Đề tài Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới

Để đạt được thành tựu cao hơn nữa trong sự kết hợp hai nhân tốdân tộc và quốc tế với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với đề tài khoá luận này xin trình bày một số kiến nghị như sau : Với sức mạnh dân tộc trong quá trình kết hợp với sức mạnh quốc tế Đảng phải chủ trương xây dựng và tiến tới Nhà nước pháp quyền. Hiện nay tham nhũng là một trong những nguy cơ kéo dài sự nghèo nàn của đất nước, vì vậy Đảng phải có chủ trương đúng đắn kịp thời : mọi người không phân biệt giàu nghèo, chức quyền, thấp hèn đều xử phạt như nhau khi phạm tội, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Để phát huy cao độ nội lực Đảng và Nhà nước cần phải có chủ trương chính sách thích hợp với các thành phần kinh tế, cần có chính sách mở rộng sản xuất đến người dân, cho vay vốn dài hạn. Đảng phải chỉ đạo các cấp, các ngành địa phương đầu tư phát triển giáo dục đào tạo, thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo.

doc63 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 847 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cơ sở liên minh công - nông - trí thức. Chính sự đáp ứng yêu cầu lợi ích chính đáng của họ cho nên Đảng đã khơi dậy được nguồn nội sinh của các thành viên trong cộng đồng dân tộc để thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Ơ đây nói nội lực là yếu tố quyết định không có nghĩa là "đóng cửa". Nếu đóng cửa là trì trệ, là lạc hậu nhanh và xa so với các nướctrên thế giới . Đảng cho rằng: nguồn lực trong nước là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng. Vì vậy trên cơ sở phát huy nội lực, Đảng đã chủ trương tranh thủ ngoại lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực từ bên ngoài. Như vậy để thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hóa ta phải phát huy cao nhất nội lực, lấy nguồn lực trong nước là quyết định. Chỉ có trên cơ sở phát huy cao nhất nội lực mới có điều kiện thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài. Thực tiễn cho thấy vốn bên ngoài là rất quan trọng nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Trong điều kiện cạnh tranh giữa các nước trong khu vực và trên thế giới về thu hút vốn bên ngoài, chúng ta cần có cơ chế chính sách để thu hút nhiều hơn và sử dụng nhiều hơn, có hiệu quả hơn các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, đi đôi với trah thủ thiết bị công nghệ tiên tiến. Đó là phải cải thiện môi trường đầu tư thuận lợi, giảm rủi ro phiền hà cho các nhà kinh doanh nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực và địa bàn mà ta mong muốn. Đối với các cơ sở có vốn đầu tư của nước ngoài đã đi vào hoạt động, cần tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật, bảo vệ lợi ích của công dân và bảo vệ lợi ích chính đáng của người đầu tư. Nguồn vốn bên ngoài dù quan trọng đến đâu cũng chỉ có hạn, vay vốn phải tính đến khả năng trả nợ và những yêu cầu khác về bảo đảm độc lập chủ quyền về kinh tế ,chính trị và bản sắc văn hoá dân tộc. Thực tế cho thấy ngay những nước công nghiệp mới, tuy nhận được nhiều hỗ trợ, tài chính bên ngoài vẫn phải huy động 70 - 80% vốn trong nước, ngay giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá và thường duy trì tổng mức đầu tư khoảng 30% GDP hàng năm liên tục trong nhiều năm mới trở thành rồng như ngày nay. Chúng ta muốn công nghiệp hoá , hiện đại hoá, muốn khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế thì con đường duy nhất là phải cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển, đưa tổng mức đầu tư lên 20% GDP hàng năm trong vài năm tới và cao hơn nữa cho những năm sau đó, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định. Trên cơ sở này trong việc xác định nhiệm vụ và mục tiêu phát triển 1996 - 2000 của Đại hội Đảng VII chỉ rõ : "Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đã đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 : Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau". Đến Đại hội Đảng IX Đảng lại chỉ rõ: "Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước .... Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. "Mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Muốn vậy Đảng, Nhà nước ta phải nỗ lực không ngừng phát huy cao độ nội lực cùng với tranh thủ những nguồn lực từ bên ngoài từng bước kiên trì xây dựng sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 2- Rút ngắn thời gian, đi tắt đón đầu, từng bước công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong xu thế toàn cầu. Chủ trương này của Đảng là sự đúc rút từ thực tiễn những sai lầm trong công tác chỉ đạo, đúc rút từ những đường lối mò mẫm thử nghiệm. Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước đã bước vào công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới Đại hội Đảng VI khẳng định : Cần phải xoá bỏ nền kinh tế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật và với trình độ phát triển của nền kinh tế. Đảng chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Với chủ trương đó Đại hội VI bước đầu định hướng cho việc chuyển từ mô hình công nghiệp hoá kiểu cũ sang xây dựng mô hình công nghiệp hoá theo kiểu mới phù hợp với điều kiện của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. ở đây rút ngắn thời gian, đi tắt đón đầu không phải là một quan niệm nhảy cóc nhanh chóng, không phải là quan niệm nóng vội chủ quan muốn tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá một cách "siêu tốc". Đó cũng không phải là vứt bỏ tất cả những gì ta đã làm được mà đây là một quan niệm về vấn đề chiến lược. Thời kỳ trước đây quá trình công nghiệp hoá ở các nước tư bản như Anh, Pháp, Nhật ... đều diễn ra theo kiểu cổ điển với những bước đi chậm chạp và đương nhiên thời gian tiếnhành là tương đối dài. Họ đều tiến hành công nghiệp hoá theo kiểu cũ từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sở dĩ chiến lược đi tắt đón đầu không được áp dụng bởi lúc đó họ là những nước đầu tiên trên thế giới tiến hành công nghiệp hoá , họ đều xuất phát điểm từ con số không. Ngày nay khi các nước nghèo nàn lạc hậu bước vào công cuộc công nghiệp hoá thì đã có sẵn kinh nghiệm của các nước công nghiệp đi trước, đặc biệt các nước đang phát triển đã có sẵn công nghệ máy móc hiện đại do sự bùng nổ và phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. ngoài ra để tránh tụt hậu về kinh tế đòi hỏi các nước này phải có một chiến lược đúng đắn phù hợp với xu thế toàn cầu. Chính vì vậy Việt Nam phải áp dụng chiến lược đi tắt đón đầu, rút ngắn thời gian để công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước trong quá trình xây dựng đất nước, tránh tụt hậu về kinh tế so với thế giới. Đại hội Đảng VI chỉ rõ: "Chúng ta phải thấy rõ sự bức bách phải làm cho khoa học kỹ thuật thực sự trở thành một động lực to lớn đẩy nhanh quá trình quá triển kinh tế xã hội của đất nước". Vì vậy chúng ta phải nắm bắt nhanh chóng khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến của thế giới để áp dụng vào sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Chúng ta phải nhanh chóng tận dụng những thành tựu cũng như kinh nghiệm của các nước đi trước kết hợp với công nghệ trong nước để tạo ra nguồn lực lớn mạnh cần thiết tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Văn kiện Đại hội Đảng VIII chỉ rõ: "Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh đủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định". Đến Đại hội Đảng lần IX khẳng định: "Con đường công nghiệp hoá , hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam. Coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá" [37, 91]. Như vậy chiến lược rút ngắn thời gian, đi tắt đón đầu của nước ta có thể nói bao gồm cả những bước đi tuần tự nhưng có những bước nhảy vọt khi cần thiết. Đảng chủ trương tranh thủ tối đa việc ứng dụng công nghệ hiện đại của nước ngoài vào đất nước, tranh thủ ở mức cao hơn, phổ biến hơn những công nghệ mới nhất của thế giới. Để phục vụ cho chiến lược này Đảng chủ trương phát triển giáo dục đào tạo, đầu tư cho giáo dục và phát minh, triển khai các hoạt động khoa học kỹ thuật. Đây chính là sự thể hiện đúng đắn và sáng tạo sự kết hợp hai yếu tố dân tộc và quốc tế của Đảng trong cách mạng Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh một bước công nghiệp hoá , hiện đại hoá, ta đang tiến từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định đúng đắn con đường mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn. 3- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, sử dụng kinh tế đối ngoại làm đòn bẩy cho quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá : 3.1- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá theo hướng sản xuất thay thế nhập khẩu và sản xuất hướng về xuất khẩu. Trước hết cần thấy rằng trong thời đại hiện nay, quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở thành một nhân tố không thể thiếu được trong quá trình tái sản xuất xã hội của mỗi nước. Đối với nước ta từ nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, càng phải biết sử dụng đúng đắn các hình thức quan hệ kinh tế đối ngoại để tranh thủ các yếu tố vật chất, kỹ thuật của các nước tiên tiến, nhanh chóng cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa. Thông qua quan hệ kinh tế đối ngoại ta có thể phát huy được thế mạnh về điều kiện tự nhiên, lao động và ngành nghề truyền thống để đẩy mạnh sản xuất những mặt hàng xuất khẩu có lợi nhất, đặc biệt là những mặt hàng có giá trị cao, có khối lượng lớn, có thị trường vững chắc. Điều đó không chỉ tạo thuận lợi cho việc nhập khẩu kỹ thuật, góp phần xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý để thúc đẩy sản xuất, ổn định đời sống nhân dân trong nước mà còn nhằm thực hiện tốt sự phân công lao động và hợp tác kinh tế giữa các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa và góp phần củng cố, tăng cường quan hệ với các nước trên thế giới. ở đây quan hệ kinh tế đối ngoại có nhiều hình thức như : hợp tác trong lĩnh vực kế hoạch, hợp tác trong lĩnh vực sản xuất, hợp tác lao động, hợp tác khoa học kỹ thuật, quan hệ ngoại thương .... Chính những quan hệ này sẽ làm cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước phát triển vững mạnh. Trong thời kỳ quốc tế hoá, toàn cầu hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trở thành một nhu cầu bức xúc nhất là đối với các nước đang phát triển. Quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển mạnh mẽ sẽ góp phần phục vụ tốt cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Vì vậy các nước đều đẩy mạnh đổi mới chuyển giao công nghệ tiên tiến, tranh thủ áp dụng một cách nhanh nhất khoa học công nghệ mới nhất. Chính điều đó nó đã làm cho việc sản xuất ra những mặt hàng có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước và đó chính là chiến lược để tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá theo hướng sản xuất thay thế nhập khẩu và sản xuất theo hướng xuất khẩu. Bước vào đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới ở nước ta Văn kiện Đại hội Đảng VIII chỉ rõ : "Trong hoàn cảnh mới Đảng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước, sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường quốc tế để tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá [38, 21]. Như vậy sản uất thay thế nhập khẩu sẽ tạo ra mặt hàng có chất lượng cao đáp ứng những mặt hàng, thay thế những mặt hàng đất nước đang phải nhập khẩu. Vì thế trong việc sản xuất thay thế nhập khẩu và sản xuất hướng về xuất khẩu thì phát triển công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu được đặt lên vị trí hàng đầu. Bởi khi sản xuất hướng về xuất khẩu đạt được yêu cầu, định hướng đề ra chúng ta sẽ tạo ra được sự tích luỹ vốn để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá. Mặt khác vị thế của nước ta trên trường quốc tế cũng được nâng cao, quan hệ kinh tế đối ngoại sẽ phát triển mạnh. Vì thế báo cáo về phương hướng mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế xã hội trong 5 năm 1986 - 1990 tại Đại hội Đảng VI đã chỉ rõ: "..... là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan hệ kinh tế đối ngoại, xuất khẩu phải trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các ngành, các cấp; trong thời gian tới, nhất thiết phải đạt được sự chuyển biến xứng đáng với tầm quan trọng và khả năng thực tế của nó" và nhiệm vụ được đặt ra là: "Tăng nhanh khối lượng xuất khẩu, đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu khắc phục cung cách làm ăn ít hiệu quả, tình trạng phân tán lộn xộn". Chương trình hàng xuất khẩu phải nhằm : góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội và ổn định đời sống nhân dân, thúc đẩy phân công lao động xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất lương thực, thực phẩm và sản xuất hàng tiêu dùng, gắn xuất khẩu với nhập khẩu vật tư - kỹ thuật để đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước; tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, chuyển mạnh sang hợp tác kinh tế, các bên cùng có lợi, bước đầu tạo vị trí ở các thị trường xuất nhập khẩu trọng điểm". Chính vậy mà một trong những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá , hiện đại hoá trong những năm còn lại của thập kỷ 90 mà Đại hội Đảng VIII xác định: "Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường, giảm tỉ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu, tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ. Nâng cao tỉ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu". Theo tinh thần đó, chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2005 của Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ : "Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế; giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm; nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tụê, hàm lượng công nghệ cao. Xây dựng các qũy hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản, khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hoá sản phẩm trong nước, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu tiến tới cân bằng nhập khẩu.’’ Như vậy ở đây cần phải tận dụng nền nông nghiệp, phát huy sức lực nội địa, giảm nhập khẩu.Vì vậy Đại hội IX của Đảng cũng có chiến lược phát triển công nghệ hướng về xuất khẩu. Cụ thể; trong định hướng phát triển kinh tế đối ngoại Đảng đã chỉ rõ: "Về xuất khẩu, nhập khẩu : tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những thiết bị chủ yếu có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một số loại mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh; tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới, nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở mạnh các thị trường mới". Đại hội IX đã chủ trương hạn chế thấp nhất việc nhập khẩu, chỉ nhập những mặt hàng thiết yếu phục vụ cho việc xuất khẩu. Vì vậy Đại hội IX chỉ rõ: "Tiếp tục đầu tư, nâng cao chất lượng để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực có lợi cho việc xây dựng đất nước". 3.2- Mở rộng thị trường bên trong và bên ngoài, tiếp tục đổi mới kinh tế đối ngoại : Việc đổi mới và tăng cường cơ chế kinh tế đối ngoại đã có tác dụng mở rộng thị trường làm động lực cho quá trình công nghiệp hoá gia tăng tích luỹ, tận dụng lợi thế tương đối của mình trong đó có lợi thế của các nước đi sau, tiếp thu những kinh nghiệm thành bại của các nước đi trước. Mở rộng thị trường bên trong và bên ngoài. Đây là tiền đề liên quan trực tiếp đến quá trình công nghiệp hoá. Thị trường bên trong và thị trường bên ngoài có liên quan chặt chẽ với nhau cùng tạo ra nguồn vốn để xây dựng đất nước. Tuy nhiên trong xu thế mới việc mở cửa rộng lớn thị trường bên ngoài, mở rộng giao lưu quốc tế là mối quan tâm của tất cả các nước trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Một trong những nguyên nhân làm cho Nhật Bản tiến hành công nghiệp hoá thành công là phá bỏ chính sách bế quan toả cảng, thực hiện cải cách Minh Trị, trong khi đó chính quyền nhà Thanh ở Trung Quốc, nhà Nguyễn ở Việt Nam bị theo đuổi chính sách "đóng cửa", chính nó đã làm hạn chế khả năng cách tân đất nước. Đối với nước ta từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp nghèo, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt tới trình độ của một nước phát triển, thì tất yếu phải đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá như là: "Một cuộc cách mạng toàn diện sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội". Vì thế trong phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991 - 1995 Văn kiện Đại hội Đảng VII chỉ rõ: 'Từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ thị trường vốn và tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường sức lao động .... Mở rộng giao lưu hàng hoá trong cả nước, chú trọng nông thôn và miền núi, xoá bỏ triệt để mọi hình thức chia cắt thị trường theo địa giới hành chính. Gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa, kiên quyết chống buôn lậu và các hiện tượng tiêu cực khác. Khi tiến hành mở rộng thị trường nhất là thị trường ngoài nước chúng ta sẽ có điều kiện thu hút đầu tư, xuất khẩu hàng hoá và sẽ đem lại thu nhập cao cho nền kinh tế quốc dân. Nếu mở rộng thị trường trong nước sẽ huy động được tối đa vai trò của các thành phần kinh tế, sẽ tạo điều kiện cho các tư nhân, tư bản nước ngoài tiến hành đầu tư. Vì thế Văn kiện Đại hội Đảng VIII chỉ rõ: "Mở rộng thị trường xuất khẩu, đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu .... củng cố vị trí ở các thị trường quen thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền thống, tìm thị trường và bạn hàng mới, giảm sự tập trung quá mức vào một vài thị trường. Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về những mặt hàng xuất, nhập khẩu chủ yếu, giảm xuất, nhập qua thị trường trung gian. Thực hiện nhất quán các chính sách khuyến khích xuất khẩu .... Đến Đại hội Đảng lần IX, đất nước ta đang bước vững mạnh vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá vì vậy Đảng xác định: "Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các Trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Từng bước hiện đại hoá phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế mới của thương mại thế giới. Đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại, thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp, kể cả các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài. Khuyến khích các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động môi giới, khai thác thị trường quốc tế". Đất nước ta vốn xuất phát điểm thấp, đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá rất khó khăn đòi hỏi Đảng phải có chính sách đúng đắn, nhân dân phải nỗ lực không ngừng. Vì vậy ở đây để phục vụ cho công nghiệp hoá , hiện đại hoá Đảng đã coi trọng và mở rộng cả thị trường trong nước và ngoài nước. 4- Cùng với công nghiệp hoá , hiện đại hoá là xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ trong sự hội nhập toàn cầu : Sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá cũng phải theo xu thế toàn cầu nói chung đó là một tất yếu khách quan. Khi tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá chúng ta phải kết hợp sức lực vốn có trong nước với sức hỗ trợ bên ngoài, trong nước vẫn là quyết định, sức lực bên trong, sinh lực của toàn bộ đất nước sẽ quyết định sự thành bại của mỗi cuộc cách mạng. Muốn sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá thành công ta phải xây dựng cho đất nước một nền kinh tế độc lập tự chủ vững mạnh. Đó là một sự khách quan và cũng là xu thế của tất cả mọi quốc gia.Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Trong quan hệ quốc tế hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt. Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, đấu tranh chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ nền văn hoá dân tộc. Để nền kinh tế vững mạnh, không bị tụt hậu so với thế giới, chúng ta không còn con đường nào khác là phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá trong sự hội nhập toàn cầu. Muốn vậy việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ đi cùng với công nghiệp hoá , hiện đại hoá là một yêu cầu khách quan. Trong nội dung về công nghiệp hoá , hiện đại hoáVăn kiện Đại hội Đảng VIII chỉ rõ: "... kinh nghiệm cho thấy nếu không tạo lập được một vị thế độc lập tự chủ, không có đủ nội lực cần thiết, thì không thể tham gia hợp tác quốc tế một cách thật sự bình đẳng và cùng có lợi; không thể khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Vì vậy, phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, bảo đảm khả năng giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế, quốc phòng, an ninh, chủ động tham gia phân công lao động và hợp tác quốc tế. Luôn luôn nêu cao phương châm dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, động viên mọi nhà, mọi người, mọi cấp, mọi ngành cần kiện trong sản xuất, tiết kiệm ttong tiêu dùng, dành vốn đầu tư phát triển. Đảng chủ trương phát triển mạnh kinh tế đất nước với sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá, huy động các tiềm lực có thể để tạo ra một nền kinh tế độc lập. Đại hội Đảng IX lại khẳng định: "Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá , hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm ..... công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt, có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, giữ vững ổn định kinh tế .... xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp [39, 91] nội lực với ngoại lực thành nguồn tổng hợp của đất nước". Đây là một nhu cầu, là xu thế phù hợp với tất cả các nước trên thế giới trong quá trình xây dựng một nền kinh tế đất nước giàu mạnh nói chung và trong sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước nói riêng. III - những thành tựu đạt được sau 15 năm đổi mới trong sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế. Ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Nghị quyết Đại hội VI đã chỉ ra và khẳng định sự cần thiết phải mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. từ thực tiễn 5 năm thực hiện quan điểm đó, Nghị quyết Đại hội VII đã tiếp tục triển khai công tác đối ngoại thêm bạn bớt thù, chủ động hội nhập của Đảng. Nghị quyết Trung ương III (khoá VII.6.1992) một lần nữa đã khẳng định : "Tạo được quan hệ hữu nghị,hợp tác với các nước trong khu vực và một môi trường hoà bình, ổn định lâu dài xung quanh nước ta ..... Đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, chú trọng quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn", là nhiệm vụ trung tâm trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nhờ thực hiện có hiệu quả quan điểm và chủ trương đó nên quan hệ quốc tế của nước ta được mở rộng, bạn bè khắp năm châu ngày càng hiểu ta hơn, giao lưu kinh tế, văn hoá, chuyển giao khoa học và công nghệ ngày càng tăng, quan hệ giữa nước ta với các nước, các nhóm nước, các vùng lãnh thổ, các tổ chức khu vực và quốc tế ngày càng được mở rộng và có hiệu quả. Tổng kết 10 năm mở rộng quan hệ đối ngoại, Nghị quyết Đại hội VIII. 1996 đã khẳng định rằng, để đưa đất nước ta tiến lên trong khi xem xét, phát huy nội lực là chính chúng ta cần phải: "Phát huy lợi thế, phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế hệ bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế". từ đó về quan điểm đối ngoại trong Văn kiện Đại hội VIII, Đảng đều khẳng định sự cần thiết phải "hội nhập khu vực" và "hội nhập quốc tế". Việc thực hiện những quan điểm, chính sách đối ngoại được đổi mới đó đã góp phần mở rộng quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Đến nay chúng ta đã quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước; có quan hệ với 188 Đảng, 120 tổ chức phi chính phủ, quan hệ kinh tế thương mại với hơn 100 nước. Tháng 12 năm 1987 Quốc hội nước ta đã thông qua : Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Năm 1989 Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại quan hệ với IMF, WB và đến tháng 10 năm 1993 ta đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính, tiền tệ lớn nhất thế giới hiện nay. Đến tháng 7 năm 1995 ta đã phá được lệnh bao vây cấm vận của Mĩ, bình thường hoá quan hệ với Mĩ và Mĩ chính thức thiết lập quan hệ với Việt Nam đặt trụ sở tại Hà Nội, đồng thời cũng trong tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 1/1/1996 Việt Nam bắt đầu thực hiện các quy định trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tức AFTA. Cũng trong tháng 7 năm 1995 Việt Nam tiếp tục kí kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và một số lĩnh vực khác với cộng đồng Châu Âu. Đến tháng 3 năm 1996 Việt Nam gia nhập với tư cách là thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEAM). Tháng 11 năm 1998 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC). Ngày 3/7/2000, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết. Trước đó từ cuối 1994, Nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và hiện nay đang trong quá trình đàm phán để được kết nạp vào tổ chức này. Trong thời gian qua nước ta đã ký kết hiệp định thương mại với hơn 60 nước.... Chúng ta đã tham gia nhiều hiệp ước, công ước, hiệp định quốc tế, tham gia nhiều tổ chức quốc tế về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, tư pháp, y tế đã có sự trao đổi các đoàn về quốc phòng, an ninh với một số nước, kể cả tham gia INTEPOL. Ngoại giao nhân dân cũng không ngừng được mở rộng. Chúng ta đã đặt quan hệ với nhiều đoàn thể nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ của nhiều nước trên thế giới. Đảng Cộng sản ở các nước, giai cấp công nhân, nông dân ... Nhờ mở rộng quan hệ đối ngoại thông qua các hiệp ước song phương và đa phương. Cho đến nay nước ta đã có quan hệ thương mại với hầu hết các nước ở khắp Châu lục. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta tăng từ 677,8 triệu rúp/ USD năm 1986 lên đến 14,3 tỉ USD năm 2000. Trong cùngthời gian kim ngạch nhập khẩu của nước ta đã tăng tương ứng từ 1,83 tỷ rúp/ USD lên 15,2 tỉ USD. Từ chỗ nhập siêu tương đối lớn vào cuối những năm 80, đến nay cán cân xuất nhập khẩu đã gần đạt đến độ cân bằng. Từ chỗ có rất ít mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD, đến cuối những năm 90 nước ta đã có những mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỉ USD (như dầu thô, gạo, hàng dệt may, giày dép, chế biến thủy sản). Đi đôi với mở rộng thị trường ra thế giới Việt Nam tăng khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được chính thức ban hành. Đầu năm 1988 đến đầu năm 2000 đã có trên 700 Công ty thuộc 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước ta với 2.290 dự án đang hoạt động, có tổng số vốn đăng ký trên 35,5 tỷ USD trong đó vốn đã thực hiện là 15,2 tỷ USD. Bên cạnh đó từ 1993 đến nay nhiều hội nghị của các nhà tài trợ cho Việt Nam đã cam kết dành cho nước ta hơn 15 tỷ USD hỗ trợ phát triển chính thức ODA, tập trung vào các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội. Sự đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào sự phát triển kinh tế của đất nước có xu hướng gia tăng, tỷ trọng của khu vực này trong GDP đã không ngừng tăng lên : 6,3% năm 1995; 7,4% năm 1996; 9,1% năm 1997; 9,8% năm 1998 và trên 10% năm 1999. Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn tạo ra khoảng 30 vạn việc làm trực tiếp và hàng chục vạn việc làm gián tiếp. Cùng với các dòng vốn đầu tư trực tiếp, nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cũng được đưa vào nước ta trong những dự án liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài thuộc các ngành bưu chính viễn thông, dầu khí, điện, điện tử, dệt may, da giày ... các công nghệ chuyển giao là tương đối hiện đại. Cùng với những kết quả về kinh tế việc thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đối ngoại đã góp phần tạo môi trường hoà bình ổn định cho sự phát triển của đất nước. Quan hệ song phương và đa phương ngày càng được mở rộng. Việc bảo đảm nguyên tắc "đôi bên cùng có lợi" đã trở thành cơ sở cho sự hợp tác, nương tựa vào nhau mà tồn tại và phát triển. Chính điều đó buộc mọi phía đối tác với nhau phải tạo ra sự tin cậy lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển trong sự ổn định. Ngày nay thông qua các "siêu lộ" thông tin với mạng Internet, xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập quốc tế sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi chưa từng có để các dân tộc có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hoá, dịch vụ, kiến thức, phát minh, sáng chế dữ kiện .... Qua đó giúp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, mở mang sự hiểu biết về các nền văn hoá của nhau - Nhưng trong quá rình đó cũng làm nảy sinh mối nguy cơ về "Sự thống nhất hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ làm suy kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hoá, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của cả nhân loại". Làm thế nào để phát huy được yếu tố thuận lợi, hạn chế mặt khó khăn do mở rộng quan hệ đối ngoại, đặc biệt là mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Đó là một vấn đề bức bách đặt ra cho nhiệm vụ đối ngoại hiện nay. Với những thành quả to lớn mà đất nước đạt được trong 15 năm vừa qua (1986 - 2000) chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng rằng Đảng ta sẽ lãnh đạo sáng suốt đúng đắn, từng bước đưa đất nước ta vượt qua khó khăn thử thách trên con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. iv- phương hướng của sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế. 1- Chiến lược lâu dài : Về đường lối chung : Trong hoàn cảnh thực tế đất nước đang bước vào đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì công tác đối ngoại của đất nước là một chiến lược rất quan trọng và bức bách. Mặt khác trên thế giới xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ và biến đổi rất phức tạp. Điều đó đòi hỏi Đảng phải có chủ trương biện pháp cụ thể, đúng đắn về sự kết hợp hài hoà hai yếu tố dân tộc và quốc tế. Về đường lối chung trong thời gian tới Đảng chủ trương: "Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế". Văn kiện Đại hội Đảng IX chỉ rõ: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế". Đảng xác định : nhiệm vụ đối ngoại là tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lơị để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi .... Đảng nhấn mạnh cần phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Với các nước láng giềng Đảng luôn coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác thân thiện, đặc biệt coi trọng quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN, mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước ở các châu lục khác, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, củng cố tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các Đảng cộng sản và công nhân, các phong trào giải phóng dân tộc. Đảng chủ trương mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường hợp tác song phương và đa phương với tổ chức nhân dân các nước ... Với sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá, Đảng chủ trương đẩy mạnh sự kết hợp nhân tố dân tộc và thời đại, phấn đấu thực hiện "chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá theo định hưóng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp". Trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung Đại hội Đảng IX xác định: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững". 2- Về chiến lược trước mắt : Xu thế thế giới hiện nay là sự hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế, các nước đều coi việc phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Vì thế chiến lược về sự kết hợp sức mạnh dân tộc và quốc tế trong thời gian trước mắt từ 2001 - 2010 nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và 2001 - 2005. 2.1- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 trong sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế. Đại hội Đảng IX xác định mục tiêu chung, tổng quát của chiến lược 2001 - 2010 là : Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại .... Vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Từ mục tiêu tổng quát đó Đại hội đã đưa ra mục tiêu cụ thể của chiến lược về tăng GDP, chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta, về năng lực nội sinh khoa học, công nghệ, kết cấu hạ tầng cơ sở, vai trò chủ đạo kinh tế của Nhà nước. Để đạt được điều đó Đảng đã đưa ra rất nhiều biện pháp giải quyết trong đó về đường lối chiến lưọc kết hợp sức mạnh dân tộc và quốc tế là: "Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực"... "Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế". Đảng nhấn mạnh: "Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Nâng cao hiệu quả hợp tác với bên ngoài; tăng cường vai trò và ảnh hưởng của nước ta đối với kinh tế khu vực và thế giới". Đảng xác định phải: "Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập tổ chức WTO ....". Tiếp tục thâm nhập, tìm kiếm thị trường mới, đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư ... 2.2- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 trong sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế. Trong chiến lược này Đảng đã đánh giá và đưa ra thành tựu rất lớn của công tác thực hiện kinh tế đối ngoại trong thời gian 5 năm qua, cụ thể như : Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển khá, ví dụ tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 1996 - 2000 đạt trên 51,6 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm trên 21%, gấp 3 lần mức tăng GDP .... Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục gia tăng, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tiếp tục tăng, góp phần quan trọng phát triển kết cấu hạ tầng .... kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển mạnh. Trong mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 và cụ thể hoá thành định hướng phát triển thì Đảng chủ trương : Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm đó là : Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại, tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người .... Từ đó Đảng khẳng định rằng trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm cần thực hiện các định hướng và các nhiệm vụ chủ yếu như : phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó phát triển mạnh thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài, coi đây là một bộ phận của nền kinh tế ở Việt Nam. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song phương và đa phương. Đảng chủ trương : "Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển, tích cực chuẩn bị các điều kiện về kinh tế, thể chế, cán bộ .... để thực hiện thành công quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm độc lập, tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết trong quá trình hội nhập, trước hết là lộ trình giảm thuế quan. Thực hiện chính sách bảo hộ có trọng điểm, có điều kiện và thời hạn phù hợp với tiến trình hội nhập. Tích cực thực hiện các cam kết đối với các cơ chế hợp tác song phương và đa phương mà nước ta đã tham gia ký kết, đặc biệt chú ý tới các cam kết trong khuôn khổ ASEAN (như AFTA, AICO, AIA) APEC, ASEM, xúc tiến đàm phán để gia nhập WTO. Từng ngành, từng doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện các cam kết quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế ...". Như vậy chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là mục tiêu bao trùm của Đảng ta trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại. Đó là mục tiêu trước mắt của chúng ta trong công tác đối ngoại và đó cũng là xu thế khách quan, toàn cầu mà bất cứ một quốc gia nào cũng phải đặt lên hàng đầu trong quá trình định hướng xây dựng đất nước. v- những kết luận về sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ đổi mới. Sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong mọi thời kỳ của mọi cuộc cách mạng là một điều kiện sống còn. Nếu biết kết hợp một cách khôn khéo và mềm dẻo, hài hoà thì sẽ đi đến thành công. Trong điều kiện hoàn cảnh quốc tế ngày nay các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển đều không thể không quan tâm. Trong mọi kế hoạch xây dựng sự phát triển đất nước, các quốc gia đều có những bước đi cụ thể tuỳ từng điều kiện hoàn cảnh, tuỳ từng khu vực, kinh tế của mỗi quốc gia. Với nước ta trong thời kỳ đổi mới Đảng đã có những quyết sách quan trọng về sự kết hợp này, tuy nhiên từ thực tiễn đất nước trước và sau khi đổi mới, từ kinh nghiệm vốn có của các nước đi trước cũng như của cha ông để lại. Trong sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ đổi mới Đảng đã rút ra bài học cơ bản như sau : 1. Phải coi trọng và phát huy sức mạnh dân tộc một cách toàn diện trong quá trình đổi mới. 2. Khi đẩy mạnh kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế phải đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản; phải lấy học thuyết Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng hành động. 3. Phải coi trọng nguyên tắc lấy dân làm gốc, mọi chủ trương chính sách đều phải xuất phát từ nguyện vọng lợi ích chính đáng của nhân dân. 4. Phải nêu cao ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. 5. Phải thấy rõ sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế là yêu cầu khách quan do Đảng cộng sản lãnh đạo. 6. Phải cảnh giácvới các thế lực thù địch. Đây là những điều cần phải thực sự lưu tâm khi đẩy mạnh sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ đổi mới. Ngoài ra còn nhiều bài học khác, nhưng đây là 6 bài học không thể thiếu được phải đặt lên hàng đầu. Nếu khi kết hợp mà không tuân thủ nó thì coi như là "hội nhập để hoà tan", xoá bỏ hoàn toàn đất nước, quốc gia, dân tộc mình. Phần :kết luận Kết hợp sức mạnh dân tộc và quốc tế là tất yếu khách quan trong quá trình xây dựng đất nước. Đây là đòi hỏi bức xúc của tất cả các nước trên thế giới trong xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Qua việc trình bày vềđường lối, quan điểm cụ thể của Đảng trong ông tác đối ngoại, chúng ta đã làm sáng tỏ được nội dung, phương hướng cụ thể của sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế của Đảng trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới. Trước đổi mới nền kinh tế xã hội nước ta khủng hoảng trầm trọng. Trong tình hình đó Đảng đã bước vào con đường đổi mới vào năm 1986. Đảng đã nhận thức sâu sắc được mối quan hệ giữa xu thế phát triển toàn cầu hoá với cách mạng Việt Nam, Đảng đã nhận thức được sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê Nin, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh nên hơn lúc nào hết Đảng nhận thức được xu thế của thời đại mới, thấy được những cơ hội thuận lợi ở bên ngoài đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Đảng đã đặt cách mạng Việt Nam trong xu thế phát triển của cách mạng thế giới, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố bên trong và bên ngoài nước. Vì vậy trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá thời kỳ đổi mới Đảng chủ trương đẩy mạnh hơn nữa sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động. Vì vậy ngọn cờ soi sáng cho đường lối kết hợp nhân tố của Đảng và nhân dân ta là chủ nghĩa Mác - LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiện nay đất nước đang đi sâu vào sự nghiệp đổi mới, sự kết hợp của Đảng với hai nhân tố dân tộc và quốc tế đã hợp lý chưa. Có câu: "Học vạn quyển sách, không bằng đi ngàn dặm đường". Thành tựu to lớn của sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong 15 năm qua đã chứng minh điều đó. Đặc biệt trong thời gian vừa qua đất nước đã tiếp nhận và đưa đón rất nhiều các nguyên thủ quốc gia của các nước trên khắp các khu vực đến thăm, quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đã bước sang trang mới : khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Thế giới vừa qua đã coi Việt Nam là một trong những quốc gia có nền kinh tế, chính trị ổn định nhất, các tập đoàn đầu tư lớn trên thế giới đang để ý và tiến đến bắt tay làm ăn thân thiện với nhân dân ta. Đất nước đang sống trong hoà bình, tràn đầy tin tưởng ở tương lai với sự lãnh đạo duy nhất đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để đạt được thành tựu cao hơn nữa trong sự kết hợp hai nhân tốdân tộc và quốc tế với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với đề tài khoá luận này xin trình bày một số kiến nghị như sau : Với sức mạnh dân tộc trong quá trình kết hợp với sức mạnh quốc tế Đảng phải chủ trương xây dựng và tiến tới Nhà nước pháp quyền. Hiện nay tham nhũng là một trong những nguy cơ kéo dài sự nghèo nàn của đất nước, vì vậy Đảng phải có chủ trương đúng đắn kịp thời : mọi người không phân biệt giàu nghèo, chức quyền, thấp hèn đều xử phạt như nhau khi phạm tội, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Để phát huy cao độ nội lực Đảng và Nhà nước cần phải có chủ trương chính sách thích hợp với các thành phần kinh tế, cần có chính sách mở rộng sản xuất đến người dân, cho vay vốn dài hạn. Đảng phải chỉ đạo các cấp, các ngành địa phương đầu tư phát triển giáo dục đào tạo, thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo. Với quốc tế cần mở rộng hơn nữa chính sách thu hút đầu tư, mở rộng thị trường, tăng cường đào tạo xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm, khuyến khích rộng mở cho tư bản nước ngoài đầu tư, đồng thời coi trọng đẩy mạnh thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài đi vào hoạt động. Song quá trình hội nhập cần nâng cao cảnh giác bởi chiến lược diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch vẫn chưa bị phá sản hoàn toàn. Cuối cùng do đều kiện khách quan và chủ quan, do trình độ có hạn cũng như sự nghiên cứu học hỏi, thời gian hạn chế ... tác giả chỉ mong sao đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình nhằm làm sáng tỏ sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế của Đảng trong thời kỳ đổi mới. chú thích tài liệu tham khảo 1.12 Lê Mậu Hân; Các cương lĩnh cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam Nhà xuất bản chính trị quốc gia - HN - 2000 2.366 F. Ăngghen ; phép biện chứng tự nhiên - Nhà xuất bản Sự Thật HN 2000 3.273 Hồ Chí Minh; Toàn tập, T1, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, HN 1995 4.281 Hồ Chí Minh; Toàn tập, T2, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, HN 1995 5.3 Hồ Chí Minh; Toàn tập, T3, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, HN 1995 6.19 Hồ Chí Minh; Toàn tập, T10, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, HN 1995 7.37 Hội thảo quốc tế về chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản khoa học xã hội 1990 8.310 Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn - Nhà xuất bản khoa học xã hội 1990 9.55 Phạm Văn Đồng; Hồ Chí Minh quá khứ, hiện tại và tương lai, Nhà xuất bản Sự thật - HN 1991 10.69 Lê Mậu Hân; Các cương lĩnh cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam Nhà xuất bản chính trị quốc gia HN 2000 11.67 Lê Mậu Hân; Các cương lĩnh cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam Nhà xuất bản chính trị quốc gia HN 2000 12.70 Lê Mậu Hân; Các cương lĩnh cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam Nhà xuất bản chính trị quốc gia HN 2000 13.89 Lê Mậu Hân; Các cương lĩnh cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam Nhà xuất bản chính trị quốc gia HN 2000 14.47 Hồ Chí Minh; Toàn tập, T9, Nhà xuất bản chính trị quốc gia HN 1995 15.301 Hồ Chí Minh; Toàn tập, T2, Nhà xuất bản chính trị quốc gia HN 1995 16.522 Hồ Chí Minh; Toàn tập, T2, Nhà xuất bản chính trị quốc gia HN 1995 17.80 Hồ Chí Minh; Toàn tập, T6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia HN 1995 18.32 Văn kiện Đảng về kháng chiến chống Pháp - Nhà xuất bản Sự thật - HN 1986. 19.82 Hồ Chí Minh toàn tập, T6, Nhà xuất bản chính trị quốc gia HN 1995 20.414 Võ Nguyên Giáp; Chiến đấu trong vòng vây - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 21.38 Hồ Chí Minh; Toàn tập; T6 - Nhà xuất bản chính trị quốc gia HN 1995 22.428 Hồ Chí Minh; Tuyển tập; T10 - Nhà xuất bản sự thật HN 1989 23.595 Hồ Chí Minh; Tuyển tập; T1 - Nhà xuất bản sự thật HN 1989 24.192 50 năm ngoại giao Việt Nam; T1 - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2000 25. CNXH là gì, xây dựng CNXH như thế nào - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 26.424 Trường Chinh, một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2002 27.595 Hồ Chí Minh; Tuyển tập, T2 - Nhà xuất bản Sự thật HN 1989 28.109 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Nhà xuất bản Sự thật 1987 29.74 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1996. 30.43 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2001 31.99 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Nhà xuất bản Sự thật 1987 32.88 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Nhà xuất bản Sự thật 1987 33.120 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Nhà xuất bản Sự thật 1987 34.31 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Nhà xuất bản Sự thật 1987 35.147 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Nhà xuất bản Sự thật 1987 36.120 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Nhà xuất bản Sự thật 1987 37.91 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Nhà xuất bản Sự thật 1987 38.21 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Nhà xuất bản Sự thật 1987 39.91 Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Nhà xuất bản Sự thật 1987 tài liệu tham khảo 1. Ban tư tưởng văn hoá Trung ương; Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết hội nghị lần IV. Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1998. 2. Bộ ngoại giao; Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1995. 3. Đỗ Mười; Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1993. 4. Đỗ Mười; Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước cộng đồng thế giới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1996. 5. Hồng Hà; Sức mạnh nhân dân, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2000. 6. Học viện quan hệ quốc tế; Hỏi đáp về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1997. 7. KOKKO ARI; Việt Nam chặng đường tiếp theo của cải cách, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1996. 8. Phạm Ngọc Quang; Thời kỳ mới và sứ mạng của Đảng ta, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2001. 9. Phan Văn Khải; Phát triển đất nước nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2002. 10. Phạm Minh Hạc; Nghiên cứu con người và nguồn lực đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2001. 11. Vũ Như Khôi; Đảng cộng sản Việt Nam trước những bước ngoặt lịch sử của cách mạng; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2000. 12. Lê Nin; Bàn về công nghiệp nặng và điện khí hoá cả nước, Nhà xuất bản Sự thật - HN 1962. 13. Trường Chinh; Một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2002. 14. Trường Đại học kế hoạch; Những vấn đề công nghiệp hoá của các nước đang phát triển, , Nhà xuất bản Tư tưởng M. 1972.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0161.doc
Tài liệu liên quan