo Lý - Trần vẫn còn một số hạn chế. Chẳng hạn: việc các nhà cầm quyền xây qúa nhiều chùa chiền tốn kém sức người, sức của hay chùa chiền là nơi có quá nhiều ruộng đất, quá nhiều người. Ruộng đất thì lại đem sử dụng hoang phí không làm giàu cho đất nước. Con người vào chùa để trốn tránh nghĩa vụ thần dân đối với nhà nước. … Nhưng chúng ta đều nhận thấy sự phê phán Phật giáo của các nhà Nho thời Lý - Trần chủ yếu và cơ bản trên bình diện sinh hoạt nào đó của nhà chùa và sư, tăng chứ không phải trên phương diện các giáo lý, tư tưởng của Phật giáo.
Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có một cách nhìn toàn diện về vai trò của Phật giáo. Như vậy, có thể nói Phật giáo từ trước đến thời Lý - Trần đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong tâm hồn mỗi người dân đất Việt được nuôi dưỡng, sáng tạo, phát triển đến sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Đăng Duy, Phật giáo với văn hoá Việt Nam, NXB Hà Nội, 1999.
Nguyễn Đăng Duy, Văn hoá tâm linh, NXB Hà Nội, 1996.
Lê Anh Dũng, Con đường tam giáo Việt Nam.
Nguyễn Hùng Hậu, Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Duy Hinh. Tư tưởng Phật giáo Việt Nam
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1 –NXB Văn học, Hà Nội, 1992.
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 2 –NXB Văn học, Hà Nội, 1992.
Ngô Sỹ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2004.
Nguyễn Quang Ngọc, Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, 2000.
Phạm Văn Sinh, Về vai trò của Phật giáo ở Việt Nam (qua triều đại nhà Lý), Luận án Phó tiến sĩ, trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội, 1995.
PGS. Nguyễn Tài Thư chủ biên, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1988.
PGS. Nguyễn Tài Thư chủ biên. Lịch sử tư tưởng Việt Nam -
Thích Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử lược –NXB Minh Đức, Huế, 1960.
Trần Thái Tông, Khoá hư lục (Đào Duy Anh dịch), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974.
Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam - tìm tòi suy ngẫm, NXB Văn học, Hà Nội, 2003.
ThS. Nguyễn Thị Bạch Yến, Vai trò của Phật giáo với văn hoá tinh thần Việt Nam thời Lý – Trần (1010-1040).
Phân viện Nghiên cứu Phật học, Thiền uyển tập anh, NXB Văn học, Hà Nội, 1990.
Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Thơ văn Lý – Trần, tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977.
Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Thơ văn Lý – Trần, tập 2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977.
Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Thơ văn Lý – Trần, tập 3, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978.
Viện Văn học, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X-XVIII, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội, 1972.
* Tạp chí
Thử tìm hiểu vị trí của ba đạo: Nho, Phật, Lão trong lịch sử tư tưởng Việt Nam trên Tạp chí số 1-1982.
Thử bàn về một số tư tưởng Phật giáo – Nguyễn Hùng Hậu trên Tạp chí số 113 – 1989.
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
* * *
NIÊN LUẬN
Đề tài:
ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
DƯỚI TRIỀU ĐẠI LÝ – TRẦN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI THỜI LÝ – TRẦN
Giáo viên hướng dẫn : Th.S Lưu Thị Thịnh
Sinh viên : Đinh Thị Hằng
Lớp : K49 Triết học
HÀ NỘI – 1/2007
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC1700.doc