Đề tài Đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng tại phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở kế haọch và đầu tư tỉnh Bắc Giang

2. Khi nhận thông báo, phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh phải trao giấy biên nhận và xác định ngày ghi đăng ký bổ sung, thay đổi ngành nghề kinh doanh vào bản chính giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận thông báo. Sau thời hạn 7 ngày nói trên mà doanh nghiệp không được đăng ký bổ sung, thay đổi ngành nghề kinh doanh, thì doanh nghiệp vẫn có quyền kinh doanh ngành nghề đó. Trừ trường hợp ngành nghề đăng ký bổ

doc84 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng tại phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở kế haọch và đầu tư tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là ưu thế DNN & V: Nhạy cảm, dễ thích nghi với sự thay đổi của cơ chế thị trường, dễ dàng có thể thay đổi mặt hàng, thay đổi công nghệ, thiết bị kỹ thuật, quản lý đơn giản, nhu cầu về vốn không cần nhiều. 2. Thực trạng DNN & V ở Bắc Giang: 2.1. Thực trạng về quy mô. Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, thời gian qua DNN & V ở Việt Nam nói chung, ở Bắc Giang nói riêng đã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, có đóng góp đáng kể voà tăng trưởng kinh tế, giải quyết những vấn đề xã hội. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất kinh doanh của DNN & V còn gặp nhiều hạn chế, và không ít khó khăn, vướng mắc. Các doanh nghiệp được thành lập hiện nay do sắp xếp tịa doanh nghiệp Nhà nước, thành lập mới theo các luật được ban hành như: Luật doanh nghiệp tư nhân (1990), luật công ty (1990), luật phá sản doanh nghiệp (1993), luật đất đai (1993), luật khuyến khích đầu tư trong nước (1995), luật HTX (1996), luật Thương mại (1997) đặc biệt là gần đây luật doanh nghiệp ban hành bằng việc sửa đổi và hợp nhất luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty, ngày 1/1/2000 luật doanh nghiệp được ra đời đã có tác động mạnh mẽ đến sự đời các loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp tư nhân (DNTN), công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH), công ty cổ phần (CTCP), hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp có vốn đầu rư nước ngoài. Theo tiêu chí phân loại DNN & V ở nước ta, những doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng, số lao động dưới 300 lao động, đến 30 /6/2001 tổng số DNN & V trong toàn tỉnh được thể hiện ở bảng sau: (Nguồn theo phòng ĐKKD - Sở kế hoạch và đâu tư và LGTK - 2000) Loại hình DN Đơn vị tính Toàn bộ trên địa bàn tỉnh Chia theo ngành nghề CN xây dựng TM dịch vụ Ngành khác Tỷ lệ % DNV & N Tổng số 21.501 10.047 11.391 58 98,13 - DNNN: DN 78 22 13 38 84,52 + TW DN 33 7 3 23 82 + Đ. phương DN 45 15 10 15 99,04 - HTX HTX 198 69 109 20 100 - DNTN DN 24 10 14 0 100 - CT cổ phần DN 13 10 3 - 100 - CTT NHH DN 95 40 55 - 100 - DN có VĐ tư NN DN 3 2 1 - 100 - Hộ ĐKKD cá thể Hộ 21.090 9.894 11.196 - 100 Ngoài ra còn có hơn 2000 trang trại được phân bố tập trung ở các huyện miền núi. DNN & V ở Bắc Giang có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế, chủ yếu tập trung 3 lĩnh vực: Thương mại dịch vụ: 52%, công nghiệp và xây dựng 46,7%, ngành khác: 2,3%. Riêng lĩnh vực công nghiệp có 70% DNN & V tham gia ngành chế biến nông, lâm sản. Sự phân bố DNN & V phân bố không đều chỉ tập trung vào thị xã Bắc Giang 70%, còn lại 30% ở các huyện, thị trấn, thị tứ (chưa kể hộ ĐKKD cá thể). Về quy mô, vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp là: 1,3 tỷ đồng, số lao động bình quân là:L 52 lao động / doanh nghiệp. Trong đó: DNN vốn bình quana 3.187 triệu đồng/ 1 doanh nghiệp, CT TNHH vốn bình quân 902 triệu đồng / 1 nd, CTCP vốn bình quân 1.516 triệu đồng /1 doanh nghiệp. DNTN vốn bình quân 356 triệu đồng /1 doanh nghiệp, HXT vốn bình quân 593 triệu đồng /1 doanh nghiệp. Cụ thể được đánh giá ở bảng 2 (nguồn được tính toán từ Phòng ĐKKD - Sở kế hoạch và đầu tư). Bảng : Phần loại vốn, lao động và doanh thu của doanh nghiệp ở Bắc Giang. 1. Đánh giá về vốn DNNN TNHH CTCP DNTN + Vốn > 10 tỷ đ 7 0 0 0 + Vốn 5-10 tỷ đ 8 1 0 0 + Vốn 1 -5 tỷ đ 28 40 6 3 + Vốn 500 tr - 1 tỷ 4 33 5 2 + Vốn < 500 tr 6 26 0 15 + Vốn < 100 tr 0 0 0 2 2. Về lao động + Số DN có lao động > 300 19 0 0 0 + Số DN có lao động 100 - 300 12 5 2 0 + Số DN có L. động 50 -100 12 5 7 10 + Số doanh nghiệp có L.động < 50 10 55 4 15 + Số doanh nghiệp có L. động 10 -50 0 39 0 7 3. Về doanh thu + Loại đạt: 100 - 500 tỷ. đ 6 3 0 0 + Loại đạt: 50 - 100 tỷ. đ 2 1 0 1 + Loại đạt: 20 - 50 tỷ. đ 9 2 2 0 + Loại đạt: 10 - 20 tỷ.đ 8 2 2 1 + Loại đạt: 5 < = 10 tỷ.đ 14 49 5 3 + Loại đạt: < = 1 tỷ.đ 14 42 2 17 2.2. Những mặt hạn chế và khó khăn DNN & V ở Bắc Giang khó khăn vê nhiều mặt, trong đó tập trung vào các mặt sau: a. Thiếu vốn: DNN & V gặp khó khăn nhiều về vốn để đầu tư sản xuất và mở rộng sản xuất, những mức độ thiếu vốn không giống nhau: Thị trường cung ứng vốn cho DNN & V chủ yếu là thị trường tài chính phi chính thức, nhất là DNDD, chủ doanh nghiệp thường phải vay vốn với lãi suấ cao, vóon vay của thân nhân bạn bè, ít được tiếp xúc với nguồn vốn tín dụng chính thức của hệ thống ngân hàng. Theo kết quả điều tra của Phòng ĐKKD cùng với Viện Quản lý kinh tế TW của 100 doanh nghiệp ở thịi xã Bắc Giang thì có 80% số doanh nghiệp được trả lời có nhu cầu về vốn, khó khăn về vốn trong đó: - 80% DNTN, 85% CTTNHH, 78% CTCP, 67% hộ đăng ký kinh doanh theo nghị định 66/HĐBT cần vay vốn để phát triển sản xuất - kinh doanh. Tình trạng thiếu vốn của DNN & V có nhiều nguyên nhân, trong đó đang chú ý: Hệ thống tín dụng ngân hàng chưa quan tâm đến đối tượng này vì nguồn vốn được phân tán, chi phí cho vay lớn, rủi ro cao, khó đòi nợ. - Nhiều DNN & V không có khả năng đáp ứng đòi hỏi của ngân hàng về thủ tục lập dự án, thủ tục thế chấp, điều kiện lãi suất. - Một số chủ DNN & V không muốn vay ngân hàng vì khó trốn lậu thuế do vậy thường vay tư nhân. - Trình độ KD yếu, rủi ro lớn nên khó tích tụ vốn, khó trả nợ ngân hàng. b. Trình độ trang thiết bị và công nghệ yếu. Trình độ trang thiế bị, máy móc và công nghệ của DNN & V Bắc Giang nằm trong tình trạng chung vê trình độ kỹ thuật và công nghệ của các doanh nghiệp cả nước, nói chung là yêu kém, lạc hậu, tỷ lệ đổi mới trang thiết bị rất thấp. Theo điều tra tại Bắc Giang hiện nay cho thấy: (chỉ tính riêng doanh nghiệp không xét hộ ĐKKD). - Thiết bị có trình độ tiên tiến 1,5%, thiết bị có trình độ trung bình 30%, thiết bị có trình độ lạc hậu 68,5%. Nhiều DNN & V sử dụng thiết bị thải lại của các DNNN, thiết bị chế độ tạo trong nước hoặc thiết bị chế tạo có trình độ thiết kế gia công thấp (dây chuyền sản xuất cơ khí của HTX cơ khí Lạng Giang, dây truyền nấu bi của xí nghiệp bi Tân Thịnh) các thiết bị ở các DNN & V hầu như có tiếng ồn lớn, chất lượng sản phẩm kém, chất thải lỏng, khí độc không được xử lý tác động môi trường nên thường ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động và dân cư xung quanh doanh nghiệp, mặt khác người lao động trong các doanh nghiệp này hầu như không được trang thiết bị an toàn lao động, chống độc hại do vậy tai nạn lao động sảy ra cao. c. Trình độ tay nghề của lao động và đội ngũ quản lý thấp. Lao động trong các DNN & V chủ yếu là lao động phổ thông ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Số liệu điều tra gần đây của Phòng ĐKKD cho thấy chỉ có 3% lao động khối DNDD có trình độ đại học, trong đó chỉ tập trung vào các CTTNHH, CTCP. Phần lớn các DNN & V mới được thành lập hầu như chưa được đào tạo. Trong số 40% số người làm chủ DNDD là đã từng làm cán bộ công chức Nhà nước, trên 45% số chủ DNDD có độ tuổi lớn hơn 40. Có tới 60% không có bằng cấp chuyên môn, 30% số chủ doanh nghiệp có trình độ trung cấp trở lên. Đội ngũ quản lý DNN & V là trình độ quản lý kinh doanh yếu, thiếu cơ bản những vấn đề về lý thuyết quản trị kinh doanh và rất lúng túng trong biến động thị trường. d. Thị trường eo hẹp và khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá thấp. Bắc Giang với dân số 1,5 triệu người trong đó 90% dân ở nông thôn đang có nhu cầu về khối lượng hàng hoá và dịch vụ đây là điều kiện thuận lợi đối với thị trường DNN & V. Tuy nhiên thị trường cho DNN & V đang bị thu hẹp lại do sức mua của người nông dân quá thấp, hàng hoá nhập hậu qua biên giới không kiểm soát đưẹc đang tác động đến thị trường của sản phẩm DNN & V. Khả năng cạnh tranh của khối DNN & V rất yếu do công nghệ lạc hậu, trình độ tay nghề người lao động và trình độ quản lý, quản trị kinh doanh yếu, khả năng tiêu thụ hàng hoá khó, xuất khẩu lại càng khó. Hiện nay Bắc Giang chỉ có 10% số DNN & V có ưu thế trong cạnh tranh, còn lại 65% số DNN & V khó khăn về thị trường chính vì thế đầu tư kinh doanh vào công nghiệp có xu hướng giảm dần hướng chuyển mạnh sang lĩnh vực buôn bán, dịch vụ. e. Hiệu quả kinh doanh thấp, tốc độ tăng trưởng không cao: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNN & V so với DNNn rât thấp. Theo thống kê đầu năm 2001 của Phòng ĐKKD thì hoạt động SXKD của 100 DNDD hiệu quả còn thấp, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5,5% thấp hơn tốc độ tăng trưởng chung của tỉnh (6% năm 2000) Bảng : Tốc độ tăng trưởng GDP (%) Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 Tốc độ tăng GDP 13,48 5,39 5,89 I. Khu vực kinh tế trong nước 12,98 5,5 5,83 - Nhà nước 10,7 1,23 5,58 + Trung ương 3,52 - 3,31 5,58 + Địa phương 21,76 7,16 5,58 - Tập thể 7,12 5,96 5,58 - Tư nhân 98,37 77,65 124,3 - Cá thể 25,34 7,05 6,38 - Hỗn hợp 55,09 239,29 - 6,96 II. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài - 8,24 - 30,23 289,08 III. Thuế nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ - 18,02 8,91 Doanh thu bình quân cho một lao động đạt thấp (33,26 triệu đồng), trong đó DNNN: 55,5 triệu/ lao động, DNDD: 11,02 triệu đồng/ lao động. 1 đồng vốn kinh doanh năm 2000 chỉ đạt được 4 đồng doanh thu, 0,0215 đồng lợi nhuận và 0,215 đồng nộp ngân sách. Tất nhiên, hiệu quả kinh doanh của DNN & V phải tính đến hiệu quả xã hội. f. Những khó khăn và hạn chế của DNN & V có nguyên nhân sau đây: - Bản thân doanh nghiệp: Do quy mô vừa và nhỏ nên ít vốn, công nghệ lạc hậu, tay nghề kém, quản lý kinh doanh hạn chế, thiếu thông tin, trong khi môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh và ổn định, quản lý Nhà nước còn hạn chế đưa DNN & V gặp nhiều sai phạm, kinh doanh trái nghề, làm hàng giả, kém phẩm chất, trốn lậu thuế, hoạt động phân tián, ngoài sự kiểm soát Nhà nước. - Môi trường kinh doanh: Thị trường còn sơ khai, thiếu ổn định và lành mạnh, về môi trường thể chế, chế độ chính sách và cả luật pháp chưa thật thuận lợi cho DNN & V. - Tác động quản lý nhà nước: Ngoài cơ chế chính sách và thể chế còn nhiều vướng mắc, thì quản lý của Nhà nước đối với DNN & V còn nhiều hạn chế: chưa có chiến lược rõ ràng và chính sách chưa nhất quán, tệ quan liêu vãn còn, thủ tục nhiêu khê, phiền hà, gây khó khăn ch hoạt động của DNV & N. 2.3. Đánh giá tổng quát về khung khổ chính sách hiện hành đối với DNN &V. a. Đánh giá chung toàn quốc: Về khung khổ pháp lý và chính sách, bên cạnh những thuận lợi cơ bản vẫn còn những hạn chế nhất định. Sau đay là một số điemẻ chính. - Hiện nay Nhà nước ta chưa có khung khổ chính sáhc thích hợp cho loại hình DNN & V. Mới đây chính phủ vừa ban hành tiêu trí tạm thời về DNN & V làm cơ sở để nghiên cứu và đề xuất cơ chế mới bắt đầu được triển khai nghiên cứu. - Về chính sách có liên quqan hoặc trực tiếp gián tiếp đến DNN & V có thể nêu một số hạn chế sau đây: - Chính sách đầu tư: Nhà nước đã ban hành luật khuyếnh khích đầu tư trong nước, trong đó quy định rõ các điều kiện ưu đãi, lĩnh vực, vùng ưu tiên cho đầu tư trong nước. Ngoài ra, Nhà nước còn có chính sách ưu đãi thông qua các chương trình giải quyết việc làm, hoà nhập cộng đồng, xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, hiện nay nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ, nhất là các doanh nghiệp dân doanh chưa tiếp cdận được với chính sách ưu đãi đầu tư này do nhiều nguyên nhaan khác nhau, ở nơi này, nơi khác, lúc này, lúc khác vẫn còn sự phân biết đối xử. Vậy cần phải nghiên cứu các chính sách đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế, tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư ưu đĩa của Nhà nước một cách thuận tiện dễ dàng hơn, thủ tục xét duyệt đối với các dự án của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thống nhất trên cả vaưn bản và thự tế, hình thành các loại quỹ khác nhau hỗ trợ và cho DNN & V vay. - Chính sách thuế: hệ thống thuế đã cải cách một bươcds theo hướng đơn giản hoá để dễ thực hiện, đảm bảo sự công bằng giữ các thành phần kinh tế và để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại. Tuy nhiên, chính sách thuế hiện nay vẫn còn và có nhiều khe hở, chưa có chính sách khuyến khích cho DNN & V theo quy mô doanh nghiệp và một số ngành cần khuyến khích, vẫn còn phân biệt theo loại hình doanh nghiệp. - Chính sách lãi suất và tín dụng ngân hang: Các thủ tục vay vốn tín dụng, thế chấp tài sản còn quá phức tạp, có nhiều điểm chưa hợp lý, vẫn còn có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình DNNN và DNDD, cần phải có thêm qũy bảo lãnh tín dụng tạo điều kiện cho DNN & v tiếp cdận đối với tín dụng ngân hàng, nhất là DNDD. - Chính sách thị trường và cạnh tranh: Các biện pháp chống buôn bán, hàng lậu, hàng giả còn đang xâm nhập vào nền kinh tế nước ta chưa được quản lý tốt, chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu. Thị trường hàng hoá, dịch vụ trong nước của DNN & V chưa được xác định. - Chính sách xuất khẩu: Thủ tục nhập khẩu còn phức tạp, chưa thuận lợi cho các doanh nghiệp có sản lượng nhỏ nên các DNN & V thường phải uỷ thác, làm cho kinh phí xuất nhập khẩu cao hơn. - Chính sách đất đai: Nhiều doanh nghiệp thiếu mặt bằng sản xuất, nhất là ở các thành phố và trung tâm công nghiệp, còn thiếu quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp dành cho DNN & V, chưa có, chính sách rõ ràng về đất đai cho sản xuất. - Chính sách công nghệ: DNN & V còn thiếu nhiều thông tin về công nghệ, nhìn chung chính sách công nghệ mới chỉ dừng lại ở những phương hướng chưa có chính sách thật cụ thể và rõ ràng. b. Đánh giá việc thực hiện chính sách ở Bắc Giang. Qua điều tra và phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của DNN & V ở Bắc Giang, các chính sách và khuôn khổ pháp lý thực hiện được nhận xét như sau: - Các chính sách ưu đãi đất đai, vốn, thuế đã được Nhà nước ban hành nhưng phần lớn chưa được triển khai và thực hiện tốt, đối với DNN & V còn thấp. - Các biện pháp hỗ trợ DNN & V tiếp cận còn hạn chế đối với doanh nghiệp dân doanh ở Bắc Giang. Do môi trường đầu tư kém thuận lợi, điều kiện tiếp cận các biện pháp hỗ trợ, ưu đãi còn nhiều khó khăn như: Vốn, đất đai,công nghệ, kỹ thuật, thị trường tiêu thụ sản phẩm, kinh nghiệm kinh doanh, làm cho các DNN & V và nghiên cứu còn lúng túng và có tâm lý chán nản trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chứng, chủ yếu để tồn tại không muốn hoặc không giám mở rộng quy mô sản xuất. Đây là nguyên nhân dẫn đến khu vực DNN & V ngoài quốc doanh ở Bắc Giang còn nhỏ bé, số doanh nghiệp mới thành lập tăng không nhiều, doanh nghiệp đã thành lập không có điều kiện thuận lợi phát triển, quy mô nhỏ, khả năng tạo việc làm mới thấp: - Đã có các tổ chức như: Trung tâm tư vấn DNN & V của tỉnh, liên minh các HTX, Phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch và Đầu tư, phòng tiểu thủ công nghiệp thị xã Bắc Giang... có vai trò quan tọng trong hỗ trợ các DNN & V nhất là tư vấn pháp lý, hỗ trợ vay vốn, đào tạo, cung cấp thông tin cũng như các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ còn nhiều vướng mắc, các thủ tục hành chính còn rất phức tạp, nội dung hỗ trợ chưa phong phú, chưa thiết thực nên rất ít DNN & V được tiếp cận cũng như được hưởng các biện pháp hỗ trợ. Nguyên nhân chính là các DNN & V dân doanh còn ít dự án khả thi, làm dự án còn sơ sài, khả năng trả nợ ngân hàng thấp, thiếu trình độ quản l ý. Nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm ra giải pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho loại hình DNN & V. - Trong việc thực hiện chủ trương, pháp luật, chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư còn thiếu thống nhất giữa các cơ quan Nhà nước dẫn đến nhiều thủ tục gây phiền hà cho các DNN & V. Đặc biệ tlà chưa có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc giải quyết các thủ tục để DNN & V nhận được hỗ trợ. Thủ tục đền bù và giải phóng mặt bằng cho doanh nghiệp thuê đất và thủ tục vay vốn ưu đãi đầu tư còn phức tạp, cứng nhắc. Điều này gây tâm lý không tin vào các biện pháp hỗ trợ và “nản lòng” do nghĩ rằng chi phí để được hỗ trợ còn cao hơn cái được hỗ trợ. - Việc cụ thể thoá chủ trương, chính sách ưu đãi, hỗ trợ các DNN & V của các cơ quan quản lý Nhà nước ở tỉnh còn chậm. Tỉnh đã có chính sách và biện pháp khuyến khích hỗ trợ doanh nghiệp nhưng sự hướng dẫn, tuyên truyền còn hạn chế, các biện pháp chưa sâu sát, chưa tạp trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Do vậy, chưa tạo ra lòng tin cho doanh nghiệp, chưa gắn doanh nghiệp với cdác cơ quan quản lý Nhà nước, quản lý Nhà nước chưa là “bà đỡ” của doanh nghiệp. - Cung cấp thông tin liên quan đến doanh nghiệp là hình thức hỗ trợ DNN & V ở Bắc Giang được hưởng nhiều nhất, vì Bắc Giang có trung tam tư vấn doanh nghiệp. Tuy nhiên, thông tin doanh nghiệp này cũng mới chỉ dừng ở việc khởi sự doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp, chưa được đổi mới và thiết thực cho doanh nghiệp, nhiều thông tin còn thiếu tính thời sự. - Do bịi đối sử bất bình đẳng giữa doanh nghiệp dân doanh so với doanh nghiệp Nhà nước, chịu áp lực lớn về cạnh tranh, thiếu kinh nghiệm, trình độ quản lý... kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNN & V ngoài quốc doanh ở Bắc Giang còn kém. Mặc dù số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ ít nhưng phần lớn còn hoạt động cầm chừng, dựa vào kinh nghiệm, kinh doanh bằng vốn tự có hạn hẹp, lợi nhuận sau thuế thấp nên cũng rất khó có khả năng đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư chiều sâu, đầu tư vào con người. Hầu hết các doanh nghiệp có quy mô nhỏ về vốn và lao động, phần lớn các doanh nghiệp vẫn sử dụng lao động phổ thông không được đào tạo, cán bộ quản lý đa phần là cán bộ về hưu thành lập doanh nghiệp, thực hiện chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn rất yếu. - Hộ kinh doanh cá thể chiếm một tỷ lệ lớn, tuy nhiên quy mô về vốn quá nhỏ, ngành nghề kinh doanh chưa đa dạng chủ yếu là thương mại dịch vụ. Bên cạnh đó cũng có những doanh nghiệp có vốn lớn, sử dụng trên 10 lao động nhưng không muốn đăng ký theo luật doanh nghiệp vì thuê nhân công không cần thực hiện chính sách bảo hiểm, thuế nộp thấp hơn do áp dụng hình thức khoán, đây cũng biểu hiện sự bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp ở tỉnh ta. - Các nhóm cá nhân và hộ sản xuất kinh doanh đăng ký theo NĐ 66/HĐBT. 2.4. Những ưu thế và hạn chế của DNN & V. 2.4.1 Ưu thiế của các DNN & V. Các DNN & V là các cơ sở sản xuất, kinh doanh có khả năng: - Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp (hay còn gọi là chỉ cần đầu tư ít), dễ thành lập, diện tích mặt bằng sản xuất không nhiều, các điều kiện sản xuất đơn giản. - Cung cấp cho xã hội khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ rất đa dạng, phong phú, và có chất lượng đẳm bảo ngay cả trong khi điều kiện sản xuất - kinh doanh còn hạn chế. - Góp phần giảm bớt chênh lệch thu nhập trong xã hội, cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. - Phát huy khả năng tiết kiệm vào đầu tư của dân cư ở các địa phương, tận dụng các nguồn lực góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước. - Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn, nhạy cảm với những thay đổi của thị trường, dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ. - Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh. - Giữ gìn và phát triển các ngành nghề truyền thống thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc. - Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có độ rủi ro cao. - Tham gia tích cực vào việc thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là ở nông thôn, thực hiện xoá đói giảm nghèo, đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh thu hút lao động, vốn đầu tư, tạ ra giá trị tăng, góp phần tăng trưởng kinh tế, là nền cơ sở trong cấu trúc của sản xuất xã hội. 2.4.2. Những hạn chế của DNN & V: Các DNN & V có quy mô nhỏ, vốn tí nên cũng có những mặt bất lợi: - Khó khăn trong đầu tư công nghệ mới, đặc biệt công nghệ đòi hỏi vốn đầu tư lớn, hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường. - Có những hạn chế về đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, đầu tư cho nghiên cứu.. do đó khó nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh. chương iii: kiến nghị và giải pháp I. Kiến nghị của doanh nghiệp và giải pháp năm 2003 Tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của doanh nghiệp trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Coi doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, là nơi tạo ra của cải vật chất, dịch vụ, việc làm cho xã hội và có đóng góp cho ngân sách nhà nước. Đổi mới và phát triển doanh nghiệp là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển KT- XH ở nước ta nói chung và ở tỉnh Bắc Giang nói riêng, không những góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế mà còn toạ ra một sự ổn định chính trị - xã hội, thông qua tạo ra nhiều việc làm, giải quyết vấn đề lao động và phúc lợi của nhân dân. Hội nghị gặp mặt doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang với lãnh đạo tỉnh nhân dịp đầu xuân đã trở thành thường niên, để báo cáo với lãnh đạo tỉnh những thành tích năm qua doanh nghiệp đã đạt được, kiến nghị những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp cần được tháo gỡ. Tiếp thu ý kiến phản ánh của các doanh nghiệp, thường trực ban chỉ đạo ĐM và PTDN xin được báo cáo kết quả đạt được của DN năm 2002, những định hướng và giải pháp của năm 2003 0 được chọn là năm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn như sau: 1. Khái quát tình hình phát triển doanh nghiệp năm 2002 Trong năm 2002 cộng đồng doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang có bước phát triển khá cả về mặt số lượng và chất lượng. Doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận của kinh tế nhà nước, đang tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả để xứng đáng là vai trò chủ đạo, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, mở đường hướng dẫn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Năm 2002, DNNN trên địa bàn đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được tốc độ tăng trưởng khá. Doanh thu đạt 2.474,9 tỷ đồng, tăng 10,6% so năm 2001. Nộp ngân sách 28, 49 tỷ đồng 5,53%. Nhìn chung, hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN, các công ty cổ phần chuyển từ DNNN đã có sự tăng trưởng, các sản phẩm công nghiệp đã tiêu thụ được như: xi măng,l gạch tuy nen, bia hơi... Mức tiêu thụ tăng bình quân trên 20% so năm 2001. Trong đó với 22 DNNN trung ương đóng trên địa bàn (11 doanh nghiệp độc lậpp) donah thu đạt 1.013,494 tỷ đồng, tăng 32,59% so Việt Namăm 2001. Nộp ngân sáhc 19,1 tỷ. đ, sử dụng hơn 18.377 lao động, tăng 6,7%, 13 doanh nghiệp có lãi: 5.384 tr.đ . DNNN của địa phương đã năng động hơn, tìm kiếm thị trường, đa dạng hoá sản phẩm, đổi mới công nghệ, áp dụng nihều biện pháp tháo gỡ khó khăn, nên kết quả đạt được đáng khích lệ: số doanh nghiệp làm ăn có lãi tăng. Doanh thu đạt 1.033 tỷ đồng, lãi: 3.756 triệu đồng, nộp ngân sách 10,856 tỷ tăng 37% so năm 2001, sử dụng 7.391 lao động với mức thu nhập ổn định từ 400 - 500 ngàn đồng. CPH và đa dạng hoá hình thức sở hữu DNNN là định hướng và chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là một trong các biện pháp có hiệu quả để tiếp tục đổi mới vdà phát triển DNNN. Năm 2002, tỉnh Bắc Giang chỉ đạ thực hiện CPH, chuyển đổi hình thức sở hữu 11 DNNN, trong đó 5 doanh nghiệp thực hiện năm 2001 chuyển sang; 6 DNNN thực hiện CPH năm 2002 đến nay cơ bản hoàn thành. Kết quả ban đầu về sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp CPH đã có doanh thu tăng 2,3 lần, nộp ngân sách tăng 1,9 lần; thu nhập bình quân người lao động tăng 1,2 lần và thu hút thêm 10% - 15% lao động. Nhiều doanh nghiệp sau CPH đã đầu tư mở rộng, mua thêm và đổi mới phương tiện, máy móc thiết bị nâng cao năng lực sản xuất, điển hình như Công ty cổ phần xe khách, Công ty cổ phần Thương mại, Công ty Nhựa... Doanh nghiệp dân doanh làmột bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển DNDD là vấn đề chiến lược trong phát triển nên kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với các loại hình doanh nghiệp khác, DNDD tỉnh ta năm nay đã góp phần thcú đẩy phân công lại lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, huy động các nguồn lực xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, huy động các nguồn lực xã hội vdào sản xuất - kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng nguồn thu cho ngân sách. Năm 2002, số lượng các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tăng gấp 1,4 lần so năm 2001. Cụ thể là đã tiếp nhận hồ sơ và cấp ĐKKD cho 96 doanh nghiệp, thay đổi nội dung ĐKKD cho 55 doanh nghiệp, nâng tổng số DNDD. Trong đó gồm 34 Công ty cổ phần, 48 doanh nghiệp tư nhân, 218 công ty trách nhiệm hữu hạn. Tổng vốn đăng ký gần 400 tỷ đồng. Có 52 các nhà đầu tư tỉnh ngoài đặt chi nhánh và văn phòng đại diện. Trong đó có một số doanh nghiệp đầu tư với số vốn lớn như CTCP Tân Phương: 10 tỷ đồng, CTCP Thanh Long: 24 tỷ đồng, CTCP May xuất khẩu Hà Bắc: gần 30 tỷ đồng, CT TNHH Ngọc ánh: 7 tỷ đồng, CTCP Đại Hoàng Sơn: 20 tỷ đồng; CT TNHH Thuỷ Nhàn: 5,1 tỷ đồng... Kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh đã có chuyển biến tích cực đó là: 17 doanh nghiệp có doanh thu: trên 10 ty đông; 12 doanh nghiệp từ 5 -10 doanh nghiệp từ 1 -5 tỷ đồng; 80 doanh nghiệp có doanh thu xấp xỉ 1 tỷ đồng; nộp ngân sáhc đạt gần 4,284 tỷ đồng, điển hình như Công ty Việt Thắng doanh thu 90 tỷ đồng, nộp ngân sách 886, 38 triệu đồng, Công ty Sông Cầu doanh thu 98 tỷ đồng, nộp ngân sách 119,95 triệu đồng, Công ty TM Tiến Thành doanh thu 60 tỷ đồng, nộp ngân sách 219,88 triệu đồng, Công ty Dũng Hà nộp ngân sách 133,4 triệu đồng, Công ty Trường An 142,73 triệu đồng, Công ty Tuấn Mai 93,54 triệu đồng, Công ty Tràng An 117, 1 triệu đồng... Mặc dù đã có những cố gắng dáng kể, song các DNDD còn một số tồn tại. Cụ thể là: khu vực DNDD vẫn còn nhỏ bé so với tiềm năng, số lượng doanh nghiệp còn ít so với các tỉnh, nhiều doanh nghiệp thành lập hoạt động chưa có hiệu quả, các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất ít, chủ yếu là thương mại, dịch vụ. Còn có những doanh nghiệp chấp hành pháp luật chưa nghiêm như: chấp hành chế độ thống kê, kế toán, báo cáo tài chính hàng năm, chế độ ký hợp đồng lao động và đóng bảo hiểm cho người lao động. Một số doanh nghiệp còn vi phạm các điều kiện về phòng cháy, chữa cháy, thiết bị do lường, bảo vệ môi trường như công ty kinh doanh xăng dầu. Hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trước năm 2000 chưa điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, điều lệ theo luật doanh nghiệp. Qua đó cho thấy các doanh nghiệp rất xem nhẹ việc xây dựng điều lệ và hoạt động theo điều lệ, do vậy khi có tranh chấp kinh tế, mâu thaũan nội bộ phát sinh có đủ các căn cứ pháp lý cần thiết để giải quyết, gần đây hiện tượng này xuất hiện có chiều hướng gia tăng. Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế nước ta. Theo quan điểm đó, củng cố và phát triển kinh tế hợp tác mà lòng cốt là HTX đã được quan tâm ở tỉnh ta trong nhiều năm nay. Sau 5 năm thực hiện luật HTX, sự phát triển của kinh tế tập thể đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là nông nghiệp, nông thôn. Đến cuối năm 2002, số HTX trên địa bàn tỉnh đã chuyển đổi và thành lập mới là 228 HTX, trong đó có 135 HTX làm dịch vụ NN, 8 HTX thuỷ sản và kinh doanh vườn đồi, 43 HTX TTCn, 8 HTX xây dựng và sản xuất VLXD, 8 HTX vận tải, 6 HTX kinh doanh tiêu thụ điện, 9 quỹ tín dụng ND, 3 HTX vệ sinh - môi trường và 7 HTX ngành nghề khác. Hiện cả nước có 8 mô hình HTX vệ sinh - môi trường và 7 HTX ngành nghề khác. Hiện cả nước có 8 mô hình HTX kiểu mới thì Bắc Giang có tới 5 mô hình điểm, đó là: HTX cổ phần cơ khí Lạng Giang (được Chủ tịch nước tặng lẵng hoa và Nhà nước tặng Huân chương Lao động ),HTX Vệ sinh MT thị trấn Thắng (Hiệp Hoà) HTX Tiêu thụ sản phẩm làng nghề mây tre Tăng Tiến, HTX rượu Vân Hương, HTX dịch vụ chăn nuôi thú ý Lục Nam và HTX tiêu thụ điện năng bố Hạ. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của một số HTX thấp, hàng hoá dịch vụ chưa có chất lượng cao, chưa có sản phẩm mũi nhọn, quy mô nhỏ, năng lực và trình độo của đội ngũ cán bộ quản lý yếu, nhiều HTX quản lý như công ty cổ phần. Vê kinh tế hợp tác - đầu tư trực tiếp nước ngoài: Mặc dù cả nước đầu nước ngoài năm 2002 giảm, nhưng tỉnh ta lại có bước phát triển khá so với những năm trước đây. Đã cấp giấy phép cho 5 dự án mới, với số vốn đăng ký 7,764 triệu USD (tăng 159% so năm 2001) đưa tổng số dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn lên 10 dự án với số vốn đầu tư là 12,664 triệu USD. Đây cũng là những dấu hiệu đáng mừng tạo đà cho những năm tiếp theo . Đạt được những thành công trên là nhờ các chủ trương, chính sách, kịp thời của Đảng, Nhà nước, cơ chế biên pháp khuyến khích đầu tư của tỉnh, tham gia tích cực của các cấp, các ngành, sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp. Cộng đồng doanh nghiệp tỉnh nhà đã và đang trở thành lực lượng chủ chốt, đóng góp quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, đảm bảo các điều kiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội ngày một tốt hơn, cung ứng hàng hoá vật tư cho sản xuất và đời sống của nhân dân, phục vụ nông nghiệp, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, là lực lượng chủ lực thực hiện CNH - HĐH. II. Kết quả giải quyết các kiến nghịi của doanh nghiệp năm 2002. Tại cuộc gặp đầu năm Nhâm ngọ, cộng đồng doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang đã kiến nghị với lãnh đạo tỉnh một số nhóm vấn đề về cơ chế chính sách có liên quan đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của nd, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư ở tỉnh nhà nhà: Chính sách tín dụng, vay vốn ngân hàng, chính sách đất đai, thủtục giao đất, thuê đất làm mặt bằng sản xuất, công tác cải cách thủ tục hành chính trong khâu ĐKKD, thành lập doanh nghiệp, cấp ưu đãi đầu tư; công tác thanh tra, kiểm tra, chính sách thuế giá trị gia tăng, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.... Kết quả một năm thực hiện, giới doanh nghiệp đều phấn khởi nhận thấy rằng UBND tỉnh đã chỉ dạo các cấp, các ngành giải quyết có hiệu quả một số kiến nghị của doanh nghiệp. Công tác cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ chế chính sách, đề ra các biện pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giảm phiền hà cho doanh nghiệp đã có bước đột phá quan trọng bằng việc ban hành một só quy định như quy định 34/QĐ-UB về ưu đãi đầu tư, QĐ số 54/QĐ - UB về quy định trình tự và thủ tục chuẩn bị đầut tư, số 57/QĐ- UB về quy định trình tự và thủ tục bồi thường giải phóng mặt bằng giao đất và cho thuê đất, đã tạo ra môi trường đầu tư của tỉnh Bắc Giang thông thoáng hơn, hấp dẫn hơn. Thủ tục thành lập doanh nghiệp và ĐKKD được đổi mới căn bản; trình tự, thủ tục, lệ phí được công khai hoá tại cơ quan ĐKKD, giảm bớt các loại giấy tờ không cần thiết, giảm thời gian chỉ còn 1/3 so với quy định của luật, đã xoá bỏ một bước cơ chế “xin - cho”, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nhân và doanh nghiệp. Vấn đề chính sách thuế giá trị gia tăng, nhấg là thủ tục thu thuế đã được cục thuế Bắc Giang quan tâm cải tiến, theo ý kiến của doanh nghiệp cáhc giải quyết của các cơ quan chức năng đã thoả mxn được một phần yêu cầu của doanh nghiệp cả 3 vấn đề: Phương pháp thu, suất thuế và ưu đãi thuế. Ngay sau khi lãnh đạo tỉnh gặp mặt doanh nghiệp, ngành thuế đã tiếp thu các kiến nghị của doanh nghiệp, tổ chức mở dịch vụ tư vấn về thuế, nhằm cung cấp thông tin, hướng dẫn, trả lời về chính sách thuế, các thủ tục vè thuế (đăng ký thuế, kê khai thuế, tính thuế, nộp thuế, lập hồ sơ xin miễn giảm thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế) cho các đối tượng nộp thuế, các tổ chức và cá nhân. Hướng dẫn chế độ kế toán cho các doanh nghiệp, hướng dẫn quản lý hoá đơn, chứng từ về thuế, tổ chức công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về thuế. Tuy nhiên, vẫn còn một số doanh nghiệp phàn nàn suất thuết môn bài vừa qua chưa hợp lý, chưa khuyến khích được doanh nghiệp, chính sách nặng về tận thu, tình trạng thất thoáng thu vẫn của ngành thuế sẽ góp phần giải quyết một cách tổng thế chính sách thuế tạo điều kiện cho doanh nghiệp. Vấn đề giải quyết chính sách đất đai là khâu quan trọng nhất để tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn. Nhận thức đúng vai trò, vị trí của hcính sách đất đai, năm 2002 chính sách này ở Bắc Giang đã được quan tâm, khu công nghiệp Đình Trám, các cụm công nghiệp Song Khê - Nội Hoàng (Yên Dũng), Lạng Giang, thị xã Bắc Giang đã triển khai và bước vào xây dựng cơ sở hạ tầng, đáp ứng một phần yêu cầu của doanh nghiệp. Trong đó cụm CN Song Khê - Nội Hoàng (Yên Dũng) có trên 50 dự án đăng ký đầu tư với diện tích gần 50 ha, có 10 dự án đã hoàn thành giai đoạn chuẩn bị đầu tư, một số dự án lớn như: Công ty Thanh Long đầu tư 24 tỷ đồng, trên diện tích gần 20 ngàn m2, Công ty Việt Đặng 49 ngàn m2. Cụm CN (Lạng Giang) chỉ sau một thời gian ngắn đã được các doanh nghiệp thuê hết diện tích. Khu CN Đình Trám đang triển khai tiếp nhận các doanh nghiệp đầu tư. Kết quả năm 2002 đã làm hoàn tất thủ tục cho thuê đất 21 dự án, với tổng số vốn đăng ký 164,6 tỷ đồng, diện tích là 39,08 ha. Trong đó khu công nghiệp Đình Trám 3 dự án, diện tích là 7,2 ha. Cụm CN Song Khê - Nội Hoàng (Yên Dũng) 7 dự án, diện tích là 16,3 ha. Cụm CN Tân Dĩnh (Lạng Giang) 2 dự án, diện tích là 1,09 ha. Cụm CN Hoàng Ninh (Việt Yên) 4 dự án, diện tích là 10,35 ha. Cụm CN thị xã Bắc Giang 5 dự án, điện tích là 4,14 ha. Ngoài ra còn một số các dự án rải rá trên các địa bàn ngoài khu, cụm CN khác... Kết quả tháo gỡ khó khăn về vay vốn, các chi nhánh NHTM trên địa bàn đã tiếp tục mở rọng đầu tư tín dụng, bám sát 6 chương trình kinh tế của tỉnh. Đơn giản thủ tục cho vay, chú trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cải tiến phương pháp đánh giá tài sản thế chấp, nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ trong việc đánh giá dự án, chủ động khai thác nguồn tiền, triển khai hội nghị khách hàng... kết quả cụ thể là: cho các doanh nghiệp vay trên 548 tỷ đồng để đầu tư mua sắm đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất: Công ty phân đạm HC Hà Bắc 145,8 tỷ đồng để nhập vât tư nguyê n liệu, công ty vật tư KT nông nghiệp Bắc Giang 130,9 tỷ đồng mua đạm, lân để phục vụ nông dân. Các dự án đầu tư chế biến hoa quả, sản xuất băng dính, phát triển nhà... với tổng số vốn là 20 tỷ đồng; cho vay Công ty xây dựng I, xí nghiệp xây lắp CN hoá chất, Công ty công trình giao thông, Công ty xây lắp đường dây và trạm... với tổng số tiền 42,3 tỷ đồng để phục vụ sản xuất - kinh doanh giúp DN ổn định sản xuất, tăng hiệu quả kinh doanh. Đầu tư cho vay đáp ứng nhu cầu sản xuất - kinh doanh vật liệu XD 20 tỷ đồng; đầu tư nhập khẩu nguyên liệu sản xuất của Công ty may 17,6 tỷ đồng. Đầu tư vốn trung hạn đổi mới máy móc thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh với 11 dự án, tổng vốn đầu tư 15 tỷ đồng (Công ty Nhựa, Công ty May, Công ty CP Xe khách, XN In, XN Barium...) trong năm, các NHTM đã cho các doanh nghiệp và HTX vay bằng nguồn vốn tài trợ uỷ thác 45 tỷ đồng. Tuy nhiên, chế độ vay vốn giữa các loại hình doanh nghiệp (DNNN, DNDD, HTX) có chưa bình đẳng, thủ tục vay vốn còn phức tạp, cơ cấu các thành phần kinh tế được cho vay Ngân hàng, chủ yếu vẫn là DNNN (chiếm 63%), các công ty CP thực hiện chuyển đổi (20%), các DNDD và HTX còn chiếm tỷ lệ thấp (10 -12%). Việc đánh giá tài sản thế chấp, phương án khả thi còn nhiều vấn đề mang ý chủ quan của cán bộ ngân hàng. Công tác thanh tra kiểm tra đã từng bước được đổi mới, khắc phục được tình trạng kiểm tra tràn lan, nhiều đoàn, nhiều đợt. UBND tỉnh đã có văn bản gửi các ngành nhắc nhỏ chấn chỉnh công tác thanh tra kiểm tra, phải tuân thủ NĐ 61/NĐ-CP: Kiểm tra phải thông báo trước cho doanh nghiệp nội dung kiểm tra, thời gian kiểm tra, kiểm tra phải có quyết định của cấp có thẩm quyền, kết quả kiểm tra phải được thông báo cho doanh nghiệp biết, nhờ đó năm qua công tác kiểm tra đã được các doanh nghiệp đánh giá tốt, giảm được phiền hà. Về khuyến khích đầu tư, với phương châm tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng, hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển... Cùng với việc tăng cường triển khai Luật KKĐT trong nước ban hành theo nghị định 51/CP và nghị định 35/ 2001/NĐ -CP của chính phủ, thực hiện quy định 34/QĐ-UB tỉnh về ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2002 - 2010, các thủ tục cấp UĐĐT cũng được đơn giản hoá, tập trung một đầu mối tại Sở Kế hoạch và Đầu tư. Cùng với cấp ĐKKD thành lập doanh nghiệp, việc cấp ƯĐĐT cũng được tiến hành đồng thời đối với những doanh nghiệp đủ điều kiện và có dự án đầu tư khả thi. Mọi thủ tục được công khai hoá, hướng dẫn đầy đủ, chu đáo, kể cả hướng dẫn cho doanh nghiệp xây dựng dự án đầu tư, các chế độ, mức đãi được hưởng.... Kết quả năm 2002 đã cấp ƯĐĐT cho 10 dự án, tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên như may mặc xuất khẩu, chế biến thức ăn gia súc, sản xuất giấy, bột giấy, mua sắm đầu tư máy móc thiết bị nâng cao năng lực sản xuất, chăn nuôi lợn siêu nạc, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống... Đối tượng là các dự án sử dụng nhiều lao động, ngành nghề, địa bàn được khuyến khích, di chuyển địa điểm sản xuất ra khỏi đô thị... Chi nhánh quỹ HTPT tỉnh cho vay vốn lãi suất ưu đãi 2 đợt là 16 tỷ đồng, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với số tiền 92,5 triệu đồng cho các đối tượng trên. Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư và cấp ƯĐĐT trên địa bàn triển khai đến DNDD, HTX còn chiếm tỷ lệ thấp 920% so tổng số dự án). Công tác tuyên truyền phổ biến còn hạn chế, nhiều DNDD, HTX chưa nắm được luật KKĐT trong nước. HTX do UBND huyện cấp ĐKKD do vậy chưa tiếp cận được chính sách ƯĐĐT. Dự án đăng ký ƯĐĐT của nhiều doanh nghiệp còn thiếu tính khả thi, đối tượng chủ yếu tập trung khu vực thị xã, vùngd thấp, các huyện vùng cao như Sơn Động, Lục Ngạn còn rất ít. Công tác tư vấn đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp đã có nhiều cố gắng, đáp ứng được một phần yêu cầu của doanh nghiệp, nội dung tư vấn tập trung vào các hoạt động bồi dưỡng và đào tạo ngắn hạn miễn phí như: TƯ vấn khởi sự doanh nghiệp, tư vấn quản trị doanh nghiệp, tư vấn các thông tin về thị trường, hướng dẫn luật doanh nghiệp, luật HTX, luật KKĐTTN, bồi dưỡng chế độ kế toán thống kê trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tư vấn xây dựng chiến lược kinh doanh, đổi mới công nghệ, tham gia hội nhập kinh doanh quốc tế và khu vực, tư vấn xây dựng dự án... Nhìn chung công tác tư vấn trợ giúp doanh nghiệp đã được đổi mới thiết thực và có hiệu quả hơn, đáp ứng được đơn đặt hàng của các địa phương và doanh nghiệp. Công tác đào tạo nghề cũng được quan tâm, các trung tâm đào tạo nghề được tổ chức lại và được đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước. Kết quả của năm 2002: Trung tâm tư vấn doanh nghiệp thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Viện Quản lý kinh tế TW, Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, Viện Quản lý kinh tế Hà Nội, với UBND các huyện, thị... đã tổ chức 3 lớp tập huấn về luật doanh nghiệp, 11 lớp khởi sự doanh nghiệp và quản trị kinh doanh, 1 lớp đào tạo nghề, tư vấn dài hạn 2 doanh nghiệp và tư vấn ngắn hạn cho 42 doanh nghiệp. Sở KH & ĐT chủ trì, phối phợp với Trường Đại học KTQD, Ban TCCQ tỉnh, tổ chức lớp học về kế toán cho toàn bộ các doanh nghiệp trên địa bàn 100 học viên đã hoàn thành tốt khoá học và được cấp chứng chỉ, phối hợp với Liên minh các HTX tỉnh tổ chức bồi dưỡng ngắn hạn cho chủ doanh nghiệp, ban chủ nhiệm HTX, Tổng số mở được trên 20 cuộc hội thảo, tập huấn cho 1630 lượt người. III. Phương hướng và biện pháp trong thời gian tới. Trong các ý kiến mà cộng đồng doanh nghiệp phản ánh qua phiếu điều tra gần đây, có nhiều ý kiến đã nêu trong lần gặp mặt năm ngoái phần lớn vẫn là những kiến nghị về cơ chế, chính sáh mặc dù có sự chỉ đạo của UBND tỉnh cộng thêm sự nỗ lực của các cấp, các ngành giải quyết trong năm 2002, nhưng vẫn là những vấn đề bức xúc hàng ngày, hàng giờ ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là vấn đề thuê đất làm mặt bằng sản xuất, vấn đề kiến nghị của hàng, thủ tục hành chính... Song điều đáng mừng là trong những vấn đề kiến nghị của doanh nghiệp năm nay không có ý kiến nào phản ánh ef gây phiền hà khó khăn trong việc thành lập và ĐKKD, ý kiến phản ánh về công tác kiểm tra, thanh tra cũng như đòi hỏi bảo hộ, trợ cấp cho doanh nghiệp đã ít hơn. Doanh nghiệp đề cập nhiều đến cơ chế chính sách; trợ giúp về thông tin tư vấn, hỗ trợ đầu tư, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trong kiến nghị không ít doanh nghiệp nêu cao vai trò trách nhiệm của doanh nghiệp về việc thực hiện pháp luật, làm nghĩa vụ với Nhà nước chứ không chỉ đòi hỏi một chiều, nhiều ý kiến của doanh nghiệp nêu cao tinh thần dân tộc, mong muốn tỉnh cần có những cơ chế, chính sách và biện pháp tạo điều kiện để nền kinh tế tỉnh nhà phát triển không kém các tỉnh lân cận như Bắc Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc... đó là những biểu hiện rất đáng mừng và hoan nghênh. Đáp ứng các đòi hỏi của doanh nghiệp, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2003 năm được chọn là năm phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn, năm bản lề của kế hoạch 2001 -2005, có tính chất quyết định góp phần vào việc thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, Đại hội lần thứ XV của tỉnh đảng bộ, dưới đây chúng tôi xin trình bày với lãnh đạo tỉnh và hội nghị một số phương hướng và biện pháp cần phải thực hiện trong thời gian tới như sau: 1. Về công tác cải cach thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. DOANH NGHIệP bày tỏ nhất trí cao với lãnh đạo tỉnh đẩy mạnh công cuộc cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là UBND tỉnh đã ban hành các quy định về trình tự thủ tục chuẩn bị đầu trư, quy định trình tự thủ tục bồi thường giải phóng mặt bằng, cấp và cho thuê đất... Việc ban hành các quy định này đã giải toả nhiều vấn đề bức xúc của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi còn chậm trễ, thiếu thống nhất, doanh nghiệp vẫn phải qua nhiều khâu, nhiều cửa (có 1/3)ý kiến cho là vẫn phiền hà và rất phiền hà, chính sách thời cở mở những địa phương, các ngành, các cấp chưa tạo điều kiện. Để giải toả tâm lý này, năm 2003 chúng ta tiếp tục nghiên cứu đơn giản hoá thủ tục, thực hiện đúng ý nghĩa của cơ chế “một nửa”, “một đầu mối” khâu nào không cần thiết thì nên bỏ để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Công tác thanh tra, kiểm tra đã có nhiều tiến bộ, tuy không nhiều ý kiến kiến nghị vè vấn đề này song công tác thanh tra, kiểm tra cũng cần phải được đổi mới để vừa tăng cường quản lý nhà nước, vừa bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, làm sao để công tác thanh tra, kiểm tra nhằm đạt được mục đích hỗ trợ doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đúng luật pháp, ngăn chặn được những sai phạm. Đứng trước phương thức quản lý mới “Tiền đăng, hậu kiểm” cơ quan ĐKKD còn đang có nhiều bỡ ngỡ, các cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp còn lúng túng, một số doanh nghiệp đã lạm dụng sự thông thoáng của luật làm liều dẫn đến không ít doanh nghiệp vi phạm. Vậy thời gian tới chúng ta cần tiếp tục tăng cường quản lý nhà nước, vừa tuyên truyền giáo dục luật pháp, vừa vận dụng chế t ài xử phạt nghiêm minh đối với các doanh nghiệp vi phạm. 2. Phát triển các loại hình doanh nghiệp kết hợp với việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Cộng đồng doanh nghiệp Bắc Giang nhất trí với chủ trương sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp DNNN phấn đấu đến năm 2004 cơ bản sắp xếp xong DNNN theo phương án đã được chính phủ phê duyệt. Vì vậy, các biện pháp CPH, giao bán, khoá kinh doanh, chuyển DNNN thành công ty TNHH 1 thành viên phải được thự chiện ráo riết hơn theo quyết định của chính phủ, mọi sự trì hoãn, chần chừ thậm chí không thực hiện CPH và sắp xếp doanh nghiệp cần được xử lý nghiêm. Đổi mới, sắp xếp khu vực DNNN cần phối hợp đồng bộ với sự hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế hợp tác và KTTN, nhất là phát triển DNDD trong phát triển KT - XH, từ đó có thái độ đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Bên cạnh những khuôn khổ pháp lý và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ được ban hành theo Nghị định 90/2001/CP của Chính phủ, tỉnh sẽ thành lập các CLB hiệp hội DNV & N thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho tỉnh về chính sách phát triển DNN & V. Đông thời thành lập phòng quản lý kinh tế tư nhân và kinh tế hợp tác với tư cách là cơ quan đầu mối quản lý NN về DNN & V để nhận nhiệm vụ trực tiếp hỗ trợ DNN & V. 3. Tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn. Chính sách đất đai, chính sách vay vốn ngân hàng đang là những vấn đề có tính chất quyếtg định đến thính hấp dẫn của môi trường đầu tư, cộng đồng doanh nghiệp hiểu rằng, trong nền kinh tế thị trường, mỗi lĩnh vực đều có luật chuyên ngành chi phối, nhất là các ngân hàng thương mại cũng là doanh nghiệp. Song cũng cần đề nghị tỉnh chỉ đạo các ngành tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong khâu cho vay vốn, cho thuê đất làm mặt bằng sản xuất để tạo ra một cơ chế chính sách đồng bộ với chủ trương đổi mới. Đồng thời đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, cụm công nghiệp. Trước tiên, khu công nghiệp Đình Trám, cụm CN Song Khê - Nội Hoàng (Yên Dũng), cụm CN Hoàng Ninh (Việt Yên), cụm CN Tân Dĩnh (Lạng Giang), cụm công nghiệp thị xã Bắc Giang. Công khai hoá quy hoạch đất đai, quy hoạch đất giành cho CN cũng như giá thuê đất. Tháo gỡ khó khăn về vay vốn: Hầu hết các doanh nghiệp vẫn cho rằng thủ tục vay vốn ngân hàng còn khó khăn, nhất là vay vốn dài hạn và trung hạn đối với các DNDĐ. Vậy trong thời gian tới phải nhanh chóng ra đời được Quỹ Bảo lãnh tín dụng để giúp cho các DNDD tiếp cận được các nguồn vốn của hệ thống tín dụng. Đồng thời, tiếp tục đổi mới các thủ tục hành chính, đổi mới phương pháp đánh giá phương án khả thi và tài sản thế chấp. Đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. 4. Tăng cường các hoạt động xúc tiến, trợ giúp và đào tạo doanh nhân, chủ động tham gia quá trình hội nhập. Doanh nghiệp nhận thức rằng, trong bối cảnh của thế giới hiện nay, một khi hội nhập đã trở thành xu thế tất yếu khách quan nhưng các doanh nghiệp tỉnh nhà chuẩn bị quá trình hội nhập còn chậm, thời cơ mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước để tranh thủ công nghệ tiên tiến thu hút đầu tư còn thấp. Vì lẽ đó muốn đạt được kế hoạch xuất khẩu 45 triệu USD vào năm 2003 thì các doanh nghiệp một mặt phải tự dào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, cỉa tiến quản lý, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ. Mặt khác việc tổ chức hướng dẫn xúc tiến thương mại, khai thông các thị trường nước ngoài nhất là những thị trường lớn và mới là rất cần thiết. Do vậy, cần phải thành lập trung tâm xúc tiến thương mại. Sớm cho ra đời qũy khuến khích xuất khẩu, đổi mới công nghệ. Đồng thời vời việc khai thông thị trường, xúc tiến thương mại, tỉnh sẽ có chương trình đào tạo miễn phí việc nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập cho các doanh nghiệp, chương trình tư vấn đổi mới công nghệ, khuyến khích áp dụng hệ thống quản lý chấg lượng quốc tế ISO 9000, chương trình trợ giúp thông tin, tư vấn quản lý doanh nghiệp. Tổ chức lại và nâng cao chất lượng các trung tâm dậy nghề. Phải coi đầu tư đào tạo doanh nhân là hoạt động đầu tư quan trọng nhất, cấp bách nhất đối với cộng đồng doanh nghiệp tỉnh ta hiện nay, đồng thời nâng cao nang lực cạnh tranh bằng việc đầu tư đổi mới công nghệ là vấn đề mang tính lâu dài đòi hỏi không chỉ có doanh nghiệp mà cần có sự hỗ trợ của nhà nước cả về tư vấn và tài chính. 5. Vấn đề khen thưởng và tôn vinh doanh nghiệp để tạo môi trường tâm lý xã hội tốt hơn cho doanh nghiệp và doanh nhân. Hàng năm Chính phủ đã khen thưởng cho những doanh nghiệp làm xuất khẩu giỏi như công ty may, công ty cổ phần thuốc lá, Cục thuế khen thưởng cho các doanh nghiệp nộp ngân sách cao. Nhưng ý kiến của các doanh nghiệp mong muốn nhân dịp hội nghị gặp mặt thường nihên như hôm nay, UBND tỉnh sẽ khen thưởng và tôn vinh cho những doanh nghiệp xuất khẩu giỏi, nộp ngân sách cao, sử dụng nhiều lao động, chấp hành tốt luật pháp. Đồng thời với sự khen thưởng và tôn vinh các doanh nghiệp và doanh nhân, các cơ quan thông tin đại chúng như báo đài hãy phản ánh thường xuyên hơn, tuyên truyền, cổ vũ những điển hình tốt, mặt tích cực và phê phán cả nhữgn mặt tiêu cực của doanh nghiệp để có sự động viên kịp thời và xoá bỏ đi đâu đó vẫn còn những kỷ thị và đối xử chưa thật công bằng với các doanh nghiệp và doanh nhân nhất là khu vực kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng, đang có những đóng góp to lớn trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 6. Hoàn chỉnh các loại văn bản cần thiết để quy định ngành nghề có điều kiện, ngành nghề có chứng chỉ. - Hoàn chỉnh và sửa đổi các luật để đồng bộ với tinh thần đổi mới như luật doanh nghiệp, luật Ngân hàng, luật đất đai, luật Thương mại.... - Thống nhất hệ thống ĐKKD từ TW- địa phương, kiện toàn cấp huỵen, thị cả về con người và năng lực, thiết bị và bộ máy, trên cơ sở đó thống nhất quản lý mặt thông tin. - Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo tài chính năm của các doanh nghiệp, nhất là sửa đổi mẫu báo cáo cho phù hợp với năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng như trình độ chuyên môn. - Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, đối với việc thi hành luật doanh nghiệp, quy định rõ hơn về hậu kiểm; thời gian thực hiện, các thủ tục, nội dung kiểm tra cũng như chế tài xử phạt khi vi phạm chưa đến mức phải rút giấy ĐKKD. Quản lý nhà nước phải kết hợp giữa thanh tra nhưng cần phải đổi mới sao cho hiệu lực, đồng thời phải đi kèm các biện pháp hỗ trợ, trợ giúp doanh nghiệp để ngăn chặn sự vi phạm và tạo điều kiện doanh nghiệp phát triển. Tài liệu tham khảo 1. Luật doanh nghiệp (ngày 26 - 06 -1999) - Nghị đinh số 02 /2000/NNĐ- CP ngày 03 - 02 - 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. - Nghị định số 03/2000/NNĐ- CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. 2. Báo cáo khoa học trình chính phủ của Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh Bắc Giang. 3. Luật Công ty ngày 21 - 12 - 1990. 4. Luật DNTN ngày 22 - 12- 1990. 5. Luật ĐTNN ngày 20 -04 -1995. 6. Luật KKĐTTN năm 1998 6. Luật đất đai năm 1996. 7. Luật HTX năm 1996. 8. Nghị định 66/HĐBT ngày 02 - 03 - 1992. 9. Nghị định 90/2001/NĐ - CP về hỗ trợ phát triển DNN & V ngày 23 - 11 -2001. 10. Ngị định 193/2001/NĐ - CP về quy chế thành lập Quỹ tín dụng cho DNN & V ngày 20 -12 -2001. 11. Nghị quyết BCH TW Đảng lần thứ 7 (khoá VII). 12. Nghị quyết BCH TW Đảng lần thứ 4 (khoá VIII). 13. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. 14. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII 15. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. 16. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. 17. Tạp chí luật học 18. Quy chế, chức năng, nhiệm vụ Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh Bắc Giang. 19. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNĐ năm 2000. Phòng ĐKKD năm 2000 Sở Kế hoạch và Đầu tư 20. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN trên địa bàn Tỉnh Bắc Giang năm 2000. 21. Báo cáo kiểm tra tình hình thực hiện luật sau một năm thi hành luật doanh nghiệp Phòng ĐKKD năm 2001 Sở Kế haọch và Đầu tư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3616.doc
Tài liệu liên quan