Trong đời sống sinh hoạt hằng ngày viêc lựa chọn hình thức xưng
hô cũng rất quan trong. Trong tiếp xúc văn hóa thì lớp người trẻ luôn là
những người đi đầu và thích ứng nhanh nhất. Xét từ góc độ ngôn ngữ -
văn hóa. Những tác động từ sự thay đổi đó là rất lớn. Bên cạnh những lợi
ích của quá trình này mang lại chúng ta thấy có nhiều vấn đề cần có sự
điều chỉnh định hướng. Nhìn từ góc độ Xưng – Hô, Sự định hướng đó
không chỉ hướng đến việc phù hợp, năng động và thuận tiên đối với giới
trẻ mà phải xuất phát từ những nét đẹp của truyền thống. Do vậy những
cách xưng hô, đi ngược lại với truyền thống văn hóa lịch sử thì phải có sự
cân nhắc loại bỏ ngược lại cách xưng hô thể hiện sự dung nạp thích nghi
trong giao thoa văn hóa thì cần được phát huy, tạo điều kiện.
88 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 965 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
........................................
Gu shi bu duo Wan ru ping chang yi duan ge.
Guo qu wei lai gong zhen zhuo.
54
3. Tiểu kết
Trên đây chúng ta đã khảo sát tổng thể nhóm đại từ xưng hô trong tiếng
Việt (có đối chiếu với tiếng Anh). Đây là một nhóm từ có vị thế đặc biệt với bất
cứ một ngôn ngữ nào. Bởi một trong những chức năng đầu tiên và quan trọng
nhất của ngôn ngữ đó là chức năng làm công cụ giao tiếp. Trong hoạt động giao
tiếp thì vai trò của các chủ thể giao tiếp (nhân vật giao tiếp) bao giờ cũng đóng
giữ vị trí then chốt; nó là “chìa khóa” của hoạt động giao tiếp khi muốn mở ra
cánh cửa trao đổi tình cảm, thông tin, văn hóa. Quá trình này mang đậm dấu ấn
của chủ thể giao tiếp, chính vì thế thói quen, tâm lý, tình cảm, văn hóa... bao giờ
cũng được bộc lộ rõ nét nhất qua nhóm từ này.
Lấy nhóm đại từ xưng hô trong tiếng Việt để khảo sát, tìm hiểu các đặc
trưng văn hóa dân tộc của người Việt, chúng tôi đã nhận thấy đây là nhóm từ
chứa đựng đậm nét các giá trị, đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt mà các
nhà nghiên cứu văn hóa khi tìm hiểu về đặc trưng văn hóa dân tộc của người
Việt đã chỉ ra. Trong đó dấu ấn văn hóa dân tộc được bộc lộ rõ nhất ở những
nội dung cụ thể sau:
- Nhóm đại từ xưng hô của tiếng Việt có khối lượng đồ sộ và phong
phú hơn bất cứ một ngôn ngữ nào khác, so với tiếng Anh nhóm đại từ
xưng hô trong tiếng Việt có sự vượt trội về ưu thế, số lượng, chủng
loại cũng như cách thức thể hiện . Chính điều này là cơ sở cho khả
năng linh hoạt trong việc lựa chọn vai giao tiếp, trong hoạt động giao
tiếp của người Việt. Điều này đã cho thấy ẩn chứa sau đó là thói quen
hay cách tư duy linh hoạt của người Việt, nó trùng khớp với những
đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt mà các nhà nghiên cứu văn
hóa đã chỉ ra.
- Trong “hệ thống” các đại từ xưng hô của tiếng Việt chúng ta không
thấy xuất hiện những đại từ nhân xưng chính danh, nghĩa là hoàn toàn
55
chỉ để đảm đương vai trò xưng hô trong hệ thống ngôn ngữ mà chỉ tồn
tại những đại từ nhân xưng chuyển loại, nghĩa là một phần đảm đương
vai trò xưng hô bên cạnh những vai trò khác vốn là những vai trò ban
đầu của chúng. Điều đó, càng làm rõ hơn tính linh động tổng hợp của
tiếng Việt xét từ góc độ cơ chế, nghĩa là xét từ bề sâu của hệ thống
ngôn ngữ. Điều này cũng là cơ sở để lý giải một trong những chức
năng hàng đầu bên cạnh chức năng giao tiếp của ngôn ngữ- chức năng
là công cụ của tư duy. Vì thế ngôn ngữ được xem là bức tranh về thế
giới khách quan đã được phản chiếu qua lăng kính tư duy của mỗi cá
nhân, cộng đồng, và suy rộng ra là của cả dân tộc, loài người. Bức
tranh về chủ thể của hoạt động giao tiếp của người Việt vì thế có dấu
ấn rõ nét của sự linh hoạt, đa dạng cũng như cách ứng xử với môi
trường tự nhiên, xã hội của người Việt.
- Trong hệ thống các đại từ xưng hô của người Việt thì nhóm đại từ chỉ
quan hệ thân tộc có xu hướng phát triển mạnh mẽ và chiếm lĩnh những
vị trí quan trọng nhất. Điều đó càng cho phép chúng ta có cơ sở để
nhận định mối quan hệ gắn kết giữa ngôn ngữ và văn hóa. Bởi tất cả
những khảo sát trên đây của chúng tôi đều cho thấy có sự liên hệ rõ
nét, mật thiết giữa tâm lý trọng quan hệ, trọng tình cảm, trọng cộng
đồng, hiếu hòa trong giao tiếp của người Việt với sự phát triển mạnh
mẽ cũng như vai trò quan trọng của nhóm đại từ thân tộc trong tiếng
Việt. Với thói quen coi trọng tính cộng đồng, các mối quan hệ, và đề
cao tình cảm trong các mối quan hệ xã hội của người Việt là cơ sở để
lựa chọn cách xưng hô của người Việt trong giao tiếp. Thậm chí ngay
cả ở những môi trường giao tiếp cần phải thể hiện tính cá nhân, đề cao
vai trò quyền lực thì yếu tố được ưu tiên vẫn là tuổi tác, kinh nghiệm
và thứ bậc. Điều này phù hợp với truyền thống văn hóa luôn coi trọng
cộng đồng của người Việt. Tên gọi “đồng bào” vì thế có ý nghĩa văn
56
hóa to lớn đối với mỗi người dân Việt Nam. Và chỉ khi hiểu được
những giá trị văn hóa ẩn chứa đằng sau, ta mới hiểu được một cá nhân
ưu tú, vĩ đại nhất của dân tộc lại mong muốn một cách xưng hô bình
dị, không phải danh nọ, tước kia mà gắn với một đại từ chỉ quan hệ
thân thiết trong quan hệ gia đình:
“Nơi đây sống một người tóc bạc
Người không con mà có triệu con
Nhân dân ta gọi Người là Bác
Cả đời Người là của nước non”
(Nguyễn Đình Thi).
Thói quen và truyền thống đó là cơ sở để mỗi khi có thể tính gia đình
cộng đồng lại được trỗi dậy mạnh mẽ cho dù ở bất cứ môi trường và
hoàn cảnh nào.
- Nhờ khả năng chuyển loại và tính đơn lập về loại hình nên nhóm đại
từ nhân xưng của tiếng Việt có khả năng linh động, dung và
rất cao. Cho nên một số đại từ nhân xưng trong tiếng Việt có khả
năng xuất hiện trong cả hai vai giao tiếp, có khi vừa là xưng vừa là hô
(ví dụ đã dẫn trang 53) Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào bối cảnh và
cách nhìn nhận của chủ thể. Đây là điểm lý thú của tiếng Việt mà các
ngôn ngữ biến đổi hình thái như tiếng Anh không thể có được.
- Khi nhắc đến một trong những chức năng quan trọng nhất của ngôn
ngữ chức năng giao tiếp người ta cũng luôn đề cập đến một chức năng
cũng có vai trò quan trọng không kém- chức năng là công cụ của tư
duy. Ẩn sau vỏ hình thức âm thanh bề ngoài của ngôn ngữ là những
giá trị tinh thần đã được đúc kết thành thói quen, truyền thống, văn
hóa. Vì thế, lời nói sẽ là vô nghĩa nếu như nó không chứa đựng những
57
giá trị tư tưởng. Những giá trị tư tưởng đó được hình thành không từ
đâu khác mà chính từ vốn sống, kinh nghiệm, truyền thống của dân
tộc. Những cơ sở đó, và những khảo sát ở trên hoàn toàn cho phép
chúng ta có thể khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa ngôn ngữ dân
tộc với văn hóa dân tộc.
- Trong hoạt động giao tiếp thì chủ thể giao tiếp luôn là yếu tố quan
trọng để hoạt động giao tiếp diễn ra. Hoạt động giao tiếp vì thế mà
chịu ảnh hưởng sâu sắc từ chủ thể giao tiếp. Nhóm đại từ nhân xưng
tuy có số lượng không nhiều trong mỗi ngôn ngữ nhưng xét về vai trò
nó lại chứa đựng những giá trị to lớn. Qua khảo sát chúng ta không chỉ
thấy được cấu trúc hình thức từ góc độ ngôn ngữ mà chúng ta còn thấy
sự tác động của văn hóa dân tộc đến nhóm từ này. Nói cách khác
thông qua nhóm từ này chúng ta có thể tìm thấy những ý nghĩa văn
hóa của dân tộc Việt Nam được vun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử ẩn
chứa đằng sau hoạt động thường nhật trong lời ăn, tiếng nói của người
Việt. Đó là lối tư duy tổng hợp, coi trọng các mối quan hệ, trọng cộng
đồng, trọng tình cảm; đó là sự linh, hoạt mềm dẻo hiếu hòa trong giao
tiếp ứng phó luôn đề cao các giá trị đạo đức kinh nghiệm của người
Việt.
Trên đây chúng tôi đã trình bày một cách tổng quan về nhóm đại từ nhân
xưng của tiếng Việt. Nhóm từ được xem là đặc biệt và mang đậm dấu ấn văn
hóa. Xuất phát từ những luận điểm đã được các nhà nghiên cứu văn hóa trong
và ngoài nước thừa nhận chúng tôi đã chỉ ra rằng hoàn toàn có thể tìm thấy
những minh chứng rõ nét cho những luận điểm này thông qua nhóm đại từ nhân
xưng của tiếng Việt. Từ đó củng cố thêm mối quan hệ gắn bó giữa tiếng Việt
với những đặc trưng văn hóa của người Việt, góp phần phát huy bảo tồn nét
đặc sắc của văn hóa Việt Nam.
58
Trong chương tiếp theo chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát những nét đặc trưng
văn hóa dân tộc ở một nhóm đối tượng khác, đó là những nhóm thành ngữ, tục
ngữ sử dụng hình ảnh một số vật nuôi tiêu biểu của người Việt (có đối chiếu với
tiếng Anh). Sở dĩ chúng tôi chọn những nhóm thành ngữ tục ngữ ngữ này là vì,
trong kết cấu ý nghĩa của thành ngữ tục ngữ tính hình tượng và biểu trưng luôn
là những yếu tố ưu tiên hàng đầu. Hai đặc tính này luôn mang đậm dấu ấn tâm
lý dân tộc vì thế việc khảo sát chúng hứa hẹn mang lại kết quả phục vụ cho việc
tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt. Việc lựa chọn hình tượng
những con vật nuôi trong gia đình của người Việt là hoàn toàn dựa trên vai trò
quan trọng của chúng, đối với việc tìm hiểu văn hóa. Vì suy cho cùng đây chính
là những con vật gắn liền với thói quen, tập quán canh tác của mỗi gia đình,
cộng đồng. Do vậy việc nhìn nhận, đánh giá cũng như cách thức ứng xử của chủ
thể văn hóa đối với nhóm vật nuôi quan trọng này có ý nghĩa thiết thực đối với
việc tìm hiểu văn hóa dân tộc.
59
Chƣơng 3
HÌNH TƢỢNG MỘT SỐ VẬT NUÔI TIÊU BIỂU TRONG
THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ CỦA TIẾNG VIỆT
VÀ VAI TRÕ CỦA CHÖNG ĐỐI VỚI VIỆC TÌM HIỂU ĐẶC TRƢNG
VĂN HÓA DÂN TỘC CỦA NGƢỜI VIỆT
1. Vai trò của thành ngữ, tục ngữ trong việc tìm hiểu giá trị văn hóa
của dân tộc
1.1 Khái niệm về thành ngữ tục ngữ
Trong kho từ vựng của mỗi ngôn ngữ thì ngoài đơn vị cơ bản là từ, bao giờ
cũng có sự đóng góp không nhỏ của các đơn vị tương đương với nó mà chúng
ta thường quen gọi là ngữ. Hai loại ngữ thường được nhắc đến và có vai trò
quan trọng đối với sự tồn tại phát triển của mỗi một ngôn ngữ đó là thành ngữ
và tục ngữ. Xét về chức năng thành ngữ và tục ngữ đều là những đơn vị đảm
đương được những chức năng mà từ đảm nhiệm. Nghĩa là chúng có thể đảm giữ
vai trò tạo câu, định danh...Tuy nhiên về cấu tạo thành ngữ và tục ngữ lại là
những đơn vị có cấu tạo và ý nghĩa phức tạp hơn. Cho đến nay vẫn tồn tại nhiều
cách hiểu khác nhau về thành ngữ và tục ngữ. Việc phân biệt rạch ròi giữa hai
đơn vị này vì thế cũng còn nhiều chỗ chưa nhất quán. Tuy nhiên để thuận tiện
và phù hợp với mục đích chúng ta đang xét ở đây cho nên chúng tôi đã lựa chọn
cách hiểu sau đây về thành ngữ và tục ngữ.
- Thành ngữ là tập hợp những từ cố định quen dùng mà nghĩa của chúng
thường không giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ
đó tạo nên nó.[28]
- Tục ngữ là câu có vần điệu đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống, đạo đức
của nhân dân. [28]
60
1.2 Vai trò của thành ngữ trong việc tìm hiểu đặc trƣng văn hóa dân tộc
Việc lựa chọn cách hiểu thành ngữ tục ngữ như trên đã phần nào chỉ ra vai trò
của chúng đối với việc tìm hiểu ý nghĩa, văn hóa. Trước hết chúng ta hãy xem
xét vai trò của thành ngữ trong vai trò là cơ sở để tìm hiều văn hóa. Có thế nói
thành ngữ trong tiếng Việt khá phong phú về chủng loại và số lượng; trong giao
tiếp người Việt cũng có thói quen ưa sử dụng các câu thành ngữ thay vì dùng
các đơn vị tương đương là từ, ví dụ:
- Anh ấy là người keo kiệt!
- Anh ấy à, có mà rán sành ra mỡ.
- Cô chị xinh đẹp là thế chẳng bù cho cô em.
- Cô chị thì chim sa cá lặn chẳng bù cho cô em xấu ma chê quỷ hờn.
Xét những ví dụ trên chúng ta thấy thành ngữ thường gắn với một hình
ảnh một giá trị ước lệ nào đó (sành/mỡ; chim/cá; ma quỷ). Thêm vào đó mức độ
đánh giá nội dung hoàn toàn tùy thuộc vào sự suy luận của người tiếp nhận. Nói
cách khác thang bậc miêu tả ở đây có tính linh động và vì thế ở câu thành ngữ
“rán sành ra mỡ” người nói chỉ cho ta hình ảnh còn mức độ keo kiệt đến đâu
hoàn toàn phụ thuộc vào chủ thể tiếp nhận, mức độ xinh đẹp của cô chị và xấu
xí của cô em không được đặt ra ở một mức cố định. Một đặc tính khác chúng ta
cũng nhận thấy qua những ví dụ trên là nghĩa của chúng là một nội dung khác
với nội dung của các thành tố cộng lại, nghĩa là để hiểu đúng, hiểu đủ nội dung
người nói muốn truyền đạt người nghe phải có sự am hiểu vể những hình tượng
và giá trì của hình tượng đó trong cộng đồng. Vì thế một người xa lạ với những
đồ vật như âu sành đựng mỡ, chắc khó có thể suy luận được nội dung ẩn chứa
đằng sau nó. Và khó có thể hình dung tại sao lại rán sành chứ không phải thứ đồ
nào khác như gạch, gỗ... tương tự như vậy hình tượng con quỷ trong tiếng Anh
thường gây ấn tượng là con vật ác độc, ấn tượng xấu xí hầu như không tồn tại
hoặc giả chỉ là những nét phụ luôn bị xem nhẹ. Vì thế ấn tượng xấu ma chê quỷ
61
hờn chắc sẽ khác với cách nhìn nhận của người Việt nơi mà hình tượng xấu xí
đã ăn sâu vào tâm thức “gầy đen như quỷ đói, xấu như quỷ dạ xoa, quỷ xa
tăng...”.
Ý nghĩa của các thành ngữ được đoán định theo các giá trị ước lệ mà chúng
xây dựng và vì thế luôn có sự linh hoạt. Chẳng hạn, khi nghe nói một ông nào
đó "rán sành ra mỡ", không ai mất công suy nghĩ xem sành có rán ra mỡ được
không, hoặc ông kia có chịu khó rán sành để lấy mỡ không, mà chỉ cần hiểu
chung là ông ta rất hà tiện, chắt bóp. Khi nghe nói một người đàn bà nào đó có
dung nhan "chim sa cá lặn", không ai thắc mắc rằng trước nhan sắc của một
người đàn bà đẹp, chim có sa và cá có lặn thật không, mà ai cũng hướng ngay
đến nội dung người phát biểu muốn cực tả cái nhan sắc của người đàn bà kia.
Chính thuộc tính đặc biệt này của thành ngữ đã tạo cơ sở vững chắc để
chúng ta có thể tìm thấy những nét khác biệt trong truyền thống văn hóa của
mỗi dân tộc cộng đồng. Gắn với mỗi dân tộc cộng đồng là hệ thống những hình
tượng, giá trị ước lệ nhất định vì thế những dân tộc có sự khác biệt về văn hóa
lối sống, môi trường... sẽ có sự khác biệt trong các yếu tố đó. Và không đâu
khác thành ngữ chính là yếu tố phản ánh sự khác biệt này.
Không sử dụng nhiều các giá trị ước lệ, các hình tượng biểu trưng như
thành ngữ nhưng tục ngữ lại là những đơn vị hàm chứa những kinh nghiệm của
cộng đồng: đó là kinh nghiệm sống, kinh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm về
ứng xử...
- Gần mực thì đen gần đèn thì rạng
- Chồng mắng thì ra mục gia mắng thì vào
- Đen đầu thì bỏ đỏ đầu thì nuôi
- Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn
- Trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa
62
Kho kinh nghiệm đó được cộng đồng đúc rút từ quá trình cải tạo tự
nhiên, trong đời sống cộng đồng qua thời gian. Và vì thế chúng cũng là những
yếu tố giúp chúng ta tìm hiểu về cộng đồng đó bởi vì những cộng đồng có môi
trường sống khác nhau, cách thức tổ chức cộng đồng, sản xuất khác nhau sẽ có
những kinh nghiệm khác nhau. Bởi vậy, khi tìm hiểu những kinh nghiệm này
(được phản ánh qua ngôn ngữ) sẽ cho ta biết những đặc thù về văn hóa, nhận
thức của cộng đồng đó.
2. Hình tƣợng một số vật nuôi tiêu biểu trong thành ngữ, tục ngữ tiếng
Việt và vai trò của nhóm thành ngữ tục ngữ này trong việc tìm hiểu đặc
trƣng văn hóa dân tộc của ngƣời Việt(có so sánh với tiếng Anh).
2.1 Hình tƣợng một số vật nuôi tiêu biểu trong thành ngữ tục ngữ
Một trong những dấu ấn thành công trong sự tiến bộ của loài người đó là
khả năng thuần hóa động vật hoang dã. Việc cải thiện đời sống và chủ động tích
lũy lương thực có sự liên quan chặt chẽ đối với những con vật nuôi trong mỗi
gia đình, cộng đồng. Việc lựa chọn vật nuôi phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh,
địa lý, khí hậu cũng như tập tục sản xuất. Vì vậy những cộng đồng có sự khác
biệt về địa lý, khí hậu, tập quán canh tác thường có những đối tượng vật nuôi
khác nhau. Khoa học, kỹ thuật phát triển đã tạo điều kiện cho con người có thể
thuần hóa và nuôi dưỡng nhiều loài vật khác nhau vì thế số lượng và chủng loại
của chúng cũng không ngừng tăng lên. Do vậy trong phạm vi này chúng tôi lựa
chọn hình tượng 3 loài vật đã gắn bó với sự phát triển kinh tế, xã hội của người
Việt từ rất sớm đó là con chó, con lợn và con mèo. Đây là ba loài vật không chỉ
quen thuộc với người Việt mà cũng gần gũi với Người Anh do vậy chúng tôi đã
lựa chọn chúng tể tiện có sự so sánh đối chiếu. Dĩ nhiên những nội dung đối
chiếu ở đây sẽ chỉ là những hình tượng về ba loài vật này trong các câu thành
ngữ tục ngữ của hai dân tộc thường được đề cập đến.
63
2.1.1 Hình tƣợng con chó trong thành ngữ tục ngữ của ngƣời Việt, ngƣời
Anh và ý nghĩa văn hóa khi tìm hiếu những thành ngữ tục ngữ này.
Theo Đỗ Thị Hiền ở đa số các nước phương Tây, con chó là con vật được
yêu quí và chiều chuộng bậc nhất trong các gia đình. “Nhiều người nước ngoài
vẫn đùa nhau rằng theo thứ tự được yêu quý trong nhà thì đứng đầu là trẻ con,
thứ hai là chó, rồi đến bà chủ và cuối vùng mới là ông chủ. Chó có thể được ngủ
chung với người, thậm chí có phòng riêng, có người chuyên chăm sóc sắc đẹp.
Chó có thể được thừa hưởng gia tài của chủ theo di chúc, có biệt thự và đủ kẻ
hầu người hạ, kể cả bác sĩ riêng. Có cả một ngành công nghiệp riêng chuyên sản
xuất các loại thức ăn hợp khẩu vị cho chó. Người ta còn tổ chức các cuộc thi sắc
đẹp cho loài chó để chọn ra con chó có bộ lông đẹp nhất hay gương mặt đẹp
nhất” Điều này xuất phát từ quan niệm của họ cho rằng con chó là con vật có
rất nhiều đặc điểm tốt: rất gần gũi, trung thành và thông minh. Và khi nhắc đến
hình ảnh con chó, đối với người Anh chẳng hạn, họ nghĩ ngay đến “những điều
tốt đẹp. Đấy là người giỏi nhất hay quốc gia mạnh nhất; là người, vật quan trọng
hơn; sự may mắn; người tốt, biết xử sự; là vật tuy bé nhỏ nhưng có lợi”
Thành ngữ và tục ngữ tiếng Anh cũng có rất nhiều câu chứa từ “dog” và mang ý
nghĩa tích cực như trên, chẳng hạn: top dog (chỉ người giỏi nhất, nước mạnh
nhất), the tail is wagging the dog hoặc let the tail wag the dog(nói về người hay
vật dù nhỏ, yếu thế hơn, nhưng có vai trò quan trọng hơn hay có vai trò điều
khiển người hay vật lớn, mạnh hơn mình), a dog‟s chance (cơ hội may mắn), he
is a good dog who goes to church (nói về một người tốt, biết xử sự đúng đắn,
biết điều và biết hướng thiện), alive dog is better than a dead lion (chỉ một vật
tuy nhỏ bé nhưng còn có ích hơn cả những vật to lớn mà vô dụng).v.v[25: 1]
Theo thống kê của chúng tôi trong 1023 câu thành ngữ, tục ngữ của tiếng
Anh [8], hình tượng con chó được nhắc đến 25 lần. Trong đó hình tượng biểu
trưng cho sự tốt đẹp hay có hàm ý tốt đẹp được nhắc đến 11 lần, hình tượng có
64
nội dung chỉ sự khổ sở xuất hiện 6 lần, nội dung chỉ thói xấu được nhắc lai 5 lần
và những nội dung khác 4 lần.
1. let sleeping dogs lie
đừng khêu gợi lại những chuyện đã êm thấm
2. love me love my dog
yêu tôi thì hãy yêu cả những người thân của tôi
yêu nhau yêu cả đường đi
3. not even a dog's chance
không có chút may mắn nào
4. to help a lame dog over stile
giúp đỡ ai trong lúc khó khăn
5. every dog has his day
ai rồi cũng có lúc gặp vận; ai khó ba đời
6. better be the head of a dog than the tail of a lion
Vua sứ mù
7. to let loose the dogs of war
tung ra tất cả các lực lượng tàn phá của chiến tranh
8. top dog
người giỏi nhất, nước mạnh nhất
9. the tail is wagging the dog
Bé hạt tiêu
10. a dog’s chance
cơ hội may mắn
11. he is a good dog who goes to church
Người tốt sẽ gặp may
12. to die a dog's death
chết khổ, chết sở, chết nhục nhã,
65
13. to die like a dog
chết như một con chó
14. to go to the dogs
thất cơ lỡ vận, khánh kiệt, xuống dốc ((nghĩa bóng)) sa đoạ
15. to leaf a dog's life
sống một cuộc đời khổ như chó
16. to lead someone a dog's life
bắt ai sống một cuộc đời khổ cực
17. throw to the dogs
vứt bỏ đi, quẳng đi (cho chó)
18. not to have a word to throw at the dog
lầm lì không mở miệng nói nửa lời; kiêu kỳ không thèm mở miệng
19. to put on dog
làm bộ làm tịch, làm ra vẻ ta đây, làm ra vẻ ta đây quan trọng
20. to take a hair of the dog that bit you
lấy độc trị độc
21. to be a dog in the manger
như chó già giữ xương; ích kỷ, không muốn ai dùng đến cái gì mình
không cần đến
22. dog and war
những sự tàn phá giết chóc của chiến tranh
23. to give a dog an ill name and hang him
muốn giết chó thì bảo là chó dại; không ưa thì dưa có giòi
24. know the breed, know the dog
lấy vợ xem tông lấy chồng xem giống
25. lease call off your dog
làm ơn gọi con chó anh ra chỗ khác
66
Trong quan niệm của người Việt và trong tiếng Việt, hình ảnh con chó có
nhiều điểm khác biệt với quan niệm và ngôn ngữ của người Anh nói riêng,
người phương Tây nói chung. Xuất phát từ quan niệm về con vật nuôi trong nhà
rất quen thuộc này, người Việt đã sử dụng từ chó với nhiều nghĩa khác nhau,
tuy nhiên nét nghĩa thông tục nhất người Việt nhìn con chó không với nhiều đặc
điểm tích cực như người phương Tây, và địa vị của con chó trong gia đình
người Việt đương nhiên cũng không được coi trọng như trong các gia đình Âu -
Mỹ. Mặc dù, con chó vẫn là con vật nuôi quen thuộc nhất trong nhà, nó gần gũi
với người hơn cả những con vật nuôi phổ biến khác như con mèo, con gà, con
vịt, ngan, con lợn, con trâu nhưng nó dường như không được coi là “bạn” của
con người (có lẽ chỉ ngoại trừ với trẻ con). Con chó, đối với đa phần người Việt
(và có thể ở một số nước châu Á khác như Trung Quốc, Nhật Bản), chỉ có địa
vị là một con vật, thậm chí, như một “đầy tớ” trung thành. Trong lối xưng hô cổ
thời phong kiến mà ngày nay vẫn được tái hiện trong các bộ phim, ở Trung
Quốc cũng như ở Việt Nam, những đầy tớ thấp hèn thường tự khiêm xưng hoặc
bị gọi là “cẩu nô tài”. Hoặc người Việt cũng có câu nói về địa vị đầy tớ của con
chó là đánh chó phải ngó (nể) mặt chủ. Con chó trong gia đình người Việt được
nuôi hầu như không phải để “làm cảnh” hay để bầu bạn với người mà chủ yếu
là để giữ nhà hoặc đi săn, thậm chí, đến khi cái lợi ích lớn nhất này của nó bị
suy giảm đi do già yếu, nó sẽ trở thành một món ăn được rất nhiều người ưa
thích (“thịt cầy”, “cầy tơ bẩy món”). Dĩ nhiên, con chó cũng không được ăn
uống, ngủ nghỉ tử tế như người. Nó thường phải ăn những “cơm thừa canh cặn”,
thậm chí là ăn “cám lợn” hoặc ăn “chất thải” của trẻ con trong gia đình (người
Việt có câu: “Có con mọn, đến con chó cũng phải chiều” là vì vậy). Con chó
cũng bị coi là con vật hay ăn vụng thức ăn của chủ, vì vậy nên người Việt có
câu tục ngữ chó treo, mèo đậy để nhắc nhở mọi người phải bảo quản thức ăn
thật kỹ và đúng cách, không cho chó mèo ăn vụng. Nó phải ngủ ở ngoài hiên,
đầu hè hoặc ngoài sân để đêm đêm canh cửa giữ nhà cho chủ (về điểm này, con
67
chó còn thua kém cả con mèo được ngủ trong nhà hay trong bếp, hoặc gà vịt,
trâu bò còn được ngủ trong chuồng). Nhìn chung, con chó trong quan niệm
và đời sống của người Việt không được coi trọng, mặc dù nó vẫn được nhìn
nhận là con vật gần gũi và có lòng trung thành vào bậc nhất, có ích lợi đáng kể.
Ngày nay, đời sống kinh tế ngày một phát triển, tư duy ngày càng đổi mới, vai
trò của con chó trong gia đình người Việt đã có một số thay đổi, được coi trọng
hơn, được đối xử tốt hơn, đặc biệt là trong các gia đình giàu có và những gia
đình trẻ. Tuy nhiên, về cơ bản thì quan niệm của người Việt về con chó vẫn
được lưu giữ và nó chính là một nét văn hoá của dân tộc.[25:2]. Trong số 55
thành ngữ tục ngữ mà chúng tôi thống kê được sau đây thì chỉ có 5 đơn vị như
vậy có hàm ý trung tính còn tuyệt đại bội phân đều có nội dung không tốt.
1. Bán gà ngày gió, bán chó ngày mưa
2. Bẩn như chó
3. Cãi nhau như chó với mèo.
4. Cấm cảu như chó cắn ma
5. Chó ăn đá gà ăn sỏi
6. Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói
7. Chó cắn áo rách
8. Chó cậy nhà, gà cậy vườn
9. Chó chạy đường quai
10. Chó chạy trước hươu
11. Chó chê cứt nát
12. Chó chê mèo lắm lông
13. Chó chê nhà dột ra nằm bụi tre
14. Chó chết hết chuyện
68
15. Chó chui gầm chạn
16. Chó có váy lĩnh
17. Chó cùng rứt giậu
18. Chó đá vẫy đuôi
19. Chó dại có mùa, người dại quanh năm
20. Chó đen giữ mực
21. Chó dữ cùm to
22. Chó gầy hổ mặt người nuôi
23. Chó già, gà non
24. Chó ngáp phải ruồi
25. Chó liền da gà liền xương
26. Chó ngồi bàn độc
27. Chó tha đi mèo tha lại
28. Chó treo mèo đạy
29. Chó ghẻ có mỡ đằng đuôi
30. Chơi với chó, chó liếm mặt
31. Chửi chó mắng mèo
32. Có tiền chó hóa kỳ lân, không tiền kỳ lân hóa chó
33. Dại như chó
34. Đánh chó phải chừa mặt chủ
35. Đen như chó thui
36. Giàu bán chó, khó bán con
37. Giàu nuôi lợn nái, nghèo nuôi chó cái gà con
69
38. Hàm chó vó ngựa
39. Lạc đàn nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu
40. Lai rai như chó nhai giẻ rách.
41. Lầm lầm như chó ăn vụng bột
42. Lên voi xuống chó
43. Loại trâu sinh chó đẻ
44. Loanh quanh như chó nằm chổi
45. Lòng lang dạ sói
46. Mảnh đất chó ỉa
47. Nắng tháng ba chó già le lưỡi
48. Ngu như chó
49. Nhục như chó
50. Rậm rật như chó tháng bảy
51. Thắt cổ mèo treo cổ chó
52. Thông gia là bà con tiên, ăn ở chẳng hiền là bà con chó!
53. Trâu không có bắt chó đi cày”
54. Treo đầu dê bán thịt chó
55. Voi đú, chó cũng đú, chuột chù cũng nhảy quanh
Chính cách nhìn nhận về hình ảnh con chó như vậy cho nên hình tượng con
chó đi vào trong đời sống xã hội của con người cũng mang ý nghĩa xấu, khinh
bỉ, coi thường gắn liền với hình tượng con chó giờ đây là những việc không tốt,
không may mắn hoặc không đáng tôn trọng trong xã hội. Khi tiếp xúc hoặc nói
đến một người nào đó xấu xa, đạo đức kém hoặc có những phẩn chất không tốt,
thì người Việt lại thường so sánh, ví người đó với con chó. Chẳng hạn: Chó
70
ngồi bàn độc, ngu như chó, dại như chó, bẩn như chó, nhục như chóNgày
xưa, những vị quan tham chuyên đàn áp, bóc lột dân chúng cũng được ví với
con chó (gọi là cẩu quan). Thậm chí, để chỉ một người gặp may mắn hết sức
tình cờ, đạt được thành quả không phải bằng tài năng của anh ta mà chỉ là do
may mắn ngẫu nhiên, người Việt cũng ví anh ta như con chó “chó ngáp phải
ruồi. Khi một người trở nên bất tín, bất trung, người đó cũng sẽ được ví như chó
cắn trộm chủ. Nói về kẻ tiểu nhân, chỉ dám hùng hổ, ra oai với người khác khi ở
gần nhà mình thì có câu chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng hoặc nói về hành
vi làm ăn, buôn bán gian dối, điêu toa thì có câu treo đầu dê, bán thịt chó. Để
chỉ tính cách cáu bẳn, hay gắt gỏng vô cớ của một người nào đó, người Việt lại
có câu cấm cảu (hay cắm cảu) như chó cắn ma. Để chỉ về tình trạng một người
làm điều gì xấu và bị phát hiện, người Việt có cách so sánh lúng túng như chó
ăn vụng bột (hoặc lúng túng như gà mắc tóc). Nếu giữa hai hay nhiều người xảy
ra mâu thuẫn, cãi vã, thì người Việt diễn đạt bằng cãi nhau như chó với mèo.
Tình trạng khó khăn lại gặp thêm điều rủi ro xảy đến thì được miêu tả bằng
câu chó cắn áo rách trong tiếng Việt. Chỉ tình thế bị đẩy đến bước đường cùng
phải đành làm liều, kể cả điều xằng bậy thì người Việt có câu chó cùng rứt giậu.
Để miêu tả một vùng đất khô cằn, không có nhiều chất dinh dưỡng để cấy trồng,
không có tác dụng vào việc gì, vô giá trị, thì người ta nói đó là mảnh đất chó
ỉa hoặc mảnh đất chó ăn đá, gà ăn sỏi[25:3]
Trong tâm thức người Việt, nếu ai đó bị đem ra so sánh, ví von với
con chó thì thật là một điều sỉ nhục lớn vì như thế có nghĩa là người đó không
còn được coi là một con người, không có tư cách là con người nữa. Những câu
thành ngữ, tục ngữ có chứa từ “chó” đã cho thấy hình ảnh con chó trong quan
niệm của người Việt rõ ràng không gắn với cái gì đó tốt đẹp. Chính quan niệm
này đã tạo tiền đề cho chúng tôi tìm hiểu về việc sử dụng từ thông tục chó trong
tiếng Việt.
71
Đến đây ta có thể nhìn nhận một cách tổng quan về hình tượng con chó trong
thành ngữ,tục ngữ của tiếng Việt và tiếng Anh. Chính sự nhìn nhận và vai trò
của con vật nuôi này đã ảnh hưởng rất lớn đến ý nghĩa cũng như đóng góp của
nó đối với đời sống của cộng đồng xã hội. Trong tâm thức của người Anh chó là
con vật trung thành, có đóng góp rất lớn đối vào công việc, sản xuất. Điều này
cũng dễ hiểu đối với một dân tộc gốc du mục nơi mà công việc chăn thả là ưu
tiên hàng đầu. Những con chó chăn gia súc đã góp một phần rất lớn cho công
việc này. Do vậy cách nhìn nhận về con vật này có rất nhiều khác biệt với
những dân tộc sống chủ yếu bằng nghề trồng cấy như Việt Nam. Con chó vì thế
chỉ được nhìn nhận như loài vật giữ nhà đôi khi như một loài để lấy thịt. Khí
hậu nóng ẩm cũng là điều kiện phát sinh dịch bệnh ở loài chó vì thế rất nhiều
trường hợp nó lại là mối nguy hại cho cộng đồng. Và vì thế những ý nghĩa tốt
đẹp của loài vật này đối với người Việt dần được thanh bằng những hàm ý xấu,
mang đến những điều không may mắn, tồi tệ. Khi đi vào đời sống xa hội những
đặc tính đó cách nhìn nhận đó đã ảnh hưởng đến tâm lý ngôn ngữ và vì thế ý
nghĩa coi thường, không được tôn trọng ... đã có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Và
đó chính là minh chứng rõ nét cho một phần đời sống văn hóa, thói quen, của
một dân tộc thông qua hình ảnh loài vật nuôi quan thuộc trong các thành ngữ
tục ngữ của tiếng Việt.
2.1.2 Hình tƣợng con lợn trong thành ngữ tục ngữ của ngƣời Việt(có so
sánh với tiếng Anh) và ý nghĩa văn hóa khi tìm hiếu những thành ngữ tục
ngữ này
Có thể nói trong đời sống, lợn là loài vật nuôi mang lại giá trị kinh tế
cao. Tuy nhiên, “bóng dáng” của con vật này lại rất mờ nhạt trong các câu thành
ngữ, tục ngữ trong tiếng Anh minh chứng là trong 1734 câu thành ngữ và tục
ngữ của tiếng Anh ma chúng tôi khảo sát chỉ có 19 lần hình ảnh con lợn được
nhắc đến. Nhìn chung trong 19 lần xuất hiện hình ảnh con lợn hầu hết đều mang
những sắc thái “tiêu cực”. Trong những thành ngữ tục ngữ này, con lợn được đề
72
cập đến như là một con vật bẩn thỉu, ham ăn, và ngu ngốc, và thậm chí là hình
ảnh của sự thiếu may mắn trong đời sống:
1. As stupid as pig
Ngu như lợn
2. When pigs fly
Chó có váy lĩnh (điều không thể xảy ra)
3. As drunk as a sow
S
4. A pig of a job
5. A pig of a day
6. Bring one's pigs to a fine market
Làm ăn thất bại
7. To buy a pig in a poke
8. Make a pig of oneself
Ăn như lợn
9. Please the pigs
L
10. Pig in the middle
11. Hog in armour
12. Real swines
T
13. You filthy swine!
73
14. Pig together
bẩn như lợn
15. Fat As A Pig
Béo như lợn
16. To pig out
Ăn như lợn
17. To sweat like a pig
Ra mồ hôi như lợn
18. You can't make a silk purse from a sow's ear
Không thể làm một ví tiền mềm từ tai lợn nái
19. You can't put lipstick on a pig.
Tô son cho lợn (việc làm phi nghĩa)
Hình ảnh con lợn trong tranh dân gian của người Anh
Vậy lý do tại sao một con vật có giá trị kinh tế lại được nhìn nhận không
mấy thiện cảm, trong nhiều trường hợp là cực đoan miệt thị. Theo Professor
Bamfield's Rare[7] Con lợn được người dân ở phía bắc Ấn Độ và người dân ở
Trung Quốc thuần hóa vào khoảng 1500 năm trước công nguyên. Con vật nuôi
này chỉ xuất hiện ở nước Anh khoảng 800 năm trước công nguyên. Vốn là dân
cư du mục vật nuôi chủ yếu của họ là những con vật ăn cỏ như bò, ngựa, cừu.
Giống lợn ăn khỏe vì thế không được lựa chọn làm con vật nuôi đối với đời
74
sống nay đây mai đó. Điều này đã lý giải tại sao trong các hình ảnh về con vật
này trong các thành ngữ tục ngữ tiếng anh ý nghĩa: “ kém giá trị, tham ăn” lại
được thể hiện rõ nét như vậy (6/19 trường hợp). So với con chó và một số vật
nuôi khác như bò, ngựa, cừu.. thì trí thông minh của lợn kém hơn rất nhiều vì
thế ý nghĩa ngu muội, đần độn cũng có cơ hội phát triển ( 2/19 trường hợp).
Nhưng nổi bật hơn cả là ấn tượng về sự bẩn thỉu kém may mắn của loài vật
này(9/19 trường hợp). Ngư dân ở đông bắc nước Anh xem lợn như là con vật
báo hiệu vận xui. Vì thế khi đi thuyền mà nhìn thấy lợn anh ta lập tức quay về
nhà, thậm chí điều này còn được mở rộng ra bằng một lệnh cấm sự xuất hiện
của loài vật này trên những con thuyền lớn. “Fisherman in North East England
regarded pigs as harbingers of bad luck. Pigs would not be carried on boats: a
fisherman seeing a pig on his way to work would turn round and go home. This
even extended to a prohibition of the word "pig" on board a vessel.”[ 7].
Với người Việt lợn là loài vật nuôi quen thuộc, gần gũi, vừa hiền lành,
hữu ích, vừa ngộ nghĩnh, vui nhộn. Chẳng thế mà việc chăm nuôi con vật này
được đưa ra như một tiêu chí để đánh giá con người trong xã hội Việt Nam xưa.
Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhác (lười)
Đàn ông không biết buộc lạt là đàn ông hư.
Không chỉ gần gũi gắn bó mà lợn còn là loại vật nuôi mang lại giá trị
kinh tế cao đối với những cư dân nông nghiệp nơi tính định cư, ổn rất cao,.
Hình ảnh con lợn vì thế xuất hiện như một thứ tài sản có giá trị và dễ trao đổi,
luôn có mặt mọi nơi mọi lúc, đặc biệt trong những dịp quan trọng của làng, của
xã của mỗi con người:
Cưới em một thúng xôi vò
Một con lợn (heo) béo, một vò rượu tăm.
(ca dao)
U sinh con trai mà chi
75
Đầu gà má lợn (heo) mang đi nhà người
(ca dao)
Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh hưng
(ca dao)
Hình ảnh con lợn trong tranh Đông Hồ
Chính sự gắn bó, quen thuộc và hữu ích với đời sống của người Việt cho
nên hình tượng lợn được lấy làm ảnh ẩn dụ sinh động cho nhiều câu thành ngữ,
tục ngữ của người Việt Nam. Khác với hình tượng con chó, hình ảnh con lợn
xuất trong thành ngữ tục ngữ Việt Nam với nhiều cung bậc ý nghĩa khác nhau:
1. Cá cả, lợn lớn
2. Giành con cá phải vạ con heo
3. Lợn cưới, áo mới:
4. Lợn đói một bữa bằng người đói cả năm
5. Nuôi heo lấy mỡ nuôi đứa ở đỡ chân tay
6. Muốn giàu, nuôi heo nái-muốn lụn bại, nuôi bồ câu
7. Lợn bột thì ăn thịt ngon, lợn nái thì đẻ lợn con cũng lời
8. Thủ thỉ ăn thủ lợn
76
9. Lợn nhà, gà chợ
10. Lợn rọ, chó thui
11. Lợn thả, gà nhốt
12. Lợn giò, bò bắp
13. Lợn đầu, cau cuối
14. Con heo kén ăn khó nuôi
15. Con lợn có béo cỗ lòng mới ngon
16. Cám treo heo nhịn đói
17. Lợn ăn xong lợn nằm, lợn béo. Lợn ăn xong lợn réo, lợn gầy:
18. Lợn nước mạ, cá nước rươi
19. Lợn chê chó có bọ
20. Mắt như mắt lợn luộc
21. Ngu như lợn
22. Rao mật gấu bán mật heo
23. Voi đú, chó đú, lợn sề cũng hộc
24. Cưới vợ không cheo mười heo cũng mất
25. Giỗ chưa làm heo còn đó
26. Mổ lợn đòi bèo, mổ mèo đòi mỡ
27. Vì đầu heo, gánh gốc chuối
28. Heo chết không sợ nước sôi
29. Lấc láo như quạ vào chuồng lợn
30. Lợn lành (chữa) thành lợn què
31. Lợn trong chuồng thả ra mà đuổi
77
32. Một trăm con lợn cũng chung một lòng
33. Mượn đầu heo nấu cháo
34. Đầu gà má lợn
35. Nói toạc móng heo
36. Tránh được con lợn cỏ, lại gặp con gấu chó
Trước hết nói trong tiếng Việt có hai tên gọi khác nhau để chỉ loài vật
này. Cùng là con vật ấy nhưng người miền Bắc gọi là con lợn, còn người miền
Nam lại gọi là heo. Không biết từ bao giờ mà hai miền có hai tên gọi khác nhau
như vậy để chỉ một con vật, chỉ biết rằng từ thế kỷ XVII, Alexandre de Rhodes
trong Từ điển Việt -Bồ - La (1651) của mình đã viết về sự khác nhau của cách
gọi tên này: “Heo, con heo: con heo. Tốt hơn, con lợn. Lợn: con lợn, con heo.
Cùng một nghĩa”.
Tuy nhiên cũng có sự phân biệt về ý nghĩa trong hai cách gọi này. Chẳng
hạn chúng ta chỉ có thể nói “nói toạc móng heo” mà khó có thể nói là “nói toạc
móng lợn”. Cách phân biệt từ heo là cách nói của người miền Nam còn lợn là
của người miền Bắc cũng đã ngày càng ít cơ sở vì xu thế đó đang dẫn bị xóa
nhòa. Và vì vậy sự khác biệt dần dần chỉ còn ở ý nghĩa phân biệt giữa “lợn” với
những nét nghĩa của một loài vật, sự vật cụ thể với “heo” mang ý nghĩa ẩn dụ
hình tượng hóa. Điều này cũng xảy ra với những từ có cùng hoàn cảnh như vậy,
ví dụ: Quả /trái (đã dần có những nét nghĩa chuyên biệt hình tượng hóa trong
trái tim, trái đất, trái bóng với ý nghĩa (cấu tạo)vật chất thông thường của quả
đất, quả tim, quả bóng...vì thế khi nói “yêu bằng cả trái tim” thì mới hàm chứa
những ý nghĩa tốt đẹp, cao quy; còn “yêu bằng cả quả tim” thì ý nghĩa đó là
không còn tồn tại)
Tuy vậy, dù là heo hay lợn, con vật đó trong tâm thức người Việt vẫn
luôn tượng trưng cho sự sung túc, no ấm và an nhàn. Chả thế mà người ta có
câu:”Tuổi Hợi nằm đợi mà ăn”. Với quan niệm như vậy, tranh dân gian Đông
78
Hồ, Kim Hoàng đều vẽ con heo trong tranh Tết, coi đó là con vật mang lại may
mắn trong năm. Không chỉ có trong tranh, con heo còn xuất hiện trong các
chạm khắc dân gian của người Việt như điêu khắc đình làng và các tượng heo
hay một vật rất thông dụng là con heo đất. Người ta chọn con heo đất để giữ
tiền tiết kiệm cho mình, vì thế con heo hẳn phải là loài vật được kỳ vọng rất lớn
cho sự phát triển kinh tế của gia đình. Trong số 35 câu thành ngữ tục ngữ có
hình ảnh con lợn mà chúng tôi sưu tập thì có tới 9 câu biểu thị rõ nét sắc thái
này. Điều này phần nào phản ánh vai trò và tầm ảnh hưởng của con vật nuôi này
đối với đời sống, cách suy nghĩ của người Việt.
Tuy nhiên, cũng giống như nhiều dân tộc khác người Việt cũng nhận thấy
đây là loài vật phàm ăn và có phần ngu muội. Nét đặc trưng này cũng được
phản ánh khá đầy đủ trong kho vốn thành ngữ tục ngữ của người Việt. Câu nói
“bị thịt, ăn cám” đã chỉ hàm chứa sắc thái chế diễu đặc tính rất nổi bật của loài
vật nuôi này.
Song có thể nói người Việt nhìn nhận hình ảnh con lợn rất khác với cách
nhìn nhận về con vật này của người Anh. Với người Anh đó là sự tuyệt đối hóa
những đánh giá không tốt về loài vật này, thì người Việt, trái lại, lại có cách
nhìn nhận rất tích cực về loại này. Trong 35 thành ngữ tục ngữ mà chúng tôi
sưu tập thì chỉ có 5 thành ngữ bộc lộ rõ nét sắc thái chê bai còn lại đều phản ánh
sắc thái tích cực trong cách nhìn nhận đánh giá vai trò cũng như ý nghĩa của
loài vật này. Chiếm số lượng đông đảo nhất trong số này là những ý nghĩa liên
quan đến kinh nghiệm nuôi dưỡng loài vật này và những sắc thái biểu đạt mà
hình tượng của loài vật nuôi này mang lại.
1.2.2 Hình tƣợng con gà trong thành ngữ tục ngữ của ngƣời Việt (có so
sánh với tiếng Anh) và ý nghĩa văn hóa khi tìm hiếu những thành ngữ tục
ngữ này
79
Cùng với chó, lợn gà cũng là một loài vật nuôi gắn bó với con người từ
rất sớm khoảng 4000 năm trước đây [ 6]. Tuy nhiên cũng như con lợn, con gà
cũng có rất ít ảnh hưởng trong đời sống xã hội của người Anh vì thế sự phản
ánh của loài vật này vào trong ngôn ngữ cũng rất hạn chế:
1. A cock and bull story
Chuyện con cà con kê
2. As mad as a wet hen
3. as pround as a cock on his own dunghill
Dương dương tự đắc.
Chó cậy gần nhà gà cậy gần chuồng
4. As scarce as hen's teeth
Câm như gà
5. be no spring chicken (humorous)
Trâu quá xá mạ quá thì
6. chicken feed
chuyện nhỏ
7. chicken out
gạt bỏ
8. Chicken out on someone
loại khỏi cuộc chơi
9. Chicken shit
Gà mặc váy
10. chickens come home to roost
thất bại thảm hại
11. Cock in the henhouse
80
Chó cậy nhà, gà cậy gần chuồng
12. count one's chickens before they hatch
13. Don't count your chickens (before they're hatched).
Chưa đẻ đã đặt tên
14. Go off at half cock
15. go to bed with the chickens
16. Have a chicken to pick with someone
17. If it ain't chickens, it's feathers.
18. like a headless chicken
19. no spring chicken
20. Play chicken
21. Proud as a peacock
22. run around like a chicken with its head cut off and run (around) in circles
23. that cock won't fight
24. The cock of the walk
25. To behave like a hen mother
26. To cock a snook
27. To live like fighting cocks
Trong hai công trình nghiên cứu quan trọng công bố trên Tập san Viện
hàn lâm khoa học quốc gia Mỹ (11-12), một nhóm khoa học gia Nhật so sánh
cấu trúc di truyền của 21 giống gà nuôi thuộc gia đình Gallus gallus từ Thái
Lan, Nam Dương, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật, Sri Lanka, v.v..., và phát hiện
rằng giống gà ở Thái Lan có hệ số phong phú di truyền cao nhất, tức là giống gà
ở đây có độ tuổi di truyền cao nhất. So sánh DNA gà Đông Nam Á và DNA các
81
giống gà khác trên thế giới, các nhà nghiên cứu Nhật đi đến kết luận rằng tất cả
các giống gà nuôi trên thế giới ngày nay xuất phát từ một giống gà từng sống
(hay được thuần dưỡng) tại một vùng đất mà ngày nay thuộc Thái Lan và Việt
Nam. Họ còn ước tính rằng thời điểm thuần hóa gà rừng tại Đông Nam Á bắt
đầu vào khoảng 8.000 năm về trước. Tại Đồng Đậu, các nhà khảo cổ học Việt
Nam phát hiện 2 tượng gà nặn bằng đất nung. Như vậy, có thể nói gà đã được
con người thuần dưỡng ít nhất là 8.000 năm trước đây tại những vùng đất thuộc
Việt Nam ngày nayGà là một loai gia cầm thuộc nền văn minh nông nghiệp. Có
nhiều bằng chứng cho thấy quê hương nguyên thủy của cây lúa nước là ở chung
quanh vùng Đông Dương - Mã Lai - Miến Điện (chứ không phải Trung Quốc,
nơi mà bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm về trước,
thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử). Văn minh Hòa Bình là
nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới, khoảng 15.000 năm trước
công lịch. Vài ngàn năm trước Công nguyên, cư dân Đông Nam Á đã đưa cây
lúa đến vùng Đông Á và Tây Á, những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng
lúa mạch. Nhận xét này cũng hợp lý bởi vì với khí hậu nhiệt đới Đông Nam Á
là môi trường thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp.
Với Người Việt Nam con gà là vật nuôi gần gũi và quen thuộc, có lẽ vi
vậy mà hình tượng con gà thường xuyên được thể hiện trong thành ngữ và tục
ngữ của người Việt. Chúng tôi đã thống kê sơ bộ được 40 cấu trúc như vậy:
1. Bán gà ngày gió, bán chó ngày mưa:
2. Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng
3. Chó già, gà non.
4. Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa.
5. Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà mái ghẹ
6. Cơm gà, cá gỏi
82
7. Con gà tốt mã vì lông
8. Con gà tức nhau tiếng gáy
9. Đá gà, đá vịt
10. Đầu gà còn hơn đuôi phượng
11. Đầu gà, má lợn
12. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
13. Gà mái gáy gở (không biết gáy)
14. Gà nhà lại bới bếp nhà
15. Gà què ăn quẩn cối xay
16. Hạc lập kê quần (con hạc giữa bầy gà)
17. Học như gà đá vách
18. Hóc xương gà, sa cành khế
19. Lép bép như gà mổ tép
20. Lờ đờ như gà ban hôm
21. Lúng túng như gà mắc tóc
22. Mẹ gà, con vịt
23. Mèo gả, gà đồng
24. Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa
25. Một tiền gà, ba tiền thóc
26. Ngủ gà, ngủ vịt
27. Ngun ngủn như gà cụt đuôi
28. Nháo nhác như gà lạc mẹ
29. Nhìn gà hoá cuốc
83
30. Phù thuỷ đền gà
31. Quạ theo gà con
32. Ráng mỡ gà, có nhà thì chống
33. Thóc đâu mà đãi gà rừng
34. Tiếc con gà quạ tha
35. Tiền trao ra, gà bắt lấy
36. Trấu trong nhà để gà ai bới
37. Trói gà không chặt
38. Vạ vịt chưa qua, vạ gà đã đến
39. Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm
40. Vịt già, gà to
Trước hết trong những câu thành ngữ tục ngữ này hình ảnh con gà được
nhắc đến như là những vật nuôi cho sản phẩm có chất lượng cao. Nó là thứ thực
phẩm quý được ưu tiên sử dụng trong những dịp đặc biệt. Bên cạnh đó hình ảnh
xuất phát từ những đặc tính sinh hoạt cũng từ những thói hư, tật xấu đặc điểm
tính nết cái hay cái dở của loài vật này cũng được nhắc nhiều lần trong các các
câu thành ngữ tục ngữ của người Việt. Điều đó chứng tỏ phải có mối quan hệ
gần gũi và mật thiết giữ người chủ với vật nuôi của mình thì mới có sự am hiểu
cặn kẽ đến vậy.
3. Tiểu kết
Như vậy ở chương này chúng tôi đã tiếp tục tiến hành khảo sát một số nét
đặc trưng văn hóa dân tộc được thể hiện qua một số thành ngữ, tục ngữ sử dụng
hình tượng một số vật nuôi tiêu biểu của Người Việt trên cơ sở đối chiếu hình
ảnh của những loài vật này trong những đơn vị tương tự của tiếng Anh. Tuy
84
nhiên, việc đối chiếu và tìm hiểu này mới chỉ dừng lại ở 3 loài vật nuôi tiêu biêu
đó là chó, lợn và gà mà chưa có điều kiện mở rộng ra ở một số vật nuôi khác.
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy sự tương quan và mối liên hệ mật thiết
giữa văn hóa và ngôn ngữ. Trong phạm vi này là sự tương quan chặt chẽ giữa
cách nhìn nhận, đánh giá, sự quan tâm, tầm ảnh hưởng ... của những con vật
nuôi ngoài đời sống với sự phản ánh của chúng qua lăng kính ngôn từ. Thông
qua so sánh chúng tôi đã nhận ra sự khác biệt trong lối sống, cách thức tổ
chức... của người Việt và người Anh. Sự khác biệt này hoàn toàn trùng khớp với
những khác biệt trong tiếng Việt và tiếng Anh. Điều đó đã cho phép chúng tôi
có thêm luận cứ để khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối với việc tìm hiểu các
đặc trưng văn hóa dân tộc. Mà trong trường hợp này là việc tìm hiểu các đặc
trưng văn hóa dân tộc của người Việt thông qua tiếng Việt.
85
KẾT LUẬN
Trên đây chúng tôi đã trình bày tổng quát về những đặc trưng văn hóa dân
tộc của người Việt và việc tìm hiểu các đặc trưng văn hóa này từ góc độ ngôn
ngữ. Nhận thấy vai trò đặc biệt của nhóm đại từ xưng hô trong tiếng Việt và
nhóm các thành ngữ tục ngữ có sử dụng hình tượng những vật nuôi thông dụng.
chúng tôi đã tiến hành khảo sát những nét đặc thù về văn hóa được phản ảnh
qua hai nhóm đối tượng này.
Trong quá trình khảo sát chúng tôi đã lựa chọn tiếng Anh làm đối tượng để
so sánh đối chiếu. Việc lựa chọn này là xuất phát từ cơ sở lý luận chung mà ở
chương 1 chúng tôi đã có cơ hội đề cập. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa
đang diễn ra ngày một mạnh mẽ và cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học
kỹ thuật thì việc chỉ ra những nét hoàn toàn đặc thù của nền văn hóa này so với
nền văn hóa khác là rất khó khăn. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn hai nền văn hóa
cục bộ để đối chiếu. Chính sự khác biệt rất lớn giữa hai nền văn hóa Việt –Anh
đã tạo tiền đề để chỉ ra những nét khác biệt trong văn hóa, nhận thức của hai
dân tộc. Qua khảo sát chung tôi đã rút ra được một số kết luận sơ bộ sau đây:
1. Về lý thuyết
- Giữa ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ gần gũi gắn bó. Ngôn ngữ
trở thành vỏ bọc để truyền tải nội dung, các giá trị văn hóa tư tưởng.
Tuy nhiên các giá trị văn hóa được phân bố không đều vì thế phải có
sự lựa chọn, cân nhắc thấu đáo.
- Nhóm đại từ xưng hô của tiếng Việt có khối lượng đồ sộ và phong
phú hơn bất cứ một ngôn ngữ nào khác. Vì thế việc xem xét những
khía cạnh tâm lý dân tộc ảnh hưởng đến việc lựa chọn phát triển của
nhóm từ này là rất cần thiết.
- Giữa ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ gắn bó mật thiết. Do vậy
chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của
86
người Việt thông qua hệ thống ngôn từ, lời ăn tiếng nói của người
Việt. Lăng kính ngôn ngữ sẽ cho chúng ta hình ảnh về đới sống văn
hóa tình thần, về hoạt động xã hội, tổ chức cộng đồng, cách ứng xử
với môi trường tự nhiên...
2. Về thực tiễn
- Xưng hô là một trong những khía cạnh tế nhị và phức tạp không
chỉ khó đối với những người mới học và làm quen với tiếng Việt mà còn
khó ngay cả với chính người bản ngữ. Trường học là môi trường giao tiếp
có tính đặc thù nghề nghiệp. Trong xu hướng hội nhập môi trường này ở
Việt Nam không chỉ chứa đựng những đặc trưng văn hóa giáo dục đã tồn
tại hàng ngàn năm mà còn đang dung nạp những xu hướng mới của giáo
dục phương Tây, nơi có cách nhìn nhận về văn hóa con người, cách tiếp
cận khác với những gì đã tồn tại lâu nay ở Việt Nam. Cách xưng hô Thầy
– Trò theo truyền thống vì vậy, cũng đã dần có sự thay đổi theo hướng đa
dạng và phong phú hơn. Tuy nhiên chúng ta cũng cần nhìn nhận một cách
khách quan vì bên cạnh những ý nghĩa tích cực của việc gia đình hóa các
quan hệ xã trong nhà trường theo truyền thống, chúng cũng đã bộc lộ
những hạn chế nhiều khi là rào cản cho công việc dạy và học. Điều này
càng tỏ ra có cơ sở khi chúng ta xuất phát từ việc lấy người học làm trung
tâm. Việc nhiều giảng viên lựa chọn cách xưng hô Thầy – Em trong lớp
học nhiều khi không hẳn đã là một chọn hay. Trong nhiều trường hợp làm
mất đi tính chủ động và tích cực của người học khi mà ngay từ đầu trong
xác định vai xưng hô họ đã chịu áp lực thứ bậc từ chính cách xưng hô đó.
Thay vì cách xưng hô đó nhiều giảng viên đã lựa chọn cách xưng Tôi –
Bạn(các bạn) thậm chí cách xưng Mình- Bạn (Các bạn) theo những cặp
đại từ xưng hô theo quan hệ ngang mà chúng ta đã xét.
Việc lựa chọn sự thay đổi tín hiệu giao tiếp từ phía người dạy theo
chúng tôi là cách làm hay và đúng phù hợp với sự phát triển của văn hóa
87
xã hội vừa thể hiện tính truyền thống vừa có sự phù hợp với lối sống hiện
đại.
Nhìn từ góc độ người học chúng ta nên giữ cách xưng hô Thầy-
Em. Vì mục đích của người học là thu nhận kiến thức, kinh nghiệm từ
người thầy cho nên trong giao tiếp phải thể hiện được sự cầu thị, hiếu hòa
đối với người chỉ đường dẫn lối và quan trọng hơn là nhận ra mình ở vị
thế thấp hơn trong mức độ kiến thức kinh nghiệm ở một địa hạt nào đó.
Có như vậy thì việc học mới diễn ra. Cách lựa chọn này không chỉ phù
hợp với truyền thống văn hóa mà còn phù hợp với mục đích của người
học trong xã hội hiện đại.
Theo chúng tôi cốt lõi của sự thay đổi trong xưng hô ở đây phải
xuất phát từ văn hóa và coi trọng tính mục, trong đó cách lựa chọn sự
thay đổi vai giao tiếp sao cho phù hợp mục đích mà không xa rời truyền
thống dân tộc là điều quan trọng nhất. Vì vậy, việc thay đổi trong cách
xưng hô của người dạy lúc này là phù hợp và thiết thực.
Trong đời sống sinh hoạt hằng ngày viêc lựa chọn hình thức xưng
hô cũng rất quan trong. Trong tiếp xúc văn hóa thì lớp người trẻ luôn là
những người đi đầu và thích ứng nhanh nhất. Xét từ góc độ ngôn ngữ -
văn hóa. Những tác động từ sự thay đổi đó là rất lớn. Bên cạnh những lợi
ích của quá trình này mang lại chúng ta thấy có nhiều vấn đề cần có sự
điều chỉnh định hướng. Nhìn từ góc độ Xưng – Hô, Sự định hướng đó
không chỉ hướng đến việc phù hợp, năng động và thuận tiên đối với giới
trẻ mà phải xuất phát từ những nét đẹp của truyền thống. Do vậy những
cách xưng hô, đi ngược lại với truyền thống văn hóa lịch sử thì phải có sự
cân nhắc loại bỏ ngược lại cách xưng hô thể hiện sự dung nạp thích nghi
trong giao thoa văn hóa thì cần được phát huy, tạo điều kiện.
88
Thành ngữ, tục ngữ là những yếu tố quan trọng trong kết cấu của
một ngôn ngữ. Nó không chỉ là những đơn vị có tính hình tượng mà còn
chứa đựng ở mức cao các giá trị ước lệ gắn với đời sống truyền thống văn
hóa của mỗi dân tộc. Vì vậy để hiểu được các đơn vị này là một điều
không đơn giản đối với không chỉ người nước ngoài mà còn đối với cả
những người bản ngữ. Việc học ngoại ngữ sẽ hiệu quả và dễ dàng hơn
nếu như chúng ta đặt chúng trong bức tranh chung về văn hóa dân tộc.
Ngược lại chính khi ta đi tìm hiểu về ngôn ngữ của một dân tộc nó sẽ đưa
ta đến gần hơn đời sống văn hóa của dân tộc đó.
Vốn là cư dân nông nghiệp, người Việt sống quần tụ thành xóm,
thành làng, tính cộng đồng..., vì thế được thể hiện đậm nét trọng những
hình tượng, giá trị biểu trưng, nó đã ăn sâu vào tâm thức mỗi người Việt
và lưu truyền trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Việt. Việc tìm
hiểu và phát huy những giá trị đó qua ngôn từ cũng chính là đã góp phần
giữ gìn và phát huy những nét đẹp của văn hóa dân tộc của người Việt
Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 13.NCKh_HoangAnhTuan.pdf