Đường lối đổi mới đã đưa các quốc gia vào một thời kỳ mới, thời kỳ mở rộng quan hệ quốc tế theo phương châm đa dạng hoá, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Điều đó đã góp phần vào sự phát triển chung cho thế giới.
Việt Nam không hoà vào xu thế chung của đời sống quốc tế, cũng đã tích cực và chủ động tham gia vào tiến trình hội nhập đẩy mạnh và phát triển kinh tế xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Vì vậy nước ta cũng cần nhận thức rõ cơ hội và thách thức, từ đó quán triệt những quan điểm, nguyên tắt về hội nhập để tranh thủ những cơ hội tốt hơn, đồng thời đối phó với những thách thức góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển hơn.
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2108 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm và xu hướng phát triển nền kinh tế thế giới và lợi ích của Nước ta khi gia nhập vào khu vực quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Những phát triển mạnh mẽ về khoa học và công nghệ đã góp phần đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Thương mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng. Với sự ra đời của các thể chế toàn cầu và khu vực như WTO (Tổ chức thương mại thế giới), EU (Cộng đồng châu Âu), APEC(Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương), NAFTA (Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ)…, thế giới ngày nay đang trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ. Quá trình này thể hiện không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà cả trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính, đầu tư cũng như các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường với các hình thức đa dạng và mức độ khác nhau. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra những quan hệ gắn bó, sự tuỳ thuộc lẫn nhau và những tác động qua lại hết sức nhanh nhạy giữa các nền kinh tế. Thông qua quá trình tự do hoá, toàn cầu hoá tạo ra những lợi thế thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các nước, góp phần khai thác tối đa lợi thế so sánh của các nước tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.
Quá trình toàn cầu hoá đang thúc đẩy mạnh mẽ sự hội nhập của các nước vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Hoà trong bối cảnh đó cùng với phương châm "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ" và "là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển", Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc gia nhập ASEAN (7 - 1995), ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế với EU (7 - 1995), tham gia APEC (11- 1998) gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO (tháng 11/2007). Việt Nam đã và đang từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Qua việc tham khảo tài liệu cùng với những kiến thức đã được lĩnh hội trong nhà trường, chúng tôi xin trình bày về đề tài “Đặc điểm và xu hướng phát triển nền kinh tế thế giới và lợi ích của Nước ta khi gia nhập vào khu vực quốc tế”
Nội dung của bài tiểu luận được trình bày trong ba phần:
Phần 1: MỞ ĐẦU
Phần 2 : NỘI DUNG
Chương1: Nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
Chương 2: Thời cơ và thách thức.
Chương 3: Việt Nam với toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế.
Phần 3: KẾT LUẬN
Chương 1: NHẬN THỨC VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ
1.1 Toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá. Nó đề cập tới một thế giới đang xích lại gần nhau hơn, tới việc vượt qua những khoảng cách và sự khác biệt, tới việc mọi người cùng chia sẻ hứa hẹn của tương lai.
Toàn cầu hoá là gì, và tại sao điều đó gây ra nhiều tranh cãi? Thông thường đề tài này được đưa ra liên quan đến thương mại quốc tế, nhưng nó đang vượt qua ngoài vấn đề đó. Toàn cầu hoá thực ra có nghĩa là thay đổi cách thức mà mọi việc làm trong nước. Nhưng thay đổi không phải lúc nào cũng là điều tốt. Giờ đây đối với một số người, từ này hiện thân cho thị trường tài chính tàn phá các nền kinh tế, các đối thủ cạnh tranh nước ngoài nghiền nát các doanh nghiệp trong nước, các quan chức hành chính xa vời đưa ra các quyết định làm đảo lộn xã hội.
Có người cho rằng hiện nay đã nhất thể hoá kinh tế thế giới (toàn cầu) rồi. Cách nói này thiếu chính xác. Chỉ khi toàn bộ các yếu tố sản xuất (nguồn vốn, hàng hoá, nhân viên, dịch vụ lao động) đều được lưu thông tự do trong quy tắc thống nhất của toàn cầu, mới có thể gọi là "nhất thể hoá kinh tế toàn cầu". Trong tình trạng các nước vẫn tồn tại lợi ích khác nhau thì khi thực hiện "nhất thể hoá kinh tế thế giới" nên chúng ta chỉ có thể sử dụng những khái niệm tương đối chuẩn xác như "toàn cầu hoá kinh tế" hay "hợp tác kinh tế toàn cầu". Cần nhận thấy rằng "Toàn cầu hoá" không có chữ "kinh tế" đi kèm thì hàm nghĩa của nó rộng hơn nhiều bao gồm mọi vấn đề có liên quan tới hợp tác toàn cầu. Vì thế lại nảy sinh quan niệm cho rằng "toàn cầu hoá" sẽ trở thành một loại hình thái ý thức và văn hoá thống nhất toàn cầu. Chúng ta không phản đối, thậm chí còn thúc đẩy trao đổi hợp tác giữa các quốc gia, mong muốn học tập và thu hút mọi tinh hoa văn hoá có lợi của các nước. Nhưng chúng ta không thể nhập khẩu hình thái ý thức của nước khác, càng không được Tây hoá hoàn toàn. Vì vậy, phải sử dụng thận trọng chữ "toàn cầu hoá", chúng ta cũng phải tính toán rằng lĩnh vực nào có thể toàn cầu hoá, lĩnh vực nào phải hợp tác có lựa chọn thậm chí không hợp tác.
Vậy toàn cầu hoá kinh tế là dưới sự tác động của quốc tế hoá sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, tính dựa dẫm vào nhau, bổ sung cho nhau của nền kinh tế các nước ngày càng gia tăng, yếu tố cản trở sản xuất đang ngày càng mất đi bởi sự tự do lưu thông toàn cầu.
Mặc dù vậy, toàn cầu hoá kinh tế vẫn ở trong giai đoạn đầu của nó. Lĩnh vực then chốt hợp tác toàn cầu hoá kinh tế vẫn chỉ là mậu dịch, tự do lưu thông nguồn vốn và sức lao động còn là vấn đề trong tương lai.
1.2. Nhận thức chung về hội nhập
Trong bối cảnh hiện nay, người ta đều thấy rằng, nhận thức về hội nhập vẫn là một vấn đề thời sự. Các quốc gia đều khẳng định cần xây dựng nhận thức thống nhất trong nội bộ rằng hội nhập là cần thiết, phù hợp với xu thế chung, nhất là tham gia WTO sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.
- Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế mỗi nước. Cần phải hội nhập sớm, nhất là tham gia WTO, để tranh thủ các cơ hội kinh doanh, để có tiếng nói trong quá trình hình thành luật lệ kinh tế, thương mại quốc tế có lợi cho mình. Hội nhập muộn sẽ phải chấp nhận nhiều quy định đã rồi, nghĩa vụ phải thực hiện sẽ lớn hơn và thời gian chuyển tiếp ngắn hơn.
- Không thể né tránh việc hội nhập mà vấn đề then chốt là cần phải nhận thức trước, tính toán đầy đủ cái giá phải trả cho việc tổ chức và vận hành các hiệp định quốc tế, phải đề ra được những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế trả giá ở mức thấp nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội để phát triển.
- Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong thị trường nội địa. Để hội nhập có hiệu quả, phải ra sức tăng cường nội lực, cải cách và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế trong nước để phù với "luật chơi chung" của quốc tế. Điều này không có nghĩa là các nước bị ép phải cải cách, mở cửa, hội nhập nhưng thực ra cải cách, hội nhập là vì sự phát triển của mình. Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với chiến lược phát triển của đất nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt với yêu cầu của quá trình hội nhập. Cải cách trong nước và hội nhập là "Con đường hai chiều". Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập, đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần phải nhận thức rằng dù có hội nhập hay không thì vẫn tiếp tục cải cách, cải cách mạnh hơn, nhanh hơn vì sự phát triển của mình. Điều quan trọng là phải duy trì ổn định chính trị, xã hội để phát triển kinh tế và hội nhập có hiệu quả.
- Hội nhập không phải để được hưởng ưu đãi, nhân nhượng đặc biệt. Hội nhập là mở rộng các cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường, có môi trường pháp lý và kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập, không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính tị hay những lý do khác cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Từ ổn định về thị trường, các nước sẽ có điều kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh ổn định, giải quyết việc làm phát triển kinh tế. Ngoài ra, các nước có thể sử dụng những luật lệ, quy định, cơ chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội nhập để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
- Phải tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích để giới kinh doanh nhận thức sâu sắc và ủng hộ hội nhập, chuẩn bị thật tốt mọi mặt để chủ động hội nhập từng bước, tận dụng những lợi thế so sánh của mỗi nước để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Đặc biệt quan tâm đến việc thông tin, giải thích cho doanh nghiệp và nhân dân, đặc biệt các thành phần bị ảnh hưởng bởi mở cửa và tự do hoá, về lợi ích của hội nhập và tham gia WTO. Cần tham khảo và thu hút giới doanh nghiệp tham gia xây dựng chính sách, lộ trình, các biện pháp hội nhập vì chính họ sẽ thực hiện các cam kết và bảo đảm hiệu quả của quá trình hội nhập.
Những năm đầu của thế kỷ XXI nền kinh tế thế giới phát triển theo các xu hướng sau đây:
1.3. Xu hướng nền kinh tế thế giới chuyển sang nền kinh tế có cơ sở vật chất kỹ thuật mới:
Từ trước đến nay nền kinh tế thế giới vẫn đang hoạt động chủ yếu dựa vào những cơ sở vật chất - kỹ thuật truyền thống. Trước yêu cầu phát triển của giai đoạn mới cơ sở này ngày càng tỏ ra không đáp ứng được. Tại các nước công nghiệp phát triển, kỹ thuật cơ khí hoá đã đạt trình độ cao và phổ biến các nguồn năng lượng dựa trên cơ sở sử dụng nguyên liệu rắn và lỏng, các vật liệu kim khí… đều đã được tận dụng cao độ và nguồn cung cấp chúng ngày càng hạn chế. Các quá trình công nghệ không liên tục ngày càng không đáp ứng các yêu cầu phát triển, không gian lục địa đã tỏ ra không đủ cho một nền kinh tế thế giới trong tương lai…
Thế kỷ XXI nền kinh tế trí tuệ đang được hình thành và phát triển. Đó là những người máy công nghiệp sẽ thay thế bằng những người lao động. Các quá trình lao động trí óc cũng được người máy thay thế. Các nguồn năng lượng mặt trời và nhiệt hạch… sẽ phổ biến và thay thế cho những cho các nguồn năng lượng hiện có. Các chất siêu dẫn, siêu cứng, siêu sạch, siêu bền… sẽ thay thế các vật liệu truyền thống. Công nghệ vi sinh, công nghệ gen sẽ phát triển… Các công nghệ liên tục sẽ được sử dụng rộng rãi. Không gian của nền kinh tế thế giới sẽ được mở rộng đến đáy Đại Dương và vũ trụ … Khi đó nền sản xuất thế giới sẽ đảm bảo cung cấp hàng hoá dồi dào với chi phí rất thấp, các khu vực sản xuất vật chất sẽ thu hẹp lại nhỏ bé so với các khu vực kinh tế trí tuệ. Để có thể thực hiện bước quá độ sang một nền kinh tế mới, các nước trên thế giới dù thuộc chế độ chính trị nào cũng phải có những thay đổi về cơ sở vật chất kỹ thuật và kiến trúc thượng tầng, nhưng theo cách riêng của mình. Bất cứ quốc gia nào, muốn đạt được sự phát triển và tiến nhanh trên con đường hiện đại hoá đều phải giải quyết hai vấn đề cơ bản:
Một là, tạo ra phát minh mới trên các lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao (vi điện tử, năng lượng, vật liệu, công nghệ) hoặc du nhập chúng và áp dụng nhanh chóng vào sản xuất.
Hai là, chuyển nhượng sang nơi khác các kỹ thuật trung gian và truyền thống.
Hai vấn đề này có mối liên quan và đòi hỏi có sự phối hợp toàn cầu nếu không
chuyển nhượng các kỹ thuật trung gian truyền thống sang các quốc gia kém phát triển hơn thì các tiến bộ kỹ thuật dù có đạt được cũng không có nơi sử dụng hoặc việc áp dụng có nhiều hạn chế.
Các quốc gia có nền kinh tế phát triển, trình độ công nghiệp hoá cao coi khoa học công nghệ là cốt lõi của biến đổi nền kinh tế. Các nước này áp dụng nhiều biện pháp để dành được các ưu thế trong sáng tạo kỹ thuật công nghệ như: tăng cường quản lý nhà nước về lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ, thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học công nghệ và tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, cải cách và chấn hưng giáo dục, bồi dưỡng và thu hút nhân tài, thành lập các thành phố khoa học kỹ thuật cao. Các nước phát triển, đặc biệt là Nhật Bản đã đạt được thành tựu kinh tế nổi bật còn nhờ việc nhập bằng phát minh từ nước ngoài và đưa các bằng phát minh này vào ứng dụng trong sản xuất. Nhật Bản trong 20 năm (1950-1970) đã nhập 11.606 bằng phát minh, vào những năm gần đây khối lượng các bằng phát minh Nhật nhập vào còn nhiều hơn.
Việc chuyển nhượng các kỹ thuật trung gian và truyền thống ở các nước phát triển sang các nước kém phát triển hơn. Nhờ đó mà các nước nghèo rút ngắn được chu kỳ đổi mới kỹ thuật và thời gian hoàn vốn cho những kỹ thuật nhập khẩu. Cách thứ hai là áp dụng kết cấu hai tầng trong công nghiệp. Tầng thứ nhất gồm các xí nghiệp lớn, hiện đại. Tầng thứ hai gồm các xí nghiệp nhỏ và vừa kém hiện đại hơn. Các kỹ thuật được xem là cũ luôn luôn được chuyển nhượng từ tầng thứ nhất sang tầng thứ hai. Nhật Bản đã thành công trong việc chuyển nhượng kỹ thuật trung gian và truyền thống theo cả hai cách này. Các nước NIC hiện cũng đang tìm một tầng công nghiệp thứ hai ở các công nghiệp nước kém phát triển hơn.
Bước quá độ chuyển sang một nền kinh tế mới ở các nước kém phát triển. Để xây dựng những ngành công nghiệp hiện đại cho nền kinh tế của mình đa số các quốc gia đi theo hai hướng:
Một là, du nhập các kỹ thuật trung gian và truyền thống của các nước phát triển trên cơ sở đó nhanh chóng bắt nhịp với trình độ hiện đại của nền sản xuất thế giới. Nam Triều Tiên là nước đi theo con đường này.
Hai là, nhập các bằng phát minh sáng chế, nghiên cứu, ứng dụng chúng vào sản xuất để tạo dựng cho mình một tầng công nghiệp hiện đại. Tầng công nghiệp truyền thống được coi là tiền đề để áp dụng hướng thứ hai. Hướng thứ nhất càng mở rộng, càng mạnh thì khả năng nghiên cứu ứng dụng và phát minh sáng chế càng lớn. Các nước đang phát triển hiện đứng trước một thách thức mới. Đó là lợi thế của các quốc gia này về nguồn nguyên liệu, nhưng tỷ trọng giao dịch nông sản phẩm khoáng sản trên thị trường thế giới ngày càng giảm do cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ đang phổ biến.
Vì vậy, các nước đang phát triển phải áp dụng chính sách kinh tế mới, thực hiện chính sách mở cửa với bên ngoài, tham gia cạnh tranh quốc tế, sử dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và dịch vụ quốc tế.
Những thay đổi về cơ cấu kinh tế thế giới dẫn tới những thay đổi về thị trường: thị trường của hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật cao và thị trường dịch vụ sẽ ngày càng mở rộng, còn thị trường hàng hoá truyền thống sẽ ngày càng thu hẹp và cạnh tranh để tiêu thụ ngày càng gay gắt.
Hiện nay, khu vực dịch vụ ở các nước phát triển chiếm khoảng 50 – 60% dân số lao động và 60 – 65% tổng số sản phẩm quốc dân, khu vực công nghiệp chỉ còn chiếm khoảng 40% lao động, 30 -35% tổng sản phẩm quốc dân. Dự báo thế kỷ XXI khu vực dịch vụ ở các nước này có thể tăng 70 – 80% dân số lao động và khu vực công nghịêp sẽ giảm đi tương ứng, mà trong đó tỷ trọng của những ngành công nghiệp sản xuất ra hàng hoá có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao tăng lên và tỷ trọng của những ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật trung gian sẽ giảm đi.
Tóm lại, ngày nay thế giới đang có sự biến động sâu sắc về nhiều mặt. Về phương diện kinh tế, các quan hệ kinh tế quốc dân đan quyện vào nhau và chi phối nền kinh tế của tất cả các nước. Bối cảnh quốc tế mới vừa tạo ra thời cơ mới tương đối thuận lợi, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới đối với nền kinh tế của các quốc gia.
Thời cơ mới là một nhân tố hết sức quan trọng, như một luồng gió mới sẽ có tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Sự diễn biến phức tạp của tình hình thế giới đòi hỏi từng quốc gia phải có tư duy mới, biết tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có, phát huy thế mạnh của mình để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đối với nước ta, việc hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là việc làm hết sức cần thiết. Nếu không quan tâm đến điều này, nền kinh tế Việt Nam không thể phát triển như hiện nay. Trong thế kỷ XXI, hy vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ và sẽ trở thành nước công nghiệp phát triển trong những năm tới.
Chương 2: THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC
2.1. Toàn cầu hoá và những động lực
Theo thuật ngữ kinh tế, động lực của quá trình toàn cầu hoá có thể được biểu hiện thông qua 3 xu hướng chủ đạo sau đây:
- Xu hướng thứ nhất, và là xu hướng có tác động sâu sắc nhất là sự thay đổi về khoa học - công nghệ. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia.
- Xu hướng thứ hai là việc ngày càng có nhiều Chính phủ theo đuổi chính sách tự do hoá, mở cửa thị trường và loại bỏ những cản trở về mặt luật lệ đối với các hoạt động kinh tế.
- Xu hướng thứ ba là sự kết hợp của những công nghệ mới và những thị trường tự do hơn, tạo điều kiện cho các khu vực kinh doanh ở nhiều nước có thể quốc tế hoá các hoạt động của mình, dệt nên một mạng lưới phức tạp hơn bao giờ hết các hoạt động liên kết với nhau trên bình diện toàn cầu.
Cả 3 xu hướng này: tiến bộ công nghệ, tự do hoá kinh tế, quốc tế hoá sản xuất - đã làm cho các quốc gia trở nên phụ thuộc lẫn nhau hơn về mặt kinh tế, tạo ra những cơ hội cũng như những thách thức về kinh tế, xã hội, chính trị chưa từng có.
2.2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế - Những lợi ích
Toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu của quá trình tập trung, chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động quốc tế. Khi nền kinh tế thế giới phát triển thành một thị trường thống nhất thì không một quốc gia nào có thể đứng ngoài tiến trình này mà có thể tồn tại và phát triển được.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại và sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong thế kỷ tới. Toàn cầu hoá và khu vực hoá được thể hiện rõ trong sự gia tăng rất nhanh trao đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản xuất.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá còn được thể hiện qua sự hình thành và củng cố của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá được quyết định bởi nhiều yếu tố liên quan tới công nghệ, thị trường và chính sách, nổi lên là: sự cạnh tranh gia tăng trong kinh tế thế giới thúc đẩy tìm kiếm những thị trường có lợi nhất cho hàng xuất khẩu và nguồn nhập khẩu rẻ nhất; những yếu tố thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia phân bố lại dây chuyền sản xuất, tiêu thụ, hình thành nên các mạng lưới toàn cầu và khu vực. Sự phát triển trong công nghệ thông tin, thị trường tài chính, dịch vụ và giao thông vận tải…
Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động. Liên kết khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hoá vừa giúp các nước trong từng khu vực bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng làm cho sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt chưa từng có.
Toàn cầu hoá đã và đang mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập:
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc phân bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế từ đó phát huy cao độ nhân tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia.
- Tự do hoá luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc hạ thấp hàng rào thuế quan, đơn giản hoá trong khâu thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, đầu tư, tăng sản lượng, giảm thất nghiệp và tăng thêm lợi ích cho người tiêu dùng.
- Toàn cầu hoá tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn và tạo điều kiện để đa dạng hoá các loại hình đầu tư nhờ đó vừa nâng cao hiệu quả vừa hạn chế rủi ro đầu tư.
- Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn, kỹ năng quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước phát triển, đồng thời giúp các nước tiếp nhận đầu tư có thêm nhiều cơ hội phát triển.
- Tự do hóa giá cả nông sản sẽ có lợi cho các quốc gia sản xuất nông nghiệp. Bảo hộ giá nông sản của các quốc gia phát triển giảm xuống sẽ mở rộng hơn nữa thị trường nông sản của Việt Nam.
- Chi phí kinh doanh sẽ giảm vì hiện tại lĩnh vực dịch vụ là khu vực được Nhà nước bảo hộ nhiều nhất. Hậu quả là năng lực cạnh tranh và chất lượng dịch vụ kém và giá cao. Khi gia nhập vào WTO, độc quyền của những ngành này sẽ phải bãi bỏ, buộc các doanh nghiệp này phải cải cách, cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng và hạ giá dịch vụ, hiệu quả cho toàn nền kinh tế sẽ lớn hơn.
- Với hiệp định những biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMS) đã tạo thêm sự đảm bảo quốc tế, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
- Đời sống nhân dân được cải thiện.
2.3. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế - Những thách thức
Như vậy, lợi ích của Việt Nam khi gia nhập WTO khá rõ: “Việt Nam không thể tự bảo vệ mình trước sự bảo hộ của các nước khác khi nằm ngoài WTO”. Tuy nhiên gia nhập WTO không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho mình mà doanh nghiệp phải đối mặt với những thách thức:
- Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải trao qui chế tối huệ quốc, qui chế đối xử quốc gia cho các quốc gia thành viên khác của WTO, nghĩa là tiến hành giảm thuế quan và ràng buộc tất cả các dòng thuế, đồng thời phải dỡ bỏ các hàng rào phi thuế trong một thời gian nhất định. Mức độ cam kết giảm thuế phụ thuộc nhiều vào kết quả đàm phán đa phương và song phương đối với các mặt hàng cụ thể. Vì vậy cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn ở thị trường nội địa.
- Toàn bộ thể chế kinh tế phải chuyển đổi nhằm thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại đầu tư, chuyển giao công nghệ, nếu không sẽ gặp khó khăn trước những đối thủ cạnh tranh hùng mạnh, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không được bảo vệ khi xảy ra tranh chấp thương mại.
- Thách thức thứ hai là những vấn đề nảy sinh từ việc thúc đẩy nhanh chóng tiến trình cải cách khu vực kinh tế nhà nước, chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, vai trò của khu vực kinh tế nhà nước tiếp tục suy giảm, trong khi việc thực hiện và các biện pháp thực hiện mục tiêu đó lại mang tính xã hội và ảnh hưởng tới nhiều tầng lớp xã hội có liên quan. Mặt khác, cải cách sẽ khiến cho tốc độ tăng trưởng trong công nghiệp quốc doanh chậm lại trong một thời gian, một phần do đầu tư vào khu vực này giảm, phần nữa là các xí nghiệp yếu kém sẽ thu hẹp sản xuất, đóng cửa hoặc chuyển sang lĩnh vực kinh doanh mới. Nguy cơ phá sản đối với các loại hình doanh nghiệp tăng lên. Công nghệ và trình độ dân trí có chuyển biến lớn, nhưng khoảng cách tụt hậu còn xa so với phần lớn các nước trên thế giới.
- Những thách thức trong lĩnh vực nông nghiệp thậm chí còn lớn hơn, do trên 75% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp, trong khi đó diện tích canh tác bình quân trên một lao động thấp, phương thức canh tác lạc hậu nên giá thành nông sản nhìn chung sẽ cao hơn mặt bằng giá thế giới. Khi những rào cản thương mại được bãi bỏ hoặc giảm thiểu, nông sản nhập khẩu từ các nước phát triển với giá thấp sẽ gây sức ép lớn cho kinh tế nông thôn, nhiều đơn vị kinh doanh nông nghiệp có thể sẽ bị phá sản. Số người này sẽ di chuyển về thành phố, làm trầm trọng thêm tình trạng thất nghiệp.
- Hiện tại, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng gia công, chúng ta sẽ không được hưởng lợi khi gia nhập WTO, khi quy định qui tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi là trị giá nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hóa tại nước được hưởng phải thấp hơn 65%.
Có thể nói khi gia nhập vào WTO, Việt Nam nhận được nhiều lợi ích nhưng cũng đối mặt với nhiều thách đố . Nhưng về tổng thể những lợi ích dài hạn cho quốc gia
- Sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế. Thực vậy, có sự khác biệt cơ bản giữa tư bản công nghiệp và tư bản tài chính, hay nói cách khác là khác biệt giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính. Các nhà đầu tư trực tiếp đã bỏ tiền đầu tư xây dựng nhà xưởng thì không dễ gì một sớm một chiều có thể rút lại vốn đầu tư. Trong khi đó, các nhà đầu tư tài chính có lợi thế linh hoạt hơn nhờ tính chuyển nhượng cao của chứng khoán. Mặt khác nguồn tài chính được phân bố không đồng đều, tập trung vào một số trung tâm tài chính lớn là các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới. Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá càng làm cho dòng vốn chảy mạnh hơn, dễ dàng hơn và tất nhiên rủi ro sẽ lớn hơn.
- Nguy cơ tụt hậu của một số quốc gia. Một số quốc gia tranh thủ được lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trường tài chính quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng, mở rộng thương mại, thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển, thì một số nước khác lại không có khả năng hội nhập vào quá trình phát triển thương mại, thu hút vốn đầu tư và kết cục tất yếu là sẽ bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau.
- Chính sách tiền tệ - tài chính của các nước yếu bị phụ thuộc vào chính sách của các nước mạnh.
- Mối đe doạ của quá trình toàn cầu hoá đó chính là xu hướng hình thành thế độc quyền, tập trung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế. Xu hướng sát nhập đang diễn ra mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới cận đại. Vậy thế thì đâu là điểm dừng của xu thế sát nhập này? Bởi lẽ nếu xu thế sát nhập tiếp tục gia tăng chắc chắn sẽ có tác động xấu đến "thị trường cạnh tranh hoàn hảo - nhân tố đã góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế trong suốt hàng thế kỷ qua.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển, khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các nước nhất là đang phát triển phải giảm dần thuế và bỏ hàng rào phi quan thuế, nghĩa là bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hoá nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào, bóp chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của các quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá trình này mà còn phải chịu cả những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu trong các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu… Các nước càng yếu kém, các chính sách kinh tế vĩ mô càng không đủ thông thoáng phù hợp với các định chế quốc tế, tệ tham nhũng và quan liêu càng nặng, hệ thống ngân hàng - tài chính càng lạc hậu… thì càng chịu tác động nặng nề hơn.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển, không chỉ có các lực lượng kinh tế tiến bộ tham gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phản động, bọn mapha, các tổ chức khủng bố… Mạng lưới hoạt động của maphia hiện đang lan khắp toàn cầu, các đường dây buôn lậu ma tuý đã len lỏi đến cả các trường học. Các thế lực phản động cũng không bỏ lỡ thời cơ xâm nhập vào nước ta phá hoại chính sách đúng đắn là phải ngăn chặn, chống lại mọi hoạt động phá hoại. Nhưng không thể vì nó mà đóng cửa đất nước hay hạn chế sự hội nhập của đất nước vào quá trình toàn cầu hoá.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển còn nảy sinh những mặt tiêu cực khác nữa như: sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước giàu và nghèo có thể tăng lên, sự xung đột giữa các nền văn hoá khác nhau có thể xảy ra, các nước lớn có thể bị phân rã…
Song những tác động tiêu cực này có thể lớn nhỏ đến đâu, điều đó lại tuỳ thuộc vào chính sách hội nhập quốc tế của các quốc gia. Một chính sách hội nhập quốc tế đúng đắn và thích hợp, thì tác hại của những mặt tiêu cực này sẽ bị hạn chế và ngược lại.
Chương 3. VIỆT NAM VỚI TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ
3.1. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Chúng ta đi vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá trùng với thời điểm trên thế giới đang diễn ra những thay đổi to lớn về chính trị và kinh tế. Hoà bình, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước đều ưu tiên phát triển kinh tế, cần có môi trường hoà bình, ổn định và thực hiện chính sách mở cửa.
Trong một thế giới ngày càng được toàn cầu hoá, bất cứ nước nào muốn không bị gạt ra ngoài dòng chảy phát triển, đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh chính sách, giảm dần hàng rào quan thuế và dỡ bỏ hàng rào phi quan thuế, làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật trên phạm vi thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Việt Nam không phải là ngoại lệ, vấn đề là phải chọn tiến trình hội nhập sao cho phù hợp với hoàn cảnh và quá trình phát triển của mình. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới mà một trong những hướng quan trọng là mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế. Đại hội VII (1992), Đại hội VIII (1996) đã tiếp tục phát triển đường lối đổi mới của Đại hội VI, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ theo tinh thần: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, trang 130) nhằm đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống của cộng đồng quốc tế. Chủ trương này đã tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của ta. Chúng ta cũng nhận thức rõ hội nhập quốc tế thực chất là cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế và củng cố an ninh chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc của mỗi nước thông qua việc thiết lập các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc với các quốc gia khác.
Chính sách hội nhập quốc tế từng bước được hình thành trong quá trình triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã quyết định:"Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", xây dựng một nền kinh tế mở và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Chúng ta đã nỗ lực thúc đẩy hợp tác với tất cả các nước và thể chế chính trị khác nhau. Chúng ta đã phá được thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước trong đó có tất cả các nước lớn, phát triển quan hệ thương mại với 130 nước và lãnh thổ. Đồng thời, chúng ta đã khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB và các tổ chức phát triển khác trong hệ thống liên hợp quốc. Chúng ta đã cố gắng cải cách quản lý kinh tế, bao gồm cả lĩnh vực pháp lý và xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế.
3.2. Cần quán triệt những quan điểm và nguyên tắc của Đảng về hội nhập.
Hội nhập quốc tế giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất đối với tiến trình hội nhập quốc tế của ta. Hội nhập phải tuân thủ các nguyên tắc chung là bảo vệ độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ và phát triển sản xuất, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống và bản sắc của dân tộc.
Vậy hiểu như thế nào về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?
· Đổi mới ở Việt Nam không làm thay đổi tính chất và mục tiêu của CNXH mà là quá trình tự hoàn thiẹen CNXH nhằm không ngừng thúc đẩy quá trình phát triển và lớn mạnh của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
· Bản chất của chủ nghĩa xã hội: Cụ thể là, về cơ cấu của chế độ sở hữu, chủ trương phát triển đồng thời nhiều thành phần kinh tế, trong đó coi chế độ công hữu là chủ thể hay kinh tế công hữu là cơ sở để từ đó phát huy tác dụng chỉ đạo của nền kinh tế quốc hữu; về quan hệ phân phối đều duy trì chế độ phân phối theo lao động, những hình thức phân phối khác chỉ là bổ trợ, phấn đấu đạt mục tiêu cùng giàu có, loại trừ tình trạng phân hoá giàu nghèo trong xã hội; về phương diện chính trị đều kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận chế độ đa Đảng và tự do hoá chính trị.
· Chủ trương lợi dụng một cách hợp lý cơ chế thị trường. Trong thể chế kinh tế mới, cơ chế thị trường trở thành phương thức cốt yếu trong phân phối nguồn tài nguyên và điều hoà các mối quan hệ kinh tế. Tuy vậy, cơ chế thị trường mà ta đang xây dựng không hoàn toàn là tự phát, nó coi trọng vai trò quản lý của Nhà nước và vai trò điều tiết vĩ mô của Chính phủ, tích cực ngăn chặn và khắc phục những khiếm khuyết cũng như các tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
· Coi trọng nền văn minh tinh thần và những chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa nhằm loại trừ mọi biểu hiện tiêu cực trong xã hội.
- Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, cốt lõi là giành thị trường, vốn, công nghệ và kỹ thuật; phải tuân thủ các nguyên tắc, luật lệ và tập quán quốc tế, trên cơ sở "bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi".
- Hội nhập quốc tế là nhằm mục tiêu phát triển, phục vụ đổi mới thành công, thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế quốc dân, hạn chế tối đa tiêu cực của những chao đảo, biến động từ bên ngoài.
- Hội nhập phù hợp với chủ trương "phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng xây dựng hệ thống kinh tế mở" hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt trong cả nước, gắn với kinh tế với thị trường thế giới, thể hiện cả trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý… góp phần khơi dậy và phát huy có hiệu quả các nguồn lực trong nước…
3.3. Việt Nam với toàn cầu hoá - Cơ hội và thách thức
3.3.1. Về kinh tế
Quá trình toàn cầu hoá đã tạo ra những cơ hội để tăng cường sự phát triển của quốc gia.
- Cơ hội để chuyên môn hoá sâu hơn qúa trình sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng ta có ưu thế cạnh tranh; nhập những sản phẩm trung gian và tiêu dùng với giá rẻ hơn.
- Sự cạnh tranh tăng lên: những cải tiến công nghệ, tri thức được tăng lên cường qua nhập khẩu hoặc thực tế công việc, hạn chế tham nhũng và ăn chênh lệch giá.
- Thương mại còn thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo thêm những cơ hội buôn bán mới do có nhiều sự tương đồng về văn hoá, luật pháp, quan hệ dân tộc và các hệ thống phân phối.
- Tăng thu hút đầu tư và chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cao từ các nước.
- Tham gia các luồng tài chính và vốn quốc tế tạo ra những cơ hội to lớn: tiếp cận các nguồn tài chính quốc tế sẽ giảm bớt hạn chế về ngoại hối, nhờ đó tăng khả năng nhập khẩu. Ngoài ra còn đóng góp quan trọng và tạo việc làm…
Tuy nhiên, thách thức của việc tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế cũng rất lớn.
- Nền kinh tế đối phó với khả năng bất ổn định hơn, suy thoái kinh tế có thể xảy ra, khó lường trước được.
- Việc tự do hoá thương mại có thể gây khó khăn thậm chí làm sụp đổ một số ngành lâu nay vẫn được bảo hộ.
- Nguy cơ bị khoá chặt vào những lĩnh vực thương mại có khả năng tăng trưởng chậm; lợi thế so sánh luôn biến động; sự thiệt hại do có sự chuyển thương mại từ đối tượng này, khu vực này sang đối tượng và khu vực mới.
- Trình độ phát triển kinh tế và năng lực của các doanh nghiệp, các ngành sản xuất và dịch vụ của ta còn thấp trong khi phải cạnh tranh với những đối thủ mạnh ở cả thị trường trong và ngoài nước.
- Các cơ chế của một nền kinh tế thị trường ở nước ta còn đang hình thành, hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh; nhiều luật lệ và chính sách liên quan đến kinh tế đối ngoại còn thiếu hoặc chưa phù hợp với quốc tế.
- Ta hội nhập sau nhiều nước trong khu vực và trên thế giới đã hoạt động nửa thế kỷ, do đó ta phải cố gắng theo kịp tiến độ chung trong khi đang có xu hướng muốn đẩy nhanh quá trình tự do hoá, với quy mô rộng hơn và mức độ sâu sắc hơn.
3.3.2. Về chính trị
Dưới chủ nghĩa xã hội, chính trị và kinh tế không thể tách rời nhau vì chính sách của Đảng là cơ sở mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế, hướng dẫn sự phát triển của nền kinh tế.
Thực tế cho thấy bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nhằm bảo đảm sự ổn định và an toàn của toàn bộ hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trọng đại không chỉ của riêng Việt Nam mà bất cứ quốc gia nào dù lớn hay nhỏ cũng đều phải quan tâm.
Một xã hội, một quốc gia thuộc bất cứ chế độ chính trị nào cũng cần phải có ổn định về chính trị trong nước, chủ động tạo ra quan hệ quốc tế thuận lợi để chấn hưng và phát triển đất nước về mọi mặt, giành được vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện các nhiệm vụ trên.
Việc mở rộng quan hệ quốc tế về an ninh, trật tự đã giúp Việt Nam và bạn bè xích lại gần nhau, hợp tác để nhân lên điểm đồng, đấu tranh nhằm hạn chế bất đồng theo xu hướng hội nhập, ổn định và cùng phát triển. Mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế về an ninh, trật tự đã và sẽ giúp Việt Nam tranh thủ được các kinh nghiệm và thành tựu, các phương tiện kỹ thuật hiện đại của thế giới để bảo vệ an ninh, trật tự, đồng thời tạo ra một thế trận, một môi trường an ninh, trật tự ổn định để phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, trên con đường hội nhập và phát triển, Việt Nam cũng như các nước trong khu vực đang còn nhiều khó khăn phải vượt qua. Đó là những tranh chấp, bất đồng về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, những tác hại của việc truyền bá các luồng văn hoá ngoại lai, các tệ nạn xã hội. Một số tổ chức tội phạm, phản động nước ngoài và gốc Việt đã thường xuyên truyền bá vào trong nước các văn hoá phẩm đồi trụy, phản động, đi ngược lại đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, cản trở việc xây dựng và phát triển nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc; Về an ninh kinh tế xuất hiện nhiều vụ việc phá hoại nền kinh tế Việt Nam như lừa đảo kinh tế, tẩy rửa tiền, sản xuất và lưu hành tiền giả…
Trong bối cảnh Việt Nam đang trên đường hội nhập quốc tế, mở cửa giao lưu với thế giới, vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội hơn lúc nào hết cần được quan tâm đặc biệt để bảo đảm ổn định chính trị, tạo môi trường xã hội, quan hệ quốc tế thuận lợi cho phát triển kinh tế, tạo sức mạnh quốc gia từ bên trong, vượt qua thử thách, đứng vững và phát triển.
3.3.3. Về văn hoá - xã hội.
Văn hoá, cũng như mọi sự vật và hiện tượng đều có tính hai mặt. Nhận thức của mỗi dân tộc, mỗi con người đối với cùng một nền văn hoá cùng một nền văn hoá cũng khác nhau, họ tìm thấy những khía cạnh khác nhau: tích cực và tiêu cực, tốt và xấu, phù hợp và không phù hợp. Bởi vậy cần có sự chọn lọc những cái hay, cái đẹp và dẫn đến sự đào thải những cái xấu, cái dở.
Quốc gia Việt Nam, con người Việt Nam sẽ hội nhập cùng cộng đồng quốc tế với bản lĩnh của mình, với sức mạnh của mình để đạt tới mục tiêu của mình. Trên cơ sở nền kinh tế được quốc tế hoá, thành tựu khoa học kỹ thuật được nhân loại hoá thì những sản phẩm văn hoá mới đang và sẽ nảy nở không còn là riêng của một ai mà trở thành tài sản chung của nhân loại. Vì thế, Việt Nam trong tiến trình hội nhập với bên ngoài, vừa bảo tồn những tinh hoa văn hoá dân tộc vừa phải vượt qua cái ấn tượng nặng nề về sự phân biệt giữa văn hoá phương Đông với văn hoá phương Tây do lịch sử để lại mà nhận thức một cách đúng đắn hơn, rộng mở hơn về sự hội nhập giữa văn hoá dân tộc và văn hoá thế giới, giữa văn hoá của mỗi quốc gia với văn hoá quốc tế.
Văn hoá ngày nay ra đời và phát triển trên cơ sở của nền kinh tế công nghiệp và hiện đại hoá. Nó tạo nên lối suy nghĩ năng động, thông minh và nhanh nhạy, phong cách lao động kỹ thuật, khẩn trương và có hiệu quả, mối quan hệ xã hội bình đẳng, dân chủ, mức sống đầy đủ tiện nghi ngày càng được nâng cao. Những điều đó đã nhân lên gấp bội sức mạnh của con người trong tư duy và hành động, tạo nên một động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội tiến lên với tốc độ phi thường. Mặt khác, là sản phẩm của nền kinh tế thị trường, văn hoá thế giới cũng chứa đựng mặt trái của nó. Đó là tính ích kỷ và sự giành giật không thương tiếc, là lối sống cá nhân thực dụng tràn vào mọi ngõ ngách của gia đình và cộng đồng, nhiều khi bất chấp quan hệ tình cảm truyền thống…
Trong quá trình hội nhập văn hoá, Việt Nam phải giải quyết những mối quan hệ chằng chéo giữa văn hoá nông nghiệp lâu đời và văn hoá công nghiệp đang ngày càng phát triển, giữa văn hoá dân tộc truyền thống với văn hoá thế giới ngày càng mở rộng, giữa văn hoá phương Đông cổ truyền với văn hoá phương Tây hiện đại, giữa các trào lưu văn hoá đương đại. Giữa các dòng chảy đó, chọn cho được một hướng đi đúng là vô cùng quan trọng.
Hội nhập không phải là hoà mình để thu nhận tất cả và do vậy, có thể mất đi tất cả, ngăn ngừa cái xấu không phải là đóng cửa cài then cho kỹ để tránh sợ xâm nhập từ bên ngoài, mà nên thấy một cách thực tế rằng nguồn gốc, mầm mống và nguy cơ của nó nằm ngay chính trong lòng xã hội của mỗi nước, trong chính chúng ta. Có nhận thức như vậy mới có thế tiếp thu những thành tựu văn minh nhân loại, đồng thời loại trừ những biểu hiện tiêu cực từ bên ngoài xâm nhập. Chúng ta nhận thức rõ rằng: phấn đấu phát triển kinh tế cao là cần thiết và cấp thiết. Song, sẽ là sai lầm và tai hại nếu chỉ dồn sức cho hoạt động kinh tế. Sự phát triển kinh tế phải dựa trên nền tảng văn hoá mang bản sắc dân tộc và phải trở thành nhân tố thúc đẩy sự phát triển.
Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII (1998) nhấn mạnh :"Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng văn minh, con người phát triển toàn diện. Nhưng văn hoá không thể chỉ là kết quả kinh tế mà còn là và phải là động lực của sự phát triển kinh tế" (Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1998, trang 55).
KẾT LUẬN
Đường lối đổi mới đã đưa các quốc gia vào một thời kỳ mới, thời kỳ mở rộng quan hệ quốc tế theo phương châm đa dạng hoá, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Điều đó đã góp phần vào sự phát triển chung cho thế giới.
Việt Nam không hoà vào xu thế chung của đời sống quốc tế, cũng đã tích cực và chủ động tham gia vào tiến trình hội nhập đẩy mạnh và phát triển kinh tế xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Vì vậy nước ta cũng cần nhận thức rõ cơ hội và thách thức, từ đó quán triệt những quan điểm, nguyên tắt về hội nhập để tranh thủ những cơ hội tốt hơn, đồng thời đối phó với những thách thức góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển hơn.
Trên đây là toàn bộ thuyết trình tóm tắt của nhóm về đề tài : “Đặc điểm và xu hướng phát triển nền kinh tế thế giới và lợi ích của Nước ta khi gia nhập vào khu vực quốc tế”. Do kiến thức kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian tìm hiểu chưa nhiều, nên khó tránh khỏi những khiếm khuyết, sai lầm.
Rất mong được sự góp ý, giúp đỡ của người đọc để bài viết được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieu luan.doc
- bai lam moi.doc