Trong đời sống sinh hoạt hằng ngày viêc lựa chọn hình thức xưng
hô cũng rất quan trong. Trong tiếp xúc văn hóa thì lớp người trẻ luôn là
những người đi đầu và thích ứng nhanh nhất. Xét từ góc độ ngôn ngữ -
văn hóa. Những tác động từ sự thay đổi đó là rất lớn. Bên cạnh những lợi
ích của quá trình này mang lại chúng ta thấy có nhiều vấn đề cần có sự
điều chỉnh định hướng. Nhìn từ góc độ Xưng – Hô, Sự định hướng đó
không chỉ hướng đến việc phù hợp, năng động và thuận tiên đối với giới
trẻ mà phải xuất phát từ những nét đẹp của truyền thống. Do vậy những
cách xưng hô, đi ngược lại với truyền thống văn hóa lịch sử thì phải có sự
cân nhắc loại bỏ ngược lại cách xưng hô thể hiện sự dung nạp thích nghi
trong giao thoa văn hóa thì cần được phát huy, tạo điều kiện.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
88 trang | 
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
........................................ 
Gu shi bu duo Wan ru ping chang yi duan ge. 
Guo qu wei lai gong zhen zhuo. 
54 
3. Tiểu kết 
Trên đây chúng ta đã khảo sát tổng thể nhóm đại từ xưng hô trong tiếng 
Việt (có đối chiếu với tiếng Anh). Đây là một nhóm từ có vị thế đặc biệt với bất 
cứ một ngôn ngữ nào. Bởi một trong những chức năng đầu tiên và quan trọng 
nhất của ngôn ngữ đó là chức năng làm công cụ giao tiếp. Trong hoạt động giao 
tiếp thì vai trò của các chủ thể giao tiếp (nhân vật giao tiếp) bao giờ cũng đóng 
giữ vị trí then chốt; nó là “chìa khóa” của hoạt động giao tiếp khi muốn mở ra 
cánh cửa trao đổi tình cảm, thông tin, văn hóa. Quá trình này mang đậm dấu ấn 
của chủ thể giao tiếp, chính vì thế thói quen, tâm lý, tình cảm, văn hóa... bao giờ 
cũng được bộc lộ rõ nét nhất qua nhóm từ này. 
Lấy nhóm đại từ xưng hô trong tiếng Việt để khảo sát, tìm hiểu các đặc 
trưng văn hóa dân tộc của người Việt, chúng tôi đã nhận thấy đây là nhóm từ 
chứa đựng đậm nét các giá trị, đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt mà các 
nhà nghiên cứu văn hóa khi tìm hiểu về đặc trưng văn hóa dân tộc của người 
Việt đã chỉ ra. Trong đó dấu ấn văn hóa dân tộc được bộc lộ rõ nhất ở những 
nội dung cụ thể sau: 
- Nhóm đại từ xưng hô của tiếng Việt có khối lượng đồ sộ và phong 
phú hơn bất cứ một ngôn ngữ nào khác, so với tiếng Anh nhóm đại từ 
xưng hô trong tiếng Việt có sự vượt trội về ưu thế, số lượng, chủng 
loại cũng như cách thức thể hiện . Chính điều này là cơ sở cho khả 
năng linh hoạt trong việc lựa chọn vai giao tiếp, trong hoạt động giao 
tiếp của người Việt. Điều này đã cho thấy ẩn chứa sau đó là thói quen 
hay cách tư duy linh hoạt của người Việt, nó trùng khớp với những 
đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt mà các nhà nghiên cứu văn 
hóa đã chỉ ra. 
- Trong “hệ thống” các đại từ xưng hô của tiếng Việt chúng ta không 
thấy xuất hiện những đại từ nhân xưng chính danh, nghĩa là hoàn toàn 
55 
chỉ để đảm đương vai trò xưng hô trong hệ thống ngôn ngữ mà chỉ tồn 
tại những đại từ nhân xưng chuyển loại, nghĩa là một phần đảm đương 
vai trò xưng hô bên cạnh những vai trò khác vốn là những vai trò ban 
đầu của chúng. Điều đó, càng làm rõ hơn tính linh động tổng hợp của 
tiếng Việt xét từ góc độ cơ chế, nghĩa là xét từ bề sâu của hệ thống 
ngôn ngữ. Điều này cũng là cơ sở để lý giải một trong những chức 
năng hàng đầu bên cạnh chức năng giao tiếp của ngôn ngữ- chức năng 
là công cụ của tư duy. Vì thế ngôn ngữ được xem là bức tranh về thế 
giới khách quan đã được phản chiếu qua lăng kính tư duy của mỗi cá 
nhân, cộng đồng, và suy rộng ra là của cả dân tộc, loài người. Bức 
tranh về chủ thể của hoạt động giao tiếp của người Việt vì thế có dấu 
ấn rõ nét của sự linh hoạt, đa dạng cũng như cách ứng xử với môi 
trường tự nhiên, xã hội của người Việt. 
- Trong hệ thống các đại từ xưng hô của người Việt thì nhóm đại từ chỉ 
quan hệ thân tộc có xu hướng phát triển mạnh mẽ và chiếm lĩnh những 
vị trí quan trọng nhất. Điều đó càng cho phép chúng ta có cơ sở để 
nhận định mối quan hệ gắn kết giữa ngôn ngữ và văn hóa. Bởi tất cả 
những khảo sát trên đây của chúng tôi đều cho thấy có sự liên hệ rõ 
nét, mật thiết giữa tâm lý trọng quan hệ, trọng tình cảm, trọng cộng 
đồng, hiếu hòa trong giao tiếp của người Việt với sự phát triển mạnh 
mẽ cũng như vai trò quan trọng của nhóm đại từ thân tộc trong tiếng 
Việt. Với thói quen coi trọng tính cộng đồng, các mối quan hệ, và đề 
cao tình cảm trong các mối quan hệ xã hội của người Việt là cơ sở để 
lựa chọn cách xưng hô của người Việt trong giao tiếp. Thậm chí ngay 
cả ở những môi trường giao tiếp cần phải thể hiện tính cá nhân, đề cao 
vai trò quyền lực thì yếu tố được ưu tiên vẫn là tuổi tác, kinh nghiệm 
và thứ bậc. Điều này phù hợp với truyền thống văn hóa luôn coi trọng 
cộng đồng của người Việt. Tên gọi “đồng bào” vì thế có ý nghĩa văn 
56 
hóa to lớn đối với mỗi người dân Việt Nam. Và chỉ khi hiểu được 
những giá trị văn hóa ẩn chứa đằng sau, ta mới hiểu được một cá nhân 
ưu tú, vĩ đại nhất của dân tộc lại mong muốn một cách xưng hô bình 
dị, không phải danh nọ, tước kia mà gắn với một đại từ chỉ quan hệ 
thân thiết trong quan hệ gia đình: 
“Nơi đây sống một người tóc bạc 
Người không con mà có triệu con 
Nhân dân ta gọi Người là Bác 
Cả đời Người là của nước non” 
(Nguyễn Đình Thi). 
Thói quen và truyền thống đó là cơ sở để mỗi khi có thể tính gia đình 
cộng đồng lại được trỗi dậy mạnh mẽ cho dù ở bất cứ môi trường và 
hoàn cảnh nào. 
- Nhờ khả năng chuyển loại và tính đơn lập về loại hình nên nhóm đại 
từ nhân xưng của tiếng Việt có khả năng linh động, dung và 
 rất cao. Cho nên một số đại từ nhân xưng trong tiếng Việt có khả 
năng xuất hiện trong cả hai vai giao tiếp, có khi vừa là xưng vừa là hô 
(ví dụ đã dẫn trang 53) Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào bối cảnh và 
cách nhìn nhận của chủ thể. Đây là điểm lý thú của tiếng Việt mà các 
ngôn ngữ biến đổi hình thái như tiếng Anh không thể có được. 
- Khi nhắc đến một trong những chức năng quan trọng nhất của ngôn 
ngữ chức năng giao tiếp người ta cũng luôn đề cập đến một chức năng 
cũng có vai trò quan trọng không kém- chức năng là công cụ của tư 
duy. Ẩn sau vỏ hình thức âm thanh bề ngoài của ngôn ngữ là những 
giá trị tinh thần đã được đúc kết thành thói quen, truyền thống, văn 
hóa. Vì thế, lời nói sẽ là vô nghĩa nếu như nó không chứa đựng những 
57 
giá trị tư tưởng. Những giá trị tư tưởng đó được hình thành không từ 
đâu khác mà chính từ vốn sống, kinh nghiệm, truyền thống của dân 
tộc. Những cơ sở đó, và những khảo sát ở trên hoàn toàn cho phép 
chúng ta có thể khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa ngôn ngữ dân 
tộc với văn hóa dân tộc. 
- Trong hoạt động giao tiếp thì chủ thể giao tiếp luôn là yếu tố quan 
trọng để hoạt động giao tiếp diễn ra. Hoạt động giao tiếp vì thế mà 
chịu ảnh hưởng sâu sắc từ chủ thể giao tiếp. Nhóm đại từ nhân xưng 
tuy có số lượng không nhiều trong mỗi ngôn ngữ nhưng xét về vai trò 
nó lại chứa đựng những giá trị to lớn. Qua khảo sát chúng ta không chỉ 
thấy được cấu trúc hình thức từ góc độ ngôn ngữ mà chúng ta còn thấy 
sự tác động của văn hóa dân tộc đến nhóm từ này. Nói cách khác 
thông qua nhóm từ này chúng ta có thể tìm thấy những ý nghĩa văn 
hóa của dân tộc Việt Nam được vun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử ẩn 
chứa đằng sau hoạt động thường nhật trong lời ăn, tiếng nói của người 
Việt. Đó là lối tư duy tổng hợp, coi trọng các mối quan hệ, trọng cộng 
đồng, trọng tình cảm; đó là sự linh, hoạt mềm dẻo hiếu hòa trong giao 
tiếp ứng phó luôn đề cao các giá trị đạo đức kinh nghiệm của người 
Việt. 
Trên đây chúng tôi đã trình bày một cách tổng quan về nhóm đại từ nhân 
xưng của tiếng Việt. Nhóm từ được xem là đặc biệt và mang đậm dấu ấn văn 
hóa. Xuất phát từ những luận điểm đã được các nhà nghiên cứu văn hóa trong 
và ngoài nước thừa nhận chúng tôi đã chỉ ra rằng hoàn toàn có thể tìm thấy 
những minh chứng rõ nét cho những luận điểm này thông qua nhóm đại từ nhân 
xưng của tiếng Việt. Từ đó củng cố thêm mối quan hệ gắn bó giữa tiếng Việt 
với những đặc trưng văn hóa của người Việt, góp phần phát huy bảo tồn nét 
đặc sắc của văn hóa Việt Nam. 
58 
Trong chương tiếp theo chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát những nét đặc trưng 
văn hóa dân tộc ở một nhóm đối tượng khác, đó là những nhóm thành ngữ, tục 
ngữ sử dụng hình ảnh một số vật nuôi tiêu biểu của người Việt (có đối chiếu với 
tiếng Anh). Sở dĩ chúng tôi chọn những nhóm thành ngữ tục ngữ ngữ này là vì, 
trong kết cấu ý nghĩa của thành ngữ tục ngữ tính hình tượng và biểu trưng luôn 
là những yếu tố ưu tiên hàng đầu. Hai đặc tính này luôn mang đậm dấu ấn tâm 
lý dân tộc vì thế việc khảo sát chúng hứa hẹn mang lại kết quả phục vụ cho việc 
tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt. Việc lựa chọn hình tượng 
những con vật nuôi trong gia đình của người Việt là hoàn toàn dựa trên vai trò 
quan trọng của chúng, đối với việc tìm hiểu văn hóa. Vì suy cho cùng đây chính 
là những con vật gắn liền với thói quen, tập quán canh tác của mỗi gia đình, 
cộng đồng. Do vậy việc nhìn nhận, đánh giá cũng như cách thức ứng xử của chủ 
thể văn hóa đối với nhóm vật nuôi quan trọng này có ý nghĩa thiết thực đối với 
việc tìm hiểu văn hóa dân tộc. 
59 
Chƣơng 3 
HÌNH TƢỢNG MỘT SỐ VẬT NUÔI TIÊU BIỂU TRONG 
THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ CỦA TIẾNG VIỆT 
VÀ VAI TRÕ CỦA CHÖNG ĐỐI VỚI VIỆC TÌM HIỂU ĐẶC TRƢNG 
VĂN HÓA DÂN TỘC CỦA NGƢỜI VIỆT 
1. Vai trò của thành ngữ, tục ngữ trong việc tìm hiểu giá trị văn hóa 
của dân tộc 
1.1 Khái niệm về thành ngữ tục ngữ 
Trong kho từ vựng của mỗi ngôn ngữ thì ngoài đơn vị cơ bản là từ, bao giờ 
cũng có sự đóng góp không nhỏ của các đơn vị tương đương với nó mà chúng 
ta thường quen gọi là ngữ. Hai loại ngữ thường được nhắc đến và có vai trò 
quan trọng đối với sự tồn tại phát triển của mỗi một ngôn ngữ đó là thành ngữ 
và tục ngữ. Xét về chức năng thành ngữ và tục ngữ đều là những đơn vị đảm 
đương được những chức năng mà từ đảm nhiệm. Nghĩa là chúng có thể đảm giữ 
vai trò tạo câu, định danh...Tuy nhiên về cấu tạo thành ngữ và tục ngữ lại là 
những đơn vị có cấu tạo và ý nghĩa phức tạp hơn. Cho đến nay vẫn tồn tại nhiều 
cách hiểu khác nhau về thành ngữ và tục ngữ. Việc phân biệt rạch ròi giữa hai 
đơn vị này vì thế cũng còn nhiều chỗ chưa nhất quán. Tuy nhiên để thuận tiện 
và phù hợp với mục đích chúng ta đang xét ở đây cho nên chúng tôi đã lựa chọn 
cách hiểu sau đây về thành ngữ và tục ngữ. 
- Thành ngữ là tập hợp những từ cố định quen dùng mà nghĩa của chúng 
thường không giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ 
đó tạo nên nó.[28] 
- Tục ngữ là câu có vần điệu đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống, đạo đức 
của nhân dân. [28] 
60 
1.2 Vai trò của thành ngữ trong việc tìm hiểu đặc trƣng văn hóa dân tộc 
Việc lựa chọn cách hiểu thành ngữ tục ngữ như trên đã phần nào chỉ ra vai trò 
của chúng đối với việc tìm hiểu ý nghĩa, văn hóa. Trước hết chúng ta hãy xem 
xét vai trò của thành ngữ trong vai trò là cơ sở để tìm hiều văn hóa. Có thế nói 
thành ngữ trong tiếng Việt khá phong phú về chủng loại và số lượng; trong giao 
tiếp người Việt cũng có thói quen ưa sử dụng các câu thành ngữ thay vì dùng 
các đơn vị tương đương là từ, ví dụ: 
- Anh ấy là người keo kiệt! 
- Anh ấy à, có mà rán sành ra mỡ. 
- Cô chị xinh đẹp là thế chẳng bù cho cô em. 
- Cô chị thì chim sa cá lặn chẳng bù cho cô em xấu ma chê quỷ hờn. 
Xét những ví dụ trên chúng ta thấy thành ngữ thường gắn với một hình 
ảnh một giá trị ước lệ nào đó (sành/mỡ; chim/cá; ma quỷ). Thêm vào đó mức độ 
đánh giá nội dung hoàn toàn tùy thuộc vào sự suy luận của người tiếp nhận. Nói 
cách khác thang bậc miêu tả ở đây có tính linh động và vì thế ở câu thành ngữ 
“rán sành ra mỡ” người nói chỉ cho ta hình ảnh còn mức độ keo kiệt đến đâu 
hoàn toàn phụ thuộc vào chủ thể tiếp nhận, mức độ xinh đẹp của cô chị và xấu 
xí của cô em không được đặt ra ở một mức cố định. Một đặc tính khác chúng ta 
cũng nhận thấy qua những ví dụ trên là nghĩa của chúng là một nội dung khác 
với nội dung của các thành tố cộng lại, nghĩa là để hiểu đúng, hiểu đủ nội dung 
người nói muốn truyền đạt người nghe phải có sự am hiểu vể những hình tượng 
và giá trì của hình tượng đó trong cộng đồng. Vì thế một người xa lạ với những 
đồ vật như âu sành đựng mỡ, chắc khó có thể suy luận được nội dung ẩn chứa 
đằng sau nó. Và khó có thể hình dung tại sao lại rán sành chứ không phải thứ đồ 
nào khác như gạch, gỗ... tương tự như vậy hình tượng con quỷ trong tiếng Anh 
thường gây ấn tượng là con vật ác độc, ấn tượng xấu xí hầu như không tồn tại 
hoặc giả chỉ là những nét phụ luôn bị xem nhẹ. Vì thế ấn tượng xấu ma chê quỷ 
61 
hờn chắc sẽ khác với cách nhìn nhận của người Việt nơi mà hình tượng xấu xí 
đã ăn sâu vào tâm thức “gầy đen như quỷ đói, xấu như quỷ dạ xoa, quỷ xa 
tăng...”. 
Ý nghĩa của các thành ngữ được đoán định theo các giá trị ước lệ mà chúng 
xây dựng và vì thế luôn có sự linh hoạt. Chẳng hạn, khi nghe nói một ông nào 
đó "rán sành ra mỡ", không ai mất công suy nghĩ xem sành có rán ra mỡ được 
không, hoặc ông kia có chịu khó rán sành để lấy mỡ không, mà chỉ cần hiểu 
chung là ông ta rất hà tiện, chắt bóp. Khi nghe nói một người đàn bà nào đó có 
dung nhan "chim sa cá lặn", không ai thắc mắc rằng trước nhan sắc của một 
người đàn bà đẹp, chim có sa và cá có lặn thật không, mà ai cũng hướng ngay 
đến nội dung người phát biểu muốn cực tả cái nhan sắc của người đàn bà kia. 
Chính thuộc tính đặc biệt này của thành ngữ đã tạo cơ sở vững chắc để 
chúng ta có thể tìm thấy những nét khác biệt trong truyền thống văn hóa của 
mỗi dân tộc cộng đồng. Gắn với mỗi dân tộc cộng đồng là hệ thống những hình 
tượng, giá trị ước lệ nhất định vì thế những dân tộc có sự khác biệt về văn hóa 
lối sống, môi trường... sẽ có sự khác biệt trong các yếu tố đó. Và không đâu 
khác thành ngữ chính là yếu tố phản ánh sự khác biệt này. 
Không sử dụng nhiều các giá trị ước lệ, các hình tượng biểu trưng như 
thành ngữ nhưng tục ngữ lại là những đơn vị hàm chứa những kinh nghiệm của 
cộng đồng: đó là kinh nghiệm sống, kinh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm về 
ứng xử... 
- Gần mực thì đen gần đèn thì rạng 
- Chồng mắng thì ra mục gia mắng thì vào 
- Đen đầu thì bỏ đỏ đầu thì nuôi 
- Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn 
- Trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa 
62 
 Kho kinh nghiệm đó được cộng đồng đúc rút từ quá trình cải tạo tự 
nhiên, trong đời sống cộng đồng qua thời gian. Và vì thế chúng cũng là những 
yếu tố giúp chúng ta tìm hiểu về cộng đồng đó bởi vì những cộng đồng có môi 
trường sống khác nhau, cách thức tổ chức cộng đồng, sản xuất khác nhau sẽ có 
những kinh nghiệm khác nhau. Bởi vậy, khi tìm hiểu những kinh nghiệm này 
(được phản ánh qua ngôn ngữ) sẽ cho ta biết những đặc thù về văn hóa, nhận 
thức của cộng đồng đó. 
2. Hình tƣợng một số vật nuôi tiêu biểu trong thành ngữ, tục ngữ tiếng 
Việt và vai trò của nhóm thành ngữ tục ngữ này trong việc tìm hiểu đặc 
trƣng văn hóa dân tộc của ngƣời Việt(có so sánh với tiếng Anh). 
2.1 Hình tƣợng một số vật nuôi tiêu biểu trong thành ngữ tục ngữ 
 Một trong những dấu ấn thành công trong sự tiến bộ của loài người đó là 
khả năng thuần hóa động vật hoang dã. Việc cải thiện đời sống và chủ động tích 
lũy lương thực có sự liên quan chặt chẽ đối với những con vật nuôi trong mỗi 
gia đình, cộng đồng. Việc lựa chọn vật nuôi phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh, 
địa lý, khí hậu cũng như tập tục sản xuất. Vì vậy những cộng đồng có sự khác 
biệt về địa lý, khí hậu, tập quán canh tác thường có những đối tượng vật nuôi 
khác nhau. Khoa học, kỹ thuật phát triển đã tạo điều kiện cho con người có thể 
thuần hóa và nuôi dưỡng nhiều loài vật khác nhau vì thế số lượng và chủng loại 
của chúng cũng không ngừng tăng lên. Do vậy trong phạm vi này chúng tôi lựa 
chọn hình tượng 3 loài vật đã gắn bó với sự phát triển kinh tế, xã hội của người 
Việt từ rất sớm đó là con chó, con lợn và con mèo. Đây là ba loài vật không chỉ 
quen thuộc với người Việt mà cũng gần gũi với Người Anh do vậy chúng tôi đã 
lựa chọn chúng tể tiện có sự so sánh đối chiếu. Dĩ nhiên những nội dung đối 
chiếu ở đây sẽ chỉ là những hình tượng về ba loài vật này trong các câu thành 
ngữ tục ngữ của hai dân tộc thường được đề cập đến. 
63 
2.1.1 Hình tƣợng con chó trong thành ngữ tục ngữ của ngƣời Việt, ngƣời 
Anh và ý nghĩa văn hóa khi tìm hiếu những thành ngữ tục ngữ này. 
Theo Đỗ Thị Hiền ở đa số các nước phương Tây, con chó là con vật được 
yêu quí và chiều chuộng bậc nhất trong các gia đình. “Nhiều người nước ngoài 
vẫn đùa nhau rằng theo thứ tự được yêu quý trong nhà thì đứng đầu là trẻ con, 
thứ hai là chó, rồi đến bà chủ và cuối vùng mới là ông chủ. Chó có thể được ngủ 
chung với người, thậm chí có phòng riêng, có người chuyên chăm sóc sắc đẹp. 
Chó có thể được thừa hưởng gia tài của chủ theo di chúc, có biệt thự và đủ kẻ 
hầu người hạ, kể cả bác sĩ riêng. Có cả một ngành công nghiệp riêng chuyên sản 
xuất các loại thức ăn hợp khẩu vị cho chó. Người ta còn tổ chức các cuộc thi sắc 
đẹp cho loài chó để chọn ra con chó có bộ lông đẹp nhất hay gương mặt đẹp 
nhất” Điều này xuất phát từ quan niệm của họ cho rằng con chó là con vật có 
rất nhiều đặc điểm tốt: rất gần gũi, trung thành và thông minh. Và khi nhắc đến 
hình ảnh con chó, đối với người Anh chẳng hạn, họ nghĩ ngay đến “những điều 
tốt đẹp. Đấy là người giỏi nhất hay quốc gia mạnh nhất; là người, vật quan trọng 
hơn; sự may mắn; người tốt, biết xử sự; là vật tuy bé nhỏ nhưng có lợi”  
Thành ngữ và tục ngữ tiếng Anh cũng có rất nhiều câu chứa từ “dog” và mang ý 
nghĩa tích cực như trên, chẳng hạn: top dog (chỉ người giỏi nhất, nước mạnh 
nhất), the tail is wagging the dog hoặc let the tail wag the dog(nói về người hay 
vật dù nhỏ, yếu thế hơn, nhưng có vai trò quan trọng hơn hay có vai trò điều 
khiển người hay vật lớn, mạnh hơn mình), a dog‟s chance (cơ hội may mắn), he 
is a good dog who goes to church (nói về một người tốt, biết xử sự đúng đắn, 
biết điều và biết hướng thiện), alive dog is better than a dead lion (chỉ một vật 
tuy nhỏ bé nhưng còn có ích hơn cả những vật to lớn mà vô dụng).v.v[25: 1] 
Theo thống kê của chúng tôi trong 1023 câu thành ngữ, tục ngữ của tiếng 
Anh [8], hình tượng con chó được nhắc đến 25 lần. Trong đó hình tượng biểu 
trưng cho sự tốt đẹp hay có hàm ý tốt đẹp được nhắc đến 11 lần, hình tượng có 
64 
nội dung chỉ sự khổ sở xuất hiện 6 lần, nội dung chỉ thói xấu được nhắc lai 5 lần 
và những nội dung khác 4 lần. 
1. let sleeping dogs lie 
đừng khêu gợi lại những chuyện đã êm thấm 
2. love me love my dog 
yêu tôi thì hãy yêu cả những người thân của tôi 
yêu nhau yêu cả đường đi 
3. not even a dog's chance 
không có chút may mắn nào 
4. to help a lame dog over stile 
giúp đỡ ai trong lúc khó khăn 
5. every dog has his day 
ai rồi cũng có lúc gặp vận; ai khó ba đời 
6. better be the head of a dog than the tail of a lion 
Vua sứ mù 
7. to let loose the dogs of war 
tung ra tất cả các lực lượng tàn phá của chiến tranh 
8. top dog 
người giỏi nhất, nước mạnh nhất 
9. the tail is wagging the dog 
Bé hạt tiêu 
10. a dog’s chance 
cơ hội may mắn 
11. he is a good dog who goes to church 
Người tốt sẽ gặp may 
12. to die a dog's death 
chết khổ, chết sở, chết nhục nhã, 
65 
13. to die like a dog 
chết như một con chó 
14. to go to the dogs 
thất cơ lỡ vận, khánh kiệt, xuống dốc ((nghĩa bóng)) sa đoạ 
15. to leaf a dog's life 
sống một cuộc đời khổ như chó 
16. to lead someone a dog's life 
bắt ai sống một cuộc đời khổ cực 
17. throw to the dogs 
vứt bỏ đi, quẳng đi (cho chó) 
18. not to have a word to throw at the dog 
lầm lì không mở miệng nói nửa lời; kiêu kỳ không thèm mở miệng 
19. to put on dog 
làm bộ làm tịch, làm ra vẻ ta đây, làm ra vẻ ta đây quan trọng 
20. to take a hair of the dog that bit you 
lấy độc trị độc 
21. to be a dog in the manger 
như chó già giữ xương; ích kỷ, không muốn ai dùng đến cái gì mình 
không cần đến 
22. dog and war 
những sự tàn phá giết chóc của chiến tranh 
23. to give a dog an ill name and hang him 
muốn giết chó thì bảo là chó dại; không ưa thì dưa có giòi 
24. know the breed, know the dog 
lấy vợ xem tông lấy chồng xem giống 
25. lease call off your dog 
làm ơn gọi con chó anh ra chỗ khác 
66 
Trong quan niệm của người Việt và trong tiếng Việt, hình ảnh con chó có 
nhiều điểm khác biệt với quan niệm và ngôn ngữ của người Anh nói riêng, 
người phương Tây nói chung. Xuất phát từ quan niệm về con vật nuôi trong nhà 
rất quen thuộc này, người Việt đã sử dụng từ chó với nhiều nghĩa khác nhau, 
tuy nhiên nét nghĩa thông tục nhất người Việt nhìn con chó không với nhiều đặc 
điểm tích cực như người phương Tây, và địa vị của con chó trong gia đình 
người Việt đương nhiên cũng không được coi trọng như trong các gia đình Âu - 
Mỹ. Mặc dù, con chó vẫn là con vật nuôi quen thuộc nhất trong nhà, nó gần gũi 
với người hơn cả những con vật nuôi phổ biến khác như con mèo, con gà, con 
vịt, ngan, con lợn, con trâu nhưng nó dường như không được coi là “bạn” của 
con người (có lẽ chỉ ngoại trừ với trẻ con). Con chó, đối với đa phần người Việt 
(và có thể ở một số nước châu Á khác như Trung Quốc, Nhật Bản), chỉ có địa 
vị là một con vật, thậm chí, như một “đầy tớ” trung thành. Trong lối xưng hô cổ 
thời phong kiến mà ngày nay vẫn được tái hiện trong các bộ phim, ở Trung 
Quốc cũng như ở Việt Nam, những đầy tớ thấp hèn thường tự khiêm xưng hoặc 
bị gọi là “cẩu nô tài”. Hoặc người Việt cũng có câu nói về địa vị đầy tớ của con 
chó là đánh chó phải ngó (nể) mặt chủ. Con chó trong gia đình người Việt được 
nuôi hầu như không phải để “làm cảnh” hay để bầu bạn với người mà chủ yếu 
là để giữ nhà hoặc đi săn, thậm chí, đến khi cái lợi ích lớn nhất này của nó bị 
suy giảm đi do già yếu, nó sẽ trở thành một món ăn được rất nhiều người ưa 
thích (“thịt cầy”, “cầy tơ bẩy món”). Dĩ nhiên, con chó cũng không được ăn 
uống, ngủ nghỉ tử tế như người. Nó thường phải ăn những “cơm thừa canh cặn”, 
thậm chí là ăn “cám lợn” hoặc ăn “chất thải” của trẻ con trong gia đình (người 
Việt có câu: “Có con mọn, đến con chó cũng phải chiều” là vì vậy). Con chó 
cũng bị coi là con vật hay ăn vụng thức ăn của chủ, vì vậy nên người Việt có 
câu tục ngữ chó treo, mèo đậy để nhắc nhở mọi người phải bảo quản thức ăn 
thật kỹ và đúng cách, không cho chó mèo ăn vụng. Nó phải ngủ ở ngoài hiên, 
đầu hè hoặc ngoài sân để đêm đêm canh cửa giữ nhà cho chủ (về điểm này, con 
67 
chó còn thua kém cả con mèo được ngủ trong nhà hay trong bếp, hoặc gà vịt, 
trâu bò còn được ngủ trong chuồng). Nhìn chung, con chó trong quan niệm 
và đời sống của người Việt không được coi trọng, mặc dù nó vẫn được nhìn 
nhận là con vật gần gũi và có lòng trung thành vào bậc nhất, có ích lợi đáng kể. 
Ngày nay, đời sống kinh tế ngày một phát triển, tư duy ngày càng đổi mới, vai 
trò của con chó trong gia đình người Việt đã có một số thay đổi, được coi trọng 
hơn, được đối xử tốt hơn, đặc biệt là trong các gia đình giàu có và những gia 
đình trẻ. Tuy nhiên, về cơ bản thì quan niệm của người Việt về con chó vẫn 
được lưu giữ và nó chính là một nét văn hoá của dân tộc.[25:2]. Trong số 55 
thành ngữ tục ngữ mà chúng tôi thống kê được sau đây thì chỉ có 5 đơn vị như 
vậy có hàm ý trung tính còn tuyệt đại bội phân đều có nội dung không tốt. 
1. Bán gà ngày gió, bán chó ngày mưa 
2. Bẩn như chó 
3. Cãi nhau như chó với mèo. 
4. Cấm cảu như chó cắn ma 
5. Chó ăn đá gà ăn sỏi 
6. Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói 
7. Chó cắn áo rách 
8. Chó cậy nhà, gà cậy vườn 
9. Chó chạy đường quai 
10. Chó chạy trước hươu 
11. Chó chê cứt nát 
12. Chó chê mèo lắm lông 
13. Chó chê nhà dột ra nằm bụi tre 
14. Chó chết hết chuyện 
68 
15. Chó chui gầm chạn 
16. Chó có váy lĩnh 
17. Chó cùng rứt giậu 
18. Chó đá vẫy đuôi 
19. Chó dại có mùa, người dại quanh năm 
20. Chó đen giữ mực 
21. Chó dữ cùm to 
22. Chó gầy hổ mặt người nuôi 
23. Chó già, gà non 
24. Chó ngáp phải ruồi 
25. Chó liền da gà liền xương 
26. Chó ngồi bàn độc 
27. Chó tha đi mèo tha lại 
28. Chó treo mèo đạy 
29. Chó ghẻ có mỡ đằng đuôi 
30. Chơi với chó, chó liếm mặt 
31. Chửi chó mắng mèo 
32. Có tiền chó hóa kỳ lân, không tiền kỳ lân hóa chó 
33. Dại như chó 
34. Đánh chó phải chừa mặt chủ 
35. Đen như chó thui 
36. Giàu bán chó, khó bán con 
37. Giàu nuôi lợn nái, nghèo nuôi chó cái gà con 
69 
38. Hàm chó vó ngựa 
39. Lạc đàn nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu 
40. Lai rai như chó nhai giẻ rách. 
41. Lầm lầm như chó ăn vụng bột 
42. Lên voi xuống chó 
43. Loại trâu sinh chó đẻ 
44. Loanh quanh như chó nằm chổi 
45. Lòng lang dạ sói 
46. Mảnh đất chó ỉa 
47. Nắng tháng ba chó già le lưỡi 
48. Ngu như chó 
49. Nhục như chó 
50. Rậm rật như chó tháng bảy 
51. Thắt cổ mèo treo cổ chó 
52. Thông gia là bà con tiên, ăn ở chẳng hiền là bà con chó! 
53. Trâu không có bắt chó đi cày” 
54. Treo đầu dê bán thịt chó 
55. Voi đú, chó cũng đú, chuột chù cũng nhảy quanh 
Chính cách nhìn nhận về hình ảnh con chó như vậy cho nên hình tượng con 
chó đi vào trong đời sống xã hội của con người cũng mang ý nghĩa xấu, khinh 
bỉ, coi thường gắn liền với hình tượng con chó giờ đây là những việc không tốt, 
không may mắn hoặc không đáng tôn trọng trong xã hội. Khi tiếp xúc hoặc nói 
đến một người nào đó xấu xa, đạo đức kém hoặc có những phẩn chất không tốt, 
thì người Việt lại thường so sánh, ví người đó với con chó. Chẳng hạn: Chó 
70 
ngồi bàn độc, ngu như chó, dại như chó, bẩn như chó, nhục như chóNgày 
xưa, những vị quan tham chuyên đàn áp, bóc lột dân chúng cũng được ví với 
con chó (gọi là cẩu quan). Thậm chí, để chỉ một người gặp may mắn hết sức 
tình cờ, đạt được thành quả không phải bằng tài năng của anh ta mà chỉ là do 
may mắn ngẫu nhiên, người Việt cũng ví anh ta như con chó “chó ngáp phải 
ruồi. Khi một người trở nên bất tín, bất trung, người đó cũng sẽ được ví như chó 
cắn trộm chủ. Nói về kẻ tiểu nhân, chỉ dám hùng hổ, ra oai với người khác khi ở 
gần nhà mình thì có câu chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng hoặc nói về hành 
vi làm ăn, buôn bán gian dối, điêu toa thì có câu treo đầu dê, bán thịt chó. Để 
chỉ tính cách cáu bẳn, hay gắt gỏng vô cớ của một người nào đó, người Việt lại 
có câu cấm cảu (hay cắm cảu) như chó cắn ma. Để chỉ về tình trạng một người 
làm điều gì xấu và bị phát hiện, người Việt có cách so sánh lúng túng như chó 
ăn vụng bột (hoặc lúng túng như gà mắc tóc). Nếu giữa hai hay nhiều người xảy 
ra mâu thuẫn, cãi vã, thì người Việt diễn đạt bằng cãi nhau như chó với mèo. 
Tình trạng khó khăn lại gặp thêm điều rủi ro xảy đến thì được miêu tả bằng 
câu chó cắn áo rách trong tiếng Việt. Chỉ tình thế bị đẩy đến bước đường cùng 
phải đành làm liều, kể cả điều xằng bậy thì người Việt có câu chó cùng rứt giậu. 
Để miêu tả một vùng đất khô cằn, không có nhiều chất dinh dưỡng để cấy trồng, 
không có tác dụng vào việc gì, vô giá trị, thì người ta nói đó là mảnh đất chó 
ỉa hoặc mảnh đất chó ăn đá, gà ăn sỏi[25:3] 
 Trong tâm thức người Việt, nếu ai đó bị đem ra so sánh, ví von với 
con chó thì thật là một điều sỉ nhục lớn vì như thế có nghĩa là người đó không 
còn được coi là một con người, không có tư cách là con người nữa. Những câu 
thành ngữ, tục ngữ có chứa từ “chó” đã cho thấy hình ảnh con chó trong quan 
niệm của người Việt rõ ràng không gắn với cái gì đó tốt đẹp. Chính quan niệm 
này đã tạo tiền đề cho chúng tôi tìm hiểu về việc sử dụng từ thông tục chó trong 
tiếng Việt. 
71 
Đến đây ta có thể nhìn nhận một cách tổng quan về hình tượng con chó trong 
thành ngữ,tục ngữ của tiếng Việt và tiếng Anh. Chính sự nhìn nhận và vai trò 
của con vật nuôi này đã ảnh hưởng rất lớn đến ý nghĩa cũng như đóng góp của 
nó đối với đời sống của cộng đồng xã hội. Trong tâm thức của người Anh chó là 
con vật trung thành, có đóng góp rất lớn đối vào công việc, sản xuất. Điều này 
cũng dễ hiểu đối với một dân tộc gốc du mục nơi mà công việc chăn thả là ưu 
tiên hàng đầu. Những con chó chăn gia súc đã góp một phần rất lớn cho công 
việc này. Do vậy cách nhìn nhận về con vật này có rất nhiều khác biệt với 
những dân tộc sống chủ yếu bằng nghề trồng cấy như Việt Nam. Con chó vì thế 
chỉ được nhìn nhận như loài vật giữ nhà đôi khi như một loài để lấy thịt. Khí 
hậu nóng ẩm cũng là điều kiện phát sinh dịch bệnh ở loài chó vì thế rất nhiều 
trường hợp nó lại là mối nguy hại cho cộng đồng. Và vì thế những ý nghĩa tốt 
đẹp của loài vật này đối với người Việt dần được thanh bằng những hàm ý xấu, 
mang đến những điều không may mắn, tồi tệ. Khi đi vào đời sống xa hội những 
đặc tính đó cách nhìn nhận đó đã ảnh hưởng đến tâm lý ngôn ngữ và vì thế ý 
nghĩa coi thường, không được tôn trọng ... đã có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Và 
đó chính là minh chứng rõ nét cho một phần đời sống văn hóa, thói quen, của 
một dân tộc thông qua hình ảnh loài vật nuôi quan thuộc trong các thành ngữ 
tục ngữ của tiếng Việt. 
2.1.2 Hình tƣợng con lợn trong thành ngữ tục ngữ của ngƣời Việt(có so 
sánh với tiếng Anh) và ý nghĩa văn hóa khi tìm hiếu những thành ngữ tục 
ngữ này 
Có thể nói trong đời sống, lợn là loài vật nuôi mang lại giá trị kinh tế 
cao. Tuy nhiên, “bóng dáng” của con vật này lại rất mờ nhạt trong các câu thành 
ngữ, tục ngữ trong tiếng Anh minh chứng là trong 1734 câu thành ngữ và tục 
ngữ của tiếng Anh ma chúng tôi khảo sát chỉ có 19 lần hình ảnh con lợn được 
nhắc đến. Nhìn chung trong 19 lần xuất hiện hình ảnh con lợn hầu hết đều mang 
những sắc thái “tiêu cực”. Trong những thành ngữ tục ngữ này, con lợn được đề 
72 
cập đến như là một con vật bẩn thỉu, ham ăn, và ngu ngốc, và thậm chí là hình 
ảnh của sự thiếu may mắn trong đời sống: 
1. As stupid as pig 
Ngu như lợn 
2. When pigs fly 
Chó có váy lĩnh (điều không thể xảy ra) 
3. As drunk as a sow 
 S 
4. A pig of a job 
5. A pig of a day 
6. Bring one's pigs to a fine market 
Làm ăn thất bại 
7. To buy a pig in a poke 
8. Make a pig of oneself 
Ăn như lợn 
9. Please the pigs 
 L 
10. Pig in the middle 
11. Hog in armour 
12. Real swines 
T 
13. You filthy swine! 
73 
14. Pig together 
bẩn như lợn 
15. Fat As A Pig 
Béo như lợn 
16. To pig out 
Ăn như lợn 
17. To sweat like a pig 
Ra mồ hôi như lợn 
18. You can't make a silk purse from a sow's ear 
Không thể làm một ví tiền mềm từ tai lợn nái 
19. You can't put lipstick on a pig. 
Tô son cho lợn (việc làm phi nghĩa) 
Hình ảnh con lợn trong tranh dân gian của người Anh 
Vậy lý do tại sao một con vật có giá trị kinh tế lại được nhìn nhận không 
mấy thiện cảm, trong nhiều trường hợp là cực đoan miệt thị. Theo Professor 
Bamfield's Rare[7] Con lợn được người dân ở phía bắc Ấn Độ và người dân ở 
Trung Quốc thuần hóa vào khoảng 1500 năm trước công nguyên. Con vật nuôi 
này chỉ xuất hiện ở nước Anh khoảng 800 năm trước công nguyên. Vốn là dân 
cư du mục vật nuôi chủ yếu của họ là những con vật ăn cỏ như bò, ngựa, cừu. 
Giống lợn ăn khỏe vì thế không được lựa chọn làm con vật nuôi đối với đời 
74 
sống nay đây mai đó. Điều này đã lý giải tại sao trong các hình ảnh về con vật 
này trong các thành ngữ tục ngữ tiếng anh ý nghĩa: “ kém giá trị, tham ăn” lại 
được thể hiện rõ nét như vậy (6/19 trường hợp). So với con chó và một số vật 
nuôi khác như bò, ngựa, cừu.. thì trí thông minh của lợn kém hơn rất nhiều vì 
thế ý nghĩa ngu muội, đần độn cũng có cơ hội phát triển ( 2/19 trường hợp). 
Nhưng nổi bật hơn cả là ấn tượng về sự bẩn thỉu kém may mắn của loài vật 
này(9/19 trường hợp). Ngư dân ở đông bắc nước Anh xem lợn như là con vật 
báo hiệu vận xui. Vì thế khi đi thuyền mà nhìn thấy lợn anh ta lập tức quay về 
nhà, thậm chí điều này còn được mở rộng ra bằng một lệnh cấm sự xuất hiện 
của loài vật này trên những con thuyền lớn. “Fisherman in North East England 
regarded pigs as harbingers of bad luck. Pigs would not be carried on boats: a 
fisherman seeing a pig on his way to work would turn round and go home. This 
even extended to a prohibition of the word "pig" on board a vessel.”[ 7]. 
Với người Việt lợn là loài vật nuôi quen thuộc, gần gũi, vừa hiền lành, 
hữu ích, vừa ngộ nghĩnh, vui nhộn. Chẳng thế mà việc chăm nuôi con vật này 
được đưa ra như một tiêu chí để đánh giá con người trong xã hội Việt Nam xưa. 
Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhác (lười) 
Đàn ông không biết buộc lạt là đàn ông hư. 
Không chỉ gần gũi gắn bó mà lợn còn là loại vật nuôi mang lại giá trị 
kinh tế cao đối với những cư dân nông nghiệp nơi tính định cư, ổn rất cao,. 
Hình ảnh con lợn vì thế xuất hiện như một thứ tài sản có giá trị và dễ trao đổi, 
luôn có mặt mọi nơi mọi lúc, đặc biệt trong những dịp quan trọng của làng, của 
xã của mỗi con người: 
Cưới em một thúng xôi vò 
Một con lợn (heo) béo, một vò rượu tăm. 
(ca dao) 
U sinh con trai mà chi 
75 
Đầu gà má lợn (heo) mang đi nhà người 
(ca dao) 
Mẹ em tham thúng xôi rền 
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh hưng 
(ca dao) 
Hình ảnh con lợn trong tranh Đông Hồ 
Chính sự gắn bó, quen thuộc và hữu ích với đời sống của người Việt cho 
nên hình tượng lợn được lấy làm ảnh ẩn dụ sinh động cho nhiều câu thành ngữ, 
tục ngữ của người Việt Nam. Khác với hình tượng con chó, hình ảnh con lợn 
xuất trong thành ngữ tục ngữ Việt Nam với nhiều cung bậc ý nghĩa khác nhau: 
1. Cá cả, lợn lớn 
2. Giành con cá phải vạ con heo 
3. Lợn cưới, áo mới: 
4. Lợn đói một bữa bằng người đói cả năm 
5. Nuôi heo lấy mỡ nuôi đứa ở đỡ chân tay 
6. Muốn giàu, nuôi heo nái-muốn lụn bại, nuôi bồ câu 
7. Lợn bột thì ăn thịt ngon, lợn nái thì đẻ lợn con cũng lời 
8. Thủ thỉ ăn thủ lợn 
76 
9. Lợn nhà, gà chợ 
10. Lợn rọ, chó thui 
11. Lợn thả, gà nhốt 
12. Lợn giò, bò bắp 
13. Lợn đầu, cau cuối 
14. Con heo kén ăn khó nuôi 
15. Con lợn có béo cỗ lòng mới ngon 
16. Cám treo heo nhịn đói 
17. Lợn ăn xong lợn nằm, lợn béo. Lợn ăn xong lợn réo, lợn gầy: 
18. Lợn nước mạ, cá nước rươi 
19. Lợn chê chó có bọ 
20. Mắt như mắt lợn luộc 
21. Ngu như lợn 
22. Rao mật gấu bán mật heo 
23. Voi đú, chó đú, lợn sề cũng hộc 
24. Cưới vợ không cheo mười heo cũng mất 
25. Giỗ chưa làm heo còn đó 
26. Mổ lợn đòi bèo, mổ mèo đòi mỡ 
27. Vì đầu heo, gánh gốc chuối 
28. Heo chết không sợ nước sôi 
29. Lấc láo như quạ vào chuồng lợn 
30. Lợn lành (chữa) thành lợn què 
31. Lợn trong chuồng thả ra mà đuổi 
77 
32. Một trăm con lợn cũng chung một lòng 
33. Mượn đầu heo nấu cháo 
34. Đầu gà má lợn 
35. Nói toạc móng heo 
36. Tránh được con lợn cỏ, lại gặp con gấu chó 
Trước hết nói trong tiếng Việt có hai tên gọi khác nhau để chỉ loài vật 
này. Cùng là con vật ấy nhưng người miền Bắc gọi là con lợn, còn người miền 
Nam lại gọi là heo. Không biết từ bao giờ mà hai miền có hai tên gọi khác nhau 
như vậy để chỉ một con vật, chỉ biết rằng từ thế kỷ XVII, Alexandre de Rhodes 
trong Từ điển Việt -Bồ - La (1651) của mình đã viết về sự khác nhau của cách 
gọi tên này: “Heo, con heo: con heo. Tốt hơn, con lợn. Lợn: con lợn, con heo. 
Cùng một nghĩa”. 
Tuy nhiên cũng có sự phân biệt về ý nghĩa trong hai cách gọi này. Chẳng 
hạn chúng ta chỉ có thể nói “nói toạc móng heo” mà khó có thể nói là “nói toạc 
móng lợn”. Cách phân biệt từ heo là cách nói của người miền Nam còn lợn là 
của người miền Bắc cũng đã ngày càng ít cơ sở vì xu thế đó đang dẫn bị xóa 
nhòa. Và vì vậy sự khác biệt dần dần chỉ còn ở ý nghĩa phân biệt giữa “lợn” với 
những nét nghĩa của một loài vật, sự vật cụ thể với “heo” mang ý nghĩa ẩn dụ 
hình tượng hóa. Điều này cũng xảy ra với những từ có cùng hoàn cảnh như vậy, 
ví dụ: Quả /trái (đã dần có những nét nghĩa chuyên biệt hình tượng hóa trong 
trái tim, trái đất, trái bóng với ý nghĩa (cấu tạo)vật chất thông thường của quả 
đất, quả tim, quả bóng...vì thế khi nói “yêu bằng cả trái tim” thì mới hàm chứa 
những ý nghĩa tốt đẹp, cao quy; còn “yêu bằng cả quả tim” thì ý nghĩa đó là 
không còn tồn tại) 
Tuy vậy, dù là heo hay lợn, con vật đó trong tâm thức người Việt vẫn 
luôn tượng trưng cho sự sung túc, no ấm và an nhàn. Chả thế mà người ta có 
câu:”Tuổi Hợi nằm đợi mà ăn”. Với quan niệm như vậy, tranh dân gian Đông 
78 
Hồ, Kim Hoàng đều vẽ con heo trong tranh Tết, coi đó là con vật mang lại may 
mắn trong năm. Không chỉ có trong tranh, con heo còn xuất hiện trong các 
chạm khắc dân gian của người Việt như điêu khắc đình làng và các tượng heo 
hay một vật rất thông dụng là con heo đất. Người ta chọn con heo đất để giữ 
tiền tiết kiệm cho mình, vì thế con heo hẳn phải là loài vật được kỳ vọng rất lớn 
cho sự phát triển kinh tế của gia đình. Trong số 35 câu thành ngữ tục ngữ có 
hình ảnh con lợn mà chúng tôi sưu tập thì có tới 9 câu biểu thị rõ nét sắc thái 
này. Điều này phần nào phản ánh vai trò và tầm ảnh hưởng của con vật nuôi này 
đối với đời sống, cách suy nghĩ của người Việt. 
Tuy nhiên, cũng giống như nhiều dân tộc khác người Việt cũng nhận thấy 
đây là loài vật phàm ăn và có phần ngu muội. Nét đặc trưng này cũng được 
phản ánh khá đầy đủ trong kho vốn thành ngữ tục ngữ của người Việt. Câu nói 
“bị thịt, ăn cám” đã chỉ hàm chứa sắc thái chế diễu đặc tính rất nổi bật của loài 
vật nuôi này. 
Song có thể nói người Việt nhìn nhận hình ảnh con lợn rất khác với cách 
nhìn nhận về con vật này của người Anh. Với người Anh đó là sự tuyệt đối hóa 
những đánh giá không tốt về loài vật này, thì người Việt, trái lại, lại có cách 
nhìn nhận rất tích cực về loại này. Trong 35 thành ngữ tục ngữ mà chúng tôi 
sưu tập thì chỉ có 5 thành ngữ bộc lộ rõ nét sắc thái chê bai còn lại đều phản ánh 
sắc thái tích cực trong cách nhìn nhận đánh giá vai trò cũng như ý nghĩa của 
loài vật này. Chiếm số lượng đông đảo nhất trong số này là những ý nghĩa liên 
quan đến kinh nghiệm nuôi dưỡng loài vật này và những sắc thái biểu đạt mà 
hình tượng của loài vật nuôi này mang lại. 
1.2.2 Hình tƣợng con gà trong thành ngữ tục ngữ của ngƣời Việt (có so 
sánh với tiếng Anh) và ý nghĩa văn hóa khi tìm hiếu những thành ngữ tục 
ngữ này 
79 
Cùng với chó, lợn gà cũng là một loài vật nuôi gắn bó với con người từ 
rất sớm khoảng 4000 năm trước đây [ 6]. Tuy nhiên cũng như con lợn, con gà 
cũng có rất ít ảnh hưởng trong đời sống xã hội của người Anh vì thế sự phản 
ánh của loài vật này vào trong ngôn ngữ cũng rất hạn chế: 
1. A cock and bull story 
Chuyện con cà con kê 
2. As mad as a wet hen 
3. as pround as a cock on his own dunghill 
Dương dương tự đắc. 
Chó cậy gần nhà gà cậy gần chuồng 
4. As scarce as hen's teeth 
Câm như gà 
5. be no spring chicken (humorous) 
Trâu quá xá mạ quá thì 
6. chicken feed 
chuyện nhỏ 
7. chicken out 
 gạt bỏ 
8. Chicken out on someone 
loại khỏi cuộc chơi 
9. Chicken shit 
Gà mặc váy 
10. chickens come home to roost 
thất bại thảm hại 
11. Cock in the henhouse 
80 
Chó cậy nhà, gà cậy gần chuồng 
12. count one's chickens before they hatch 
13. Don't count your chickens (before they're hatched). 
Chưa đẻ đã đặt tên 
14. Go off at half cock 
15. go to bed with the chickens 
16. Have a chicken to pick with someone 
17. If it ain't chickens, it's feathers. 
18. like a headless chicken 
19. no spring chicken 
20. Play chicken 
21. Proud as a peacock 
22. run around like a chicken with its head cut off and run (around) in circles 
23. that cock won't fight 
24. The cock of the walk 
25. To behave like a hen mother 
26. To cock a snook 
27. To live like fighting cocks 
Trong hai công trình nghiên cứu quan trọng công bố trên Tập san Viện 
hàn lâm khoa học quốc gia Mỹ (11-12), một nhóm khoa học gia Nhật so sánh 
cấu trúc di truyền của 21 giống gà nuôi thuộc gia đình Gallus gallus từ Thái 
Lan, Nam Dương, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật, Sri Lanka, v.v..., và phát hiện 
rằng giống gà ở Thái Lan có hệ số phong phú di truyền cao nhất, tức là giống gà 
ở đây có độ tuổi di truyền cao nhất. So sánh DNA gà Đông Nam Á và DNA các 
81 
giống gà khác trên thế giới, các nhà nghiên cứu Nhật đi đến kết luận rằng tất cả 
các giống gà nuôi trên thế giới ngày nay xuất phát từ một giống gà từng sống 
(hay được thuần dưỡng) tại một vùng đất mà ngày nay thuộc Thái Lan và Việt 
Nam. Họ còn ước tính rằng thời điểm thuần hóa gà rừng tại Đông Nam Á bắt 
đầu vào khoảng 8.000 năm về trước. Tại Đồng Đậu, các nhà khảo cổ học Việt 
Nam phát hiện 2 tượng gà nặn bằng đất nung. Như vậy, có thể nói gà đã được 
con người thuần dưỡng ít nhất là 8.000 năm trước đây tại những vùng đất thuộc 
Việt Nam ngày nayGà là một loai gia cầm thuộc nền văn minh nông nghiệp. Có 
nhiều bằng chứng cho thấy quê hương nguyên thủy của cây lúa nước là ở chung 
quanh vùng Đông Dương - Mã Lai - Miến Điện (chứ không phải Trung Quốc, 
nơi mà bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm về trước, 
thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử). Văn minh Hòa Bình là 
nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới, khoảng 15.000 năm trước 
công lịch. Vài ngàn năm trước Công nguyên, cư dân Đông Nam Á đã đưa cây 
lúa đến vùng Đông Á và Tây Á, những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng 
lúa mạch. Nhận xét này cũng hợp lý bởi vì với khí hậu nhiệt đới Đông Nam Á 
là môi trường thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp. 
Với Người Việt Nam con gà là vật nuôi gần gũi và quen thuộc, có lẽ vi 
vậy mà hình tượng con gà thường xuyên được thể hiện trong thành ngữ và tục 
ngữ của người Việt. Chúng tôi đã thống kê sơ bộ được 40 cấu trúc như vậy: 
1. Bán gà ngày gió, bán chó ngày mưa: 
2. Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng 
3. Chó già, gà non. 
4. Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa. 
5. Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà mái ghẹ 
6. Cơm gà, cá gỏi 
82 
7. Con gà tốt mã vì lông 
8. Con gà tức nhau tiếng gáy 
9. Đá gà, đá vịt 
10. Đầu gà còn hơn đuôi phượng 
11. Đầu gà, má lợn 
12. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau 
13. Gà mái gáy gở (không biết gáy) 
14. Gà nhà lại bới bếp nhà 
15. Gà què ăn quẩn cối xay 
16. Hạc lập kê quần (con hạc giữa bầy gà) 
17. Học như gà đá vách 
18. Hóc xương gà, sa cành khế 
19. Lép bép như gà mổ tép 
20. Lờ đờ như gà ban hôm 
21. Lúng túng như gà mắc tóc 
22. Mẹ gà, con vịt 
23. Mèo gả, gà đồng 
24. Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa 
25. Một tiền gà, ba tiền thóc 
26. Ngủ gà, ngủ vịt 
27. Ngun ngủn như gà cụt đuôi 
28. Nháo nhác như gà lạc mẹ 
29. Nhìn gà hoá cuốc 
83 
30. Phù thuỷ đền gà 
31. Quạ theo gà con 
32. Ráng mỡ gà, có nhà thì chống 
33. Thóc đâu mà đãi gà rừng 
34. Tiếc con gà quạ tha 
35. Tiền trao ra, gà bắt lấy 
36. Trấu trong nhà để gà ai bới 
37. Trói gà không chặt 
38. Vạ vịt chưa qua, vạ gà đã đến 
39. Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm 
40. Vịt già, gà to 
Trước hết trong những câu thành ngữ tục ngữ này hình ảnh con gà được 
nhắc đến như là những vật nuôi cho sản phẩm có chất lượng cao. Nó là thứ thực 
phẩm quý được ưu tiên sử dụng trong những dịp đặc biệt. Bên cạnh đó hình ảnh 
xuất phát từ những đặc tính sinh hoạt cũng từ những thói hư, tật xấu đặc điểm 
tính nết cái hay cái dở của loài vật này cũng được nhắc nhiều lần trong các các 
câu thành ngữ tục ngữ của người Việt. Điều đó chứng tỏ phải có mối quan hệ 
gần gũi và mật thiết giữ người chủ với vật nuôi của mình thì mới có sự am hiểu 
cặn kẽ đến vậy. 
3. Tiểu kết 
Như vậy ở chương này chúng tôi đã tiếp tục tiến hành khảo sát một số nét 
đặc trưng văn hóa dân tộc được thể hiện qua một số thành ngữ, tục ngữ sử dụng 
hình tượng một số vật nuôi tiêu biểu của Người Việt trên cơ sở đối chiếu hình 
ảnh của những loài vật này trong những đơn vị tương tự của tiếng Anh. Tuy 
84 
nhiên, việc đối chiếu và tìm hiểu này mới chỉ dừng lại ở 3 loài vật nuôi tiêu biêu 
đó là chó, lợn và gà mà chưa có điều kiện mở rộng ra ở một số vật nuôi khác. 
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy sự tương quan và mối liên hệ mật thiết 
giữa văn hóa và ngôn ngữ. Trong phạm vi này là sự tương quan chặt chẽ giữa 
cách nhìn nhận, đánh giá, sự quan tâm, tầm ảnh hưởng ... của những con vật 
nuôi ngoài đời sống với sự phản ánh của chúng qua lăng kính ngôn từ. Thông 
qua so sánh chúng tôi đã nhận ra sự khác biệt trong lối sống, cách thức tổ 
chức... của người Việt và người Anh. Sự khác biệt này hoàn toàn trùng khớp với 
những khác biệt trong tiếng Việt và tiếng Anh. Điều đó đã cho phép chúng tôi 
có thêm luận cứ để khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối với việc tìm hiểu các 
đặc trưng văn hóa dân tộc. Mà trong trường hợp này là việc tìm hiểu các đặc 
trưng văn hóa dân tộc của người Việt thông qua tiếng Việt. 
85 
KẾT LUẬN 
Trên đây chúng tôi đã trình bày tổng quát về những đặc trưng văn hóa dân 
tộc của người Việt và việc tìm hiểu các đặc trưng văn hóa này từ góc độ ngôn 
ngữ. Nhận thấy vai trò đặc biệt của nhóm đại từ xưng hô trong tiếng Việt và 
nhóm các thành ngữ tục ngữ có sử dụng hình tượng những vật nuôi thông dụng. 
chúng tôi đã tiến hành khảo sát những nét đặc thù về văn hóa được phản ảnh 
qua hai nhóm đối tượng này. 
Trong quá trình khảo sát chúng tôi đã lựa chọn tiếng Anh làm đối tượng để 
so sánh đối chiếu. Việc lựa chọn này là xuất phát từ cơ sở lý luận chung mà ở 
chương 1 chúng tôi đã có cơ hội đề cập. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa 
đang diễn ra ngày một mạnh mẽ và cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học 
kỹ thuật thì việc chỉ ra những nét hoàn toàn đặc thù của nền văn hóa này so với 
nền văn hóa khác là rất khó khăn. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn hai nền văn hóa 
cục bộ để đối chiếu. Chính sự khác biệt rất lớn giữa hai nền văn hóa Việt –Anh 
đã tạo tiền đề để chỉ ra những nét khác biệt trong văn hóa, nhận thức của hai 
dân tộc. Qua khảo sát chung tôi đã rút ra được một số kết luận sơ bộ sau đây: 
1. Về lý thuyết 
- Giữa ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ gần gũi gắn bó. Ngôn ngữ 
trở thành vỏ bọc để truyền tải nội dung, các giá trị văn hóa tư tưởng. 
Tuy nhiên các giá trị văn hóa được phân bố không đều vì thế phải có 
sự lựa chọn, cân nhắc thấu đáo. 
- Nhóm đại từ xưng hô của tiếng Việt có khối lượng đồ sộ và phong 
phú hơn bất cứ một ngôn ngữ nào khác. Vì thế việc xem xét những 
khía cạnh tâm lý dân tộc ảnh hưởng đến việc lựa chọn phát triển của 
nhóm từ này là rất cần thiết. 
- Giữa ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ gắn bó mật thiết. Do vậy 
chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của 
86 
người Việt thông qua hệ thống ngôn từ, lời ăn tiếng nói của người 
Việt. Lăng kính ngôn ngữ sẽ cho chúng ta hình ảnh về đới sống văn 
hóa tình thần, về hoạt động xã hội, tổ chức cộng đồng, cách ứng xử 
với môi trường tự nhiên... 
2. Về thực tiễn 
- Xưng hô là một trong những khía cạnh tế nhị và phức tạp không 
chỉ khó đối với những người mới học và làm quen với tiếng Việt mà còn 
khó ngay cả với chính người bản ngữ. Trường học là môi trường giao tiếp 
có tính đặc thù nghề nghiệp. Trong xu hướng hội nhập môi trường này ở 
Việt Nam không chỉ chứa đựng những đặc trưng văn hóa giáo dục đã tồn 
tại hàng ngàn năm mà còn đang dung nạp những xu hướng mới của giáo 
dục phương Tây, nơi có cách nhìn nhận về văn hóa con người, cách tiếp 
cận khác với những gì đã tồn tại lâu nay ở Việt Nam. Cách xưng hô Thầy 
– Trò theo truyền thống vì vậy, cũng đã dần có sự thay đổi theo hướng đa 
dạng và phong phú hơn. Tuy nhiên chúng ta cũng cần nhìn nhận một cách 
khách quan vì bên cạnh những ý nghĩa tích cực của việc gia đình hóa các 
quan hệ xã trong nhà trường theo truyền thống, chúng cũng đã bộc lộ 
những hạn chế nhiều khi là rào cản cho công việc dạy và học. Điều này 
càng tỏ ra có cơ sở khi chúng ta xuất phát từ việc lấy người học làm trung 
tâm. Việc nhiều giảng viên lựa chọn cách xưng hô Thầy – Em trong lớp 
học nhiều khi không hẳn đã là một chọn hay. Trong nhiều trường hợp làm 
mất đi tính chủ động và tích cực của người học khi mà ngay từ đầu trong 
xác định vai xưng hô họ đã chịu áp lực thứ bậc từ chính cách xưng hô đó. 
Thay vì cách xưng hô đó nhiều giảng viên đã lựa chọn cách xưng Tôi –
Bạn(các bạn) thậm chí cách xưng Mình- Bạn (Các bạn) theo những cặp 
đại từ xưng hô theo quan hệ ngang mà chúng ta đã xét. 
Việc lựa chọn sự thay đổi tín hiệu giao tiếp từ phía người dạy theo 
chúng tôi là cách làm hay và đúng phù hợp với sự phát triển của văn hóa 
87 
xã hội vừa thể hiện tính truyền thống vừa có sự phù hợp với lối sống hiện 
đại. 
Nhìn từ góc độ người học chúng ta nên giữ cách xưng hô Thầy- 
Em. Vì mục đích của người học là thu nhận kiến thức, kinh nghiệm từ 
người thầy cho nên trong giao tiếp phải thể hiện được sự cầu thị, hiếu hòa 
đối với người chỉ đường dẫn lối và quan trọng hơn là nhận ra mình ở vị 
thế thấp hơn trong mức độ kiến thức kinh nghiệm ở một địa hạt nào đó. 
Có như vậy thì việc học mới diễn ra. Cách lựa chọn này không chỉ phù 
hợp với truyền thống văn hóa mà còn phù hợp với mục đích của người 
học trong xã hội hiện đại. 
Theo chúng tôi cốt lõi của sự thay đổi trong xưng hô ở đây phải 
xuất phát từ văn hóa và coi trọng tính mục, trong đó cách lựa chọn sự 
thay đổi vai giao tiếp sao cho phù hợp mục đích mà không xa rời truyền 
thống dân tộc là điều quan trọng nhất. Vì vậy, việc thay đổi trong cách 
xưng hô của người dạy lúc này là phù hợp và thiết thực. 
Trong đời sống sinh hoạt hằng ngày viêc lựa chọn hình thức xưng 
hô cũng rất quan trong. Trong tiếp xúc văn hóa thì lớp người trẻ luôn là 
những người đi đầu và thích ứng nhanh nhất. Xét từ góc độ ngôn ngữ - 
văn hóa. Những tác động từ sự thay đổi đó là rất lớn. Bên cạnh những lợi 
ích của quá trình này mang lại chúng ta thấy có nhiều vấn đề cần có sự 
điều chỉnh định hướng. Nhìn từ góc độ Xưng – Hô, Sự định hướng đó 
không chỉ hướng đến việc phù hợp, năng động và thuận tiên đối với giới 
trẻ mà phải xuất phát từ những nét đẹp của truyền thống. Do vậy những 
cách xưng hô, đi ngược lại với truyền thống văn hóa lịch sử thì phải có sự 
cân nhắc loại bỏ ngược lại cách xưng hô thể hiện sự dung nạp thích nghi 
trong giao thoa văn hóa thì cần được phát huy, tạo điều kiện. 
88 
Thành ngữ, tục ngữ là những yếu tố quan trọng trong kết cấu của 
một ngôn ngữ. Nó không chỉ là những đơn vị có tính hình tượng mà còn 
chứa đựng ở mức cao các giá trị ước lệ gắn với đời sống truyền thống văn 
hóa của mỗi dân tộc. Vì vậy để hiểu được các đơn vị này là một điều 
không đơn giản đối với không chỉ người nước ngoài mà còn đối với cả 
những người bản ngữ. Việc học ngoại ngữ sẽ hiệu quả và dễ dàng hơn 
nếu như chúng ta đặt chúng trong bức tranh chung về văn hóa dân tộc. 
Ngược lại chính khi ta đi tìm hiểu về ngôn ngữ của một dân tộc nó sẽ đưa 
ta đến gần hơn đời sống văn hóa của dân tộc đó. 
Vốn là cư dân nông nghiệp, người Việt sống quần tụ thành xóm, 
thành làng, tính cộng đồng..., vì thế được thể hiện đậm nét trọng những 
hình tượng, giá trị biểu trưng, nó đã ăn sâu vào tâm thức mỗi người Việt 
và lưu truyền trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Việt. Việc tìm 
hiểu và phát huy những giá trị đó qua ngôn từ cũng chính là đã góp phần 
giữ gìn và phát huy những nét đẹp của văn hóa dân tộc của người Việt 
Nam. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
13.NCKh_HoangAnhTuan.pdf